Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

Ngày vui ĐỜi quân ngŨ

 


NGÀY VUI ĐỜI QUÂN NGŨ


(Thân tặng các bác sĩ cựu sinh viên trường ĐHYK Huế đã sống những ngày hào hùng, phục vụ với danh dự, lòng quả cảm và tình thương trong ngành quân y Quân lực VNCH.)

“Lương nhân nhị thập ngô môn hào,
Đầu bút nghiên hề sự cung đao.” (Đặng Trần Côn.)

(Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt. Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đoàn Thị Điểm. Chinh Phụ Ngâm.)

1. Lời Mở Đầu

Tôi đã có vinh hạnh phục vụ trong hàng ngũ Quân lực VNCH trong 2 năm, từ cuối hè 1957 đến cuối hè 1959. Đáng nhẽ tôi có thể nhập ngũ từ năm 1951 lúc có lệnh động viên ban hành trên toàn quốc, song được hoãn dịch vì đang học đại học tại Hà Nội.

Tình hình trong nước từ nam chí bắc lúc bấy giờ như sau:
-Tạm ước sơ bộ Pháp-Việt ký ngày 5-6-1948 tại vịnh Hạ Long công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập trong khối Liên hiệp Pháp.

-Hiệp ước ngày 8-3-1949 tiếp theo, ký tại điện Elysée, Paris giữa Quốc trưởng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol chính thức hủy bỏ Hòa ước bảo hộ năm Giáp Thân 1884.
Việt Nam hoàn toàn độc lập tất có quân đội riêng, Pháp thỏa thuận giúp Việt Nam thành lập quân đội Quốc gia.

Có 2 trường đào tạo quân nhân cấp sĩ quan để thay thế người Pháp:

1-Trường sĩ quan hiện dịch:

Năm 1949 trường Võ Bị Liên quân Quốc gia được thành lập tại thành phố Huế. Năm 1950, trường được dời về thành phố Ðà Lạt và năm 1959 đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt nam đào tạo các sĩ quan hiện dịch Quân lực VNCH.

Chương trình học kéo dài 4 năm, tương đương Cử Nhân. Năm 1970 có 241 khóa sinh. Ra trường mang cấp thiếu úy.


2-Trường sĩ quan trừ bị:

Ngày 23-12-1950, Pháp-Mỹ-Việt ký hiệp định hỗ tương, phòng thủ và viện trợ quân sự; theo đó, Mỹ viện trợ cho VN 2 tỷ Mỹ kim trong bốn năm, từ 1950 đến 1954 để trang bị cho quân-đội.

Ngày 9-10-1951 khóa sĩ-quan trừ bị đầu-tiên khai giảng tại Nam Định và Thủ Đức.


Trường sĩ-quan Trừ bị Nam Định chỉ đào-tạo được một khóa rồi đóng cửa, năm 1952. Trường sĩ-quan Trừ-bị Thủ Đức hoạt-động tới cuối tháng 4-1975; mỗi năm đào tạo một khóa, học 9 tháng quân sự. Sau biến cố Tết Mậu Thân mỗi năm đào tạo 6 đến 8 khóa. Các chuẩn úy ra trường phải phục vụ trong quân đội 4 năm.

Có 2 biến cố lớn thử thách quân đội quốc gia lúc ban đầu, đang trưởng thành:

*Vào giữa năm 1955 tại miền Nam quân đội quốc gia dẹp tan lực lượng vũ trang Bình Xuyên, đánh thắng giáo phái Phật giáo Hòa Hảo và thu phục lực lượng giáo phái Cao Đài. Quân lực được thống nhất. Pháp hoàn toàn triệt thoái khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956.

**Vào ngày 20-12-1960 “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” được thành lập. Chủ trương của Mặt trận là:

"Đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.”


Thực ra thì vào năm 1960 người Mỹ có mặt ở miền Nam là ít và chỉ là những nhóm nhỏ các cố vấn về tổ chức và chuyên môn, chính quyền Ngô Đình Diệm bảo vệ chặt chẽ chủ quyền quốc gia, không để lính Mỹ vào nước giúp đỡ.

Lá cờ của Mặt Trận cũng là sao vàng cờ đỏ nhưng có thêm màu xanh ở dưới. Cờ này xem nhẹ mắt nhờ phần xanh mà chung cuộc sẽ nhuộm đỏ luôn lúc Mặt trận giải phóng miền Nam giải thể ngày 31-1-1977, sát nhập vào Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

2. Trình Diện Nhập Ngũ

Giữa hè 1957 tôi được bộ Quốc Phòng gọi trưng tập nhập ngũ với cấp bậc ‘Y sĩ Trung úy’ tức là bác sĩ quân y. Giấy thông báo được gởi đến nhà. Ngỡ rằng ít ra các sinh viên Y Khoa ‘Nội Trú Bệnh Viện’ và ngay cả ‘Ngoại Trú Bệnh Viện’ được tạm hoãn dịch do nhu cầu ở các bệnh viện thực tập, không ngờ mọi người đều được gọi.

Đúng ngày ghi trong giấy trưng tập tôi ăn mặc chỉnh tề, áo sơ-mi trắng tay dài bỏ trong quần tây màu xanh đen, mang giày tây màu đen, tuy nhiên không mang cà vạt đến trình diện tại Nha Quân Y, Quân lực VNCH, cũng ở gần TYV Cọng Hòa. Hôm đó có khoảng hơn 10 sinh viên đến. Tôi nghĩ các ngày hôm sau sẽ có thêm các đợt khác.

Các Y sĩ Trung Úy tương lai được BS. Trần Quang Diệu, Y sĩ Đại Tá Giám Đốc Nha Quân Y thân mật tiếp đón chuyện trò tại văn phòng giám đốc. BS. T.Q. Diệu chắc học ở Pháp về, đã lớn tuổi, người dễ dàng, tướng ngũ đoản song không có vẻ oai nghi gây ấn tượng như TT. Ngô Đình Diệm. Chừng hơn một năm sau thì Y Sĩ Trung Tá Phạm văn Hạt lên thay làm giám đốc Nha Quân Y.

Lúc được hỏi nguyện vọng chọn nhiệm sở thì tôi xin ra miền Trung, cụ thể ra Huế. Cha mẹ tôi năm 1954 di cư từ Đồng Hới vào Nam được tàu thủy quân đội Pháp loại há mõm dùng đổ bộ quân cụ (xe cộ) chở chật ních dân di cư từ bến chợ Đồng Hới, ngang cửa sông Nhật Lệ mang thẳng đổ vào bãi Tiên Sa chẳng có người ở, đối diện bên kia sông thị xã Đà Nẵng.

Đất lành chim đậu,’ cha mẹ tôi thuê rồi mua nhà ở lại, gần nhà ga Đà Nẵng. Cha mẹ vợ sắp cưới thì ở tại Huế kiệt 3 đường Âm Hồn, Thành nội.

Sự vụ lệnh được làm ngay sáng hôm đó trao cho tôi và tôi cầm đọc là tôi, nay là Y Sĩ Trung Úy, đến trình diện tại Sở Quân Y Quân Khu 1 tại Đà Nẵng, không ghi thêm rồi sẽ điều động đến binh chủng nào, mà lúc đó tôi cũng không hề có ý định tìm hiểu. Tôi nghĩ Huế Đà Nẵng đều tốt, và nói chung khắp miền Nam từ Đông Hà/Quảng Trị vào đến tận Cà Mau và biên giới Campuchia đều tốt.

Vào thời điểm này ở toàn miền Nam cảnh thái bình an vui:
Năm 1954 là năm đồng bào miền Bắc di cư cả triệu vào Nam, rất vất vả.

Năm 1955 là năm bình định các phong trào vũ trang Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài, cũng khó khăn.

Năm 1960 (cuối tháng 12) là năm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, chiến cuộc bắt đầu, từ từ nhưng tăng dần đến khốc liệt.

Giai đoạn trên 5 năm ở giữa, từ 1956 đến 1960 là thời gian miền Nam an hưởng thái bình thịnh trị, hồ hởi, sung túc.

Không có chiến tranh, không có các phong trào phản chiến/chống đối trong nước và tôi đã phục vụ trong quân lực VNCH vào thời gian đó. Ở miền Nam tàu hỏa chạy suốt ra Quảng Trị, Đông Hà kể từ năm1959 sau khi hoàn tất sửa chữa các đoạn đứt khúc, xe đò xe khách tấp nập chạy khắp lục tỉnh an toàn.


Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm, đường sắt hẹp 1m.

Trước hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954, chính quyền quốc gia tuy kiểm soát thêm miền Bắc nhưng giao thông bắc nam lại gián đoạn ở miền Trung tại các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh và Quảng Ngãi/ Bình Địnhmàvẫnthuộc quyền chính phủ cọng sản kiểm soát. Hồi đó nhà cha mẹ tôi ở Đồng Hới, tôi vào Sài Gòn rồi ra Hà Nội học đều phải đáp máy bay các hãng Cosara, Aigle Azur, Air Vietnam…

3. Những Ngày Chuẩn Bị

Về nhà tức là về Học xá Trung Việt nơi tôi ở cùng với các bạn bè miền Trung, số 27-29 đường Bùi Quang Chiêu (đường Cá Hấp cũ, nay là Đặng Thị Nhu) trước mặt chợ Bến Thành, bên kia bùng binh. Không nghe nói quân trang được cấp phát, tôi tự bỏ tiền may sắm, cũng chẳng có gì nhiều. Toàn là vải kaki màu vàng đất của lính gồm 2 sơ-mi tay dài, 2 quần tây dài,

một mũ bê-rê (mũ nồi dẹp.) Đặc biệt mua thêm cặp hoa mai vàng, phù hiệu cấp bậc trung úy, gắn vào 2 bên cổ áo. Có mua thêm phù hiệu quân y là con rắn quấn quanh một cây gậy, song tôi chẳng mấy khi đeo vào. Mũ két, giày bốt, cà vạt màu đen hoặc kaki vàng thì chưa cần thiết. Dây nịt màu

đen thì đã có sẵn, giày tây cũng vậy. Trọn gói mặc vào thì ngắm lui tới cũng ra vẻ là một bác sĩ quân y trẻ tuổi, quân lực VNCH.


Quân y trang phục hồng như hà,
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết.”
(Đặng Trần Côn.)

(Áo chàng đỏ tựa rán pha. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Đ.T. Điểm. Chinh Phụ Ngâm.) Tôi thường ngâm nga các câu này do chữ “quân y” đọc lên có thể hiểu là “áo chàng” hoặc là “ngành quân y.” Sau này nhiều bác sĩ ĐHYK Huế: các BS. Tôn Thất Sơn, Nguyễn Văn Minh, Huỳnh Mỹ, Lê Quang

Tiến, Vĩnh Chánh, Bùi Cao Đẵng… ra trường đã chọn binh chủng Nhảy Dù, các thiên thần mũ đỏ, quân phục đại lễ trắng: “Mũ chàng đỏ tựa rán pha. Áo chàng sắc trắng như là tuyết in…” Quân quan trang phục hồng như hà. Quân y/phục đại lễ bạch như tuyết (quan=mũ.)


Trong việc mua sắm quân phục tôi nhờ các bạn trong học xá cố vấn. Trong học xá Cá Hấp cũng có đến 10 bạn là sinh viên Y Khoa Sài Gòn, thuộc các lớp sau tôi ít nhiều năm, trong đó gần một nửa là sinh viên của trường Quân Y, đi học ăn lương, mang lon chuẩn úy.

Trường Quân Y được thành lập từ năm 1952 tại Hà Nội; sinh viên của trường được tuyển từ các sinh viên Y khoa và vẫn tiếp tục theo học chung tại trường Y Hà Nội. Khi tốt nghiệp sẽ mang lon Y sĩ Trung Úy hiện dịch với giao kèo phục vụ

trong quân đội thời gian tối thiểu 10 năm. Thời gian theo học sinh viên quân y có thể ở nội trú trong trường hoặc ở ngoài. Điều quan trọng là trong thời gian học sinh viên quân y được hưởng lương theo cấp bậc.


Tôi lúc đó cũng có do dự nhưng sau quyết định vẫn là sinh viên dân y, khi tốt nghiệp ra trường chỉ trưng tập vào quân đội 2 năm. Mặt khác về tài chánh tôi đang được học bổng đại học toàn phần của bộ Quốc gia Giáo dục.

Năm 1954 trường Quân Y dời vào Nam. Sau biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Trường YK Huế tạm dời vào Sài gòn được trường Quân Y, lúc đó Y sĩ Trung tá Trần Minh Tùng là chỉ huy trưởng, giúp đỡ rất nhiều về phòng ốc ăn ở học tập.

Tuy nhiên sinh viên Huế cũng học 7 năm Đại học (1 năm dự bị Y + 6 năm Y) tất cả chẳng ai là sinh viên quân y, lúc ra trường mới vào quân đội. Lý do là trường Quân Y tọa lạc tại Sài Gòn.


Các bác sĩ trưng tập đều được huấn luyện quân sự.

BS.Tôn Thất Sang (YK3 Huế) – Y sĩ Trưng Tập khóa 12 kể chuyện nhập ngũ như sau: “Năm 1970 sau khi nhận được thư gọi trưng tập, tất cả các Y Nha Dược Sĩ toàn miền Nam, vào cục Quân Y trình diện, nhận quân phục, với huy hiệu cục

Quân Y đỏ chói trên vai trái, mua thêm cặp lon trung úy tự gắn lên hai cầu vai, ra hàng bán huy chương quân đội mua thêm huy hiệu con rắn quấn chiếc gậy màu vàng, gim lên nắp túi áo bên phải và tất cả bỗng nhiên trở thành viên Y Sĩ

Trung Úy mới toanh! …Vài ngày sau, tất cả tập trung tại trường Quân Y (hay Cục Quân Y?) và tất cả các viên Y Nha Dược Sĩ mới toanh với lon trung úy trên vai, được nhiều chiếc GMC nhắm hướng liên trường võ khoa Thủ Đức trực chỉ…”
BS. Hoàng Thế Định YKHuế, khóa 2 kể:

“Các khóa sinh viên sĩ quan thì phải qua đến 9 tháng học quân sự, với mọi bài học quân sự và thực tập gắt gao mới được trở thành một sĩ quan. Khóa Y Sĩ Trưng Tập chúng tôi chỉ kéo dài 9 tuần lễ. Với thời gian ngắn ngũi ấy, các lớp học chỉ là căn bản, chúng tôi cũng đi học ở các bãi tập, cũng bò

dưới hỏa lực, ném lựu đạn, tháo ráp súng Carbine và M16 và tập bắn, đáng nhớ đời có lẽ là ai trong chúng tôi cũng nhớ lúc bắn thử M60 từng loạt và từng viên một...Cuối khóa, chúng tôi cũng có thi ra trường trên lý thuyết và bắn thi hai loại

súng cá nhân kể trên. Ra trường chúng tôi được phát bằng tốt nghiệp với thứ hạng đàng hoàng. Rời Quân Trường Thủ Đức là đến học về Hành Chánh Quân Y tại Trường Quân Y ở

Sàigòn. Sau 5 tuần, mọi học viên được triệu tập trong một phòng để chọn đơn vị tùy theo thứ tự tốt nghiệp từ Quân Trường Thủ Đức và Hành Chánh Quân Y”.
(BS. HTĐịnh “Nhật Ký Đoạn Đời Quân Ngũ”. Ykhoahuehaingoai.com).


Mười ba năm cách biệt 1957-1970 biết bao thay đổi. Năm 1970 BS. H.T. Định được gọi đi trưng tập, trước tiên vào quân trường Thủ Đức thụ huấn 9 tuần quân sự, 5 tuần hành chánh, có thi mãn khóa. Năm 1957 tôi trưng tập thì người ta để yên, không gọi đi học lấy một buổi, cũng chẳng ai phát tài

liệu gì để học tập, nha Quân Y không tổ chức gì, chẳng có kế hoạch huấn luyện gì. Năm đó trong nước nghĩ lại thật là thái bình, bác sĩ quân y trưng tập thì học bò lết, bắn súng, ném lựu đạn mà làm gi? Mà cũng phần nào do nha Quân Y tổ chức còn rời rạc luộm thuộm?


Năm 1964 nhờ công lao cải tổ của BS.Dương Minh Châu, chánh sở kế hoạch (1964-73), Nha Quân Y trở thành Cục Quân Y, thành lập 13 tiểu đoàn Quân Y cho 11 sư đoàn bộ binh, thủy quân lục chiến, nhảy dù. Lại thêm các kho y dược,

trung tâm hồi lực, quân y viện, bệnh viện dã chiến, bệnh viện tiểu khu, bệnh xá chi khu (có bác sĩ), tất cả hầu đáp ứng cho chiến trường đang trở nên sôi động. Cục trưởng Quân y là Y sĩ Thiếu Tướng Vũ Ngọc Hoàn, Cục trưởng cuối cùng là Y sĩ Chuẩn tướng Phạm Hà Thanh.


Các bạn tôi ở học xá, sinh viên trường quân y mách khôn tôi xin đáp máy bay quân sự ra Đà Nẵng, không tốn tiền. Những máy bay này chạy như những con thoi giữa Sài Gòn Đà Nẵng, tuần lễ thường có hai ba chuyến. Sớm tinh sương đã phải ra phi trường Tân Sơn Nhất, gần trưa tới Đà Nẵng. Tôi

làm theo, mọi việc thuận lợi vì nay tôi đã là một y sĩ trung úy, có vai vế, người trong nhà. Máy bay quân sự DC3 (Douglas DC3, Hoa Kỳ) hai động cơ cánh quạt, 2 người lái, băng ghế dài bằng sắt, dọc hai bên thân máy bay, ngồi ngang tuy không tiện nghi nhưng an toàn. Khác với Air Việt

Nam lúc đó đường SG-ĐN dùng thêm DC4 bốn động cơ cánh quạt, 4 phi hành đoàn, hành khách ngồi ghế đệm thoải mái êm ái hơn, có tiếp viên hàng không, có ăn uống nhưng phải mua vé máy bay cũng năm bảy trăm đến ngàn đồng một

lượt. Tôi nghe người ta khen máy bay DC4 bay rất đằm, tốt, an toàn; máy bay DC3 nhỏ hơn, có lóc chóc phần nào nhưng rất tốt, rất bền, dễ lái, dễ bảo trì, lên xuống dễ ở phi đạo ngắn.


4. Nhận Nhiệm Sở

Đà Nẵng năm 1957 tấp nập hơn năm 1954 do có đông dân di cư từ ngoài vĩ tuyến 17 vào song vẫn chưa lớn thêm nhiều.

Từ chợ Hàn xuống chợ Mới khoảng 2 cây số còn nhiều đám đất hoang, bụi bờ. Trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng bắt đầu khai giảng năm 1952, đến niên khóa 1958-59 mới mở lớp đệ tam (trung học gồm 7 năm bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhất.) BS. Tô Đình Đài YKHuế kể lại: “Sau

khi tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp (cuối lớp đệ tứ) ở Đà Nẵng năm 1956, tôi ra Huế vào học trường Quốc Học. Trong 3 năm học ở đây, tôi có cơ duyên
…”(BS.Tô Đình Đài ‘Tưởng nhớ…’ ykhoahuehaingoai.com.)


Đà Nẵng cho đến cuối thập kỹ 50 thế kỹ trước, dân số chỉ xấp xỉ hơn ½ dân số Huế, thủ phủ miền Trung. Bệnh viện, trường học… các công ốc đều nhỏ. Tuy nhiên tiềm năng kinh tế và chiến lược của vùng đất này to lớn. Đến năm 1965 Mỹ khởi sự đổ quân vào Việt Nam, bước đầu là một tiểu đoàn Thủy quân lụcchiến Hoa Kỳ đổ bộ vào bãi biển Đà Nẵng.

Thành phố này sôi động hẳn lên, kéo theo rất nhiều hệ quả về kinh tế, xã hội. Đà Nẵng xây cất thêm, tấp nập, phát triển nhanh chóng nhưng chỉ đặc biệt về các công trình quân sự.

Ra đến Đà Nẵng sáng hôm sau trong bộ đồ quân phục, tôi hỏi tìm đường đến sở quân y. BS. Tô Đình Cự là Y sĩ Thiếu tá Giám đốc sở tiếp tôi ân cần thân mật như đối với một đồng nghiệp đàn em. Về sau này tôi biết thêm là các bác sĩ T.Đ.

Cự, Lê Khắc Quyến, Phạm Biểu Tâm, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung … là đồng thời cùng học tại trường ĐHY Hà Nội.

BS.T.Đ. Cự khi được trưng tập vào quân đội thì mang ngay lon y sĩ thiếu tá, đó là tính theo thâm niên ngày ra trường.


Tôi tự giới thiệu và nói nguyện vọng ra Huế, không nói hẳn ở đâu ngoài Huế vì 2 lẽ; thứ nhất là tôi không biết ở Thừa Thiên Huế có những gì, đơn vị nào, thứ hai là tôi nghĩ ở đâu cũng vậy thôi vì khắp nước mọi nơi đều thái bình an lạc và dù sao tôi dự định gần 2 năm là làm đơn xin giải ngũ qui định.

BS. Cự vui vẻ bảo: “Anh sẽ ra Bệnh xá bệnh viện Huế. Ở đó đang có anh BS.Nguyễn Tường Vân.” Và ký ngay sự vụ lệnh cho tôi. Tôi hỏi thêm thì được cho biết đó là bệnh xá bệnh viện quân y Mang Cá. Thật thấy khỏe bụng, chẳng xin xỏ gì

nhiều mà được ở ngay tại thành phố. Mặt khác tôi cũng quen biết với BS.NTVân vì trước đó cùng là Nội Trú Bệnh viện. BS. Vân, người miền Nam học lớp trên tôi. Cũng là y sĩ Trung Úy nhưng anh trưng tập trước tôi và ra Huế trước. Cũng thấy lạ, BS. N.T. Vân người miền Nam lại xin bổ nhiệm ra Huế!


Nghỉ ngơi ở Đà Nẵng 2 ngày, sáng thứ năm tôi đáp xe đò chuyến sớm nhất ra Huế. Tôi mặc quân phục, nhưng không gắn phù hiệu 2 hoa mai trung úy khi đi đường, và chỉ xách một ba-lô nhẹ. Tôi dự tính sau khi trình diện nhiệm sở, thu

xếp chỗ trọ, đến thăm nhà cha mẹ vợ tương lai rồi sẽ trở lại Đà Nẵng cuối tuần để mang nốt hành lý ra Huế. Tôi cũng không loại bỏ khả năng có thể ở ngay trong bệnh viện tạm một thời gian.


Đến Huế, tôi đi xích lô qua cửa Thượng Tứ, thẳng đường Cầu Kho (đường Đinh Tiên Hoàng) vào cổng trại Mang Cá. Qua cổng đi tiếp bên tay trái nhiều dãy nhà ngói dài, bên tay phải bãi cỏ rộng, bụi bờ; đến gần sát tường Thành nội phía bắc, quẹo phải vào cổng bệnh viện, 2 bên đường đều có dãy nhà trông đẹp mắt.

Đến nơi đã thấy BS.N.T. Vân, y sĩ trưởng bệnh xá bệnh viện (infirmerie - hôpital) từ văn phòng bước ra bắt tay vui vẻ.

Nhân viên văn phòng đứng dậy chào mừng.


Chúng tôi cùng đi thăm các phòng trại bệnh, kho thuốc, phòng mổ, khu xét nghiệm…tất cả đều rộng rãi khang trang thoáng mát. Một số trại bệnh được xây cất trên bờ thành.

Đứng trên thành trông qua hào sâu, bên kia là địa phận Bao Vinh. Có một con đường dài dọc theo hào, sau này tôi biết đó là đường Tăng Bạt Hổ chạy bọc mặt bắc của kinh thành Huế.


Ở bệnh xá bệnh viện bước qua, không có giới hạn ngăn cách là doanh trại của Đại Đội 1 Quân Y, thuộc Sư Đoàn 1 Bộ binh, cũng rộng bằng 1/2 bệnh viện. Hồi đó chỉ có đại đội quân y, chưa có tiểu đoàn quân y. BS. Phạm Văn Giàu, Y sĩ Trung úy

trưng tập là Đại đội trưởng. BS.Giàu người miền nam, học ở Pháp về, được trưng tập vào quân đội, ra Huế. Trong đại đội quân y 1 còn có Nha sĩ Trung úy Đoàn Ân và Dược sĩ Trung Úy Lưu Son cả 2 đều là người Huế. Từ đây quẹo phải, đi hết đường quẹo trái ra cổng cửa Trài.


5. Thành Mang Cá Lớn, Nhỏ

*Mang Cá Lớn - Vùng này trong đó tọa lạc bệnh xá bệnh viện, Đại đội quân y 1 … và cả bản doanh Sư đoàn 1 được gọi là Mang Cá Lớn, nằm trong nội vi kinh thành Huế tại góc đông bắc, có cửa Trài tức là cửa Đông Bắc đi ra.

Năm 1986 Toàn quyền Pháp Paul Bert ép buộc Triều Đình Huế (Vua Đồng Khánh) nhường khu đất này để họ xây dựng thêm doanh trại, bệnh xá, nhà nguyện…cho nên nhà cửa trong khu Mang Cá lớn được xây kiên cố. Pháp còn còn xây một bức tường thành cao bằng đá và gạch để ngăn cách phần “tô giới” Mang Cá Lớn mà họ thụ đắc trong Thành Nội.

*Mang Cá Nhỏ - hoặc Trấn Bình Đài cũng ở góc đông bắc, là một thành phụ nhỏ được xây áp vào mặt ngoài Thành nội, có hào sâu ngăn cách, có cửa Trấn Bình Môn thông với Mang Cá Lớn và cửa Trường Định Môn, phía nam thông ra ngoài gần cửa Trài. Mang Cá Nhỏ, hoàn toàn nằm ngoài Thành Nội,

được triều Nguyễn xây như một pháo đài hình 5 cạnh, mỗi cạnh dài khoảng 200 m. Trong Trấn Bình Đài có xây nhiều giàn đại pháo…và có 2 cái hồ nằm theo hình chữ V trông giống như 2 mang cá nên có tên gọi ‘mang cá’ trong nhân

gian. Pháp chiếm Trấn Bình đài (Mang Cá Nhỏ) sau Hiệp ước bảo hộ Patenôtre năm Giáp Thân 1884. Qua năm 1886 Pháp giành thêm Mang Cá Lớn là đất trong thành, kề với Mang Cá

Nhỏ và lớn hơn khoảng hai ba lần (do vậy có tên Mang Cá Lớn.) Cả 2 Mang Cá diện tích ước chừng 1/20 toàn bộ Thành nội. Hiện nay Mang Cá Lớn là doanh trại quân đội nhân dân và Viện Quân y 268.


Mặc dầu có cơ sở rất tốt song ở bệnh viện Mang Cá số lượng bệnh nhân hồi đó điều trị không nhiều (dưới 100) do đó qui chế là một Bệnh xá bệnh viện. Các nơi khác có tình thế khác song tiện nghi không sánh được BV. Mang Cá. Lấy ví dụ một bệnh viện Dã chiến:

BS. Phùng Hữu Chí thuộc ĐHYK Huế kể lại: “Vào cuối năm 1962 tôi đã làm Y sĩ Trung úy tại bệnh viện 2 Dã chiến (nói là bệnh viện chứ thực ra chỉ là vài căn nhà lá trên một bãi đất trống) ở trong một khu rừng ở ngoại ô Kontum thì…” (P.H. Chí ‘Một kỷ niệm…’ ĐS. YKH Hải ngoại 2006, tr.112.)

Ngay cả Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng các trại bệnh cũng chưa phải là lý tưởng:

T.Y.V. Duy Tân sát phi trường, doanh trại bao gồm các nhà cũ kỹ nguyên là một phần của cư xá không quân quân đội viễn chinh Pháp, được tu sửa cải biến thành một quân y viện.

Thiếu mặt bằng nên khi có nhu cầu bành trướng, các công trình về sau thường chắp vá không theo một đồ án nhất định nào. Do vậy ngoại cảnh trông có vẻ ngổn ngang và sự di chuyển thương binh giữa các phòng trại gặp nhiều trở ngại.

Các phòng giải phẫu, săn sóc đặc biệt, các phòng trại vừa cũ vừa nhỏ hẹp không xứng với tầm vóc to lớn về số giường bệnh và công lao điều trị
…” (Phạm Viết Tú, Quân Y hiện dịch khoá 5, ‘T.Y.V. Duy Tân’; nguồn mạng.)


Cuối năm 1958 Bệnh xá bệnh viện Mang Cá (infirmerie – hôpital) được cải tên thành “Chi nhánh Tổng Y viện Duy Tân” và ít năm sau đó, lúc tôi đã giải ngũ, được tăng thêm số giường bệnh, nâng cấp thành Quân Y viện Nguyễn Tri

Phương (hôpital militaire) nằm kề cận bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh. Tôi không rõ bệnh viện sau này có xây cất thêm gì không vì khu Mang Cá lớn còn đất đai bỏ trống rất nhiều.


Thời gian từ cuối năm 1962 tình hình chiến cuộc bắt đầu sôi động. Sư đoàn 1 và lực lượng Dù gia tăng chiến dịch hành quân bình định lãnh thổ do vậy quân y viện bắt đầu có

thương binh lai rai thật sự. Chiến trường càng khốc liệt, năm 1971 trong trận Hạ Lào, hành quân Lam sơn 719 (2/1971) Q.Y.V. Nguyễn Tri Phương phải lập thêm các trạm tiền phương tại Đông Hà, Quảng Trị để tiếp nhận thương binh.

Lúc BV N.T. Phương quá tải, Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng phải nhận trực tiếp thương binh từ tiền tuyến chở trực thăng về.


Ban giảng huấn trường Đại học Y khoa Huế có nhiều vị đã từng phục vụ tại bệnh viện Mang Cá với cấp bậc Y sĩ trung úy. Thoạt tiên tôi về đó khi còn danh xưng là bệnh xá bệnh viện Mang Cá. Đến giai đoạn chi nhánh T.Y.V. Duy Tân rồi Quân y viện Nguyễn Tri Phương thì có các bác sĩ Lê Văn

Bách, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Văn Đệ, Lê Xuân Công …mà sẽ được biệt phái qua trường ĐHYK Huế vào các năm 1962, 1963, 1964, 1969?... Một số bác sĩ tốt nghiệp từ ĐHYK Huế

cũng đã từng phục vụ tại quân y viện Nguyễn Tri Phương chẳng hạn BS. Tôn Thất Hứa YK1, BS. Lê Văn Danh YK2, BS. Phan Tiên Thái YK5, hiện là đương kim chủ tịch hội Ái Hữu ĐHYK Huế Hải Ngoại.


Trong biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế bị Việt Cọng chiếm trọn trong gần một tháng trời, song vùng Mang Cá lớn và gần đó lại vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của quân đội

quốc gia. Quân y viện Nguyễn Tri Phương vẫn hoạt động chăm sóc quân nhân cùng thường dân bị thương. BS. Nguyễn Văn Tự thuộc ĐHYK Huế đã được đưa vào Quân y viện N.T. Phương để cùng làm việc với các BS. Lê Xuân Công, LêVăn Tập…là bác sĩ giải phẫu của quân y viện.
Trong thời gian

phục vụ tại Quân y viện trong biến cố Mậu Thân tôi đã nghe nhiều về sự chiến đấu kiên cường của các binh chủng của quân đội quốc gia, sự gan dạ của các phi công trực thăng vượt hàng rào lửa đạn để hạ cánh trong Quân y viện. Tại

Quân y viện tinh thần phục vụ của các cấp rất cao, bình tĩnh, không lo sợ, và tôi nhận thấy không có vấn đề khác biệt trong đối xử giữa “Bạn” và “Thù” khi cấp cứu hay điều trị
…” (N.V. Tự ‘Những Gì Còn Nhớ.’ Kỷ Yếu kỷ niệm 50 năm thành lập trường,’ YKH hải ngoại 2006.)


Về phần tôi trong biến cố Tết Mậu Thân tôi đang học ở Mỹ.

(Sơ Đồ Kinh Thành Huế. Kinh thành Huế trổ mặt tiền hướng nam, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành rộng 5,2 km2, có

hào sâu ngăn cách và có sông bao bọc tứ phía: sông Hương phía nam với cầu Trường Tiền, sông đào Kẻ Vạn phía tây, sông đào Cửa Hậu phía bắc, sông đào Đông Ba phía đông có cầu Đông Ba và bến thuyền san sát.) Thành Mang Cá nằm ở góc đông bắc.



Lê Bá Vận
Y Khoa Huế Hải Ngoai

 

Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=33000

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét