Tuyệt mật sách lược Cộng sản VN
ĐẢNG VIÊN- SINH TỬ PHÙ CSVN...!!
Đảng cộng sản VN thoát thai và chịu ảnh hưởng tư tưởng ngàn đời dân tộc Á Đông Trung Hoa theo sách lược ' gồm thu lục quốc ', theo Chiến quốc Xuân thu - Tần Thủy Hoàng..Suốt 43 năm qua,kể từ 30-4-1975, Miền Nam VNCH bị " Cộng sản hóa "- Biết rằng, lương tri dân tộc... là "Mất nước VN ". Nhưng người dân Việt Nam đều bất lực đứng nhìn...và phó thác cho định mệnh, do siêu cường, đế quốc định đoạt VN.
Là vì người dân Việt cả Nam, lẫn Bắc việt Hà Nội, đều bị nô quyền Thái Thú CsVN cấy đạo bùa chú " Sinh Tử phù "bán nước Việt Nam... Và hô biến, dân tộc VN này, thành kẻ " Đồng phạm hay đồng lõa " bán nước VN. Họ mang cả di dân miền Bắc, theo đoàn quân chiếng thắng của họ vào Nam, cượp phá và chiếm đất đai, ruộng vườn, nhà của và tài sản của dân quân, cán chính VNCH. Bắt sĩ quan tù binh cải tạo vào tù dộng sản ,và duổi gia đình vợ con cải tạo đi vào ' vùng kinh tế mới ' để cán bộ VC chiếm chiếm nhà lầu, xe hơi... và cưởng bức, hiếp dân vợ con ngụy...Làm đa số quân dân ,cán chính VNCH phải tháo chạy, tìm đường vượt biển, vượt biên tìm Tự do dưới lòng biển lạnh...!!-Cả thế giới bồi hồi xúc động, thương cảm cho thuyền nhân tỵ nan công sản VN.
Nay 43 năm, là thời gian dài quá sức chịu đựng của cộng đồng Việt tỵ nạn công sản, thì các chính phủ như Hoa Kỳ của Donald Trump nhận lãnh trách nhiệm...cùng các nước ký HĐ Paris 1973 và công pháp quốc tế LHQ, phải đúng ra phục hồi tính chính danh thể chế VNCH tại diễn đàn LHQ và đưa VNCH trở về Việt Nam để tiếp tục thi hành HĐ hòa bình Paris/VNCH/1973- CSBV/HN , trắng trợn vi phạm cướp Miền Nam VNCH.
Chúng tôi, là nhưng cựu chiến binh QL.VNCH cỏn sống và' kẹt lại ' trong nước...đang mong chờ người dân, là nận nhân cộng sản trong nước đồng loạt đứng lên- " Tổng Biểu tình " để hổ trơ cộng đồng yêu nước Hải ngoại...và LHQ biết chúng tôi sẵn sàng đúng dậy từ noi té ngã quê hương!!. Nhưng rất thất vọng, vì không ai đồng lòng yêu nước...nên chúng tôi phải phải nương vào đám " Dân oan " mà biểu tình, đòi lại đất đai nhà cửa bị chinh quyền CS cướp giật lại vói lý do- thu hồi nhà đất do chính quyền cộng sản gao cho giữ hộ khi vào ' phỏng dái' miền Nam, chớ chúng tôi dã chuyên chính vô sản từ lâu, và không còn vì để mất...để dòi?!. Lạ mội điều, khi nhà nước giải quyết được đơn khiếu kiện cho ai, thì họ rói rít: " Cảm ơn Bác Hồ ...?! "- theo bà Lê Hiền Đức- Cán bộ cộng sản nói-Thật sự người dân ' ăn theo cộng sản ', họ không có lòng tự trọng yêu nước?!. Và khi người dân Sài gòn- Hậu Duệ VNCH- biểu tình bi CAcsVN ví bắt... thì họ chạy trốn...vào nhà dân, có mấy của hàng shoping mở của, thì họ đuổi mình ra, và kêu CA nậtt vụ tới bắt đi...Té ra là cán bộ tư bà bản đỏ từ Miền Bắc Hà Nội vào làm làm chủ hầu hết các của hàng shoping khu vục Sài Gòn, còn dân cu li người Nam kỳ xua cũ, chỉ là người chạy xe ba gác, xích lô , bán vé số,đờn ca hát dạo
Hiện tình, dân Sài Gòn Miền Nam hiện nay rất sợ biểu tình... và tâm trạng của họ bị nung nấu bỏi quê hương mất nước không còn bao lâu nữa, và 2 năm tới đây 2020, Việt Nam sẽ là khu tự trị của Trung cộng, theo Hiêp ước Thành Đô 1990 của bọn Thái Thú ĐCSVN bàn giao cho Tàu cộng sản. Và dù thế nào đi nữa...Người dân csVN vẫn không chịu đứng lên giành lại độc lập tự do đã mất,,,Đem VNCH trở lai cứu quê hương, dân tộc sắp diệt vong và xóa sổ Việt Nam trên bản đồ thế giơi. Là vì thành phần 3,6 triệu Đảng viên Cs-; con ông, cháu cha, tư bản đỏ lãnh đạo csVN, và cùng cái nhóm phe lơi ích tham nhũng MTGPMNVN, đã bị Tàu công TQ và Đảng Thai thú csVN cấy Sinh Tử Phù, là đao bùa, với cái tên " Đông Phạm- Đông lõa bán nước VN " trước hội bàn LHQ nay mai, khi Hội Đồng Bảo An LHQ phục hồi tính chích danh VNCH tại Diễn Đàn LHQ.-
Trân trọng kính chào
Huỳnh Mai St.8872
Đại Úy Bộ TTM/TCQH/QL.VNCH
Cựu tù binh cải tạo tù cộng sảnVN
5 lý do chính để có thể mở lại Hiệp Định Pari 1973 và đưa Việt Nam Cộng Hòa trở lại
https://youtu.be/xznMzoj18-Y
Mỹ tái xét Hiệp định Paris để ngăn chặn mật ước Thành Đô do Việt Cộng ký với với Trung Cộng?
https://youtu.be/Lgd7-dIQeCs
ĐCS VN lo sợ khi công cuộc vận động mở lại Hiệp Đinh Pari 1973 đã lan rộng
https://youtu.be/TSX0liD-xAM
Giải pháp nào cho cờ Vàng và cờ Đỏ
Trong lịch sử chính trị Việt Nam, đảng CSVN là một đảng chính trị giữ vị trí hàng đầu, về cả chiều dầy lịch sử, thành tích và quy mô. Do cơ chế độc đảng, với số lượng trên 3 triệu đảng viên chiếm khoảng 3% dân số, có mặt ở mọi nơi, trong mọi tổ chức của đời sống xã hội dễ tạo cho người ta cảm giác đảng CSVN có một sức mạnh vô địch. Sự thật sức mạnh của đảng CSVN hiện nay thế nào, thông tín viên Anh Vũ đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, một cựu cán bộ an ninh, hiện là đảng viên đảng CSVN, hiện đang sống ở Sài gòn về vấn đề này.
Anh Vũ: Thưa Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, hiện nay số lượng đảng viên đảng CS Việt Nam là khoảng 3,6 triệu người. Nhưng trên thực tế, có khoảng 50% là các đảng viên cao tuổi đã nghỉ hưu và một số đông đảng viên trên danh nghĩa đã không tham gia sinh hoạt đảng sau khi chuyển công tác. Số đảng viên không chức quyền thì chả ai quan tâm đến việc bảo vệ đảng, duy chỉ có số còn lại có chức, có quyền hoặc lớp trẻ trong lực lượng vũ trang bị nhồi sọ thì mới có ý thức về việc này. Ông đánh giá lực lượng đảng viên có ý thức bảo vệ đảng là khoảng bao nhiêu người?
TS Phạm Chí Dũng: Tất nhiên, không phải ai cũng mang ý thức bảo vệ Đảng với cùng một động cơ. Mà có những động lực khác nhau, thậm chí khác biệt hoàn toàn giữa những người được coi là cùng chung một chiến hào.
Từ nhiều năm qua, tôi thấy báo cáo của các cơ quan Đảng thường chỉ thừa nhận một số đảng viên nào đó là “không tốt”. Nhưng những năm gần đây, trước tình hình tham nhũng đã đến mức quá manh động và trầm trọng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải cảm thán là tham nhũng và suy thoái đạo đức có thể “đe dọa đến sự tồn vong của chế độ”. Sau đó các báo cáo của Đảng mới chuyển dần từ “một bộ phận” đến “một bộ phận không nhỏ” đối với đối tượng đảng viên biến chất.
Chỉ vài năm gần đây, có báo cáo của một số cơ quan Đảng thừa nhận khoảng 30% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng.
Ở một góc độ khác, nhận định của giới quan sát và phân tích chính trị độc lập là có phần trái ngược và khác biệt lớn so với các báo cáo của đảng. Tức là có đến ít nhất 50% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng, 30% đảng viên đã nhận thức về hiện trạng quá nhiều bất cập, mâu thuẫn và cả xung đột xã hội. Về việc lãnh đạo đảng xa rời thực tế, yếu kém trong công tác điều hành chính quyền - tỷ lệ này phải lên đến ít nhất 70% theo dư luận.
Hiện chỉ còn khoảng 30% đảng viên thuộc về “nhóm thủ cựu” (tức nhóm cách mạng lão thành, nhóm giáo điều, nhóm đặc quyền đặc lợi, nhóm kém năng lực không muốn ra khỏi biên chế…). Khá chua chát nhưng lại cần phải trần thuật một cách hài hước, điều được xem là “một bộ phận không nhỏ” của những nhóm này lại mang tâm lý “còn đảng còn mình”.
Đảng CS Trung Quốc - cho rằng chỉ cần giữ lại 30 triệu tấm thẻ đảng trong tổng số 80 triệu đảng viên như hiện nay. Như vậy, có thể xem rằng Trung Quốc đã gián tiếp thừa nhận trên thực tế chỉ có 30/80 triệu, chiếm khoảng 37%, là đảng viên thuộc loại “trung thành”.
Trung Quốc và Việt Nam lại có nhiều đặc thù giống nhau, đặc biệt là nền chính trị và tâm lý xã hội.
Qua đó có thể thấy, tỷ lệ trung thành với đảng ở Việt Nam vào khoảng 30% trên tổng số đảng viên hiện thời, tức chỉ khoảng 1,2 triệu người.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tỷ lệ 30% trung thành với đảng đã được giới quan sát độc lập ước tính từ những năm 2006-2007, tới nay con số đó có thể thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn không hề có một số liệu thống kê chính thức nào từ phía các cơ quan đảng về tình trạng đảng viên xa rời đảng, hay dân gian còn gọi là “thoái đảng”.
TS Phạm Chí Dũng: Trong các báo cáo của đảng, thường tổng kết về biểu hiện 5 suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên là:
Thứ nhất là suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi.
Thứ hai là bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, đó là chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy lợi và chạy tội cho bản thân cho người thân.
Thứ ba, nói nhiều làm ít; nói nhưng không làm.
Thứ tư, quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật, việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm chí sai lệch với mức “vô trách nhiệm”. Ví dụ vụ tham nhũng và tha hóa đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên ở PMU 18 nghiêm trọng vậy mà Phó bí thư đảng ủy cơ quan Bộ Giao thông vận tải vẫn khẳng định: “Trước khi bị khởi tố, họ đều là đảng viên tốt”.
Thứ năm, tham nhũng, nhũng nhiễu dân gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, không chỉ làm thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, của nhân dân mà còn dẫn tới sự hư hỏng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên.
Đảng cần bổ sung hai vấn đề đang diễn ra trong đảng và chính quyền, đó là sự lộng hành của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu.
Chẳng hạn, cho đến thời điểm đổ vỡ, Vinashin có 6.000 đảng viên nhưng lại nợ đến 80.000 tỷ đồng, tức mỗi đảng viên nợ 13,3 tỷ đồng, tương đương 665.000 USD, gấp hơn 800 lần nợ công trên đầu người ở Việt Nam là 800 USD. So sánh như thế để mọi người thấy rằng những người được gọi là “công bộc của dân” có thể mang tính đại diện đến thế nào về đặc quyền, đặc lợi và tất nhiên không thể thiếu cái bị gọi là “nghiệp chướng”.
Dẫn chứng trên cũng chứng minh một nghịch lý về chất lượng đảng viên đương thời: không phải mọi đảng viên đều cùng chung một “dòng máu”, không phải đảng viên nào cũng mang tư tưởng bảo vệ đảng xuất phát từ một động cơ, cho dù rằng trên danh nghĩa toàn bộ 3,6 triệu đảng viên đều cùng chung một chiến hào.
TS Phạm Chí Dũng: Đây là vấn đề lớn nhất, nóng nhất ở Việt Nam hiện nay. Đang có một sự phân hóa rất lớn trong nội bộ Đảng, thể hiện ít nhất qua việc những đảng viên thuộc Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu, giữa nhóm doanh nghiệp và giới chức chính quyền địa phương, đã cấu kết chặt chẽ với nhau để sẵn lòng bóc lột nông dân và phủ nhận chính những đồng chí đáng tuổi cha mẹ của họ.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
Từ những năm 2006-2007 đến nay, khoảng 70% trong tổng số đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai. Trong số đó, khoảng 70% đơn thứ khiếu tố lại chỉ mặt điểm tên nhiều vụ việc, nhiều cán bộ địa phương ăn chặn tiền đền bù.
Khi bị thu hồi đất, người dân không chỉ phải chịu mức bồi thường thấp mà còn mất nguồn thu nhập thường xuyên, thất nghiệp, sinh hoạt đảo lộn (giao thông, học hành, y tế…), không có chỗ tái định cư. Trên hết, những trường hợp dân oan đã mất niềm tin vào chế độ…
Nhưng hậu quả ghê gớm mà Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu gây ra không chỉ đè lên đầu dân thường mà còn áp chế với cả những cán bộ đảng viên ngay trong nội bộ.
Theo tôi những vấn đề đó là vấn đề đáng báo động, có ảnh hưởng đến ý chí, tư tưởng của các đảng viên và sự tồn vong của đảng, mà hậu quả cuối cùng là đảng CS Việt Nam cũng khó tránh khỏi đổ vỡ. Do vậy, đảng cần phải nhanh chóng xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trước khi quá muộn.
Anh Vũ: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng đã dành cho đài chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Phi Cảnh
2018-05-04
2018-05-04
Cờ Vàng hay cờ Đỏ là chủ đề gây tranh cãi bao năm qua, đó không chỉ
là sự tranh cãi giữa những người Cộng hòa và Cộng sản, mà còn là sự bất
đồng trong chính những người đấu tranh dân chủ. Tình trạng này bao giờ
mới chấm dứt?
Ban đầu thì những nhà dân chủ chỉ đơn thuần chỉ trích lãnh đạo hiện tại, cho rằng họ suy thoái đạo đức, tham nhũng, đi chệch hướng so với những gì mà thế hệ lãnh đạo đi trước mong muốn. Có nghĩa là lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa vẫn tốt đẹp, những lãnh tụ như Hồ Chí Minh vẫn vĩ đại, và vì thế mà lá cờ đỏ sao vàng vẫn thiêng liêng. Có người còn giặt sạch sẽ, gấp phẳng phiu lá cờ để mang đi biểu tình chống Trung Quốc.
Nhưng mà dần dần rồi người ta hiểu thêm được nhiều thứ.
Cờ Đỏ sao vàng hóa ra không phải cờ dân tộc như mọi người vẫn nghĩ, nó giống đến 99% cờ của tỉnh Phúc Kiến – nơi có thể coi như điểm khởi đầu của Cộng sản Trung Quốc. Nhìn cờ Phúc Kiến khiến cho cảm tình với cờ Đỏ sao vàng giảm đi ít nhất 1 nửa.
Rồi cùng với thời gian, hàng bao nhiêu cái xấu xa được tìm hiểu. Rồi Nhà nước Việt Nam lập nên những Hội cờ Đỏ đi đàn áp tôn giáo, xỉ nhục những người lên tiếng vì chủ quyền đất nước… Với từng ấy điều xảy ra, ngày trước dẫu có yêu cờ Đỏ mấy thì bây giờ nhìn vào cũng thấy không đẹp nữa.
Cho dù lá cờ ấy có tung bay khi một người Việt nào đó giành được một thành tựu ở quốc tế, Nhà nước Việt Nam Cộng sản cũng chỉ tìm cách khuếch trương, tung hô quá đà với mục đích cho người dân và những nhà đấu tranh dân chủ thấy rằng: đất nước Việt Nam vẫn tươi đẹp lắm, đáng tự hào lắm, các anh đừng có quấy phá, chê bai làm gì.
Xin khẳng định đó đều là những thành tích nhỏ nhoi và phải lâu lắm mới có 1 lần, nó không giúp ích được gì nhiều mà còn làm che giấu thực trạng đáng báo động của đất nước với bao nhiêu vấn đề cấp bách cần phải quan tâm.
Các quốc gia dân chủ, tiến bộ hơn cũng có vấn đề, nhưng mức độ của nó thấp hơn, không đến mức “chết người”, không vô lý đến mức khủng khiếp. Người ta có lúc đấu tranh với các vấn đề xã hội, có lúc ăn mừng thành tựu, thì việc ăn mừng ấy là bình thường. Còn mình chẳng quan tâm đến những vấn đề ngay sát sườn tác động trực tiếp đến miếng cơm manh áo mà lại đi tung hô quá đà, tự hào mù quáng với thứ mà mình chẳng được hưởng thì đúng là kỳ cục.
Cứ mỗi một thành tích nhỏ bé ấy, Đảng thổi phồng lên, cho tung hô với cờ Đỏ ru ngủ người dân dù đất nước ngày càng tụt hậu. Việt Nam hiện nay đã thua cả Lào và Campuchia về năng lực cạnh tranh và trình độ sản xuất; thua Campuchia về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, thua về Công nghiệp ô tô và thua cả những lĩnh vực nông nghiệp có thế mạnh như lúa gạo.
Chúng ta từ trước tới nay luôn “tự hào” là dẫn đầu nhóm 4 nước nghèo nhất Asean là Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar; nhưng nay đã bị Lào và Campuchia vượt qua nhiều mặt, nếu cứ tiếp tục tình hình này thì sẽ còn thua cả Myanmar.
Cái công lao “thống nhất đất nước” đến nay cho thấy không còn đúng nữa. Tại sao không nghĩ rằng đó là sự mở rộng cái nghèo đói cho cả 2 miền vốn chẳng đem lại lợi lộc gì ngoài bao nhiêu người chết?
Kết quả ấy chỉ đơn thuần là chiến thắng của Chủ nghĩa Cộng sản, hay nói đúng hơn là của một nhóm lãnh đạo Cộng sản. Nhóm người có chức có quyền ấy thắng, là vì sau khi cướp được chính quyền, họ có thể dễ dàng trở thành triệu phú, tỷ phú Đô la dễ như bỡn; còn phần thua thuộc về cả dân tộc, cả đất nước.
Người Đức có cách thống nhất mà không tốn một giọt máu. Mà nếu không mang Chủ nghĩa Cộng sản về Việt Nam thì còn độc lập dễ hơn nhiều, vì các nước thực dân đến một thời điểm đều trao trả thuộc địa. Hồng Kông rồi cũng được trả về cho Trung Quốc đấy thôi, nhưng dân Hồng Kông có lẽ chẳng bao giờ được tự do như thời còn làm thuộc địa nữa. Và một điều quan trọng: Hồng Kông giàu có văn minh là do thực dân Anh hay do Trung Quốc?
Hãy nhìn người Mỹ hòa giải như thế nào. Khi tướng Lee - chỉ huy quân đội miền Nam quyết định đầu hàng, vị tư lệnh miền Bắc là tướng Grant đã nghiêm cấm các sĩ quan và binh lính không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với vị tướng miền Nam bại trận. Tướng Lee đến nơi hẹn trong tiếng kèn chào đón của lính miền Bắc.
Hai người nói chuyện thân mật về kỷ niệm từng sát cánh thời chiến tranh với Mexico. Tướng Grant (bên thắng) ngại ngùng không dám hỏi tướng Lee về quyết định đầu hàng. Thành ra câu chuyện kéo dài, đến nỗi tướng Lee (bên bại) sốt ruột, phải chủ động nói: mục đích buổi gặp gỡ ngày hôm nay là bàn về việc đầu hàng.
Tướng Grant (bên thắng) chủ động viết những điều khoản và trao cho tướng Lee, trong đó cam kết binh lính miền Nam không bị coi là phản quốc và không phải ở tù; chính phủ coi binh lính miền Nam là những công dân bình thường nếu họ chấp hành tốt luật lệ. Sau đó ông cũng chấp nhận cho bính lính miền Nam được đem lừa ngựa về nhà để giúp gia đình.
Khi quân miền Bắc định bắn đại pháo ăn mừng, tướng Grant ra lệnh ngưng ngay lập tức. Ông nói: “Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta”. Ông cho rằng cách tốt đẹp nhất để bày tỏ niềm vui của miền Bắc là không vui mừng trước thất bại của miền Nam.
Sau chiến tranh, có nghĩa trang chung cho binh lính hai miền, cờ miền Nam vẫn tung bay trên nước Mỹ. Và còn nhiều tình tiết cảm động nữa. Đáng chú ý, miền Bắc nước Mỹ - phe thắng trận, phe muốn xóa bỏ chế độ nô lệ, là phe có nhiều chính nghĩa hơn nhưng lại chủ động nhún nhường.
Nó trái ngược hoàn toàn với cách đối xử của Bắc Việt với Nam Việt sau 1975: hàng trăm ngàn người bị bắt đi tù khổ sai với mỹ từ “học tập cải tạo”; cả triệu người bị tịch thu tài sản, bắt đi vùng Kinh tế mới; đó là chưa kể những nghĩa trang của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị cư xử tàn tệ, còn cờ Vàng đương nhiên là bị cấm.
Thế cho nên những trường hợp nhắn nhủ với người Việt tị nạn rằng: “Ở đâu cũng là người Việt Nam, phải yêu thương lấy nhau, không nên hận thù”, thì đấy là những người chẳng hiểu gì cả. Họ cầm cờ Đỏ sang Mỹ “hòa giải” trong khi đáng lẽ phải cầm cờ Vàng ra Hà Nội mới đúng. Họ nói đồng bào hải ngoại đừng “thù hằn” trong khi người ở trong nước ai ai cũng được dạy phải căm thù “Mỹ - Ngụy”. Đã thắng rồi mà còn căm thù, vậy mà bắt những người bị tan cửa nát nhà, chết trên biển cả phải yêu quý mình sao?
Quân miền Bắc nước Mỹ nhiều lẽ phải hơn mà còn nhún nhường để hòa giải, còn Bắc Việt đã sai mà lại tìm mọi cách nhục mạ người bị hại. Hòa giải phải xuất phát từ bên đã làm việc không đúng, phải đi xin lỗi người mình đã gây hại chứ không thể nào xuất phát từ bên bị hại. Nhất là bên sai nhưng lại suốt ngày ca ngợi việc làm sai ấy thì làm sao xóa đi được nỗi đau.
Xin khẳng định là: Nếu không phân biệt được đâu là bên chính nghĩa sẽ không thể có sự hòa hợp dân tộc, không thể có giải pháp dung hòa. Dung hòa thế nào, rằng “chúng tôi đã có công thống nhất đất nước, các anh hãy quên chuyện cũ đi, quên cờ Vàng đi để yêu cờ Đỏ rồi đừng thù hằn nữa” chăng?
Chỉ khi nào bên Cộng sản thừa nhận rằng “chúng tôi đã dại dột làm anh lính xung kích cho Nga và Trung Quốc khiến bao người Việt chết oan để rồi đất nước nghèo nàn và lại bước vào một thời kỳ Bắc thuộc mới. Chính chúng tôi hiện nay cũng dị ứng với cờ Đỏ vì gợi nhớ lại thứ chủ nghĩa quái thai và mang ý nghĩa là 1 tỉnh của Trung Quốc. Mãi sau này chúng tôi mới biết được rằng cờ Vàng là cờ dân tộc có từ thời vua Thành Thái. Nay chúng tôi đồng ý đổi tên nước thành Việt Nam Cộng hòa, xóa bỏ chế độ độc đảng, đưa đất nước đi theo con đường tự do dân chủ. Chỉ xin giữ lại bài Tiến Quân Ca làm quốc ca (có thể thay lời), vì nhạc sỹ Văn Cao thật ra sau này cũng chẳng ưa gì Cộng sản và bị đóng dấu phản động”, thì khi đó người Việt tị nạn mới có thể bỏ qua hết mọi chuyện để chung tay xây dựng đất nước.
Nhưng điều này chắc chắn chẳng bao giờ xảy ra, nếu không tin, hãy nhìn cái cách họ ăn mừng ngày 30/4 thì rõ.
Nguồn:https://www.rfa.org/vietnamese/news/ReadersOpinions/how-to-reconcile-05042018104504.html
Hiểu biết là một quá trình
Việc bị nhồi sọ từ bé khiến cho ác cảm về cờ Vàng rất khó phai nhạt. Người Cộng sản tô vẽ rằng “Cờ ba sọc” là biểu tượng của cái ác. Vì thế mà ngay chính những nhà hoạt động dân chủ - những nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản cũng ngượng ngùng khi được trao cho lá cờ này.Ban đầu thì những nhà dân chủ chỉ đơn thuần chỉ trích lãnh đạo hiện tại, cho rằng họ suy thoái đạo đức, tham nhũng, đi chệch hướng so với những gì mà thế hệ lãnh đạo đi trước mong muốn. Có nghĩa là lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa vẫn tốt đẹp, những lãnh tụ như Hồ Chí Minh vẫn vĩ đại, và vì thế mà lá cờ đỏ sao vàng vẫn thiêng liêng. Có người còn giặt sạch sẽ, gấp phẳng phiu lá cờ để mang đi biểu tình chống Trung Quốc.
Nhưng mà dần dần rồi người ta hiểu thêm được nhiều thứ.
Cờ Đỏ sao vàng hóa ra không phải cờ dân tộc như mọi người vẫn nghĩ, nó giống đến 99% cờ của tỉnh Phúc Kiến – nơi có thể coi như điểm khởi đầu của Cộng sản Trung Quốc. Nhìn cờ Phúc Kiến khiến cho cảm tình với cờ Đỏ sao vàng giảm đi ít nhất 1 nửa.
Rồi cùng với thời gian, hàng bao nhiêu cái xấu xa được tìm hiểu. Rồi Nhà nước Việt Nam lập nên những Hội cờ Đỏ đi đàn áp tôn giáo, xỉ nhục những người lên tiếng vì chủ quyền đất nước… Với từng ấy điều xảy ra, ngày trước dẫu có yêu cờ Đỏ mấy thì bây giờ nhìn vào cũng thấy không đẹp nữa.
Cho dù lá cờ ấy có tung bay khi một người Việt nào đó giành được một thành tựu ở quốc tế, Nhà nước Việt Nam Cộng sản cũng chỉ tìm cách khuếch trương, tung hô quá đà với mục đích cho người dân và những nhà đấu tranh dân chủ thấy rằng: đất nước Việt Nam vẫn tươi đẹp lắm, đáng tự hào lắm, các anh đừng có quấy phá, chê bai làm gì.
Xin khẳng định đó đều là những thành tích nhỏ nhoi và phải lâu lắm mới có 1 lần, nó không giúp ích được gì nhiều mà còn làm che giấu thực trạng đáng báo động của đất nước với bao nhiêu vấn đề cấp bách cần phải quan tâm.
Các quốc gia dân chủ, tiến bộ hơn cũng có vấn đề, nhưng mức độ của nó thấp hơn, không đến mức “chết người”, không vô lý đến mức khủng khiếp. Người ta có lúc đấu tranh với các vấn đề xã hội, có lúc ăn mừng thành tựu, thì việc ăn mừng ấy là bình thường. Còn mình chẳng quan tâm đến những vấn đề ngay sát sườn tác động trực tiếp đến miếng cơm manh áo mà lại đi tung hô quá đà, tự hào mù quáng với thứ mà mình chẳng được hưởng thì đúng là kỳ cục.
Cứ mỗi một thành tích nhỏ bé ấy, Đảng thổi phồng lên, cho tung hô với cờ Đỏ ru ngủ người dân dù đất nước ngày càng tụt hậu. Việt Nam hiện nay đã thua cả Lào và Campuchia về năng lực cạnh tranh và trình độ sản xuất; thua Campuchia về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, thua về Công nghiệp ô tô và thua cả những lĩnh vực nông nghiệp có thế mạnh như lúa gạo.
Chúng ta từ trước tới nay luôn “tự hào” là dẫn đầu nhóm 4 nước nghèo nhất Asean là Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar; nhưng nay đã bị Lào và Campuchia vượt qua nhiều mặt, nếu cứ tiếp tục tình hình này thì sẽ còn thua cả Myanmar.
Cái công lao “thống nhất đất nước” đến nay cho thấy không còn đúng nữa. Tại sao không nghĩ rằng đó là sự mở rộng cái nghèo đói cho cả 2 miền vốn chẳng đem lại lợi lộc gì ngoài bao nhiêu người chết?
Kết quả ấy chỉ đơn thuần là chiến thắng của Chủ nghĩa Cộng sản, hay nói đúng hơn là của một nhóm lãnh đạo Cộng sản. Nhóm người có chức có quyền ấy thắng, là vì sau khi cướp được chính quyền, họ có thể dễ dàng trở thành triệu phú, tỷ phú Đô la dễ như bỡn; còn phần thua thuộc về cả dân tộc, cả đất nước.
Người Đức có cách thống nhất mà không tốn một giọt máu. Mà nếu không mang Chủ nghĩa Cộng sản về Việt Nam thì còn độc lập dễ hơn nhiều, vì các nước thực dân đến một thời điểm đều trao trả thuộc địa. Hồng Kông rồi cũng được trả về cho Trung Quốc đấy thôi, nhưng dân Hồng Kông có lẽ chẳng bao giờ được tự do như thời còn làm thuộc địa nữa. Và một điều quan trọng: Hồng Kông giàu có văn minh là do thực dân Anh hay do Trung Quốc?
Có giải pháp nào dung hòa?
Nhiều người kêu gọi sự hòa giải từ hai phía, nghĩa là cần phải có giải pháp dung hòa cho cả hai, điều này nghe thì hay và tưởng chừng là khách quan, nhưng không hợp lý.Hãy nhìn người Mỹ hòa giải như thế nào. Khi tướng Lee - chỉ huy quân đội miền Nam quyết định đầu hàng, vị tư lệnh miền Bắc là tướng Grant đã nghiêm cấm các sĩ quan và binh lính không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với vị tướng miền Nam bại trận. Tướng Lee đến nơi hẹn trong tiếng kèn chào đón của lính miền Bắc.
Hai người nói chuyện thân mật về kỷ niệm từng sát cánh thời chiến tranh với Mexico. Tướng Grant (bên thắng) ngại ngùng không dám hỏi tướng Lee về quyết định đầu hàng. Thành ra câu chuyện kéo dài, đến nỗi tướng Lee (bên bại) sốt ruột, phải chủ động nói: mục đích buổi gặp gỡ ngày hôm nay là bàn về việc đầu hàng.
Tướng Grant (bên thắng) chủ động viết những điều khoản và trao cho tướng Lee, trong đó cam kết binh lính miền Nam không bị coi là phản quốc và không phải ở tù; chính phủ coi binh lính miền Nam là những công dân bình thường nếu họ chấp hành tốt luật lệ. Sau đó ông cũng chấp nhận cho bính lính miền Nam được đem lừa ngựa về nhà để giúp gia đình.
Khi quân miền Bắc định bắn đại pháo ăn mừng, tướng Grant ra lệnh ngưng ngay lập tức. Ông nói: “Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta”. Ông cho rằng cách tốt đẹp nhất để bày tỏ niềm vui của miền Bắc là không vui mừng trước thất bại của miền Nam.
Sau chiến tranh, có nghĩa trang chung cho binh lính hai miền, cờ miền Nam vẫn tung bay trên nước Mỹ. Và còn nhiều tình tiết cảm động nữa. Đáng chú ý, miền Bắc nước Mỹ - phe thắng trận, phe muốn xóa bỏ chế độ nô lệ, là phe có nhiều chính nghĩa hơn nhưng lại chủ động nhún nhường.
Nó trái ngược hoàn toàn với cách đối xử của Bắc Việt với Nam Việt sau 1975: hàng trăm ngàn người bị bắt đi tù khổ sai với mỹ từ “học tập cải tạo”; cả triệu người bị tịch thu tài sản, bắt đi vùng Kinh tế mới; đó là chưa kể những nghĩa trang của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị cư xử tàn tệ, còn cờ Vàng đương nhiên là bị cấm.
Thế cho nên những trường hợp nhắn nhủ với người Việt tị nạn rằng: “Ở đâu cũng là người Việt Nam, phải yêu thương lấy nhau, không nên hận thù”, thì đấy là những người chẳng hiểu gì cả. Họ cầm cờ Đỏ sang Mỹ “hòa giải” trong khi đáng lẽ phải cầm cờ Vàng ra Hà Nội mới đúng. Họ nói đồng bào hải ngoại đừng “thù hằn” trong khi người ở trong nước ai ai cũng được dạy phải căm thù “Mỹ - Ngụy”. Đã thắng rồi mà còn căm thù, vậy mà bắt những người bị tan cửa nát nhà, chết trên biển cả phải yêu quý mình sao?
Quân miền Bắc nước Mỹ nhiều lẽ phải hơn mà còn nhún nhường để hòa giải, còn Bắc Việt đã sai mà lại tìm mọi cách nhục mạ người bị hại. Hòa giải phải xuất phát từ bên đã làm việc không đúng, phải đi xin lỗi người mình đã gây hại chứ không thể nào xuất phát từ bên bị hại. Nhất là bên sai nhưng lại suốt ngày ca ngợi việc làm sai ấy thì làm sao xóa đi được nỗi đau.
Xin khẳng định là: Nếu không phân biệt được đâu là bên chính nghĩa sẽ không thể có sự hòa hợp dân tộc, không thể có giải pháp dung hòa. Dung hòa thế nào, rằng “chúng tôi đã có công thống nhất đất nước, các anh hãy quên chuyện cũ đi, quên cờ Vàng đi để yêu cờ Đỏ rồi đừng thù hằn nữa” chăng?
Chỉ khi nào bên Cộng sản thừa nhận rằng “chúng tôi đã dại dột làm anh lính xung kích cho Nga và Trung Quốc khiến bao người Việt chết oan để rồi đất nước nghèo nàn và lại bước vào một thời kỳ Bắc thuộc mới. Chính chúng tôi hiện nay cũng dị ứng với cờ Đỏ vì gợi nhớ lại thứ chủ nghĩa quái thai và mang ý nghĩa là 1 tỉnh của Trung Quốc. Mãi sau này chúng tôi mới biết được rằng cờ Vàng là cờ dân tộc có từ thời vua Thành Thái. Nay chúng tôi đồng ý đổi tên nước thành Việt Nam Cộng hòa, xóa bỏ chế độ độc đảng, đưa đất nước đi theo con đường tự do dân chủ. Chỉ xin giữ lại bài Tiến Quân Ca làm quốc ca (có thể thay lời), vì nhạc sỹ Văn Cao thật ra sau này cũng chẳng ưa gì Cộng sản và bị đóng dấu phản động”, thì khi đó người Việt tị nạn mới có thể bỏ qua hết mọi chuyện để chung tay xây dựng đất nước.
Nhưng điều này chắc chắn chẳng bao giờ xảy ra, nếu không tin, hãy nhìn cái cách họ ăn mừng ngày 30/4 thì rõ.
Nguồn:https://www.rfa.org/vietnamese/news/ReadersOpinions/how-to-reconcile-05042018104504.html
Sự thật sức mạnh của ĐCSVN hiện nay
Anh Vũ, thông tín viên RFA
2013-06-18
2013-06-18
Trong lịch sử chính trị Việt Nam, đảng CSVN là một đảng chính trị giữ vị trí hàng đầu, về cả chiều dầy lịch sử, thành tích và quy mô. Do cơ chế độc đảng, với số lượng trên 3 triệu đảng viên chiếm khoảng 3% dân số, có mặt ở mọi nơi, trong mọi tổ chức của đời sống xã hội dễ tạo cho người ta cảm giác đảng CSVN có một sức mạnh vô địch. Sự thật sức mạnh của đảng CSVN hiện nay thế nào, thông tín viên Anh Vũ đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, một cựu cán bộ an ninh, hiện là đảng viên đảng CSVN, hiện đang sống ở Sài gòn về vấn đề này.
Anh Vũ: Thưa Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, hiện nay số lượng đảng viên đảng CS Việt Nam là khoảng 3,6 triệu người. Nhưng trên thực tế, có khoảng 50% là các đảng viên cao tuổi đã nghỉ hưu và một số đông đảng viên trên danh nghĩa đã không tham gia sinh hoạt đảng sau khi chuyển công tác. Số đảng viên không chức quyền thì chả ai quan tâm đến việc bảo vệ đảng, duy chỉ có số còn lại có chức, có quyền hoặc lớp trẻ trong lực lượng vũ trang bị nhồi sọ thì mới có ý thức về việc này. Ông đánh giá lực lượng đảng viên có ý thức bảo vệ đảng là khoảng bao nhiêu người?
TS Phạm Chí Dũng: Tất nhiên, không phải ai cũng mang ý thức bảo vệ Đảng với cùng một động cơ. Mà có những động lực khác nhau, thậm chí khác biệt hoàn toàn giữa những người được coi là cùng chung một chiến hào.
Từ nhiều năm qua, tôi thấy báo cáo của các cơ quan Đảng thường chỉ thừa nhận một số đảng viên nào đó là “không tốt”. Nhưng những năm gần đây, trước tình hình tham nhũng đã đến mức quá manh động và trầm trọng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải cảm thán là tham nhũng và suy thoái đạo đức có thể “đe dọa đến sự tồn vong của chế độ”. Sau đó các báo cáo của Đảng mới chuyển dần từ “một bộ phận” đến “một bộ phận không nhỏ” đối với đối tượng đảng viên biến chất.
Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình.Tuy nhiên cách đánh giá này thường bị dư luận người dân và ngay trong cán bộ đảng viên xem là thiếu tương hợp và cố tình che giấu sự thật.
-TS Phạm Chí Dũng
Chỉ vài năm gần đây, có báo cáo của một số cơ quan Đảng thừa nhận khoảng 30% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng.
Ở một góc độ khác, nhận định của giới quan sát và phân tích chính trị độc lập là có phần trái ngược và khác biệt lớn so với các báo cáo của đảng. Tức là có đến ít nhất 50% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng, 30% đảng viên đã nhận thức về hiện trạng quá nhiều bất cập, mâu thuẫn và cả xung đột xã hội. Về việc lãnh đạo đảng xa rời thực tế, yếu kém trong công tác điều hành chính quyền - tỷ lệ này phải lên đến ít nhất 70% theo dư luận.
Hiện chỉ còn khoảng 30% đảng viên thuộc về “nhóm thủ cựu” (tức nhóm cách mạng lão thành, nhóm giáo điều, nhóm đặc quyền đặc lợi, nhóm kém năng lực không muốn ra khỏi biên chế…). Khá chua chát nhưng lại cần phải trần thuật một cách hài hước, điều được xem là “một bộ phận không nhỏ” của những nhóm này lại mang tâm lý “còn đảng còn mình”.
Đảng CS Trung Quốc - cho rằng chỉ cần giữ lại 30 triệu tấm thẻ đảng trong tổng số 80 triệu đảng viên như hiện nay. Như vậy, có thể xem rằng Trung Quốc đã gián tiếp thừa nhận trên thực tế chỉ có 30/80 triệu, chiếm khoảng 37%, là đảng viên thuộc loại “trung thành”.
Trung Quốc và Việt Nam lại có nhiều đặc thù giống nhau, đặc biệt là nền chính trị và tâm lý xã hội.
Qua đó có thể thấy, tỷ lệ trung thành với đảng ở Việt Nam vào khoảng 30% trên tổng số đảng viên hiện thời, tức chỉ khoảng 1,2 triệu người.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tỷ lệ 30% trung thành với đảng đã được giới quan sát độc lập ước tính từ những năm 2006-2007, tới nay con số đó có thể thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn không hề có một số liệu thống kê chính thức nào từ phía các cơ quan đảng về tình trạng đảng viên xa rời đảng, hay dân gian còn gọi là “thoái đảng”.
Chất lượng đảng viên
Anh Vũ: Về chất lượng đảng viên của đảng là một vấn đề phải bàn. Đặc biệt là động cơ vào đảng của tuyệt đại đa số hiện nay là vì lợi ích cá nhân, đó là tham nhũng. Lãnh đạo Đảng CS Việt Nam cũng thừa nhận đây là một quốc nạn và là một trong những nguy cơ nghiêm trọng nhất đe doạ sự tồn vong của Đảng. Ông có đánh giá và nhận xét gì về vấn đề này?TS Phạm Chí Dũng: Trong các báo cáo của đảng, thường tổng kết về biểu hiện 5 suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên là:
Thứ hai là bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, đó là chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy lợi và chạy tội cho bản thân cho người thân.
Thứ ba, nói nhiều làm ít; nói nhưng không làm.
Thứ tư, quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật, việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm chí sai lệch với mức “vô trách nhiệm”. Ví dụ vụ tham nhũng và tha hóa đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên ở PMU 18 nghiêm trọng vậy mà Phó bí thư đảng ủy cơ quan Bộ Giao thông vận tải vẫn khẳng định: “Trước khi bị khởi tố, họ đều là đảng viên tốt”.
Thứ năm, tham nhũng, nhũng nhiễu dân gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, không chỉ làm thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, của nhân dân mà còn dẫn tới sự hư hỏng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên.
Đảng cần bổ sung hai vấn đề đang diễn ra trong đảng và chính quyền, đó là sự lộng hành của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình. Chúng ta đang nói về vấn đề lượng và chất và mối quan hệ giữa hai phạm trù này, vì thế tôi cũng nêu ra một đối sánh mới là nợ tính theo đầu đảng viên so với nợ theo đầu người dân.
-TS Phạm Chí Dũng
Chẳng hạn, cho đến thời điểm đổ vỡ, Vinashin có 6.000 đảng viên nhưng lại nợ đến 80.000 tỷ đồng, tức mỗi đảng viên nợ 13,3 tỷ đồng, tương đương 665.000 USD, gấp hơn 800 lần nợ công trên đầu người ở Việt Nam là 800 USD. So sánh như thế để mọi người thấy rằng những người được gọi là “công bộc của dân” có thể mang tính đại diện đến thế nào về đặc quyền, đặc lợi và tất nhiên không thể thiếu cái bị gọi là “nghiệp chướng”.
Dẫn chứng trên cũng chứng minh một nghịch lý về chất lượng đảng viên đương thời: không phải mọi đảng viên đều cùng chung một “dòng máu”, không phải đảng viên nào cũng mang tư tưởng bảo vệ đảng xuất phát từ một động cơ, cho dù rằng trên danh nghĩa toàn bộ 3,6 triệu đảng viên đều cùng chung một chiến hào.
Sự ủng hộ của quần chúng
Anh Vũ: Sức mạnh của một tổ chức đảng chính trị dựa trên hai yếu tố cơ bản, đó là số lượng cũng như chất lượng của đảng viên. Nhưng yếu tố thứ hai không kém quan trọng là sự ủng hộ của quần chúng. Việc đảng CSVN xa rời nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc lấy ruộng của người cày cho các nhà tư bản. Ông đánh giá vấn đề này thế nào?TS Phạm Chí Dũng: Đây là vấn đề lớn nhất, nóng nhất ở Việt Nam hiện nay. Đang có một sự phân hóa rất lớn trong nội bộ Đảng, thể hiện ít nhất qua việc những đảng viên thuộc Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu, giữa nhóm doanh nghiệp và giới chức chính quyền địa phương, đã cấu kết chặt chẽ với nhau để sẵn lòng bóc lột nông dân và phủ nhận chính những đồng chí đáng tuổi cha mẹ của họ.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
Từ những năm 2006-2007 đến nay, khoảng 70% trong tổng số đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai. Trong số đó, khoảng 70% đơn thứ khiếu tố lại chỉ mặt điểm tên nhiều vụ việc, nhiều cán bộ địa phương ăn chặn tiền đền bù.
Khi bị thu hồi đất, người dân không chỉ phải chịu mức bồi thường thấp mà còn mất nguồn thu nhập thường xuyên, thất nghiệp, sinh hoạt đảo lộn (giao thông, học hành, y tế…), không có chỗ tái định cư. Trên hết, những trường hợp dân oan đã mất niềm tin vào chế độ…
Nhưng hậu quả ghê gớm mà Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu gây ra không chỉ đè lên đầu dân thường mà còn áp chế với cả những cán bộ đảng viên ngay trong nội bộ.
Theo tôi những vấn đề đó là vấn đề đáng báo động, có ảnh hưởng đến ý chí, tư tưởng của các đảng viên và sự tồn vong của đảng, mà hậu quả cuối cùng là đảng CS Việt Nam cũng khó tránh khỏi đổ vỡ. Do vậy, đảng cần phải nhanh chóng xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trước khi quá muộn.
Anh Vũ: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng đã dành cho đài chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
haiduongvn
nơi gửi saigon