Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

TRỞ VỀ CÁT BỤI...!!!


Tỉnh thức
 trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy
04. ĐẶC TÍNH CỦA NGƯỜI BỆNH VÀ NGƯỜI CHĂM SÓCBhikkhu Anālayo, Mindfully facing disease and death (2017)
Bhikkhu Anālayo
TT. Bhikkhu Anālayo
IV.1 GIỚI THIỆU
Chương này trình bày tình huống bị bệnh từ hai quan điểm bổ sung: Phẩm chất đáng khen ngợi của người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân. Những phẩm chất đáng khen ngợi này được mô tả trong hai bài kinh liên tiếptrong Tăng nhất A-hàm (EĀ 32.8 và 32.9). Có một sổ điểm khác biệt giữa hai bài kinh nầy và hai bài kinh tương đương trong Tăng chi bộ (AN 5.123 và 5.124).
Một trong những phẩm chất đáng khen ngợi đối với một bệnh nhân theo bản kinh trong Tăng nhất A-hàm là lòng Từ (mettā), là một trong bốn tâm vô lượng hay bốn phạm trú (brahmavihāra) thường được đề cập trong kinh điển Phật giáo: Từ, bi, hỷ, xả.
Bốn tâm vô lượng này là những thái độ lý tưởng để giao tiếp với những người khác, được đề cao trong tư tưởng và sự tu tập trong Phật giáo Sơ kỳ. Từ “phạm trú” có nghĩa là nếu một người có tâm rộng lớn như thế, khi qua đời sẽ được tái sinh cộng trú với phạm thiên (brahma), cũng có thể hiểu nếu có được một trong bốn tâm rộng lớn đó người ấy như thể đang trải nghiệm thiên đường trên trái đất này.
Tâm rộng lớn đầu tiên, tâm Từ - mettā, là thái độcủa lòng tử tế và mong muốn điều tốt lành đối với người khác, mà bản chất của nó là đối nghịch với ác cảmcáu kỉnh và ý định xấu xa. Tâm thứ hai, tâm Bi- karuṇā, là lòng trắc ẩn, sẽ là một chủ đề lặp đi lặp lại trong suốt cuốn sách này, đặc biệt dưới hình thứcmong muốn giúp người khác giảm bớt đau khổ và cung cấp cho họ các phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết. Bản chất của tâm bi là đối nghịch với ý định làm hại người khác. Tâm Hỷ - mudita là đối nghịch với sự đố kị, ghen tị và bất mãn. Tâm rộng lớn thứ tư, tâm Xả - upekkha, làm tròn toàn bộ, là một thái độ bình thản, xả ly trong các tình huống mà các thái độ khác sẽ không phù hợp. Tôi sẽ trở lạibốn tâm phạm trú nầy như một pháp hành thiền tại thời điểm cận tử trong Chương XV.
IV.2 THẢO LUẬN
Trong bài kinh đầu tiên của Tăng nhất A-hàm (EĀ 32.8), một bệnh nhân không phân biệt được loại thức ănthức uống thích hợp và thời gian thích hợpđể tiêu thụ những thứ này thì bệnh của người ấy sẽ nặng hơn, và cũng như thế nếu bệnh nhân khôngdùng thuốc. Bài kinh trong Tăng chi bộ (AN 5.123) cũng có lời khuyên tổng quát tương tự. Bệnh sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu bệnh nhân không làm những gì phù hợp và, liên quan đến những gì phù hợp, không biết điều độ. Tương tự như thế nếu bệnh nhân không dùng thuốc.
Những yếu tố khác ngăn cản sự phục hồi của bệnh nhân trong bài kinh Tăng nhất A-hàm là thái độ cáu kỉnh và thiếu lòng Từ đối với người săn sóc mình. Bài kinh trong Tăng chi bộ thay vào đó mô tả một bệnh nhân không tiết lộ bệnh tình của mình xấu đi hoặc cải thiện và không thể chịu đựng cơn đau. Cả hai bài kinh có điểm chung là liệt kê năm yếu tố đối nghịch để giúp bệnh nhân phục hồi nhanh chóng. Kết hợp hai bài kinh và trình bày kết quả tóm tắt, những phẩm chất sẽ giúp bệnh nhân phục hồinhanh chóng là:
• chỉ dùng thực phẩm và đồ uống thích hợp,
• dùng chúng đúng lúc và có chừng mực,
• uống thuốc theo toa,
• tiết lộ trung thực trình trạng bệnh và không cáu kỉnh, khó chịu,
• nuôi dưỡng lòng Từ đối với người chăm sóc và kiên nhẫn chịu đựngcơn đau.
Liên quan đến phẩm chất của một người chăm sóc bệnh nhân trong bài kinh của Tăng nhất A-hàm (EĀ 32.9) và Tăng chi bộ (AN 5.124), cả hai bài kinh đều đề cập đến vấn đề người chăm sóc thiếu khả năng hoặc thiếu năng lực phán đoán khi quản lý thuốc chữa trị. Bài kinh trong Tăng chi bộ trình bày vấn đềnày bằng hai yếu tố trong đó người chăm sóc thiếu khả năng pha chế thuốc và thiếu phán đoán khi nào nên dùng thuốc và khi nào nên giữ lại. Yếu tố thứ hai trong kinh Tăng nhất A-hàm thay vào đó là sự sơ suất, điều này cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến việc cung cấp đủ thuốc và chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân.
Một đặc tính chỉ thấy được đề cập trong bài kinh của Tăng nhất A-hàm là người chăm sóc thường hay nổi sân và ham ngủ nghỉ. Đặc tính tiếp theo trong bài kinh Tăng nhất A-hàm và bài kinh Pāli tương đương chuyển sang vấn đề người chăm sóc vì lợi ích vật chất. Trong bối cảnh Ấn Độ cổ đại, các tu sĩ phải chăm sóc lẫn nhau, do đó một số tu sĩ phải đảm nhận công việc điều dưỡng những người bị bệnh và cần được chăm sóc. Khi các nguồn vật chất do các tín đồ cư sĩ cung cấp trở nên dồi dào để hỗ trợ bệnh nhân và những người chăm sóc, đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc những người bị bệnh có thể được thúc đẩy bởi mong muốn kiếm lợi vật chất và thực phẩmcung cấp. Thay vào đó, như nêu ra rõ ràng trong bài kinh Tương ưng bộ, ta chỉ nên chăm sóc cho người bệnh vì lòng vị tha, được thúc đẩy bởi tâm Từ.
