Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

Chính phủ Việt Nam nói về hòa giải nhân ngày 30/4

Chính phủ Việt Nam nói về hòa giải nhân ngày 30/4

RFA
2018-04-30


Người Việt tại Dallas, Texas, Hoa Kỳ, tưởng niệm Ngày Quốc Hận hôm 30/4/2018.
Người Việt tại Dallas, Texas, Hoa Kỳ, tưởng niệm Ngày Quốc Hận hôm 30/4/2018.
Photo courtesy of facebook Luan Dang
Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chính sách về hòa hợp và hòa giải dân tộc trong suốt 43 năm qua.
Đó là lời ông Lương Thanh Nghị, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, được báo Tuổi Trẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh dẫn lời, trong số ra ngày 30/4/2018, tròn 43 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Ông Lương Thanh Nghị liệt kê những hoạt động mà Nhà nước Việt Nam tổ chức hướng tới cộng đồng người Việt tại hải ngoại, như là tổ chức hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới, tổ chức trại hè tại Việt Nam cho thế hệ trẻ người Việt ở hải ngoại, tổ chức đưa người Việt sống tại nước ngoài thăm quân đảo Trường Sa nơi đang có tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc.
Theo ông Lương Thanh Nghị, nhiều kiều bào có định kiến với nhà nước Việt Nam đã thay đổi nhận thức và chính kiến sau khi tham gia những chương trình như vậy.
Tuy nhiên ông Lương Thanh Nghị cũng nói rằng dù có những cố gắng hòa hợp hòa giải nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn. Ông không nói rõ thêm là những điều chưa đạt được là gì.
Sau khi quân đội cộng sản tiến vào Sài Gòn, thống nhất nước Việt Nam, hơn hai triệu người tại Miền Nam Việt Nam đã bỏ nước ra đi, đa số đi bằng đường biển. Họ đã đến định cư tại nhiều quốc gia phương Tây, quan trọng nhất là các cộng đồng tại Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Canada.
Hàng năm cứ đến ngày 30/4 thì những cộng đồng này lại tổ chức lễ tưởng niệm ngày được gọi là tháng tư đen, và tổ chức những cuộc biểu tình phản đối trước các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại những quốc gia mà họ đang sống.
https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/vietnam-reconciliation-diasporas-04302018093602.html


‘Vượt Tù, Vượt Biển' cùng Huỳnh Công Ánh

Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-24
Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.
Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.
RFA photo

Cuốn hồi ký “Vượt tù Vượt biển” của tác giả Huỳnh Công Ánh được giới thiệu đến với mọi người sau 42 năm kể từ tháng 4 năm 1975.
Trong đó, những sự kiện, hình ảnh của miền Nam kể từ buổi sáng 30 tháng 4-75, cuộc sống của người lính Việt Nam Cộng hoà trong trại cải tạo, hay những chuyến vượt biển kinh hoàng được tác giả kể lại trong cuốn hồi ký với vai trò là một nhân chứng lịch sử.
Nhân vật Tôi
Nhân vật “tôi” xuyên suốt trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển” là Đại uý Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, người tù vượt ngục trại Long Giao, người lái tàu vượt biển hai lần, chủ tịch Hội Cựu Quân nhân tại đảo Pulau Bidong năm 1981; người sáng lập Phong trào Hưng ca Việt Nam: nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh.
Tất cả những vai trò từng tồn tại trong 70 năm cuộc đời được ông gói ghém trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển”, cuốn hồi ký ông ấp ủ 38 năm. Khi thực hiện được, thì đã bước sang năm thứ 42 kể từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975.
“Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. Mặc dù tuổi đã lớn nhưng những hình ảnh không bao giờ quên. Vì tuổi lớn, có những sự kiện có thể mất đi nhưng không có gì thêm bớt. Và những nhân vật vẫn còn nằm yên đó..”
Thật sự là như thế. Sài Gòn buổi sáng 30 tháng 4 năm 75 hiển hiện ra dưới ngòi bút của ông với đầy đủ âm thanh, sắc thái, mùi vị. Ông gọi những chương đó là “Tan hàng, Bỏ súng”.
Tan hàng; Bỏ súng
“30.4. Hình như suốt đêm qua Sài Gòn chập chờn không ai tròn giấc ngủ. Tôi không thể nằm yên ở nhà chịu trận mà không biết những gì đang xảy ra bên ngoài đường phố. Tôi rời nhà với đôi mắt cay xè. Sài Gòn vẫn nắng chói chang…
Sáng sớm hôm nay một chiếc trực thăng HU.1D bên kia đường, đỗ trên nóc nhà đón thân nhân, đã vướng dây điện, nằm chúi đầu như sắp rơi xuống đất. Ngoài đường cả một cảnh tượng hỗn loạn đang xảy ra, xe cộ xuôi ngược, và chưa lúc nào đường phố thấy người đi bộ nhiều như sáng nay, nhiều người chạy trên đường với thái độ hốt hoảng…”
Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu.
- Huỳnh Công Ánh
“Cảm giác trưa ngày 30 tháng 4 là cảm giác không biết mình sẽ đi về đâu sau cái ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, sau ngày buông súng. Lúc đó cứ nghĩ là bây giờ họ thắng rồi, họ lấy hết đất nước rồi, cảm giác như đờ đẫn, không biết đứng ở đâu, không biết làm gì. Cho tới khi có thông cáo đi tù cải tạo 10 ngày thì cũng vui mừng, giỡn đùa…ôi 10 ngày nhằm nhò gì, 3 tháng cũng nhằm nhò gì. Ở tù 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm rồi ra có cơ hội đi làm ăn hoặc đi học lại, vì tôi tổng động viên năm 68, hai mươi mấy tuổi thôi, tôi cũng ước mơ đi học lại.”
Qua những tình tiết tác giả kể lại trong “Bỏ súng”, người đọc sẽ thấy và hiểu những lớp xi măng đầu tiên xây dựng nên một thành trì xã hội chủ nghĩa ngày nay.
“…Thời gian của tháng 5-75 là thời gian của xôn xao họp hành, thành lập khu phố, kê khai giấy tờ và học tập cái gọi là “chính sách của cách mạng”. Chị giúp việc nhà hàng xóm kế cận căn nhà tôi ở, nghe đâu cũng là Việt Cộng nằm vùng, bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân phường.”
Về Long Giao
Những tháng ngày sau đó của Huỳnh Công Ánh và đồng đội của ông được lột tả thật đến từng tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng máy xe nổ ầm ì trong đêm khuya. Cách ông tường thuật đoạn đường về Long Giao mà bần bật lên đó là niềm tin, niềm hy vọng, rồi tiếp nối là sự hoang mang, để rồi cuối cùng là thất vọng.
“Giờ này trong bóng tối, chen chúc trong chiếc xe, tôi mới thấy ân hận. Vợ con tôi chắc đã ngủ rồi mà không biết cảnh chồng và cha đang ngồi trên chiếc xe bít bùng này và đi về đâu? Hoàn cảnh này không thể có chuyện đi “học tập 10 ngày” được rồi. Cũng có thể chúng chở ra biển, rồi nhận chìm tàu, hay đem lên núi xử bắn rồi lấp xuống hố.”
7 năm trong trại tù Long Giao trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh không thiếu những câu chuyện bi hài. Những mẫu chuyện ngắn, được kể lại gọn gàng qua những lời đối thoại không văn vẻ, nhưng rất “trịnh trọng” bởi cách xưng hô “thưa gửi các bộ”, đủ để người đọc phải vỡ oà cái cảm xúc vừa buồn cười, vừa cay đắng.
Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt.
Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt. AFP photo
“…Những tuần lễ đầu ở Long Giao, khi đi ngang qua các vọng gác của các bộ đội, thấy nhiều viên đá cục chất đống dưới chân vọng gác. Sau mới biết, bộ đội sau khi đi đại tiện, họ dùng đá để lau chùi. Bộ đội mà thế thì huống gì là tù, lấy giấy ở đâu? chỉ dùng lá, cục đá hoặc chà dưới cỏ. Man rợ như thế đấy.
Cũng có những câu chuyện nực cười khác
Khi mới vào Long Giao, có anh tên là Lê Thông, mang kính cận dày cộm. Một hôm đi ngược chiều với bộ đội, tên bộ đội gọi giật lại:
- Anh kia, ai cho phép anh đeo kiếng?
- Báo cáo cán bộ, tôi bị cận thị. Anh Thông trả lời
- Cận thị là cái gì? Lấy xuống, lấy xuống mau!
- Báo cáo cán bộ lấy kiếng xuống thì tôi quờ quạng lắm, làm sao thấy đường đi?
- Tôi không đùa với anh đâu nhé. Lấy xuống mau!”
Vượt tù, vượt biển
Từ những chương này trở về sau, là những mốc thời gian tác giả gọi là tàn khốc nhất. Chính vì vậy mà trong suốt 38 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, ông vẫn không quên một chi tiết nào. Từ cuộc vượt ngục lịch sử thoát khỏi những ngày học tập cải tạo trong trang phục của bộ đội Bắc Việt cho đến hai lần lái tàu vượt biển.
“Khi ở tù, phải có 1 thời gian suy nghĩ rất là lâu, bao nhiêu năm liền về ý định trốn tù. Vượt biển thì khốc liệt lắm, trong vòng có mấy ngày thôi. Tôi đã từng bị mảnh đạn bị thương, rồi bỗng nhiên trở thành người chỉ huy cứu 29 người trên tàu sống sót trong 17 ngày trôi trên biển. Chính mình cũng bị hải tặc Thái Lan khoét lưỡi lê trong hậu môn chảy máu đi không được, bị kẹp tay tra khảo. Nó khốc liệt sợ hãi hơn đường trốn tù. Cái hãi hùng của chuyến vượt biên thứ hai nếu xảy ra giống như chuyến thứ nhất thì liệu vợ, con và cháu và em của mình sẽ ra sao? vì mình mà họ chết. Nếu mình chết 1 mình không sao. Nhưng liên luỵ đến con nhỏ, cháu mình thì cảm giác nó sợ sệt, không ăn không ngủ được nhiều hơn là trong tù.
Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy.
- Huỳnh Công Ánh
Vượt biên là mình phải làm sao cho tàu đi không chìm dưới biển, làm sao để tránh hải tặc vô cướp, hiếp dâm…Khi đi rồi không biết sẽ đi về đâu? Tấp vô bến nào hay được tàu vớt hay bị chìm tàu?”
Những ký ức tưởng như sẽ dần nguôi ngoai, nhưng không phải thế. Ông nhớ lại cuộc đời của một người tỵ nạn đến Mỹ ba mươi mấy năm, và thấy rằng nó cay đắng thâm trầm nghiệt ngã hơn thời gian 7 năm học tập cải tạo rất nhiều.
“Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. Nhiều khi trong giấc chiêm bao mình thấy họ bắt mình, kéo mình, mình vẫy vùng, đá vào người vợ nằm kế mình. Nhiều lần như thế, nghĩa là nó ám ảnh mình suốt đời.
Thành ra cái chuyện ám ảnh, lo âu, dĩ vãng trong tù là nhớ vanh vách, chỉ có đọc ra, ghi ra, chứ không thêm thắt, hư cấu, văn chương gì cả.”
Nhân chứng lịch sử
Khó mà tìm được một mỹ từ hay một chi tiết bắt người đọc phải suy nghĩ trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh. Thay vào đó, từng câu từng chữ hiện ra gãy gọn, thật thà, có cả cái tiếng chửi thề không lẫn vào đâu được của người miền Nam, đưa người đọc của nhiều thế hệ quay về sống với từng giây phút của năm tháng đó, chứng kiến những câu chuyện đó.
Ông nói rằng để thoát được những chuyến đi ấy, ông đã chịu ơn tình của nhiều người. Những ân tình đó là nguyên nhân đến 38 năm sau cuốn hồi ký mới ra đời. Niềm vui của ông được diễn tả bởi hai chữ “bàng hoàng” vì ông cho rằng ông đã thực hiện được sứ mệnh của cuộc đời mình.
Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân.
- Huỳnh Công Ánh
“Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. Và mình đứng cửa giữa, tức là lòng mình đã chùng xuống rồi. Ba mươi mấy năm tôi mới viết, thì sự hận thù ra ngòi bút, ra trong tư tưởng không còn nữa. Nó đã bình tâm rồi. Mình muốn mình là người Việt Nam yêu nước, mình muốn mình là nhân chứng thật sự giữa hai chế độ miền Bắc và miền Nam. Và nhân chứng đó chỉ đưa ra hình ảnh thôi, không phê phán, không chửi rủa, không đả đảo, không hận thù.”
Điều ông mong muốn, với vai trò là một nhân chứng kể lại một khúc quanh của lịch sử, người đọc, và thế hệ sau sẽ tự biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào cần thiết cho giống nòi Việt Nam.
Khi chương cuối cùng của hồi ký “Vượt tù, vượt biển” khép lại, người đọc vẫn còn thấy đâu đó buổi sáng hỗn loạn của ngày 30 tháng 4 lịch sử. Với nhiều người khác, biến cố ấy không chỉ dẫn đến một cuộc vượt tù cải tạo và hai chuyến vượt biển của Huỳnh Công Ánh, mà còn dẫn đến một câu chuyện dài chưa có hồi kết của đất nước, dù đã bước sang năm thứ 42.
https://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/42years-april30/from-prison-break-to-braving-perilous-seas-cl-04242017150325.html

Sám hối tội ác chiến tranh, người cộng sản không làm được?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2017-04-27
Bức tường khắc tên những chiến binh Mỹ tử trận ở Việt Nam, tại Washington, DC. Ảnh chụp ngày 11/11/2016.
Bức tường khắc tên những chiến binh Mỹ tử trận ở Việt Nam, tại Washington, DC. Ảnh chụp ngày 11/11/2016.
AFP photo

Kỷ niệm 42 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, ngày 26 tháng tư tại đảo Jeju, Hàn Quốc, một bức tượng người mẹ ôm con mang tên Lời ru cuối cùng được khánh thành.
Theo báo chí Việt Nam thì bức tượng này hình thành trong trào lưu các cựu chiến binh Hàn Quốc nhìn nhận những hành động tội ác mà họ đã gây ra trong cuộc chiến Việt Nam.
Các cựu chiến binh Mỹ cũng có những hành động tương tự bấy lâu nay.
Ở phía ngược lại, không có những hành động tương tự từ phía lực lượng của đảng cộng sản.
Tại sao?
Bắt đầu câu chuyện với chúng tôi, nhà báo Võ Văn Tạo hiện sống ở Nha Trang nói về chiến tranh:
Chiến tranh nào cũng tội lỗi hết, chả có cuộc chiến tranh nào tránh được những sai lầm, cũng như chuyện gây ra tội ác, dù mục đích này hay mục đích khác, thì nó cũng đều gây tai nạn cho người dân, thương vong cho người dân. Đó là điều khó tránh trong những cuộc chiến tranh lớn.”
Ông Võ Văn Tạo từng tham gia chiến tranh Việt Nam trong hàng ngũ bộ đội cộng sản, từng tham dự chiến dịch khốc liệt 1972 tại chiến trường Quảng Trị.
Ông Hoàng Ngọc Diêu, hiện sống ở Úc, ra đi từ Việt Nam sau năm 1975, nhận định về hành động sám hối của các cựu chiến binh Hàn Quốc:
“Cúi đầu chấp nhận những việc mình đã làm sai trong quá khứ, là một hành động can đảm. Họ nhận được cái đúng và cái sai, chấp nhận, công khai với mọi người rằng họ đã làm một hành động sai. Theo tôi đó là một hành động rất nhân bản, bởi thật sự trong quá khứ họ đã làm những việc sai. Họ không dùng lý do chiến tranh để biện hộ cho họ.”
Lực lượng Hàn Quốc, hay còn gọi là Nam Hàn, tham gia chiến tranh bên cạnh lực lượng miền Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ, có hai sư đoàn đóng quân dọc theo các tỉnh miền Trung từ Quãng Ngãi cho đến Nha Trang. Ông Võ Văn Tạo là người quê ở vùng này nói rằng trong nhiều trận càn quét binh lính Nam Hàn đã giết chết nhiều dân thường.
Đó là một hành động che đậy thiếu can đảm, thiếu minh bạch của một nhà cầm quyền luôn tự xưng là đúng đắn và chính nghĩa.
- Ông Hoàng Ngọc Diêu
Những hoạt động tưởng nhớ chiến tranh với cảm giác tội lỗi cũng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ, khi một số cựu chiến binh trở về làng Sơn Mỹ tưởng nhớ trận thảm sát dân thường ở đây. Hay gần đây nhất người ta nói đến lời thú nhận phạm tội của ông Bob Kerrey, cựu dân biểu Hoa Kỳ đã từng chỉ huy một trận càn ở tỉnh Bến Tre làm chết nhiều dân thường.
Về phía bộ đội cộng sản, người ta hay nói đến biến cố Mậu Thân 1968, khi mà hàng ngàn người dân thường bị bắn chết và vùi chôn tập thể ở thành phố Huế.
Tuy nhiên cho đến nay không có một lời thú nhận nào về hành động đó từ phía đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù theo ông Hoàng Ngọc Diêu, ngày càng có nhiều chứng cứ, hình ảnh và tư liệu chứng minh rằng có cuộc thảm sát Mậu Thân Huế 1968.
“Đó là một hành động che đậy thiếu can đảm, thiếu minh bạch của một nhà cầm quyền luôn tự xưng là đúng đắn và chính nghĩa. Có lẽ là với lý do bảo vệ cái họ cho là chính nghĩa nên họ không dám minh bạch những chuyện đó.”
Ông Võ Văn Tạo đưa ra một sự phân tích về thái độ khác nhau đối với quá khứ phạm tội ác chiến tranh như vậy từ hai phía:
Tôi nghĩ rằng ở những nước có tự do ngôn luận thì lương tâm con người ta được trình bày một cách đầy đủ. Còn ở Việt Nam thì nó khác, những quyền ăn quyền nói, tự do, lương tâm,… đều bị bóp nghẹt hết. Tự do chính trị, tự do tư tưởng cũng thế. Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn thực thi chính sách tuyên truyền một chiều, tô hồng tất cả những gì đảng cộng sản Việt Nam thực hiện hoặc chủ xướng, và bôi đen cái mà họ không thích. Điều đó dẫn đến chuyện hầu hết bộ đội của Việt Nam, sau cuộc chiến, không bao giờ tự vấn lương tâm rằng mình đã làm gì trong chiến tranh mà gây tội ác.
Tuy nhiên ông Tạo nói rằng không phải người bộ đội cộng sản nào cũng hoàn toàn không tự vấn lương tâm như vậy. Ông kể lại câu chuyện người bạn của ông là ông Trần Đức Thạch đã nhận nhiệm vụ che giấu cuộc thảm sát dân thường tại chiến trường Xuân Lộc vào năm 1975. Lúc đó, sau khi bị một tổn thất nặng nề bị mất 250 tay súng, cộng với sự tuyên truyền của các chính trị viên rằng vùng Xuân Lộc là nơi sinh sống của những người gốc Bắc di cư, chống cộng quyết liệt, đơn vị của ông Thạch gây ra một cuộc thảm sát dân thường để trả thù. Ông Trần Đức Thạch bị ám ảnh và trở về chiến trường xưa thắp hương hối hận.
Tuy nhiên ông Võ Văn Tạo nói rằng trường hợp như ông Thạch là một trường hợp riêng lẻ rất hiếm hoi.
 https://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/42years-april30/the-penitent-of-war-why-communists-cannot-do-that-kh-04272017080451.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét