Việt Nam ‘lãnh đạm’ với phim chiến tranh của Mỹ
Truyền thông trong nước đồng loạt im tiếng về bộ phim tài liệu gây chú ý ở Mỹ, giữa lúc có tin nói rằng “The Vietnam War” (Chiến tranh Việt Nam) bị kiểm duyệt ở Việt Nam vì có các chi tiết “nhạy cảm” về các cố lãnh đạo như ông Hồ Chí Minh.
Trả lời VOA Việt Ngữ hôm 18/9 về thông tin nói rằng bộ phim “không thể được công chiếu rộng rãi ở quốc gia cựu thù của Mỹ”, ông Brian Moriarty, đại diện truyền thông của nhóm làm phim, cho biết rằng họ “đã có hai buổi chiếu thành công ở Việt Nam, và có thể chiếu các đoạn clip cho những người từng được phỏng vấn trong bộ phim”.
Ông nói thêm rằng do “không có các thông tin cụ thể”, ông “không thể bình luận” về các tin tức trên Facebook nói rằng Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan chuyên trách của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối thông tin và báo chí, đã “cấm” truyền thông đưa tin vì “The Vietnam War” có “các chi tiết nhạy cảm về sự kiện Tết Mậu Thân 1968, về ông Hồ Chí Minh, ông Lê Duẩn, hay ông Võ Nguyên Giáp”.
Ông Moriarty nói thêm rằng người dân ở Việt Nam “vẫn có thể xem trên mạng bộ phim tài liệu với phụ đề tiếng Việt” trên trang web của kênh PBS. Ông cũng khẳng định rằng “chúng tôi có người ở Việt Nam đã kiểm tra và xác nhận điều này”.
Trên Facebook hôm 17/9, đúng ngày bộ phim được chiếu trên hệ thống truyền hình công ở Mỹ, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius viết: “Để xây dựng một tương lai tươi sáng và công bằng, chúng ta cần thừa nhận và thành thực về quá khứ”.
Để xây dựng một tương lai tươi sáng và công bằng, chúng ta cần thừa nhận và thành thực về quá khứ.
Chưa rõ lý do vì sao phần đông báo chí Việt Nam lại không đăng tin về phim tài liệu dài tập, phải mất một thập kỷ mới hoàn thành và đang thu hút sự quan tâm của công chúng Hoa Kỳ. VOA Việt Ngữ không thể liên lạc được với Ban Tuyên giáo Trung ương để phỏng vấn.
Theo kết quả tìm kiếm trên mạng, duy nhất, chỉ có tờ Thanh Niên cuối tháng trước đưa tin về việc “Tổng lãnh sự quán Mỹ tại TP. HCM sẽ tổ chức buổi chiếu và thảo luận trích đoạn khoảng 90 phút của bộ phim tài liệu dài 18 tiếng ‘The Vietnam War’ (Chiến tranh Việt Nam)”.
Câu trả lời của Lynn đào thêm một ngờ vực khó chịu khác: Có nghĩa là đoạn phim được chiếu giới thiệu ngày hôm đó đã đi qua bàn tay kiểm duyệt thô bạo và thiếu độ lượng - trước khi nó xuất hiện được dưới những ánh mắt trẻ măng đã rất thành tâm muốn hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam theo nhiều hơn một nghĩa của cờ đỏ hay cờ vàng…
Nhà văn Khải Đơn, một trong những người tham dự, kể lại trên Facebook cá nhân: “Cô gái rất trẻ giơ tay hỏi nữ đạo diễn Lynn Novick: ‘Tại sao trong những trích đoạn được xem, tôi chỉ thấy những nhân vật được phỏng vấn từ miền Bắc Việt Nam? - Vậy trong bộ phim tài liệu sắp chiếu có những người từ miền Nam được trả lời phỏng vấn không?’... Lynn Novick mỉm cười nói: “Có, chúng tôi có phỏng vấn những người từ miền Nam. Nội dung đó sẽ có đầy đủ khi bạn xem bộ phim được công chiếu trên trang web của PBS”.
Nữ ký giả từng có thời gian làm việc cho hãng BBC ở Bangkok viết tiếp: “Câu trả lời của Lynn đào thêm một ngờ vực khó chịu khác: Có nghĩa là đoạn phim được chiếu giới thiệu ngày hôm đó đã đi qua bàn tay kiểm duyệt thô bạo và thiếu độ lượng - trước khi nó xuất hiện được dưới những ánh mắt trẻ măng đã rất thành tâm muốn hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam theo nhiều hơn một nghĩa của cờ đỏ hay cờ vàng…”
VOA Việt Ngữ đã liên hệ với Lãnh sự quán Mỹ ở TP HCM để hỏi xin đoạn ghi âm về sự kiện này nhằm kiểm chứng thông tin mà nhà văn Khải Đơn đưa ra, nhưng được cho biết rằng buổi chiếu không được ghi lại.
Trong một buổi thảo luận về “The Vietnam War” ở New York tuần trước, đồng đạo diễn Ken Burns tiết lộ rằng Thượng nghị sĩ John McCain, cựu tù binh chiến tranh ở Việt Nam, “muốn xem câu chuyện của người Bắc Việt”.
Phim tài liệu gồm 10 tập, kéo dài 18 tiếng, được cho là “khám phá khía cạnh con người trong cuộc chiến qua lời kể của gần 80 nhân chứng từ mọi phía”.
Cựu Ngoại Trưởng John Kerry, từng tham chiến ở Việt Nam, tuần trước cũng nói rằng “nếu có một điều gì có thể giúp hàn gắn những sự chia rẽ trong xã hội Mỹ, khiến những người phản chiến có thể ôm lấy các cựu chiến binh đã cầm súng tại Việt Nam, thì đó là phim tài liệu ‘Chiến tranh Việt Nam’”.
Bộ phim Việt Nam của Ken Burns: Tập 1 rất hay nhưng có 2 thiếu sót
Spyridon Mitsotakis * Đỗ Tùng (Danlambao) dịch
- Tôi chúc mừng Ken Burns về tập đầu tiên của bộ phim tài liệu của ông
ấy. Tôi thực sự chúc mừng. Phải rất công phu mới có thể tham khảo hết
cái đống tài liệu to như núi có tính tuyên truyền và đơn giản hóa theo
phong cách Howard Zinn của những người chống chiến tranh trước đây,
những người tự xem mình là sử gia về sự xung đột này. Trong nửa thế kỷ
qua, những tường thuật hàn lâm về cuộc chiến tranh này là: "Những
người Mỹ đế quốc là những bậc thầy múa rối thâm độc đã đưa Pháp trở lại
nắm quyền trong thế giới thứ ba để đàn áp các nhà dân chủ yêu nước giải
phóng dân tộc, và sau đó bước vào để thay thế người Pháp trong chiến
dịch diệt chủng".
Tập đầu tiên này cho thấy:
- Hoa Kỳ phản đối việc Pháp trở lại Đông Dương, và chỉ miễn cưởng ủng hộ
Pháp sau khi Cộng sản nắm quyền kiểm soát ở Trung Quốc và bắt đầu tích
cực hỗ trợ cộng sản khắp Châu Á bằng vũ khí (và trong một số trường hợp,
với quân đội).
- Cộng sản Việt Nam, trên thực tế, là những người cộng sản. Họ không
phải là "những người theo chủ nghĩa quốc gia bị bắt buộc phải rơi vào
vòng tay của Liên Xô"; mà họ thật sự là những người cộng sản, và cũng
khát máu như những người anh em của họ được đào tạo ở Moscow. Allen
Goodman thuộc Đại học Georgetown nhớ lại đã hỏi của cựu thành viên
Comintern (CS Đệ tam Quốc tế) là Bertram Wolfe về Hồ Chí Minh, người mà
Wolf đã dành ba tháng để đi chu du Liên Xô như là một phần hoạt động của
Comintern trong những năm 1920. Goodman trích câu trả lời của Wolfe: "Ông
Hồ là một nhà tổ chức cộng sản sắc bén và lạnh lùng nhất mà tôi từng
gặp, khi công khai ông ta nói với niềm tự hào mãnh liệt như là một người
Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng trong vòng riêng tư thì ông ta
thú nhận rằng tất cả đều là đóng kịch. Điều quan trọng nhất với ông ta
là quyền lực - chiếm được và giữ được quyền lực - và ông ta thề sẽ lợi
dụng bất kỳ phương tiện nào và bất cứ ai để đạt những mục tiêu này."
- Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam không phải là một lực lượng độc lập. Nó bị những người CS miền Bắc kiểm soát.
Tuy nhiên, có hai thiếu sót đáng ghi nhận.
Thứ nhất, sau khi kết thúc Thế chiến II và kết thúc sự
chiếm đóng của Nhật Bản, theo một cuốn sách nhỏ tuyên truyền của Bắc
Việt năm 1966 mang tựa đề "Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lãnh tụ yêu quý của người Việt Nam" thì: Ủy
ban Trung ương và Chủ tịch Hồ đã nỗ lực bảo vệ hòa bình để đất nước có
thể được tái thiết sau khi bị tàn phá bởi tám mươi năm thống trị của
thực dân và nhiều năm chiến tranh. Một hiệp định sơ bộ đã được ký ngày 6
tháng 3 năm 1946 giữa Chủ tịch Hồ và đại diện của Pháp Sainteny. Theo
hiệp định này, Việt Nam đã tự nhận mình là một thành viên của Liên minh
Pháp và đồng ý cho phép 15.000 quân Pháp đáp xuống ở Bắc và Trung kỳ
Việt Nam để thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch (là lực lượng quốc gia
chống CS Trung Quốc), cũng như lệnh ngưng bắn ở Nam Việt Nam v.v...
Đúng vậy. Chính những người cộng sản đã đưa Pháp trở lại Đông Dương bằng những cánh tay rộng mở.
Bí thư Lê Duẩn của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giải thích trong ấn phẩm năm 1970 "Cách mạng Việt Nam: Những vấn đề cơ bản, những nhiệm vụ thiết yếu" là
họ chỉ đơn giản theo "đề xuất thông minh của Lê-nin": "Chúng ta có một
thỏa hiệp tạm thời với... Pháp để đuổi quân đội Tưởng Giới Thạch và quét
sạch các lực lượng phản động, cán bộ các lực lượng này, do đó có thời
gian để củng cố lực lượng của chúng ta và chuẩn bị cho một cuộc kháng
chiến toàn quốc chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, mà đảng biết là
không thể tránh khỏi."
Sau khi thiết lập những sự kiện này bằng chính lời của Cộng sản, một sự
giải thích cô đọng về tất cả những điều này được cung cấp bởi cựu viên
chức Tình báo Quân đội, Robert Turner, người phụ trách công việc ở Việt
Nam giải quyết những người đào thoát, những tài liệu và tù nhân của Cộng
Sản bị bắt giữ, và sau chiến tranh trở thành Giáo sư Luật tại Đại học
Virginia và cũng là một học giả nổi tiếng về Chủ nghĩa Cộng sản Việt
Nam:
Chính Hồ Chí Minh đã ký kết một thỏa ước tạm thời với Pháp vào ngày 6
tháng 3 năm 1946, trong đó ở điểm số hai tuyên bố ông ta sẵn sàng chào
đón quân đội thân thiện Pháp quốc trở lại Việt Nam. Ngày hôm sau, Hồ Chí
Minh và Tổng Tư Lệnh Pháp Jean Leclerc đã ban hành một thông cáo chung
kêu gọi nhân dân Việt Nam "hoan nghênh" người Pháp. Khi những người quốc
gia thực sự kêu gào bị "phản bội" và rút lên núi rừng chuẩn bị cho cuộc
chiến tranh du kích chống lại quân Pháp, Hồ và các đồng chí ông ta đã
chiến đấu sát cánh với quân đội thực dân Pháp để thanh toán những người
"phản động", và do đó hầu như bảo đảm sự lãnh đạo của những người Mác-Lê
đối với phong trào kháng chiến chống Pháp sau đó. Thật vậy, ngược với
huyền thoại phổ biến rằng Hoa Kỳ ủng hộ sự trở lại của chủ nghĩa thực
dân Pháp vào Đông Dương sau chiến tranh, Bernard Fall đã ghi nhận trong
nghiên cứu cổ điển của ông, "Hai Nước Việt Nam", rằng tướng Pháp
Sainteny đã báo cáo cấp trên của ông ta ở Calcutta là ông ta "mặt đối
mặt với một cuộc huy động của Đồng minh có chủ ý nhằm trục xuất người
Pháp ra khỏi Đông Dương", và "vào thời điểm này thái độ của Đồng minh có
hại hơn so với thái độ của quân đội Việt Minh". Tài Liệu Ngũ Giác Đài
(Pentagon Papers) cung cấp thông tin chính xác trong giai đoạn này, ghi
lại rằng Hoa Kỳ cấm Pháp sử dụng vũ khí Mỹ trong chiến dịch giành lại
quyền lực ở Đông Dương, và lưu ý rằng vào tháng 6 năm 1948, Đại sứ Hoa
Kỳ tại Paris đã được lệnh phải "thuyết phục và / hoặc tạo áp lực tùy
theo tình hình để tạo ra kết quả mong muốn" là Pháp "dứt khoát và nhanh
chóng chấp nhận nguyên tắc độc lập của Việt Nam." Chỉ sau khi chiến
thắng của cộng sản tại Trung Quốc năm 1949 và việc Trung Quốc hỗ trợ ào
ạt cho lực lượng Việt Minh của Hồ Chí Minh sau đó, Hoa Kỳ đã kết luận
rằng vì quyền lợi của chính mình, Hoa Kỳ nên hỗ trợ cho người Pháp ở
Đông Dương. Ngay cả khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục gây sức ép để Pháp cam kết
chấm dứt chủ nghĩa thực dân và mở đường cho chính phủ tự trị ở Đông
Dương trong tương lai.
Sự thiếu sót thứ hai liên quan đến hiệp định Geneva. Đến
năm 1954, với sự hỗ trợ mãnh liệt của Trung Quốc, cộng sản đã tràn ngập
một tiền đồn của Pháp tại Điện Biên Phủ sau một cuộc bao vây kéo dài hai
tháng. Sự thất thủ ở Điện Biên Phủ đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính
trị ở Pháp, đưa chính phủ đảng Xã Hội của Pierre Mendès lên nắm quyền.
Chính phủ mới của Pháp sắp xếp một cuộc hội nghị ở Geneva để đàm phán
các điều kiện rút quân.
Giáo sư Turner giải thích rằng: Chính phủ Hoa Kỳ cũng như chính phủ
Việt Nam Ngô Đình Diệm đã không ký kết bất cứ điều gì trong Hội nghị
Geneva năm 1954. Về vấn đề thống nhất, phái đoàn Việt Nam không cộng sản
đã phản đối mạnh mẽ bất kỳ sự chia cắt đất nước Việt Nam, nhưng đã thua
cuộc khi Pháp chấp nhận đề nghị của Phái đoàn Việt Minh Phạm Văn Đồng.
Đồng, là người sau này trở thành Thủ tướng Chính phủ của Hồ Chí Minh,
sau đó đề xuất rằng Việt Nam sẽ được thống nhất qua cuộc bầu cử dưới sự
giám sát của "hội đồng địa phương". Hoa Kỳ trả miếng với cái được gọi là
"Kế hoạch Mỹ", có sự hỗ trợ của Nam Việt Nam và Vương quốc Anh. Kế
hoạch này đề nghị các cuộc bầu cử thống nhất đặt dưới sự giám sát của
Liên Hiệp Quốc. Đề nghị này đã bị Molotov của phái đoàn Liên Xô bác bỏ,
với sự hỗ trợ của các phái đoàn cộng sản khác. Cuối cùng, mặc dù có sự
phản đối của Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, thỏa thuận ngừng bắn (chỉ ký bởi
Pháp và Việt Minh) đã quy định phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17.
Richard Nixon, lúc đó là Phó Tổng thống Hoa Kỳ, sau đó nhớ lại rằng
"cuộc bầu cử trong lãnh thổ Việt Minh năm 1946 đã cho thấy những gì họ
suy nghĩ về cuộc bầu cử sẽ xảy ra trong năm 1956. Trong cuộc bầu cử năm
1946 Hồ đã nhận được 169.222 phiếu tại Hà Nội, một thành phố với dân số
119.000 người. Hồ không bao giờ muốn những cuộc bầu cử nằm ngoài vòng
kiểm soát của mình." Phạm Văn Đồng nói với một phóng viên về việc Hồ dự
kiến cuộc bầu cử sẽ diễn ra như thế nào vào năm 1956: ở miền Nam sẽ có
nhiều đảng phái tranh cử, trong khi ở miền Bắc chỉ có đảng Cộng sản,
nên kết quả sẽ chắc chắn nằm về phía Hà nội, bởi vì Bắc Việt chiếm 55%
tổng dân số Việt Nam. Hồ chỉ chấp nhận một cuộc bầu cử trong đó Hồ cầm
chắc sự thắng lợi.
Đối thủ tương lai của Nixon cho chức vụ Tổng thống là Thượng nghị sĩ
đảng Dân chủ John F. Kennedy đã đồng ý. Vào ngày 1 tháng 6 năm 1956,
Kennedy nói với hội Bạn Mỹ của Việt Nam rằng "trong các hội đồng của
thế giới, chúng ta không bao giờ cho phép bất kỳ hành động ngoại giao
bất lợi cho quốc gia này, một trong những thành viên trẻ nhất của gia
đình các quốc gia - và tôi bao gồm trong lệnh đó một yêu cầu rằng Hoa Kỳ
không bao giờ chấp thuận cho cuộc bầu cử toàn quốc sớm theo Hiệp định
Geneva năm 1954. Cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều không tham gia hiệp định
đó - và Hoa Kỳ lẫn Việt Nam Tự do sẽ không bao giờ tham gia vào một cuộc
bầu cử rõ ràng đã được sắp đặt và lũng đoạn, mà chúng ta đang bị thúc
giục bởi những người đã phá hoại những gì họ cam kết trong Hiệp định mà
họ đang tìm cách thực thi."
Sự kiện này sau đó đã bị bóp méo và trở thành điểm chủ chốt của những
huyền thoại có lợi cho Hà Nội. Vào năm 1971, khi Thượng nghị sĩ George
McGovern đang tranh cử Tổng thống, là đối thủ của Nixon, ông đã có cuộc
trao đổi này với nhà báo Milton Viorst của tạp chí Playboy:
Viorst: Nếu chúng ta đưa ra một biểu tượng lịch sử về điều
này, ông thấy có những điểm tương đồng với cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, trong
đó chúng ta người Mỹ đang cố gắng ngăn chận một quyền lực nước ngoài là
Anh quốc, và những người ủng hộ thuộc đảng Tories, điều hành đất nước?
McGovern: Tôi cho là rất giống nhau. Tôi nghĩ rằng Hồ Chí Minh
đã sao chép Tuyên ngôn độc lập của chúng ta. Ông ta đã thực sự cố gắng
để tống khứ người Pháp đi, không mời người Trung Quốc vào và như
Eisenhower nói: "Nếu có một cuộc bầu cử sau khi họ loại khỏi người Pháp,
ông ta sẽ có ít nhất 80 phần trăm phiếu bầu, ở cả hai miền Bắc và Nam
Việt Nam." Cũng giống như George Washington đã được bầu một cách tuyệt
đối sau khi ông ta đánh bại Anh quốc.
Viorst: Tôi cho rằng Nixon muốn làm cho Hồ Chí Minh cuối cùng trở thành một Hitler của Việt Nam. Ông cho rằng...
McGovern: Đúng như vậy.
Trước tiên, điều nói về Hồ sao chép từ những người lập quốc của chúng ta
(Hồ được chiếu trong phim khi trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập) là một
phương pháp Cộng sản cổ điển làm chúng ta lơ đãng sự phòng vệ. Castro
cũng trích lời các người sáng lập Hiệp chủng quốc, một vài năm trước khi
ông ta yêu cầu Liên Xô đe dọa chúng ta bằng võ khí nguyên tử. Cộng sản
Trung Quốc đã từng phát hành báo chí với các bài xã luận ủng hộ Hoa Kỳ
trước khi cướp được chính quyền và sau đó đã đánh nhau với chúng ta ở
Hàn Quốc. Tuy nhiên, quan trọng hơn là việc McGovern bị nhầm lẫn khi
trích trong cuốn sách "Mandate for Change" của Tổng thống Eisenhower. Đoạn văn trong cuốn sách đó mà McGovern trích là như sau:
"Tôi chưa bao giờ nói chuyện hoặc trao đổi với một người có kiến
thức về các vấn đề Đông Dương mà không đồng ý rằng nếu cuộc bầu cử
được tổ chức trong thời điểm đang đánh nhau, có thể 80 phần trăm dân số
sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh CS vào vị trí lãnh đạo chứ không phải là
Quốc trưởng Bảo Đại. Thật vậy, việc Bảo Đại thiếu sót vai trò lãnh đạo
là một yếu tố trong suy nghĩ phổ biến của người Việt Nam lúc đó rằng họ
không có mục tiêu để tranh đấu."
Đoạn văn đó không nói giống như những gì McGovern tuyên bố. Robert
Turner, lúc đó là một nhà hoạt động ủng hộ nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam,
đã viết vào tháng 12 năm 1967 rằng ý của Tổng thống Eisenhower có nghĩa
là ông được thông báo nếu cuộc bầu cử được tổ chức vào năm 1954, "thời
điểm đang đánh nhau", thì Hồ Chí Minh sẽ đánh bại nhà lãnh đạo bù nhìn
của Pháp là Bảo Đại. Bản tuyên bố này không liên quan gì đến Hiệp định
Geneva hoặc triển vọng của một cuộc bầu cử toàn quốc năm 1956 giữa ông
Hồ và người lãnh đạo phe quốc gia là Ngô Đình Diệm, như McGovern đã ngụ
ý.
Turner đã viết cho Eisenhower về những trích dẫn sai lầm này và vào
tháng 2 năm 1968, đại diện và nhà xuất bản của Eisenhower, viết thư thay
mặt cho cựu Tổng thống, đã trả lời:
"Sau khi xem lại cuốn sách Mandate For Change cho thấy rằng ý kiến
của ông là chính xác. Và trích dẫn phải được hiểu không nhiều hơn hoặc
ít hơn bản thân lời tuyên bố. Điều cần được hiểu là vào thời điểm đó,
Tổng thống Eisenhower được báo cáo rằng Hồ sẽ đánh bại Bảo Đại với 80%
phiếu như đã đề cập. Không thể rút ra kết luận gì khác từ câu nói đó."
(Giáo sư Turner đã tử tế gửi cho tôi một bản sao của bức thư).
Bài báo của Turner năm 1967 tiếp tục:
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy Hồ có thể thắng cuộc bầu cử như vậy.
Tại sao? Bởi vì không có quy định để giám sát có hiệu quả. Vì Bắc Việt
có 16 triệu người, so với 14 triệu ở miền Nam, và vì Hồ Chí Minh luôn
luôn đạt được sự ủng hộ 99,8% từ những cuộc "bầu cử" ở Bắc Việt, Diệm -
hoặc bất cứ ai khác - không thể dại dột chấp nhận loại bầu cử như vậy mà
không có sự giám sát hiệu quả.
Lập luận rằng Diệm đã vi phạm Hiệp định Geneva vì từ chối tổ chức các
cuộc bầu cử không được giám sát là hoàn toàn vô lý. Miền Nam Việt Nam
từ chối ký Hiệp định, và phản đối mạnh mẽ các hiệp định đó tại Geneva.
Ngay cả Phạm Văn Đồng, Thủ tướng của miền Bắc Việt Nam đã phát biểu
trước đó vào ngày 1 tháng 1 năm 1955 rằng "... chính người Pháp phải có
trách nhiệm, bởi vì chúng tôi đã ký Hiệp định Geneva với người Pháp, và
chính người Pháp phải bảo đảm rằng hiệp định được tôn trọng." Vương quốc
Anh, đồng chủ tọa Hội nghị Geneva năm 1954, đã ủng hộ vị trí của Nam
Việt Nam trong một văn bản ngoại giao gửi cho Liên Xô, đồng chủ tịch
khác tại Geneva. Văn bản đó ghi nhận rằng Nam Việt Nam không bị ràng
buộc về mặt pháp lý của hiệp định đình chiến vì Nam VN không ký kết hiệp
định và ngay tại Geneva họ đã bày tỏ sự phản đối hiệp định.
Tuy nhiên ngoài những thiếu sót này, tập đầu tiên này đã được thực hiện rất tốt. Tôi hy vọng các tập sắp tới sẽ tốt hơn.
18/9/2017
Nguồn:
Người dịch:
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2017/09/bo-phim-viet-nam-cua-ken-burns-tap-1.html#more
Diễn đàn Facebook
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/viet-nam-cam-chieu-phim-vietnam-war-cua-my/4035070.html