Một yếu tố khác chỉ thấy trong bài kinh Tăng chi bộlà sự ghê tởm mà một người chăm sóc bệnh nhân có thể cảm thấy khi phải lau dọn phân, nước tiểu, đồ nôn mửa và đàm mủ. Yếu tố cuối cùng trong cả hai phiên bản nêu rõ tầm quan trọng của việc trò chuyện với bệnh nhân. Bản kinh Tăng nhất A-hàm cho thấy rõ rằng, nếu người chăm sóc không quay lại trò chuyện với bệnh nhân, điều này sẽ cản trở sự phục hồi của bệnh nhân. Bài kinh tương đương trong Tăng chi bộ nói cụ thể hơn về người chăm sóc không có khả năng giải thích, khích lệ, làm cho người bệnh phấn khởi, hoan hỷ bằng những bài Pháp thoại.
Nhu cầu chăm sóc tinh thần của bệnh nhân và cung cấp một nguồn an ủi thông qua trò chuyện và khuyên dạy là một chủ đề được trình bày trong các chương tiếp theo, cho thấy Đức Phật và các vị đệ tửcủa Ngài vì lòng từ bi đến thăm người bệnh và người sắp chết để khuyên nhủ qua các bài Pháp thoạiLiên quan đến bài kinh trong chương này, giáo sư De Silva giải thích [*]:
Đáng chú ý ở đây là người chăm sóc bệnh nhân phải có khả năng không những chỉ chăm sóc cơ thể người bệnh bằng cách cho ăn và dùng thuốc đúng cách mà còn phải có khả năng chăm sóc tinh thần của bệnh nhân. Người ta ai cũng biết rằng lòng tử tế của các vị bác sĩ và y tá gần như có hiệu quả như thuốc chữa trị giúp bệnh nhân giữ vững tinh thần và chóng phục hồi sức khỏe. Khi một người tuyệt vọng hoặc bất lực vì bệnh tật, một lời nói tử tế hoặc một hành động dịu dàng trở thành nguồn an ủi và hy vọng.
Bài kinh trong Tăng nhất A-hàm và Tăng chi bộ tiếp tục giải trình bằng cách liệt kê năm phẩm chất tốt của người chăm sóc sẽ giúp bệnh nhân hồi phụcnhanh chóng. Kết hợp hai bài kinh một cách tóm tắtvà tập trung vào những điểm cốt yếu, sau đây là những phẩm chất chính của người chăm sóc sẽ tạo điều kiện cho sự phục hồi của bệnh nhân:
• dùng thuốc đúng cách,
• chú ý đến nhu cầu của bệnh nhân,
• không ghê tởm với những chất ô uế do bệnh nhân tiết ra,
• sẵn sàng trò chuyện với bệnh nhân,
• luôn duy trì một động lực vị tha và không cáu kỉnh với bệnh nhân.
Toàn bộ các phẩm chất này cho thấy giáo lý Phật giáo Sơ kỳ liên quan đến bệnh tật không chỉ giảng dạy đến những gì trực tiếp trong phạm vi tu tập đưa đến giác ngộ. Mặc dù rõ ràng đó là mục tiêu tối hậuhướng đến giác ngộ giải thoátgiáo lý đó cũng bao gồm các lời khuyên thực tế cho những người bị bệnh.
Những lời khuyên như thế không phải chỉ là những lời nói suông. Tạng Luật ghi lại câu chuyện chính Đức Phật đã tự tay chăm sóc các vị tỳ-khưu bị bệnh, như là một tấm gương truyền cảm hứng cho các vị đệ tử khác. Câu chuyện này là duyên sự để Đức Phật giảng về năm đặc tính của người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân, như ghi lại trong tạng Luật cũng như trong Tăng chi bộ và Tăng nhất A-hàm.
Theo tạng Luật Pāli (Chương Y Phục, Đại Phấm), một ngày nọ Đức Phật tình cờ gặp một vị tỳ-khưu bị bệnh nhưng không được các bạn đồng tu quan tâm, để vị ấy nằm trong đống phân của chính mình. Với sự trợ giúp của ngài thị giả Ānanda, Đức Phật tự tay lau rửa, chăm sóc vị tỳ-khưu bị bệnh ấy. Sau đó, Ngài khiển trách các tỳ-khưu kia và dạy rằng các vị ấy phải có bổn phận chăm sóc bạn đồng tu bị bệnh, phải xem việc chăm sóc ấy như thể họ đang chăm sóc chính Đức Phật. Như ghi nhận của giáo sư De Silva [*]:
Đức Phật không chỉ ủng hộ tầm quan trọng của việc chăm sóc người bệnh, Ngài còn nêu gương sáng cao quý bằng cách tự mình chăm sóc người bệnh không còn sức lực.
Bên cạnh việc ghi nhận lòng từ bi của Đức Phật, đã tự tay lau rửa thân thể của một trong những đệ tửcủa Ngài, một khía cạnh đáng chú ý khác của câu chuyện trên là sự thiếu quan tâm của các vị tu sĩCâu chuyện mang đến ấn tượng rằng chăm sóc một người bạn đồng hành trong đời tu sĩ không nhất thiết phải được coi là một nghĩa vụ hiển nhiên, bởi vì nếu không, các tu sĩ sẽ không cần phải được khuyến dạy rằng họ nên chăm sóc người bệnh. Đức Phật rõ ràng đã phải làm gương để truyền cảm hứng cho các đệ tử xuất gia về lòng từ bi, thúc đẩyngười ta sẵn sàng chăm sóc người khác, không phụ thuộc vào việc bệnh nhân có thể trả ơn về sự chăm sóc ấy. Lòng từ bi trong việc điều dưỡng như thế trở thành một khía cạnh không thể thiếu và thậm chí là đặc trưng của giáo lý của Đức Phật.
Tầm quan trọng của lòng từ bi cũng được ghi rõ trong danh sách các phẩm chất tốt của người chăm sóc và người bị bệnh, nêu ra những hậu quả có lợi của thái độ thương yêu và đồng cảm, không cáu kỉnh và bất cẩn. Đây có lẽ là khía cạnh nổi bật nhất trong chương này. Thái độ chân thành của lòng vị tha và lòng Từ sẽ giúp phục hồi sức khỏe nhanh chóng, là một thái độ cần phải được nuôi dưỡng bởi cả bệnh nhân và lẫn người chăm sóc.
Hai bộ phẩm chất gây bất lợi hoặc có lợi cho sự phục hồi của bệnh nhân có liên quan đến hai bộ phẩm chất gây bất lợi hoặc có lợi cho một hành giảtrên con đường hành thiền tu tập tâm ý đưa đến giác ngộ giải thoát. Hai bộ phẩm chất này là các triền cái và các chi phần giác ngộ, sẽ là chủ đề của chương tiếp theo.
--------------------------
[*] de Silva, Lily, 1993: “Ministering to the Sick and Counselling the Terminally Ill”, in Studies on Buddhism in Honour of Professor A.K. Warder, N.K. Wagle et al. (ed.), 29–39, Toronto: University of Toronto, Centre for South Asian Studies.


Tăng nhất A-hàm, chương 32, phẩm Thiện tụ

EĀ 32.8 Hòa thượng Thích Thanh Từ và Hòa thượngThích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính (đối chiếu với bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo)
Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các tỳ-khưu:
– “Người bệnh nào mà có năm đặc tính này thì không thể nào lành bệnh được, thường nằm liệt giường chiếu. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy không biết chọn đồ ăn thức uống; (2) người ấy không ăn đúng thời; (3) người ấy không chịu uống thuốc; (4) người ấy thường buồn rầu, khó chịu; (5) người ấy không có tâm từ đối với người săn sócmình. Người bệnh có năm đặc tính đó thì không thể nào lành bệnh được.
“Người bệnh nào mà có năm đặc tính này thì bệnh sẽ mau lành. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy biết chọn đồ ăn thức uống; (2) người ấy biết ăn đúng thời; (3) người ấy biết uống thuốc; (4) người ấy không buồn rầu, khó chịu; (5) người ấy có tâm từđối với người săn sóc mình. Người bệnh có năm đặc tính đó thì bệnh sẽ mau lành.
“Như vậy, này các tỳ-khưu, hãy tỉnh giác lìa bỏ năm điều trước, và lúc nào cũng ghi nhớ, thực hành năm điều sau. Các thầy phải huân tập như thế.”
Các tỳ-khưu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
EĀ 32.8 Hòa thượng Thích Thanh Từ và Hòa thượngThích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính (đối chiếu với bản Anh dịch của Bhikkhu Anālayo) 
 
Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các tỳ-khưu:
–“Nếu người săn sóc có năm đặc tính này thì người bệnh không chóng khỏi, thường nằm liệt giường. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy không biết phân biệt các loại thuốc; (2) người ấy biếng nháctâm không dũng mãnh; (3) người ấy thường hay nổi sân và ham ngủ nghỉ; (4) người ấy săn sóc bệnh nhân vì muốn kiếm ăn, không đúng pháp cung dưỡng; (5) người ấy không chuyện trò trao đổi với người bệnh. Người bệnh không thể nào chóng khỏi nếu người săn sóc có năm đặc tính đó.
–“Nếu người săn sóc có năm đặc tính này thì người bệnh sẽ chóng khỏi, không nằm liệt giường. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy biết phân biệt các loại thuốc; (2) người ấy không biếng nhác, luôn luôn thức trước, ngủ sau; (3) người ấy thường trò chuyệnvới bệnh nhân, ít ngủ nghỉ; (4) người ấy săn sócđúng pháp cung dưỡng, không ham chuyện ăn uống; (5) người ấy có khả năng nói Pháp cho bệnh nhân nghe. Người bệnh sẽ chóng khỏi nếu người săn sóc có năm đặc tính đó.
“Như vậy, này các tỳ-khưu, khi săn sóc người bệnh, hãy tỉnh giác lìa bỏ năm điều trước, và lúc nào cũng ghi nhớ, thực hành năm điều sau. Các thầy phải huân tập như thế.”
Các tỳ-khưu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
---------------------
Tăng chi bộ, chương Năm pháp
AN 5.123 Săn sóc người bệnh (1)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính (đối chiếu với bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi)
Này các tỳ-khưu, có năm đặc tính của một người bệnh khó săn sóc. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy làm điều có hại; (2) người ấy không biết vừa phảitrong khi chữa trị; (3) người ấy không sử dụngthuốc; (4) người ấy không nêu rõ triệu chứng bệnh với người săn sóc mình, không báo cáo khi cần thiếtrằng bệnh tình gia tăng hay thuyên giảm hay vẫn như cũ; (5) người ấy không kham nhẫn chịu đựngcác cảm thọ nơi thân khởi lên đau đớn khốc liệt, cường liệt, mãnh liệt, khó chịu, đoạt mạng. Đó là năm đặc tính của một người bệnh khó săn sóc.
Này các tỳ-khưu, có năm đặc tính của một người bệnh dễ săn sóc. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy làm điều có lợi; (2) người ấy biết vừa phải trong khi chữa trị; (3) người ấy sử dụng thuốc; (4) người ấy nêu rõ triệu chứng bệnh với người săn sóc mình, báo cáo khi cần thiết rằng bệnh tình gia tăng hay thuyên giảm hay vẫn như cũ; (5) người ấy kham nhẫn chịu đựng các cảm thọ nơi thân khởi lên đau đớn khốc liệt, cường liệt, mãnh liệt, khó chịu, đoạt mạng. Đó là năm đặc tính của một người bệnh dễ săn sóc.
*
AN 5.123 Săn sóc người bệnh (1)Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính (đối chiếu với bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi)
Này các tỳ-khưu, có năm đặc tính của một người không có khả năng săn sóc người bệnh. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy không biết cách pha thuốc; (2) người ấy không biết cái gì có lợi, cái gì có hại, vì thế người ấy cho những gì có hại và cất giữ những gì có lợi; (3) người ấy săn sóc bệnh nhân vì quyền lợi vật chất, không phải vì lòng từ mẫn; (4) người ấy thấy ghê tởm dọn phân, nước tiểu, đồ mửa ra, hay đàm mủ; (5) người ấy không có khả năng thỉnh thoảng chia sẻ những bài Pháp thoại để giải thích, khích lệ, làm cho người bệnh phấn khởi, hoan hỷ. Đó là năm đặc tính của một người không có khả năng săn sóc người bệnh.
Này các tỳ-khưu, có năm đặc tính của một người có khả năng săn sóc người bệnh. Năm đặc tính đó là gì? (1) Người ấy biết cách pha thuốc; (2) người ấy biết cái gì có lợi, cái gì có hại, vì thế người ấy cho những gì có lợi và cất giữ những gì có hại; (3) người ấy săn sóc bệnh nhân vì lòng từ mẫn, không phải vì quyền lợi vật chất; (4) người ấy không thấy ghê tởm dọn phân, nước tiểu, đồ mửa ra, hay đàm mủ; (5) người ấy có khả năng thỉnh thoảng chia sẻ những bài Pháp thoại để giải thích, khích lệ, làm cho người bệnh phấn khởi, hoan hỷ. Đó là năm đặc tính của một người có khả năng săn sóc người bệnh.
* * *
Tạng Luật (Vinaya Pitaka), Đại Phẩm(Mahāvagga) 
VIII. CHƯƠNG Y PHỤC(CĪVARAKKHANDHAKAṂ)
Tỳ-khưu Indacanda dịch
[166] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh kiết lỵ. Vị ấy đã bị té vào đống phân và nước tiểu của chính mình. Khi ấy, trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là sa-môn hầu cận, đức Thế Tôn đã đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy té và đang nằm trên đống phân và nước tiểu của chính mình, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này tỳ khưu, ngươi bị bệnh gì?
- Bạch Thế Tôn, con bị bệnh kiết lỵ.
- Này tỳ khưu, ngươi không có người phục vụ?
- Bạch Thế Tôn, không có.
- Vì sao các vị tỳ khưu lại không phục vụ ngươi?
- Bạch ngài, con là người không có làm gì cho các vị tỳ khưu, do đó các vị tỳ khưu không phục vụ con.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, hãy đi và mang nước lại. Chúng ta sẽ tắm cho vị tỳ khưu này.
- Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã mang nước lại. Đức Thế Tôn đã xối nước và đại đức Ānanda đã rửa ráy toàn bộ. Rồi đức Thế Tônđã đỡ phần đầu còn đại đức Ānanda nâng lên ở phần chân và đặt ở trên giường. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, có phải có vị tỷ kheo trong trú xá ở đàng kia bị bệnh?
- Bạch Thế Tôn, thưa có.
- Này các tỳ khưu, vị ấy bị bệnh gì?
- Bạch ngài, đại đức ấy bị bệnh kiết lỵ.
- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có người phục vụkhông?
- Bạch Thế Tôn, không có.
- Vì sao các tỳ khưu lại không phục vụ vị ấy?
- Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là người không có làm gì cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ vị ấy.
- Này các tỳ khưu, các ngươi không có mẹ, không có cha là những người có thể phục vụ các ngươi. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không phục vụ lẫn nhau thì khi ấy lấy ai sẽ phục vụ đây? Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta, vị ấy nên phục vụnhững người bệnh. Nếu có thầy tế độ, thầy tế độnên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có thầy dạy học, thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có đệ tử, người đệ tử nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có học trò, người học trò nên phục vụđến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có vị đồng thầy tế độ, vị đồng thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có vị đồng thầy dạy học, vị đồng thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phụcNếu không có thầy tế độ, hoặc thầy dạy học, hoặc người đệ tử, hoặc người học trò, hoặc vị đồng thầy tế độ, hoặc vị đồng thầy dạy học, hội chúng nên phục vụnếu không phục vụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, vị bị bệnh là khó phục vụ khi hội đủ năm điều: Là vị không làm việc cần làm; là vị không biết sự vừa phải trong việc cần làm; là vị không quen dùng dược phẩm; là vị không giải thích cho người phục vụ bệnh nhân luôn muốn điều tốt đẹpmột cách rõ ràng, đúng theo thực trạng như (bệnh) đã tăng thêm là “(Bệnh) đã tăng thêm,” (bệnh) đã giảm là: “(Bệnh) đã giảm,” (bệnh) ổn định là: “(Bệnh) ổn định;” là loại người không chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh hội đủ năm điều này là khó phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị bị bệnh là dễ phục vụ khi hội đủ năm điều: Là vị làm việc cần làm; là vị biết sự vừa phải trong việc cần làm; là vị quen dùng dược phẩm; là vị giải thích cho người phục vụ bệnh nhân luôn muốn điều tốt đẹp một cách rõ ràng, đúng theo thực trạng như (bệnh) đã tăng thêm là “(Bệnh) đã tăng thêm,” (bệnh) đã giảm là: “(Bệnh) đã giảm,” (bệnh) ổn định là: “(Bệnh) ổn định;” là loại người chịu đựngđược các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh hội đủ năm điều này là dễ phục vụ.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân khôngthích hợp để phục vụ người bệnh là vị hội đủ năm điều: Là vị không có khả năng để phân phát thuốc men; không biết điều gì cần làm và điều gì không cần làm, làm điều không cần thiết và không làm điều cần thiếtphục vụ người bệnh vì mục đích tài vật và không có tâm từ; ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; không có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân hội đủ năm điều này là không thích hợp để phục vụ người bệnh.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân thích hợp để phục vụ người bệnh là vị hội đủ năm điều: Là vị có khả năng để phân phát thuốc men; biết điềugì cần làm và điều gì không cần làm, không làm điều không cần thiết và làm điều cần thiết; có tâm từ và phục vụ người bệnh không vì mục đích tài vật; không ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân hội đủ năm điều này là thích hợp để phục vụ người bệnh.

Trich tu sach:
Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết
Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy
Bhikkhu Analayo (2017).
Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.
(http://budsas.net/dlpp/bai304/index.htm)
Bhikkhu ANALAYO (1962-)Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg, Germany
Tỳ-khưu Analayo sinh năm 1962 tại Đức. Sư xuất gia gieo duyên năm 1990 tại chùa Wat Suan Mokkh ở miền nam Thái Lan. Năm 1994, Sư đến Sri Lanka xuất gia với ngài Hòa thượng Balangoda Ananda Maitreya, và sau đó thọ giới tỳ-khưu với Hòa thượngPemasiri vào năm 2007 trong hệ phái Shwegyin Nikaya (bắt nguồn từ hệ phái chính Amarapura Nikaya). Tuy nhiên, Bhikkhu Bodhi là vị thầy chính.
Sư hoàn tất chương trình tiến sĩ tại University of Peradeniya năm 2000 và luận án tiến sĩ được xuất bảm thành sách với tựa đề “Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization”. Cuốn sách được nhiều người khen ngợi, đã được tái bản nhiều lần và dịch sang 10 thứ tiếng. Bản tiếng Việt được Cư sĩ Nguyễn Văn Ngân dịch, với tựa đề “Satipaṭṭhāna, Con đườngthẳng tới giác ngộ”, xuất bản năm 2017.
Hiện nay, Sư là giáo sư Phật học tại Trung tâm Phật học của Đại học Hamburg, Đức quốc (Centre for Buddhist Studies, University of Hamburg), Đại họcPhật giáo Pháp CổĐài Loan (Dharma Drum Buddhist College, Taiwan). Sư là đồng sáng lập viên Nhóm Nghiên cứu A-hàm (Āgama Research Group) và là giảng sư của Trung tâm Phật học Barre, Hoa Kỳ (Barre Center for Buddhist Studies).
Hiện nay (2018), ngài trú và tịnh tu tại Trung tâmPhật học Barre, bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
Các nguồn thông tin:

IM LẶNG HÙNG TRÁNGTN Huệ Trân
                                       

          thien hanhMột lần, tại ngoại ô thành Tỳ-Xa-Ly, nơi có một vườn soài rộng lớn mà kỹ-nữ Ambapali đã cúng dường để tăng-đoàn của Đức Thế Tôn làm chỗ an cư tu học, y-sỹ Kỳ-Bà, con trai của bà và vua Tần-Bà-Xa-La đã hướng dẫn vua A-Xà-Thế đến gặp Đức Thế Tôn.
          A-Xà-Thế từng là vị vua tàn bạo, vô luân, đã giết phụ hoàng để soán ngôi vua. Nhưng làm vua không bao lâu thì sự ăn nănhối hận về những hành vi bất hiếu, ác độc của mình đã dằn vặt nhà vua tới mức rối loạn tinh thần trong những cơn bệnh tâm thần trầm trọng mà những y-sỹ tài danh khắp nước đều bó tay. Cuối cùng, nhà vua nghe đến danh tiếngvị y-sỹ trẻ Kỳ-Bà. Khi diện kiến nhà vua và nghe vua kể về bệnh trạng, y-sỹ Kỳ-Bà đã nói ngay:
          - Chỉ có một người duy nhất có thể chữa lành bệnh cho bệ hạ chứ không một thầy thuốc nào trên thế gian làm được. Người đó là sa-môn Gotama, bậc giác ngộ toàn bích. Ngài đang cùng tăng đoànan cư tại vườn soài, cách đây không xa.
          Nghe vậy, vua A-Xà-Thế nghẹn ngào:
          -Sa-môn Gotama ư? Làm sao trẫm dám đến gặp sa-môn khi bao tội lỗi của trẫm, sa-môn đều biết rõ!
          Y-sỹ Kỳ-Bà trấn an:
          - Đức Thế Tôn từng dạy rằng, trên đời có hai hạng người đáng quý: thứ nhất, là những người chưa từng phạm tội và thứ hai là những người đã phạm tội mà biết ăn năn hối cải. Bệ hạ đã thực tâmsám hối chưa?

          Trên đường tới vườn soài, vua A-Xà-Thế vững tin nơi Chánh-pháp, dù chưa từng được trực tiếp nghe; nhưng càng đến gần địa điểm, nhà vua càng hồi hộp, và khi vượt qua cổng vườn soài, nhìn thấy dưới khắp các gốc cây, các bụi trúc, bên các giòng suối, các bờ cỏ lau …. đâu cũng có bóng dáng các vị khất-sỹ im lặng tọa thiền. Trên một ngàn người mà không một tiếng động!
          Râu tóc nhà vua chợt dựng đứng lên vì sợ hãi!
          Bao sức mạnh của quyền uy đều sụp đổ trước sức mạnh của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng.
          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Thiền-Định.

          Lại một lần, trên đường trở về tu viện Trúc LâmĐức Thế Tôn đi qua một thành phố mà các cửa nhà đều đóng kín. Hỏi thăm thì biết là tên sát nhân nổi tiếng Angulima đang có mặt nơi thành phố này. Theo tin đồn thì hắn ta có lời nguyền là sẽ hoàn thành một sâu chuỗi đủ 100 vành tai người, nên gặp ai là hắn xẻo tai nạn nhân ngay!
          Đức Thế Tôn điềm nhiên đi vào thành trước lời can gián của dân chúng.
          Quả nhiên, đi một đỗi thì nghe tiếng chânchạy rầm rập và tiếng quát hung dữ:
          - Đứng lại!
          Như không nghe thấy, Đức Thế Tôn vẫn điềm nhiên chậm bước.
          Tiếng bước chân đuổi theo dồn dập hơn. Và tiếng quát hung bạo hơn:
          - Người kia! Ta bảo ngươi đứng lại!
          Đức Thế Tôn vẫn thong thả như đi thiền hànhở nơi bình an vô sự. Bấy giờ, tên sát nhân có lẽ không còn kiên nhẫn nổi, chạy ào qua Đức Thế Tônrồi vung dao, chống nạnh chặn ngang mặt. Hắn hét lên:
          - Ngươi có điếc không? Ta bảo ngươi đứng lại mà sao ngươi vẫn đi?
          Lúc đó Đức Thế Tôn mới mỉm cười, nhìn thẳng vào đôi mắt tóe lửa của Angulina mà dịu dàngnói rằng:
          - Này Angulina, ta dừng lại rồi đó chứ. Từ lâu lắm, ta đã dừng tâm sân hậnchuyển hóa tham sân si thành Từ Bi Hỷ Xả. Ta đã dừng rồi, chỉ có anh là còn đang bước mà thôi.
          Angulina há hốc miệng nhìn vị sa-môn nhu hòa trước mặt. Vị này vừa gọi đúng tên hắn, có nghĩa là đã biết rõ hắn là tên sát nhân đang làm cả thành phố run sợVậy mà sao vị này không sợ? Không những thế, vị này đang nhìn hắn bằng cái nhìn yêu thươngtha thứ, cái nhìn hắn chưa từng thấy trong đời, cái nhìn chan chứa vị tha như tia nắng ấm mặt trời đang làm trái tim lạnh ngắt giá băng của hắn từ từ tan chảy!
          Người này là ai mà tỏa sáng sức mạnh kỳ diệu khiến bàn tay cầm dao run rẩy? Thôi rồi, chắc đây là sa-môn Gotama, vị đạo sỹ hắn từng nghe danh tiếng nhưng lòng vẫn thầm khinh nhờn!
          Con dao nơi tay rơi xuống mặt đường, vang lên một âm thanh khô lạnh. Tên sát nhân hung bạo đã quỳ sụp trước vị sa-môn khắc khổ lúc nào không hay. Và, vẫn là sự im lặng nhiệm mầu, vị sa-môn đưa tay đỡ tên sát nhân đứng dậy.
          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Vô Úy.

          Tại Kỳ-viên-thọ, trong một buổi pháp thoạidành cho cả hai giới xuất gia và tại gia nên thính chúng tham dự rất đông. Giữa buổi pháp, Đức Thế Tôn bỗng im lặng, rồi nhẹ nhàng đưa một bông sen lên. Đại chúng xôn xao không hiểu ý Đức Thế Tônmuốn dạy gì! Duy chỉ có một người, nhìn bông sen và mỉm cười an lạc. Người đó là một, trong mười Đại-đệ-tử của Đức Thế Tôn. Người đó là Đại-đức Ma Ha Ca Diếp, đã chứng nghiệm được bài pháp vô ngôn về sự tiếp xúc với hiện tại nhiệm mầu.
          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chánh-pháp-nhãn-tạng.     

          Hơn 2600 năm trước, Đức Thích Ca Mâu Niđã thị hiện đản sanh, đã tận dụng thời gian hiện hữunơi cõi ta-bà để thuyết giảng Đạo Giác-Ngộ, giúp chúng sanh phá vỡ màn vô minh che phủ mà nhìn ra Bản Lai đích thực của mình. Chỉ khi thấy được Phật-tánh nơi mình mới thoát khỏi sinh tử luân hồi vì Phật-tánh đó vốn hằng hữu, vô sinh bất diệt.         
          Tùy căn cơ chúng sanhĐức Phật đã bằng muôn vàn phương tiện mà thuyết giảng, nhưng những bài giảng vô ngôn mang sức mạnh bất khả tư nghì, khi thấm sâu vào lòng người, mới mang đếnnhững lợi ích to lớn. Nhất là những người nắm vận mệnh muôn dân, biết áp dụng, sẽ đem lại sự thanh bình thịnh trị trên mặt đất hỗn tạp đầy tai ương này.

          Vị Thủ-tướng Ấn Độ Mahatha Gandhi chẳng phải tự nhiên được nhân loại tôn là Thánh, nếu ngài không thấm nhuần giáo pháp từ bi, không hiểu được sức mạnh vô song của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng qua hành trình hoằng pháp của Đức Phật, mà hướng dẫn toàn dân trong cuộc tranh đấu bất bạo độngGiá trị của chân lý vô ngôn được thiền-sư Tăng Triệu diễn tả:
          “Thánh trí vốn vô trí, mà muôn vàn phẩm loạiđều được soi tỏ. Pháp thân vốn không hình tượng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tượng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá” (*)
          Khi xưa, bằng liễu ngộ sức mạnh của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng, Mahatha Gandhi đã đưa toàn dân Ấn ra khỏi sự đọa đầy của bạo lực.
          Còn ngày nay?
          Để nhớ ơn Đức Phật đã vì những đau khổcủa muôn loài mà thị hiện đản sanh, có trễ quá không, để nhân loại ngày nay áp dụng những bài pháp vô ngôn vào đời sống hiện tại mới mong chấm dứt máu xương vô tội và thăng hoa kiếp nhân sinh?

                                                             TN Huệ Trân                                                                                (Như-Thị-Am,một chiều cuối hạ)

(*) Huyền Thoại Duy Ma Cật- Thích Tuệ-Sỹ 


Song Tron Ven nhu the nao - cover

 Mục Lục
Lời đầu sách của Tiến sĩ Jeffrey Hopkins
01- Nhu câù vì hòa bình và ân cần
02- Ba phương diện để thực tập
03- Nhận diện phạm vi của khổ đau
04-  Khám phá rắc rối phát sinh và dừng lại như thế nào
05-  Tránh làm tổn hại
06-  Mở rộng giúp đở 
07- Ngưỡng mộ giác ngộ mới
08- Tập trung tâm thức
09-  Thẩm tra chúng sinh và sự vật tồn tại như thế nào
10-  Trung đạo
11-  Tâm thức và bản chất sâu thẩm của tâm thức
12-  Bổn tôn du già
13-  Tổng quan về con đường giác ngộ

 LỜI ĐẦU SÁCH 
của Tiến sĩ Jeffrey Hopkins
Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng16 ngày,  bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà  nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.
Tuy nhiên tôi đã kinh ngạc.
Ngài đã nói về một biên độ rộng của những đề tài liên quan đến con đường Giác Ngộ, chiếm được tâm hồn và trái tim tôi với những khái niệm, rộng và hẹp, phân loại những vấn đề từ lâu chưa được giải quyếtmở rộng đến những người khác và đưa tôi vào những lãnh vực thấu hiểu mới.
Bằng Tạng ngữ Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với một tốc độ tường tận và minh bạch khiến tôi không thể bị xao lãngMột lần, ngài hào hứng đặc biệt trong khi đang diễn tả những quán chiếu về việc phát sinh lòng bi mẫn. Giọng của ngài vang lên đến một cấp độ mà ngài nói đùa như “giọng-dê”, trong ấy tôi đã nghe niềm say mê đầy cảm hứng của thi ca. Trong loạt thuyết giảng ấy ngài trình bày phạm vi lãnh hộicủa những thực tập đưa đến Giác Ngộ, với chiều sâu của triết lý, vốn dĩ là những đề tài thường thường kề cận nhau mà người khác để trong trạng thái cách li. Cùng giọng của cả thi ca và triết lý được trình bày trong quyển sách này, đôi khi chạm vào trái tim với những tường thuật xúc động về thân phậncủa sự sống và các phẩm chất tốt đẹp của lòng vị tha, và vào những lúc khác là các phân biệt cẩn thận về những thực tập thậm thâm như thiền quánvề tánh không, vốn phục vụ như việc nuôi dưỡngqua năm tháng cho quán chiếu.
Lúc 5 tuổi, Đức Đạt Lai Lạt được đưa về Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, nơi ngài phải trải qua việc rèn luyện theo chương trình trọn vẹn của tu viện. Qua sự xâm chiếm miền Đông Tây Tạng của Trung Cộng năm 1950, ngài bất ngờ lãnh trách nhiệm chấp chánh thế quyền trung ương lúc 16 tuổi. Mặc dù cố gắng để hợp tác với những kẻ xâm lược, nhưng ngài phải đối diện với hiểm họa cá nhân đang đe dọa và đào thoát đến Ấn Độ năm 1959. Trong lưu vong, ngài đã thành công trong việc tái lập lại trên diện rộng những trung tâm văn hóa Tây Tạng. Ngài đã du hành một cách rộng rãi gần như khắp thế giớimang theo thông điệp – không chỉ cho những người Phật tử và tín đồ của những tôn giáo khác, mà cho mọi người – về tầm quan trọng của ân cần tử tế với chính kết cấu của xã hội. Trong việc công nhận về những nổ lực không mệt mõi của ngài nhân danhđồng bào Tây Tạng và tất cả mọi dân tộc, ngài đã được trao giải Nobel hòa bình năm 1989.
Đức Thánh Thiện đã xuất bản nhiều quyển sách, một số cho những độc giả phổ thông và một số khác cho những người đặc biệt thích thú với Phật giáo. Trong quyển sách này, ngài đã trình bày một truyền thống thực tập tâm linh lâu đời ở Tây Tạng và về kinh nghiệm của chính ngài để cống hiến những ý kiến về vấn đề thực tập một con đường tâm linh như thế nào sẽ đưa đến sự trong sáng tinh thần và việc chuyển hóa cảm xúc. Trong cách này, ngài cho thấy đời sống có thể hiện thực một cách đầy đủ ý nghĩanhư thế nào.
Qua ba mươi năm mà tôi đã biết ngài và trong mười năm phục vụ như thông dịch viên trưởng của ngài trong những chuyến thuyết giảng ở Hoa Kỳ, Canada, Indonesia, Singapore, Malaysia, Úc Đại Lợi, Anh quốc, và Thụy Sĩ, tôi đã chứng kiến hóa thân của ngài trong những thực tập này với chính thâm tâm thị hiện của ngài. Thật quan trọng để cho chúng ta nhận ra con người tuệ giác tròn đầy, từ bi, hài hước và kỳ diệu này phát xuất từ nền văn hóaTây TạngChúng ta cần đánh giá rằng văn hóa như một trong những kỳ quan vĩ đại của thế giới.
Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Giáo sư Tây Tạng học,
Đại học Virginia, Hoa Kỳ
Ẩn Tâm Lộ, Sunday, December 24, 2017

cffcf7

CÁT BỤI CUỘC ĐỜI LẤY ĐI HÀNG TRIỆU NƯỚC 

CÁT BỤI CUỘC ĐỜI LẤY ĐI HÀNG TRIỆU NƯỚC MẮT NGƯỜI NGHE - Nhạc Vàng Xưa, Bolero Trữ Tình Buồn Xót Xa https://youtu.be/Feg7tkseAI8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét