Thứ Tư, 28 tháng 3, 2018

HÃY TRƯNG CẦU DÂN Ý- CSMN VIỆT TÂN NÚP SAU LƯNG NHỮNG KẺ ĐÁNH PHÁ CPQGVNLT

 Chia sẻ bài viết của Kim Liên Le- Facebook
Kim Lien Le
Zum Inhalt springen
Startseite
About
HÃY TRƯNG CẦU DÂN Ý
JULI 21, 2017
CSMN VIỆT TÂN NÚP SAU LƯNG NHỮNG KẺ ĐÁNH PHÁ CPQGVNLT – Phần 3
unnamed 20155967_10211696920970027_8210664933232130062_n
unnamed (1)

Chỉ có Khieu Samphan, được coi là „một trong những trí thức nổi bật nhất trong thế hệ của mình“, sinh năm 1931 và chuyên về kinh tế và chính trị trong thời gian ở Paris.
Về tài năng, đối thủ của y gồm có Hou Yuon, sinh năm 1930, học kinh tế và luật. Son Sen, sinh năm 1930, học về giáo dục và văn học và Hu Nim, sinh năm 1932, học luật.
Những tên này là những người cầm đầu có trình độ giáo dục cao nhất trong lịch sử chủ nghĩa cộng sản tại châu Á.
Hai người trong số họ, Khieu Samphan và Hou Yuon, có bằng tiến sỹ của Đại học Paris; Hu Nim có bằng của Đại học Phnom Penh năm 1965. Ngoài những tên này ra, không có đảng viên tài năng nào của giới tinh hoa, được gửi tới Pháp bằng học bổng chính phủ, có thể thực hiện cuộc cách mạng đẫm máu và triệt để nhất trong lịch sử châu Á.
Hầu hết những tên này xuất thân từ các gia đình địa chủ và công chức. Pol Pot và Hou Yuon còn có họ hàng với gia đình hoàng gia. Một người chị lớn của Pol Pot đã từng là một người thiếp trong triều đình Vua Monivong.
Ba tên này của nhóm CS Paris đã có một sự ràng buộc tồn tại sau nhiều năm chiến tranh cách mạng và đấu tranh trong nội bộ đảng, Pol Pot và Ieng Sary cưới Khieu Ponnary và Khieu Thirith (cũng được gọi là Ieng Thirith), được tuyên bố là họ hàng của Khieu Samphan. Hai người phụ nữ có giáo dục cao này cũng đóng một vai trò quan trọng trong chính quyền Kampuchea Dân chủ.
Thật ra trong tháng 03 năm 1982 không có cương lĩnh nào của MTQGTHGPVN được công bố tại vùng biên giới, mà chỉ có phái đoàn của các anh chị em sinh viên VN tại San Jose phối hợp với các anh chị em sinh viên tại Nhật đến thăm quan Thái Lan để vận động họ hổ trợ cho thiết lập 1 trạm liên lạc vàTướng Hoàng Cơ Minh được Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH do Đại Tá Huỳnh Văn Tồn là Chủ Tịch chỉ định tháp tùng phái đoàn này.
Sau khi nhận thấy một số tướng lãnh Thái, trong đó có tướngArthit Kamlang-ek (1982-1986) thích nói chuyện về quân sự, mà anh chị em sinh viên bị giới hạn, nên đã đề nghị Tướng Hoàng Cơ Minh trong vai trò đại diện phái đoàn để giao dịch với Thái Lan.
Khi tin tức Thái Lan có ý giúp đỡ được truyền đến Hoa Kỳ, thì thêm Đại Tá Phạm Văn Liểu (Tổng Giám Đốc CSQG và Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III) và Đại Tá Trần Minh Công (Cảnh sát trưởng Quận Nhì-Sài Gòn) tham gia và đồng ý đề cử tướng Hoàng Cơ Minh trong vai trò Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN để tiện giao dịch với các tướng lãnh Thái Lan và ban đầu được gọi “trạm liên lạc”, sau đó biến thành “căn cứ kháng chiến” dù không có căn cứ nào cả.
Người Việt hải ngoại khi nghe có “căn cứ kháng chiến” thì nao nức ủng hộ và theo lời kêu gọi của “MTQGTNGPVN” yêu cầu quyên góp tài chánh để nuôi quân, nên mọi người hăng hái đóng góp.
Tướng Hoàng Cơ Minh sau đó giao cho Thiếu Tá Nguyễn Kim Quờn trong vai trò Vụ Trưởng Hải Ngoại năm 1984.
Khi trở về Nhật, Lý Nhơn tức Lý Thái Hùng được Hoàng Cơ Định, trước Ngày Quốc Hận 30/04/75, còn có tên là Hoàng Huân Định, giám đốc trường Cao Đẳng Hoá Học, nhưng đến khi sang Mỹ lại biến thành Hoàng Cơ Định với bí danh Phan Vụ Quang giới thiệu cho Nguyễn Kim tức Nguyễn Kim Quờn (Huờn) lúc bấy giờ là Tổng Vụ Hải Ngoại của MTQGTN và được ông Nguyễn Kim giao cho đảm trách vai trò đại diện Mặt Trận tại Nhật để tổ chức kinh tài.
New Picture (12).png
Nguyễn Kim Qườn tức Nguyễn Kim là 1 thiếu tá không quân VNCH. Nhưng được Hoàng Cơ Định và Lý Thái Hùng móc nối với bà Lâm Thị Sáu tức “cô Sáu”, em ruột của Tướng Lâm Văn Phát. “Cô Sáu” là 1 cán bộ kinh tài của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Nguyễn Kim đã cùng “Cô Sáu” trở về Việt Nam liên lạc với những VC muốn trở lại hoạt động, sau 1 thời gian bị CS Hà Nội vắt chanh bỏ vỏ.
Khi về Hoa kỳ, do sự giới thiệu của “Cô Sáu”, Nguyễn Kim đã mời Lý Thái Hùng tham gia khoảng cuối năm 1984.
Đầu năm 1985 Lý Thái Hùng được Tổng Vụ Hải Ngoại Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam(MT/QGTNGPVN) điều động sang phục vụ tại Hoa Kỳ, đảm nhiệm vai trò Vụ Trưởng Vụ Kiều Vận, đến năm 1991 thì đảm trách Vụ Trưởng Vụ Điều Hành.
Dưới sự lèo lái của Lý Thái Hùng, Hoàng cơ Định phối hợp với Nguyễn Xuân Nghĩa bành trướng tổ chức kinh tài qua các vụ làm ăn phi pháp nhập thuốc tây lậu từ Mễ vào Hoa Kỳ, sau đó là thuốc phiện và súng là hàng quốc cấm nên bị chính quyền Hoa Kỳ điều tra.
Báo chí cũng đã phanh phui nhiều hành động thủ tiêu, nhiều thành viên đã bất mãn, bỏ trốn, và bị giết hại trong đó có cả kỹ sư Ngô Trí Dũng, cựu sinh viên VN tại Nhật bản và là ủy viên trung ương của Mặt Trận QGTNGPVN để đưa Lý Thái Hùng lên thay.
Căn cứ “kháng chiến” chỉ là một phần đất đã thuê mướn của quân đội Thái trong khu rừng Bunharit, tỉnh Ubon. Với nhân số le que lèo tèo chỉ khoảng 40 người chẳng có đủ vũ khí, vậy màViệt Tân tức Mặt Trận phịa ra con số là 10 ngàn quân, trang bị đầy đủ vũ khí tối tân…

Việt Tân đã lừa bịp, gian manh khai man, gian dối, phóng đại, lừa bịp trong mưu đồ ăn cắp tiền đóng góp của cộng đồng người Việt tỵ nạn CS.
Cho đến khi bị Sở Thuế Vụ và Cảnh Sát Liên Bang Hoa Kỳ(FBI) nhập cuộc vì Mặt Trận tổ chức kinh tài phi pháp, thâu tiền đồng bào trái phép không khai báo và bị nghi ngờ là can phạm dính dáng đến cái chết của nhiều nhà báo, ký giả đã viết ra những bài báo liên can đến MT/QGTNGPVN (tiền thân của Việt Tân).
Những cái chết được chú ý nhất là của ký giả Đạm Phong của tuần báo Tự Do (Houston, Texas) ngày 24/08/1982. Tiếp theo là cái chết của ký giả Hoài Điệp Tử, chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Mai (Westminster-California) 1982. Ông bị sát hại tại tòa soạn trên đường Westminster (Nam California) lúc 2 giờ 15 sáng chủ nhật ngày 9 tháng 8 năm 1987 và sau đó là cái chết trong đêm 22/09/1990 của nhà báo Lê Triết bút hiệu Tú Rua (Bán Nguyệt Văn Nghệ Tiền Phong-Washington DC) và vợ là bà Đặng Trần Thị Tuyết. Ông Tú Rua là một tay viết kỳ cựu của tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, người đã viết những loạt bài “khui” ra vụ Hoàng Cơ Minh “lập chiến khu” cách thủ đô Thái lan Bangkok độ 25 miles, chỉ là thuê lại trại gà bỏ hoang của Thiếu Tá người Thái để gạt thâu tiền đồng bào hải ngoại.
Khi vụ việc ám sát Lê Triết nổ thêm ra, MT/HCM bị FBI điều tra gay gắt nên Mặt Trận ngưng hoạt động và đồng thời người sáng lập ra Mặt Trận là đại tá Phạm Văn Liễu cũng bị khai trừ, vì ông Liễu đã thấy và biết tất cả tiền bạc nhiều chục triệu đô la, do tiền quyên góp và cưỡng ép thu gom tiền của người Việt khắp nơi trên thế giới, đều lọt hết vào tay anh em họ Hoàng nắm giữ.
Do Nguyễn Xuân Nghĩa, Lý Thái Hùng và những nhân vật phản gián của CSVN nằm ngay ở trong đầu não của MT nên đã đưa ra các thủ đoạn rập khuôn kiểu CSVN là DÙNG CỦI ĐẬU NẤU ĐẬU, tức là đội lốt người quốc gia để sát hại người Quốc gia. Thế là chiến dịch Đồng Tiến I, II, III đã diễn ra.
Trong chiến dịch Đồng tiến II năm 1987, Tướng Hoàng Cơ Minh bị du kích Pathet Lào phục kích bắn chết ngày 27 tháng 8 năm 1987 tại biên giới Lào Việt, trong lúc chuyển khoảng 40 tân binh, trong đó có cả thanh niên vượt biên tạm trú trong trại tỵ nạn Panat Nikhom ở Thái Lan. Nhưng nhiều người nghi ngờ Tướng Minh bị giết là do nội gián trong dòng họ Hoàng tranh giành để lấy tất cả uy thế cùng tiền bạc của Hoàng Cơ Minh bằng cách báo cho CSVN chặn bắt để tạo cơ hội cho tênLưu tuấn Hùng bắn chết Hoàng Cơ Minh trong khi có tiếng súng giao tranh để đoạt lấy hai ký lô vàng.
Dẫu đã biết sự thật ông HCM đã chết vào năm 1987, Nguyễn Xuân Nghĩa và Lý Thái Hùng vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch Đông tiến III vào năm 1990, đưa một số người quốc gia vào tròng cho CSVN hốt trọn ổ.
Hai tên này còn cho ra tờ Kháng Chiến tuyên bố là Chủ tịch HCM còn sống ở trong nước, lãnh đạo đánh thắng hết trận nầy tới trận khác. Nhưng dần dà, mọi người khám phá ra sự thật, thế là niềm tin vào đấu tranh của người quốc gia bị tan vỡ do sự lường gạt có kế hoạch chỉ đạo của CSVN. Những cán bộ như Phan Nam, Hoàng Thế Dân, và một số anh chị em khác trong MT có lòng ái quốc. Nhưng phải làm theo chỉ thị của Lý Thái Hùng.

Năm 1991, vì bị FBI đưa Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tiền thân của Việt Tân ra tòa về 39 tội hình sự nên Nguyễn Xuân Nghĩa bỏ MT để lui vào bóng tối, Lý Thái Hùng ở lại, trở thành lý thuyết gia chính thức cho MT và Trần Diệu Chân trở thành phát ngôn viên của MT.
Vì sợ dính dáng với luật pháp và bị FBI điều tra, nên Hoàng CơĐịnh và Nguyễn Xuên Nghĩa đã khai tử danh xưng từ nơi sào huyệt của chúng ở rừng núi Thái Lan: MTQGTNGPVN đổi tên thành đảng Việt Tân.
Sau khi Lý Thái Hùng trở nên là Tổng Bí Thư đảng, thì y cho viết lại tiểu sử đảng Việt Tân để vửa chứng minh thân thế của mình, vừa để chưng bày bộ mặt mới của MT/QGTNGPVN nên đã phịa ra các đại hội 1, 2 và sau đó là đại hội 3 và 4 để gọi đại hội bầu Lý Thái Hùng là “Đại Hội kỳ 5” để bịp gạt mọi người là Việt Tân có từ trước năm 1990 còn Nguyễn Xuân Nghĩa thì về ngụ tại Long Beach và cộng tác với đài RFA tức Radio Free Asia về các đề mục kinh tế để xóa dấu vết.
Bùi Minh Đoàn tức Lý Nhơn (Lý Thái Hùng) sau đó đã được tái tín nhiệm trách vụ này trong đại hội đảng kỳ VI (2006-2011) vì những nhân vật chủ chốt của Mặt Trận đều phải tự chìm xuồng do không muốn dính vào hồ sơ đen của FBI.
Và đương nhiên trong đại hội đảng kỳ VI, Lý Thái Hùng cũng được lưu nhiệm cùng với Đỗ Hoàng Điềm được bầu làm Chủ Tịch Đảng Việt Tân để thay thế những chủ chốt đang bị pháp luật theo dõi theo kiểu bình mới, rượu củ.
Từ sau đại hội kỳ 6 (?), Việt Tân lấy tên là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng đảng và được tổ chức theo hệ thống như của đảng CSVN.

Tác giả Bách Linh đã viết:”Cao Trào Nhân Bản là con đẻcủa Mặt Trận Hoàng Cơ Minh”. Chúng tôi tin Tác giả Bách Linh. Vì mặc dù không dám nhìn nhận; nhưng có những người vừa là “cán bộ” của “Cao Trào Nhân Bản”, của “Liên Minh Việt Nam Tự Do”… và của Việt Tân. Việt Tân, nghĩa là Việt Cộng Mới.

Theo tiết lộ của ký giả PHAN ĐÔNG ANH ngày 31.03.2013mới đây thì Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ra đời vào lúc cao trào bỏ nước ra đi tìm tự do, đây là thời điểm vô cùng thuận lợi để hốt tiền từ hàng triệu người mới chân ướt chân ráo đến bến bờ tự do. Họ đã bị anh em Hoàng Cơ Minh với Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long cũng một số kẻ lợi dụng tấm lòng yêu nước của mọi người để róc xương, xẻ thịt, bòn chắt mồ hôi một cách có bài bản và chiêu bài, nên chỉ thời gian ngắn, mặt trận đại gian bịp móc túi nhân dân đã thu hơn 22 triệu Mỹ Kim (gần bằng 1/10 ngân sách Mỹ viện trợ cho VNCH vào năm 1974).
Đây là số tiền khá lớn mà anh em Hoàng Cơ Minh làm giàu bằng lừa bịp lòng yêu nước, một trọng tội đối với dân tộc, nhưng thiệt hại lớn nhứt là phá hủy lòng tin của người Việt hải ngoại, một công tác mà đảng Cộng Sản Việt Nam đặt lên hàng đầu, nhằm chuẩn bị bước tiến công là tiếp thu hải ngoại, khi kẻ thù mất hết niềm tin vào các tổ chức chống cộng. Mặt Trận Hoàng Cơ Minh thành lập không phải với mục đích giải phóng đất nước như tên gọi, nhưng đây là tổ chức bịp bợm qui mô nhất trong lịch sử chống cộng sau năm 1975 ở hải ngoại. Trong khi đó ở trong nước, tên trùm công an Mai Chí Thọ, với những tên ác ôn như Nguyễn Tấn Dũng, đã dàn dựng nhiều tổ chức phục quốc giả, đã bắt và sát hại hàng chục nghìn phục quốc quân, bị sa cơ vì tin vào những tên nội gián, làm việc cho đảng.
Ở hải ngoại, mặt trận Hoàng Cơ Minh thành lập, cũng là bẩy sập để thu hút những người yêu nước tham gia: nếu lỡ dại đi vào chiến khu, thì ngày về với gia đình không bao giờ có. Đó là những nạn nhân như trung tá Lê Hồng, là bạn thân của chủ tịch Hoàng Cơ Minh lúc mới sang Mỹ. Lê Hồng được coi là người chỉ huy quân sự cao cấp nhứt, được phong tướng, lấy tên là Đặng Quốc Hiền. Nhưng ông tướng nầy đã bị chết một cách bí ẩn, đến giờ nầy, những kẻ cầm đầu mặt trận Hoàng Cơ Minh và nay là băng đảng Việt Tân chưa công bố cái chết của trung tá Lê Hồng, ông chết như thế nào, xác vùi dập ở đâu, ai đã giết ông?
Bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, vị y sĩ độc nhứt trong chiến khu, cũng bị tay chân bộ hạ thân tín của Hoàng Cơ Minh thủ tiêu, Trần Thiện Khải, tác giả bản nhạc Trăng Chiến Khu, cũng chết bí ẩn. Kỷ sư Ngô Trí Dũng, người nhiệt tâm đi kháng chiến, cũng đã mất tích một cách khó hiểu…đó là những cái chết bí ẩn trong chiến khu, mà mặt trận dấu nhẹm.
Một kháng chiến quân sống sót là Phạm Hoàng Tùng, viết cuốn“ Hàng Trình Người Đi Cứu Nước“ đã đưa ra cuộc thanh toán dã man của mặt trận Hoàng Cơ Minh trong chiến khu, đây chỉ là phần nhỏ mà một kháng chiến quân bình thường như Phạm Hoàng Tùng đã nhìn thấy, thì những bí ẩn khác chắc là ghê rợn lắm. Tuy nhiên, tựa đề cuốn sách không phản ảnh được những việc làm tàn ác của mặt trận do Hoàng Cơ Minh chủ xướng, nên quyển sách nầy có thể gọi là:“ Hành Trình Người Đi Ăn Cướp“ mới đúng nội dung của một băng đảng cướp, bịp bợm do „Mặt Trận/Việt Tân“ thực hiện.
unnamed (2)
Những người yêu nước thực sự, sau khi lỡ dại gia nhập, vào chiến khu thì trước sau gì họ cũng bị thanh toán nếu muốn kháng chiến thật và những người chán nản, có ý định bỏ trốn, cũng là mục tiêu thanh toán của mặt trận, tức là vào dễ, ra khó, từ chết đến bị mất tích. Những người tham gia mặt trận, chấp nhận hiểm nguy, họ được đám tay sai Hoàng Cơ Minh chiêu dụ, tuyển mộ từ các trại tị nạn ở Thái Lan, hay từ nước ngoài về, theo nguồn tin của những cơ sở mặt trận, thì bất cứ những ai từ nước ngoài, tình nguyện về nước chiến đấu, khi vào chiến khu, bị thu Sổ Thông Hành và không bao giờ trả lại, đó là những người đi có tấm lòng yêu nước, nhưng bị mặt trận lừa bịp giết hại.
Trường hợp của kháng chiến quân Đào Bá Kế, nguyên là thiếu úy sư đoàn Dù, anh ta tình nguyện vào chiến khu lúc ở trại tị nạn Thái Lan, từ chối không định cư ở các nước tự do, anh ta chỉ huy cuộc hành quân cuối cùng, mang tên Đông Tiến 3 và đã bị sa cơ vào năm 1989, bị tù, nhưng mặt trận không ngó ngàng gì đến, đó là chính sách“ vắt chanh bỏ vỏ“ của anh em Hoàng Cơ Minh.
Trong khi đó, mặt trận chỉ lo cho những tên“ ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản“ như Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt…hay những tên cộng sản như Bùi Kim Thành ( tuyên bố“ dù sao bác hồ vẫn kính yêu“, dù chống đảng). Chính Đào Bá Kế,người chỉ huy cánh quân Đông Tiến 3 của đảng Việt Tân cũng chỉ được thả ra sau 20 năm tù đày CS vì bị đảng Việt Tân ếm nhẹm, không vận động quốc hội, chính phủ Mỹ, Úc, Âu“ để được thoát khỏi bàn tay kẻ thù.

Đây cũng là chính sách của Việt Tân, nếu để Đào Bá Kế xuất ngoại như Trần Khải Thanh Thủy, Bùi Kim Thành, thì mặt trận bị lột mặt nạ. Nên Việt Tân muốn dùng tay CSVN giết Đào Bá Kế để tránh không cho Đào Bá Kế nói lên sự thật về chiến khu và nhiều bí ẩn về những cái chết không ai biết trong hàng ngũ kháng chiến ở chuồng gà của một ông tướng Thái cho mướn.Nhưng chạy trời không khỏi nắng, Đào Bá Kế còn sống và trở về nên sự thật bỉ ổi của Việt Tên bị phanh phui.
unnamed (4)
Mặt trận Hoàng Cơ Minh có chính sách bí mật là thủ tiêu bất cứ ai vào chiến khu để cùng ở, cùng chờ và cùng kháng chiến trong vùng đất xa Việt Nam, như ở đất Thái cũng có lý do: Những ai kháng chiến thật là bị sát hại, khi vào chiến khu là không có ngày về. Vì nếu về hải ngoại, thì chính những nhân chứng nầy sẽ nói lên sự thật ở chiến khu và sự bịp bợm, tàn ác của MTQGTNGPVN nên không tha cho bất cứ ai làm hư chuyện làm ăn bất chánh, lấy danh nghĩa kháng chiến để bòn rút mồ hôi từ hàng triệu người Việt hải ngoại.
Ở nước ngoài, để bảo đảm công việc làm ăn bất chính, thì mặt trận phải bịt miệng những người nào nhận định về tổ chức kháng chiến giả, nên nhà báo, nhà văn là mục tiêu hàng đầu. Những cái chết của vợ chồng Tú Rua (Lê Triết), nhà báo Đạm Phong, nhà văn Hoài Điệp Tử…ngay cả người cộng tác lúc đầu qua mặt trận truyền thông là tiến sĩ Cao Thế Dung, cũng xuýt chết với viên đạn bắn vào đầu. Đó là tổ chức khủng bố của mặt trận QGTNGPVN nằm trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại, từng gieo kinh hoàng cho nhiều người, lúc họ được thịnh hành tại Mỹ.
Tội ác của mặt trận là điều không ai phủ nhận, kẻ cả những „tay anh chị“ trong băng đảng Việt Tân ngày nay. Một tổ chức bất lương, tác hại rất nhiều cho công cuộc giải thể chế độ cộng sản là không thể và không bao giờ tin được, nhất là đảng Việt Tân có công tác điềm chỉ những người nào yêu nước, lỡ dại hợp tác hay nghe lời khuyến dụ về nước rải truyền đơn, họ đã bị bắt do điềm chỉ từ đảng Việt Tân, nên một số cựu đảng viên Việt Tân đã biểu tình ngay tại thủ đô người tị nạn ở Nam Cali, đây là những người trong chăn mới biết chăn có rận, họ cũng là nạn nhân của đảng Việt Tân, nhưng may mắn thoát nạn, trở về lột mặt băng đảng tay sai của Việt Cộng ở nước ngoài.
Vì sợ bị pháp luật truy nã, nội bộ rạn nứt, những nhân vật hàng đầu của như Đại Tá Phạm Văn Liễu, Đại Tá Trần Minh Công, cụ Phạm Ngọc Lũy đã tách ra nên Mặt Trận lập lờ đổi tên làViêt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (gọi tắt là Đảng Việt Tân) vào năm 1990.
Do chỉ khéo léo giật dây, không bị vướng pháp luật nên tháng 9 năm 2001, Bùi Minh Đoàn tức Lý Nhơn tức lý Thái Hùng được bầu làm Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân trong đại hội đảng kỳ V (2001-2006) trong dịp công khai cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh sau 14 năm dấu diếm vì bị bị cộng đồng người Việt tự do toàn thế giới phát hiện, vạch mặt trần truồng.
Điển hình nhất là trong vụ “chiến khu” bị phanh phui vì làm trò hề bịp bợm, tiền bạc thu góp từ cộng đồng người Việt trên toàn cầu cho vào túi riêng. Rồi vụ Hoàng Cơ Minh bị giết chết thảm khốc, nhưng đã được đảng Việt Tân ém nhẹm suốt 14 năm để tiếp tục làm tiền. Tất cà những dữ kiện chung quanh Mặt Trận tiền thân của Việt Tân là có thật. Đáng tiếc là, bọn chính trị gia lưu manh, xôi thịt thời cơ đã không biết xấu hổ, không biết sỉ nhục, làm mặt dầy để tiếp tục gian dối lừa bịp chia nhau tiền đóng góp của đồng hương.
unnamed (5)
Thật tội nghiệp cho thân phận của một phó đề đốc như Tướng Hoàng Cơ Minh, nguyên là một chiến sĩ, giòng họ Hoàng Cơ mà đến lúc chết, chẳng những đã bị vứt bỏ trong khu rừng già ở Thái Lan, mà cả đảng viên đảng Việt Tân và thân nhân giòng họ Hoàng Cơ cũng ngậm miệng để tiếp tục thu góp, ăn cắp tiền do cộng đồng người Việt tỵ nạn đóng góp.
Thật sự Việt Tân không có đại hội 1, 2, gì cả. Chỉ có 2 lần đại hội trước đó. Nhưng gọi là “Đại Hội kỳ 5” để bịp gạt mọi người là Việt Tân có từ trước năm 1990).
Bùi Minh Đoàn tức Lý Nhơn (Lý Thái Hùng) sau đó đã được tái tín nhiệm trách vụ này trong đại hội đảng kỳ VI (2006-2011) vì những nhân vật chủ chốt của Mặt Trận đều phải tự chìm xuồng vì không muốn dính vào hồ sơ đen của FBI
.
Và đương nhiên trong đại hội đảng kỳ VI, Lý Thái Hùng cũng được lưu nhiệm cùng với Đỗ Hoàng Điềm được bầu làm Chủ Tịch Đảng Việt Tân để thay thế những chủ chốt đang bị pháp luật theo dõi theo kiểu bình mới, rượu củ.


JULI 4, 2017
LÝ THÁI HÙNG, TỔNG THƯ KỶ VIỆT TÂN NGƯỜI ĐỨNG SAU LƯNG NHỮNG KẺ ĐÁNH PHÁ CPQGVNLT

6 ten cua viet tân
Sau khi phái đoàn CPQGVNLT được mời phó hội với Thượng Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ và dự dạ tiệc mừng tân TT Donald Trump ngày 19/2/2017 tại Washington DC thì đâu đó bắt đầu có nhiều Dư Luận Viên trẻ lên livestream chống phá. Đặc biệt, sau Hội Nghị Diên Hồng được tổ chức tại quân Cam/Nam Cali ngày 18/2/2017 và tiếp theo là kết qủa cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý được Ban ổ Chức công bố ngày 29/4/2017 tại Công Viên Mile Square Park-Fountain Valley thì TT ĐÀO MINH QUÂN đã nhận được trên 1 triệu phiếu và hiện nay, có thể đã vượt trên 2 triệu phiếu thì sự đánh phá CPQGVNLT thêm dồn dập và công khai hơn.

Mới đây, một tổ chức tên BPSOS do Nguyễn Đình Thắng cầm đầu có gửi thư mời cộng đồng tham gia ủng hộ gia đình em Nguyễn Hửu Tấn đã bị CSVN sát hại với vết ba nhát cắt trên cổ nên được Quốc Hội cho điều trần ngày 28-29/6/2017. CPQGVNLT trong mục đích bày tỏ sự cảm thông và ủng hộ cuộc đấu tranh của gia đình bà Phượng, chị em Tấn nên đã cử Đại Tá Lâm Ái Huệ tham dự. Nhưng sau đó, Thắng cho một nhóm thanh niên bêu rêu phá phách CPQGVNLT trên Facebook và youtube.

TẠI SAO NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIÚP DÂN, CỨU NƯỚC ĐẦY CHÍNH NGHĨA CỦA CPQGVNLT TRONG SUỐT HƠN ¼ THẾ KỶ QUA LẠI BỊ ĐÁNH PHÁ, BÔI BẨN NHƯ VẬY?
Theo sự dò hỏi của chúng tôi, mới đầu, mọi người tưởng những kẻ livetream chống phá CPQGVNLT là ý kiến cá nhân. Nhưng bắt đầu từ tên Trung Úy công an Việt Cộng TẠ PHONG TẦN dụng khổ nhục kế bị CSVN bắt vào tù để được cộng đồng Việt Nam tranh đấu cho qua Mỹ, cho đến ả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Mã Tiểu Linh, Trương Quốc Huy, v.v… Tất cả đều là người của Việt Tân. Kể cả Bùi Thế Phát và tên “Linh Mục” Vũ Minh, đều có liên hệ với VT hay ít nhất đã nhận tiền của tổ chức này.
Việt Tân, một băng nhóm từng bị các cơ quan truyền thông hàng đầu của Hoa Kỳ như VOA, EBS hay trong phim phóng sự “Khủng bố ở Sàigòn Nhỏ” được trình chiếu tại Hoa Kỳ, có một cuộc phỏng vấn A.C. Thompson và Rowley trên một chương trình truyền hình. Ở cuối cuộc phỏng vấn, đạo diễn Rowley đã nói, như sau:
“Bạn biết đấy, Đạm Phong biết Mặt Trận (Mặt Tận là tên trước kia của Việt Tân) sẽ thanh toán. Ông ấy đã nhận được lời đe dọa trong nhiều tháng trước, nhưng ông vẫn tiếp tục làm báo. Bởi vì với ông, những gì ông viết trên báo đáng để hy sinh mạng sống của mình. Ông nghĩ rằng nếu MT giết ông vì những gì ông viết về hoạt động và về căn cứ của họ ở Thái Lan, những nhà báo khác sẽ đổ xô để viết tiếp những câu chuyện đó, và như thế công việc và mạng sống của ông không bị lãng phí.
Nhưng điều đó đã không phải là những gì đã xảy ra. Không ai đến lượm cây viết của ông để viết tiếp.
Đơn giản, ông đã bị lãng quên, trong khi những cựu thành viên của MT (Việt Tân) vẫn là những nhân vật nổi bật của cộng đồng.
Vậy Việt Tân là gì? Tại sao mang tiếng khủng bố? Hiện do ai cầm đầu?
1/ VIỆT TÂN TỪ ĐÂU MÀ RA:
Đầu thập niên 1980, một số cán bộ cao cấp trong QLVNCH đã thành lập 1 tổ chức có danh xưng “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” (MTQGTNGPVN) được gọi tắt là “Mặt Trận” với mục đích nêu ra là lập chiến khu tại biên giới để mưu cầu chống lại CS. Theo tài liệu do tổ chức này công bố ngày thành lập là 10/9/1982 với vị chủ tịch là Phó Đề Đốc (Chuẩn Tướng) Hoàng Cơ Minh (HCM). Hoàng Cơ Minh là dòng dõi Hoàng Sùng Anh thủ lĩnh giặc cờ Vàng bị triều đình Việt Nam xử chém. Nhưng dư đảng họ Hoàng còn lẩn trốn gần biên giới Vân Nam và Cao Bằng.
Khi có cuộc chiến Quốc Gia Tự Do và cộng sản Vô Thần thì con cháu họ Hoàng đầu quân vào cả hai bên. Tại Bắc Việt có Hoàng văn Hoan trở thành tay chân thân tín của Hồ Chí Minh, được coi là vai trò cao cấp hơn cả Võ Nguyên Giáp. Miền Nam thì có Hoàng Cơ Minh làm Phó Đề Đốc. Bên thường dân thì có Hoàng Phủ NgọcTường, một Việt gian khét tiếng giết người như ngóe tại Huế trong thời gian CSVN tổng tấn công VNCH trong tết Mậu Thân 1968.
Sau khi cộng sản chiếm Việt Nam, họ Hoàng trở thành “Thuyền nhân tị nạn Cộng Sản“ (Vietnamese Boat People) và đã xin nhập quốc tịch Nhật với tên là Nokimura Hoàng Cơ Minh. Hoàng Cơ Minh có người em tên Hoàng Cơ Định là giáo sư Đại Học Sư Phạm Sàigòn. Sau 1975 Hoàng Cơ Định trở thành tay chân thân tín của trùm CSVN Võ Văn Kiệt, được Kiệt tín cẩn cấp vốn để mở một hảng làm xà phòng tại Chợ Bún (Lái Thiêu). Ngoài ra, trong hàng ngũ lãnh đạo của “Mặt Trận” còn có Nguyễn Xuân Nghĩa tức Nguyễn Đông Sơn là cháu của trùm Việt Cộng Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc.
Thời gian khi “Mặt Trận” được thành lập, tinh thần chống Cộng trong tập thể người Việt tỵ nạn CS còn tràn đầy. Sau khi nghe “Mặt Trận”lập chiến khu chống cộng, họ đã tới tấp gửi tài chánh để ủng hộ. Tuy nhiên, “Chiến Khu” chỉ là một trại gà bỏ hoang của tướng Thái Lan cách Bangkok 25 cây số. Nhưng “Mặt Trận” cho chụp hình tung lên báo chí giới thiệu là trang trại của kháng chiến quân nên nhiều người tưởng thật, rất mừng là ngày giãi phóng quê hương Việt nam gần thành công. Chỉ có một tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong là không tin chuyện nầy. Ký giã nòng cốt tuần báo VNTP là Lê Triết có nhiều bài viết nghi ngờ đám kháng chiến cuội nầy.
“Mặt Trận” ra lệnh cho sát thủ người Việt tên Lê Hoàng Hùng, bắn chết ký giả Lê Triết tại garage riêng của ông rồi bay sang Bangkok ẩn trốn lệnh truy nả của FBI. 3 ngày sau đó , cảnh sát Thái Lan nhận được báo cáo của dân Thái, một xác chết bị chặt mất đầu và 2 bàn tay , trôi trên sông Chao Phraya gần tủ đô Bangkok chính là tên sát thủ ấy. Sau đó có 4 người Việt tị nạn Cộng sản tại Thái Lan đã gia nhập vào “Chiến Khu” của Hoàng cơ Minh. Bốn thanh niên nầy xin ra khỏi trại đã bị giết.
Sau đó Tướng Hoàng-cơ-Minh trình diển một đoạn quay phim để đem về California trình cho người Việt tị nạn xem trước khi trở về lại “Chiến Khu”. Không dè bị vợ của người em cùng cha khác mẹ là Hoàng-cơ-Định báo cho thân nhân ở Hà Nội biết. Thế là quân đội Cộng sản VN phục kích bắn chết khi Hoàng cơ Minh vừa đặt chân lên biên giới Thái-Lào vào tháng 8/1987 nhưng mãi đến ngày 19/4/2004 “Mặt Trận” mới công khai.
Sở dĩ Hoàng-cơ-Định lộ tin mật cho vợ biết vì Hoàng cơ Định đang giử quỷ “Kháng chiến” rất kếch sù. Có người ước tính đến hàng chục triệu USD. Tuy nhiên, chử “tiền” liền với chử “tai” một vần. Do thu góp bừa bãi, chi tiêu không sổ sách, thêm vào đó, một số cán bộ “Mặt Trận” cao cấp xử dụng tiền đóng góp của dân chúng vào việc tư riêng như mở hệ thống phở Hòa và buôn bán trái phép nên vụ tiền bạc của nhóm kháng chiến của Tướng Hoàng-cơ-Minh bùng nổ. Theo sự tiết lộ của cựu đại tá Phạm-văn-Liễu viết rất rỏ sự lưu manh của anh em họ Hoàng nầy trong quyển sách “Trả Ta Sông Núi“ (3 quyển) và bị đưa ra tòa án tại San Jose.
Thấy vậy Hoàng-cơ-Định kháng cáo thưa lại các ông Tiến sĩ Sử học Vũ-ngự-Chiêu, Cao-thế -Dung…về tội vu cáo. Thế là FBI nhày vào xem tài liệu tiền bạc của Hoàng-cơ-Minh và thuế lợi tức của Hoàng-cơ-Định ra sao nên Hoàng cơ Đinh phải nộp lại tiền thuế cá nhân + tiền phạt lên đến 3 triệu USD và sau đó đổi tên là “Việt Tân”.
2/ VIỆT TÂN HIỆN DO AI CẦM ĐẦU?
Đảng CSVN có tổng bí thư là Nguyễn Phú Trọng tức Trọng Lú, còn đảng Việt cũng có tổng bí thư và cũng tổ chức như đảng CSVN, có tổng bí thư, có ủy viên trung ương đảng và cũng có nhiệm kỳ 5 năm. Nhưng ít người biết tổng Bí Thư của Việt Tân thật sự là ai?
Theo tài liệu do chính đảng Việt Tân công bố thì Lý Thái Hùng (LTH)hiện là tổng bí thư Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng tức “Việt Tân” sinh ngày 21 tháng 4 năm 1952 tại Bá Canh, An Nhơn, tỉnhBình Định, tốt nghiệp trung học tại Trường Cường Để Quy Nhơn năm 1971 và đi du học Nhật Bản tháng 12 năm 1971.
Nhưng theo tài liệu do ANNC truy cứu thì Lý Thái Hùng (LTH) tên thật là Bùi Minh Đoàn tức Lý Nhơn, sinh năm 1950 (không đề ngày), cha là Bùi Tùng, 1 cán bộ CS tập kết Liên Khu 5.
Do thi rớt Tú Tài I nên thay vì phải nhập ngũ do nghị định tổng động viên năm 1968, sau khi VC tổng tấn công Tết Mậu Thân, LTH chạy chọt mua giấy khai sinh xuống 2 tuổi để trốn lính. Vì khai xuống 2 tuổi, Bùi Minh Đoàn tức Lý Thái Hùng không có giấy khai sinh, mà chỉ có giấy “Thế Vì Khai Sinh”.
LTH còn có người chú tên là Bùi Nhu và người anh tên Bùi Minh Cường, được CS gài vào làm cho Ty An Ninh Quân Đội thành phố Qui Nhơn. Vợ của LTH là Trần Thị Như, tức Nhu Tran, bí danh Minh Thi, biệt hiệu là Diệu Chân, tức Trần Diệu Chân.
Lý Thái Hùng sau khi khai xuống 2 tuổi đã nộp đơn thi Tú Tài I năm 1971 và Tú Tài II năm 1972 tại trường Cường Để, Quy Nhơn. Sau khi có bằng Tú Tài II, LTH được bọn CSVN chỉ đạo để tham gia vào âm mưu đưa người ra ngoại quốc với công tác điều khiển các tổ kiều vận nước ngoài. Y được gửi đi Nhật du học sau hiệp định Paris, đầu năm 1973.
Sau một năm học Nhật ngữ tại Tokyo, LTH nộp đơn vào học trường Đại Học Quốc Lập Ehime, ngành kỹ sư công chánh vào tháng 4 năm 1973 và sau đó, tốt nghiệp cao học công chánh tại Viện Đại Học Tô Lập Tokyo vào tháng 4 năm 1979.
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975, y nhận công tác tham gia vào Tổ Chức Người Việt Tự Do thành lập vào tháng 11 năm 1975, quy tụ những sinh viên du học tại Nhật, với âm mưu lèo lái mục tiêu đấu tranh giải phóng tổ quốc Việt Nam của họ vào lãnh vực đòi dân chủ và nhân quyền.
Do có tài ăn nói, LTH được một số tổ chức nhân quyền, đảng phái và nghiệp đoàn Nhật ủng hộ tổ chức các chuyến lưu diễn trình bày về thảm kịch thuyền nhân trên biển Đông với mục đích thu góp tài chánh để kinh tài.
Núp dưới danh nghĩa các tổ chức đấu tranh tại Nhật, vào tháng 2 năm 1980, dưới sự hỗ trợ của Tổng Liên Đoàn Lao Động Đồng Minh (Domei), Đảng Dân Xã (nay đã giải tán gia nhập vào Đảng Dân Chủ), và Đảng Tự Do Dân Chủ, LTH đã cùng với giáo sư Mitsuro Muto, tiến sĩ Teruo Tonoaka và ông Akira Yata thuộc Nghiệp Đoàn Domei, thành lập Hội Cứu Trợ Người Tỵ Nạn Đông Dương, sau đổi tên thành Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn để cứu giúp những người tỵ nạn từ ba quốc gia Lào, Việt Nam và Cam Bốt, kéo dài cho đến ngày nay.
Mục đích công việc này để tạo cho Lý Nhơn tức Lý Thái Hùng có vỏ bọc là 1 nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền để xâm nhập Việt Tân, lúc đó còn là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.
Theo đúng kế hoạch, đầu năm 1982, LTH được đưa về Bangkok để bí mật tiếp xúc với tên Surachai Danwattananusorn, hay còn gọi là Surachai Sae Dan, 1 tên cầm đầu đảng CS Thái Lan để phối hợp hành động. Tuy nhiên, trong lúc này đảng CS Thái đang suy yếu, sắp tan rã bởi sự truy nã của nhà cầm quyền Thái nên đổi tên là “Phong Trào chung tay xây dựng và phát triển dân tộc Thái„.
Ghi Chú: Đảng CS Thái Lan, tiếng Thái: พรรคคอมมิวนิสต์แห่งประเทศไทย hay còn gọi là đảng CPT được thành lập từ ngày 01 tháng 10 năm 1942 theo thủ đoạn của Tàu Cộng với âm mưu cướp chính quuyền Thái Lan. Đảng CS Thái còn có mục đích quan trọng là ủng hộ cho Hồ Chí Minh trở về Việt Nam cướp chính quyền tháng 08 năm 1945. Đảng CS Thái Lan là một đảng chính trị bất hợp pháp. Tiền thân của nó là đảng Cộng sản Xiêm.
Vào năm 1929, đảng này theo lệnh của Mao Trạch Đông, đã hợp nhất hai tổ chức cộng sản của người Hoa và người Việt đã có từ trước đó trên đất Thái Lan. Với chủ trương lật đổ Hoàng gia Thái bằng bạo lực.
Cũng như các đảng cộng sản khác ở Á châu bấy giờ, đảng CS Thái Lan theo đuổi chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Với lực lượng là thành phần nông dân và dân nghèo.
Đảng CS Thái Lan lúc đầu dưới sự yểm trợ bằng tiền của quốc tế cộng sản, sau này là bằng cả tiền và vũ khí của cộng sản Trung quốc và CS Việt nam, thông qua các đảng CS từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia…
Đảng Cộng sản Thái Lan đã tham dự đại hội toàn quốc lần hai của đảng CS Việt Nam và tham gia cuộc họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế vào năm 1960 tại Moscow. Tại hội nghị này, khi xảy ra mâu thuẫn giữa Liên xô và Trung quốc thì đảng CS Thái Lan đã ngả theo Trung quốc.
Tại thời điểm năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã chính thức xây dựng Liên minh các tổ chức đấu tranh cho dân chủ và tự do của Thái Lan, với Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan là chủ lực.
Thời điểm này số đảng viên cộng sản và phiến quân của đảng Cộng sản Thái Lan ước chừng gần một vạn người, và khoảng một triệu người ủng hộ. Đặc biệt trong giai đoạn này một nửa các thành phố Thái Lan đã bị cộng sản xâm nhập. Việc này đã khiến cả phía chính quyền và Hoàng gia Thái Lan đã thực sự lo ngại.
Nhưng từ khi CSVN đưa quân sang xâm lược Campuchia năm 1979. Hoàn cảnh quốc tế đã thay đổi, buộc chính quyền CS Lào phải cấm đảng CS Thái Lan sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến như trước đây. Đồng thời quan hệ ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan – Trung Cộng được tái lập.
Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên CS Thái Lan về chiêu hồi.
Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được đàm phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận yêu cầu bỏ vũ khí trước khi khởi sự việc đàm phán. Tháng 10/1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên bố cuộc chiến chống các lực lượng CS Thái Lan đã kết thúc.
Đến năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda đã ký ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các phiến quân CS Thái Lan còn lại. Kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng.
Cũng trong thời gian này hai thủ lãnh cao cấp của CS Thái Lan đã bị quân đội chính phủ bắt giữ. Tổ chức đảng CS Thái Lan chính thức tan rã, tuy nhiên ý thức hệ cộng sản chưa mất hẳn. Tới nay vẫn còn lẩn quất trong suy nghĩ của một nhóm người ở nông thôn vùng Đông Bắc, nơi được coi là lãnh địa của lực lượng Áo đỏ.
Các thành viên CS đã ra chiêu hồi đến nay vẫn hoạt động trong tổ chức „Chung tay xây dựng và phát triển dân tộc Thái“, một tổ chức quần chúng hoạt động hợp pháp ở Thái Lan. Hiện có nhiều người đang tham gia các đảng chính trị và là Dân Biểu Quốc Hội của Thái mà Lý Thái Hùng đang liên lạc.
Lý Thái Hùng sau đó đến Krong Battambang gặp các đảng viên CS Cam Bốt trước khi tham dự buổi lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tại Pakse, Lào vào tháng 3 năm 1982.
Ghi Chú: Đảng CS Cam Bốt tức là Khmer Đỏ (ខ្មែរក្រហម) (tiếng Pháp: Khmer Rouge), tên chính thức Đảng Cộng sản Campuchia và sau này là Đảng Campuchia Dân chủ, là một tổ chức chính trị cầm quyền tại Campuchia từ 1975đến 1979.
Đảng CS Cam Bốt cũng do Hồ Chí Minh thành lập theo kế hoạch của Mao Trạch Đông. Năm 1930, sau khi Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cách hợp nhất ba phong trào cộng sản nhỏ đã xuất hiện ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt Nam cuối những năm 1920 thì tên gọi được thay đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bề ngoài là gộp cả các phong trào cách mạng từ Campuchia và Lào.
Nhưng hầu hết các thành viên ban đầu của đảng là người Việt Nam. Tới cuối Thế chiến II khoảng mười người Campuchia đã gia nhập tổ chức, nhưng ảnh hưởng của họ lên phong trào cộng sản Đông Dương và trên sự phát triển của nó tại Campuchia hầu như không đáng kể.
Các đơn vị CSVN thỉnh thoảng đột nhập vào các căn cứ ở Campuchia trong cuộc chiến tranh chống Pháp, và liên kết với chính phủ cánh tả cầm quyền ở Thái Lan cho tới năm 1947, CSVN khuyến khích thành lập các đội vũ trang Khmer Issarak cánh tả.
Vào ngày 17 tháng 4 năm 1950 (25 năm trước khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh), đại hội toàn quốc đầu tiên của các nhóm Khmer Issarak được triệu tập, và Mặt trận Issarak Thống nhất được thành lập.
Lãnh đạo mặt trận là Sơn Ngọc Minh, và một phần ba giới lãnh đạo là thành viên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Các nhóm Issarak cánh tả, được CSVN hỗ trợ, chiếm giữ khoảng một phần sáu lãnh thổ Campuchia năm 1952 và trước Hội nghị Geneva 1954, họ kiểm soát tới một nửa đất nước Cam Bốt.
Năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức lại thành ba tổ chức quốc gia: Đảng Lao động Việt Nam, Phong Trào Lào Itsala, và Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer (KPRP). Nhưng đảng Lao động Việt Nam vẫn có nhiệm vụ „giám sát“ 2 tổ chức nhỏ hơn này của Lào và Campuchia.
Hầu hết lãnh đạo KPRP và đảng viên các cấp đều hoặc là người Khmer Krom, hoặc người Việt Nam sống tại Campuchia. Còn với người Khmer bản xứ tham gia rất ít.
Theo phiên bản lịch sử đảng của Kampuchea Dân chủ, việc CSVN không thể đàm phán để đạt được một vai trò chính trị cho đảng KPRP tại Hội nghị Geneva năm 1954 thể hiện một sự phản bội với phong trào của Campuchia, vốn vẫn đang kiểm soát những vùng rộng lớn ở thôn quê và có ít nhất 5,000 binh sỹ.
Do đó, sau hội nghị Geneve, khoảng 1,000 thành viên của KPRP, gồm cả Sơn Ngọc Minh phải lưu vong vào miền Bắc Việt Nam.
Cuối năm 1954, những đảng viên KPRP còn ở lại Campuchia phải “thay bình mới-rượu cũ” thành lập một đảng chính trị hợp pháp, Đảng Pracheachon để tham gia vào những cuộc bầu cử quốc hội năm 1955 và 1958. Trong cuộc bầu cử tháng 9 năm 1955, đảng giành 4% phiếu bầu nhưng không có được 1 ghế nào trong nghị viện.
Các thành viên của Pracheachon thường bị quấy nhiễu và bắt giữ bởi đảng của họ vẫn ở bên ngoài tổ chức chính trị của Sihanouk, Sangkum.
Các cuộc tấn công của chính phủ Cam Bốt khiến đảng Pracheachon không thể tham gia cuộc bầu cử năm 1962 nên rút vào hoạt động bí mật.
Sihanouk thường gọi đảng viên và những người dân ủng hộ Pracheachon là cánh tả, tức là Khmer Đỏ, một thuật ngữ mà sau này đã trở thành biểu tượng của đảng và nhà nước do Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan và tay chân lãnh đạo.
Giữa những năm 1950s, các phái của KPRP, „ủy ban đô thị“ (do Tou Samouth lãnh đạo), và „ủy ban nông thôn“ (do Sieu Heng lãnh đạo), xuất hiện.
Những nhóm này đi theo những đường lối “cách mạng” khác nhau. Đường lối „đô thị“ đang chiếm ưu thế, được CSVN hậu thuẫn.
Riêng Sihanouk, nhờ thành công trong việc giành độc lập từ nước Pháp nên trở thành một lãnh đạo nhà nước thật sự và vì tính trung lập cùng sự ngờ vực sâu sắc của ông với Mỹ, khiến ông trở thành một công cụ quý báu của CS Hà Nội trong cuộc đấu tranh „giải phóng“ miền Nam Việt Nam.
Năm 1959 Sieu Heng rời bỏ chính phủ và cung cấp cho các lực lượng an ninh 1 số thông tin đủ để họ tiêu diệt tới 90% cơ sở đảng ở nông thôn. Dù các mạng lưới cộng sản ở Phnom Penh và tại các thị trấn khác dưới sự quản lý của Tou Samouth không bị thiệt hại nặng như vậy. Tới năm 1960 chỉ còn vài trăm đảng viên cộng sản hoạt động ở nước này.
Trong thập niên 1950, các sinh viên Khmer ở Paris tổ chức phong trào cộng sản riêng của mình, và có quan hệ với đảng cộng sản đang bị đàn áp nặng nề ở quê hương.
Từ phong trào này có những người nam giới và phụ nữ quay trở về quê nhà và nắm quyền lãnh đạo đảng trong thập niên 1960, lãnh đạo một cuộc nổi dậy hiệu quả chống Lon Nol từ năm 1968 tới năm 1975, và lập ra chế độ Kampuchea Dân chủ.
Pol Pot, người nổi lên vào ban lãnh đạo phong trào cộng sản hồi cuối thập niên 1960, sinh năm 1928 (một số nguồn nói năm 1925) tại Tỉnh Kampong Thum, đông bắc Phnom Penh. Tên này cũng theo học một trường cao đẳng kỹ thuật ở thủ đô và sau đó tới Paris năm 1949 để học điện tử radio (các nguồn khác nói rằng ông đã theo học một trường cho thợ in và thợ sắp chữ và cũng học kỹ thuật dân dụng) nhưng đã không thành công trong việc có một bằng cấp nào cả.
Theo thày tu dòng Tên, Cha François Ponchaud, tên Pon pot này có sở thích với văn học Pháp cổ điển và những tác phẩm của Karl Marx mà thôi.
Một thành viên khác của nhóm sinh viên Paris là Ieng Sary, một người Khmer gốc Trung Quốc sinh năm 1925 ở miền Nam Việt Nam. Y theo học trường danh tiếng Lycée Sisowath tại Phnom Penh trước khi bắt đầu theo học thương mại và chính trị tại Institut d’Etudes Politiques de Paris (thường được biết đến với cái tên Sciences Po) ở Pháp.

Nguồn: https://www.facebook.com/kimlien.le.35574/posts/419352658495357

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét