Lịch sử lá Cờ Vàng...!!!
Trần Gia Phụng (Danlambao)
- Chiều Thứ Ba 27-3-2018, tại Hội đồng Thành phố Toronto, 100% nghị
viên hiện diện (38/38) đã bỏ phiếu chấp thuận đề nghị thượng kỳ Cờ Vàng
Ba Sọc Đỏ tại Kỳ đài quảng trường Nathan Phillips ở City Hall Toronto
ngày Thứ Bảy 28-4-2018 nhân dịp Tưởng niệm Quốc hận 30-04 từ năm nay.
Đề nghị nầy do Thị trưởng John Tory cùng nghị viên Chin Lee đưa ra, đáp
ứng nguyện vọng của đại đa số người Việt tỵ nạn cộng sản chẳng những ở
Toronto, mà cả trên toàn Canada và trên toàn thế giới, vì lá cờ nầy là
di sản tinh thần thiêng liêng và là biểu tượng của người Việt tỵ nạn
cộng sản hải ngoại sau năm 1975.
Xin kính mời quý vị đồng hương tham dự đông đảo LỄ CHÀO CỜ VIỆT NAM CỘNG
HÒA tại CITY HALL Toronto trong lễ Tưởng niệm Quốc hận vào lúc 12 giờ
trưa ngày THỨ BẢY 28-4-2018. Nhân dịp nầy, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại
nguồn gốc lá cờ Việt Nam Cộng Hòa tức CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ.
*
Xin bắt đầu từ năm 1945 là cột mốc quan trọng xoay chiều lịch sử Việt
Nam. Vào năm nầy, trên thế giới, thế chiến thứ hai đi vào tàn cuộc. Đức
thất bại ở Âu Châu và đầu hàng vào tháng 5-1945, trong khi Nhật vẫn còn
chiến đấu ở Á Châu.
Riêng tại Việt Nam, Nhật Bản mở cuộc hành quân Meigo ngày 9-3-1945, đảo
chánh Pháp tại Đông Dương. Nhật tuyên bố trao trảo độc lập lại cho Việt
Nam. Vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) công bố bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ngày
11-3-1945. Nhà vua mời học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ. Chính phủ
Trần Trọng Kim chính thức ra mắt ngày 17-4-1945, gồm các bộ theo lối Tây
phương, nhưng đặc biệt không có bộ Binh, hay bộ Quốc phòng hay bộ An
ninh.
Một trong những việc làm đầu tiên của chính phủ Trần Trọng Kim là chọn
quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ theo hình quẻ “ly”, một trong tám
quẻ của bát quái. Quẻ “ly” gồm ba sọc song song, trong đó hai sọc ngoài
(ở hai bên) là hai sọc thẳng, còn sọc ở giữa cách khoảng với nhau.
Sau khi Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử tại Hiroshima (6-8-1945) và
Nagasaki (9-8-1945), Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945. Quân đội Nhật tại
Đông Dương phải hạ khí giới và rút vào trong các đồn bót của mình để
chờ quân đội Đồng minh đến giải giới.
Trong khi đó, chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Binh hay bộ Quốc
phòng để giữ gìn trật tự an ninh. Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh
(VM), lúc đó gồm khoảng 5,000 đảng viên, (Philippe Devillers, Histoire
du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris Éditions du Seuil, 1952, tr. 182) liền
lợi dụng cơ hội thuận tiện, nổi lên cướp chính quyền ở Hà Nội và đánh
điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị.
Vua Bảo Đại được đại sứ Nhật ở Huế hứa giúp đỡ, dùng lực lượng Nhật còn
lại ở Đông Dương, để dẹp tan VM, nhưng lo ngại nội chiến xảy ra, người
ngoài sẽ lợi dụng, nên nhà vua không chấp nhận đề nghị của đại sứ Nhật,
mà đồng ý thoái vị ngày 25-8-1945.
Lúc đó vua Bảo Đại cũng như đa số dân chúng Việt Nam chưa biết Hồ Chí
Minh là cộng sản, và nếu có biết, cũng chưa hiểu bản chất của đảng Cộng
Sản. Hồ Chí Minh ra mắt chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
ngày 2-9-1945, gồm đa số là đảng viên cộng sản. Chính phủ nầy chọn Cờ đỏ
sao vàng là cờ của mặt trận Việt Minh làm quốc kỳ.
Khi nắm được quyền lực, Hồ Chí Minh, Mặt trận VM và đảng Cộng Sản Đông
Dương (CSĐD) gia tăng việc khủng bố, giết hại, thủ tiêu hàng trăm ngàn
người không đồng chính kiến ở tất cả các cấp, từ trung ương xuống tới
địa phương, làng xã trên toàn cõi Việt Nam. Làm như thế, Việt Minh gọi
là giết tiềm lực, nghĩa là giết tất cả những thành phần có tiềm năng gây
nguy hiểm cho Việt Minh về sau.
Trong khi đó, thi hành tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, Trung Hoa và
Anh dẫn quân vào giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương. Trung Hoa (lúc đó
do Quốc Dân Đảng cầm quyền) giải giới ở phía bắc vĩ tuyến 16 và Anh
giải giới ở nam vĩ tuyến 16 (ngang Tam Kỳ, Quảng Nam).
Khi quân Trung Hoa vào Việt Nam, các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng
(Việt Quốc) và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) lâu nay ở
Trung Hoa, cũng về theo. Tại miền Nam, khi quân Anh đến Sài Gòn, quân
Pháp cũng đi theo, tái chiếm miền Nam và kiếm cách tiến quân ra Bắc.
Lúc đó, Hồ Chí Minh và VM rất bối rối, vì phải đối phó với nhiều thế lực
cùng một lúc: Quân Pháp, quân Trung Hoa (Quốc Dân Đảng), Việt Quốc,
Việt Cách. Hồ Chí Minh nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Đông
Dương ngày 11-11-1945 (thực tế là lui vào hoạt động bí mật), thành lập
chính phủ Liên hiệp ngày 1-1-1946, tổ chức tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt
Nam ngày 6-1-1946, tức giả vờ hòa giải hòa hợp nhằm yên lòng những đảng
phái theo chủ nghĩa dân tộc.
Mặt khác, để rảnh tay đối phó với tất cả những thành phần đối lập không
cộng sản ở trong nước, Hồ Chí Minh và VM liền ký thỏa ước Sơ bộ ngày
6-3-1946 với Pháp, chính thức hợp thức hóa sự hiện diện quân đội Pháp ở
Việt Nam.
Không thể để bị tiêu diệt mãi, vì nhu cầu sinh tồn, những người theo
khuynh hướng chính trị dân tộc không cộng sản quy tụ chung quanh cựu
hoàng Bảo Đại, và chẳng đặng đừng tạm thời liên kết với Pháp chống lại
VM cộng sản. Năm 1948, đại diện ba miền đất nước cùng về Sài Gòn thành
lập Chính phủ Lâm thời Trung ương Việt Nam ngày 23-5-1948 do ông Nguyễn
Văn Xuân làm thủ tướng. Chính phủ chính thức ra mắt ngày 1-6-1948.
Khi đó có năm mẩu cờ được đề nghị để chọn làm quốc kỳ, gồm có ba lá cờ
do uỷ ban đại diện ba miền Bắc, Trung và Nam phần đưa ra, và hai lá cờ
do đại diện Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài đề nghị. Cuối cùng lá cờ do
đại diện miền Nam đề nghị được chấp thuận vì có ý nghĩa nhất, lại đơn
giản, không phức tạp.
Ngày 2-6-1948, thủ tướng Xuân công bố lá quốc kỳ mới hình chữ nhật,
chiều ngang bằng hai phần ba chiều dài, nền vàng giống như cờ của Trần
Trọng Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau và cách
đều nhau chạy dài theo chiều ngang của lá cờ.
Ý nghĩa thứ nhất là ba sọc ngang của lá cờ tượng trưng cho sự thống nhất
ba miền lãnh thổ Bắc, Trung, và Nam phần của đất nước, trên nền vàng
tượng trưng nền tảng của quốc gia Việt Nam. Nếu lá cờ năm 1945 của Trần
Trọng Kim thừa tiếp lá cờ long tinh có từ thời vua Khải Định (trị vì
1916-1925), thì lá cờ hình thành năm 1948 lại thừa tiếp truyền thống lá
cờ của Trần Trọng Kim, về hình thức, màu sắc, và cả về lý tưởng chính
trị, đó là lý tưởng quốc gia, đối nghịch hẳn với cờ đỏ sao vàng của Hồ
Chí Minh.
Ý nghĩa thứ hai, lá cờ nầy tượng trưng cho khuynh hướng chính trị mới
lúc đó (1948) ở khắp Bắc, Trung và Nam Việt Nam. Đó là khuynh hướng
chính trị dân tộc độc lập, chống lại sự đô hộ của Pháp, nhưng ở thế
chẳng đặng đừng phải liên kết với Pháp, để chống Việt Minh cộng sản.
Việt Minh cộng sản nguy hiểm trực tiếp hơn là thực dân Pháp. Khuynh
hướng nầy càng rõ nét khi cựu hoàng Bảo Đại ký hiệp định Élysée ngày
8-3-1949 với tổng thống Pháp là Vincent Auriol, thành lập chính thể Quốc
Gia Việt Nam do ông làm quốc trưởng. Hiệp định Élysée chính thức giải
kết hiệp ước bảo hộ năm 1884 và trao trả độc lập lại cho Việt Nam.
Ý nghĩa thứ ba là tính tự do dân chủ của chính thể mà lá cờ tượng trưng.
Ngay từ đầu, chính phủ Nguyễn Văn Xuân đã trưng cầu ý dân về hình thức
lá cờ. Khi đó có năm mẩu cờ được đề nghị để chọn làm quốc kỳ (đã viết ở
trên). Sau đó, đại diện dân chúng tự do chọn lựa một trong các mẩu vẽ,
chứ không phải là lấy lá cờ của một tập đoàn thiểu số rồi áp đặt trên ý
dân như cờ đỏ của cộng sản. Cuối cùng lá cờ do đại diện miền Nam đề nghị
được chấp thuận vì có ý nghĩa nhất, lại không phức tạp.
Vận mệnh của CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ thăng trầm theo vận mệnh của đất nước.
Sau chính phủ Lâm thời Trung ương Việt Nam do ông Nguyễn Văn Xuân làm
thủ tướng, chính phủ Quốc Gia Việt Nam tiếp tục chọn lá Cờ vàng Ba sọc
đỏ làm quốc kỳ. Lá Cờ vàng tung bay trên toàn lãnh thổ Quốc Gia Việt
Nam, từ Nam Quan xuống tới Ca Mau.
Khi Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh ngày 7-7-1954, nước Việt Nam bị
chia hai do hiệp định Genève ngày 20-7-1954. Thủ tướng Ngô Đình Diệm ổn
định tình hình miền Nam Việt Nam, tổ chức trưng cầu dân ý ngày
23-10-1955, thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa do ông làm tổng thống.
Quốc hội lập hiến được bầu ngày 4-3-1956. Trong khi xây dựng hiến pháp,
quốc hội cũng đã bàn chuyện tuyển chọn quốc kỳ và quốc ca, nhưng chưa có
mẫu vẽ quốc kỳ mới nào ưng ý hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết
nghị hoãn bàn, và vẫn giữ quốc kỳ như cũ. (Đoàn Thêm, 1945-1964 Việc
từng ngày, California: Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 200.)
Sau đó Quốc hội mở cuộc thi vẽ quốc kỳ mới trên toàn miền Nam. Có tất cả
350 mẩu cờ và 50 bài nhạc được đề nghị. Ngày 17-10-1956, Quốc hội lập
hiến một lần nữa ra tuyên bố không chọn được mẩu quốc kỳ và bài hát nào
hay đẹp và ý nghĩa hơn, nên quyết định giữ nguyên màu cờ và quốc ca cũ
làm biểu tượng quốc gia. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 203.)
Như thế, LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ đã được chọn lựa qua nhiều đề nghị, nhiều
thảo luận, nhiều ý kiến, nhiều thử thách, chứng tỏ lá cờ nầy mang đầy đủ
ý nghĩa nhất để tượng trưng cho chế độ tự do dân chủ trên quê hương của
chúng ta.
Năm 1975, sau khi cộng sản tạm thời cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa, nhiều
người bỏ nước ra đi. Những người may mắn đến được bế bờ tự do, xây
dựng cuộc sống mới. Họ mang theo trong tim mình toàn bộ hình ảnh quê
hương, gia đình, bạn bè, và đặc biệt hình ảnh tượng trưng cho chế độ dân
chủ tự do, dù chế độ đó chưa được hoàn thiện: đó là LÁ CỜ VÀNG BA SỌC
ĐỎ của Quốc Gia Việt Nam, rồi sau đó của Việt Nam Cộng Hòa.
Khi ra nước ngoài, người Việt tiếp tục giữ gìn biểu tượng thiêng liêng
của tổ quốc. Trong tất cả các buổi sinh hoạt đều có lễ chào cờ địa
phương và chào Cờ vàng Ba sọc đỏ. Từ đó Cờ vàng Ba sọc đỏ trở thành biểu
tượng của người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại. Rõ nét nhất là mỗi
lần sinh hoạt cộng đồng hay hội họp ở đâu, Ban tổ chức chỉ cần treo một
lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ là người Việt biết địa điểm và tìm đến tham dự.
Cộng đồng người Việt dần dần lớn mạnh và tạo thành một thế lực cử tri
quan trọng. Nhiều tiểu bang, nhiều thành phố ở Hoa Kỳ chính thức thừa
nhận LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ là BIỂU TƯỢNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN
CỘNG SẢN.
Hiện nay, ở hải ngoại, lá cờ của nhà nước cộng sản Việt Nam chỉ được
treo tại các tòa đại sứ và các tòa lãnh sự của cộng sản mà thôi. Ở bên
ngoài các cơ sở ngoại giao cộng sản, hoàn toàn không có bóng dáng lá cờ
cộng sản.
Trong khi đó, CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ, tuy tạm thời không còn chính phủ, lại
tung bay rợp trời ở khắp nơi trên thế giới, vòng quanh quả đất. Dầu phải
bôn ba khắp bốn phương trời và không bị ai thúc đẩy hay bắt buộc, đâu
đâu người Việt Nam ở hải ngoại cũng tự động giương cao LÁ CỜ VÀNG BA SỌC
ĐỎ. Hành động tự động đồng bộ của người Việt khắp trên thế giới chứng
tỏ LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ là lá cờ của lòng người, sáng ngời CHÍNH NGHĨA,
đời đời bất diệt.
Xin kính mời đồng hương Toronto và vùng phụ cần đến tham dự đông đảo lễ
chào cờ Việt Nam Cộng Hòa vào lúc 12 giờ trưa Thứ Bảy 28-4-2018 tại CITY
HALL Toronto trong buổi Tưởng niệm Quốc hận năm nay.
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2018/04/lich-su-la-co-vang.html#more
Phản hồi bạn dọc:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét