Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Xung quanh Hội nghị 13: Những ai tung ra ‘tài liệu chính trị nội bộ’?

Xung quanh Hội nghị 13: Những ai tung ra ‘tài liệu chính trị nội bộ’?

Hội nghị Trung ương 13 đảng Cộng sản Việt Nam kéo dài quá khổ đã để lại một chút gợn buồn. Cuộc tranh đấu còn lâu mới khoan hòa giữa các lực lượng chính trị trong đảng vẫn bế tắc đến mức giờ đây phương án tái nhiệm tổng bí thư của ông Nguyễn Phú Trọng lại có vẻ một chiều hơn cả.
Tuổi tác “không thành vấn đề”.
Dĩ nhiên phái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn lâu mới hài lòng.
‘Tài liệu chính trị nội bộ’
Càng khó hài lòng hơn khi ba ngày trước khi Hội nghị Trung ương 13 kết thúc, trên mạng xã hội bất thần hiện ra “Thư của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị”.
Chúng ta không ngăn, không cấm được đâu các đồng chí à” - lời “hiệu triệu” trước đây về facebook của Thủ tướng Dũng rất có thể bị phản tác dụng vào lần này. Không gì khác hơn là facebook chính là phương tiện truyền dẫn “bức thư của Thủ tướng Dũng’’ với tốc độ kinh hoàng.
Cùng hoàn cảnh trên, trước và trong Hội nghị 13, một tổ chức chưa từng nghe tên tuổi là “Câu lạc bộ nhà báo trẻ” đã nhờ một trang mạng xã hội, chứ không thể là báo chí nhà nước, đăng tải loạt bài viết tấn công dữ dội nguyên tổng biên tập báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế. Song hai bài gần nhất trong loạt bài này lại tràn ngập ẩn ý về một trong những ứng cử viên cho chức tổng bí thư tại Đại hội 12: Trương Tấn Sang.
Có lẽ chỉ rất ít tổ chức và nhân vật nắm được “Thư của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ chính trị” là thật hay giả. Bức thư dài đến 9 trang đánh máy này được đóng dấu treo “Thủ tướng chính phủ”, và hơn nữa là dấu đỏ - một chỉ dấu cố ý làm cho người đọc hiểu đó là bản gốc, lấy thẳng từ nguồn trong nội bộ chứ không phải là tài liệu photo chuyền tay tam sao thất bản.
Tuy chưa biết độ tin cậy của bức thư trên đến mức nào, nhưng khá nhiều nội dung trong bức thư này lại không quá lạ lẫm với dư luận trong nội bộ và cả ngoài xã hội. Có chăng là chi tiết gia đình ông Dũng thông gia với ‘đại tá tình báo Mỹ Nguyễn Bá Bang” - được xem là “tài liệu nội bộ về lịch sử chính trị” - có thể gây tò mò đáng kể nơi những người hám chuyện.
“Chính trị nội bộ” lại là một đòn được một số quan chức Việt ưa dùng để thanh loại nhau. Cứ mỗi lần gần đến đại hội đảng, cơ quan Ban bảo vệ chính trị nội bộ của một số tỉnh thành lại có cơ hội để phô trương quyền lực ngầm. Những “đồng chí có vấn đề” như có thân nhân ở những nước “thù địch” như Mỹ, hoặc có “quá trình khai báo trong nhà tù Mỹ ngụy”, đều có thể bị đưa lên bàn mổ.
Tuy nhiên, đó là chuyện quá khứ, vào thời chưa có Internet. Vào thời đó, những đơn thư tố cáo về hoạt động khai báo chỉ được lan truyền dưới dạng giấy tờ thủ công trong phạm vi nội bộ các cơ quan nhà nước, cùng lắm thì đến những cán bộ về hưu.
Còn bây giờ thì quá nhiều chuyện được tung lên mạng. Nguyễn Công Khế là nạn nhân mới nhất khi bị “Câu lạc bộ nhà báo trẻ” công bố một tài liệu thuộc độ “tuyệt mật”, vốn chỉ được lưu giữ trong hệ thống đảng và chính quyền, về nội dung khai báo của ông Khế trong “nhà tù Mỹ ngụy”.
Khỏi phải diễn tả là tài liệu của hiếm trên đã thu hút mối quan tâm lẫn tò mò của công luận đến thế nào. Nếu từ lâu dư luận đã thắc mắc về những chuyện cung đình của 70 năm lịch sử đảng Cộng sản vẫn chưa được bạch hóa, thì nay “tài liệu chính trị nội bộ” tự nhiên mọc cánh bay ra ngoài.
‘Tình đồng chí’
Sau 40 năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, vấn đề “lịch sử chính trị” vẫn tỏ ra phần nào hữu hiệu trong cuộc chiến quyền lực giữa các đồng chí không đồng lòng. Một trong những loại tài liệu “có giá” được sử dụng để moi móc tấn công nhau có nguồn gốc từ “Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo ngụy” - theo cách gọi của giới chính quyền và công an Việt Nam. Các bản khai báo cá nhân từ đây mà ra.
Hẳn nhiên cuộc đấu đá giữa các phe nhóm trong nội bộ đảng cũng đang dâng trào như thể “thế nước đang lên” - một luận điểm mà giới chuyên gia phản biện trung thành đang ra sức cổ vũ - trong không gian ngập ngụa nợ công, nợ xấu và mới nhất là nạn cạn kiệt ngân sách. Cùng với thủ đoạn moi móc “sân sau” của nhau ở những tổ hợp ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, vấn đề “lịch sử chính trị” hoặc cả “chính trị hiện nay” được khai thác tối đa để hạ uy tín đối thủ, khiến đối thủ không thể được giới thiệu vào “cấp ủy” và do đó có thể bị “loại từ vòng gửi xe”.
Khi chứng kiến cung cách tung tài liệu chính trị nội bộ lên mạng như thế, một cán bộ nhà nước phải nhận xét: “Gọi là đồng chí mà chơi nhau đến vậy là quá tàn mạt, không còn gì để nói!”.
Câu hỏi còn lại nhằm mục đích gì và từ ai đã khiến lộ ra những tài liệu đó trên mạng Internet?
Về nguyên tắc, “tài liệu chính trị nội bộ” nằm trong danh mục bảo vệ bí mật nhà nước, được lưu giữ bởi cơ quan công an một số cấp, cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ, cơ quan nội chính và một số quan chức có trách nhiệm liên quan. Nhưng nếu hiện thời mở một cuộc điều tra để tìm xem ai đã tiết lộ những tài liệu chính trị nội bộ lên mạng Internet, e rằng quá khó do phạm vi điều tra là quá rộng so với nguyên tắc. Ngay cả có thành lập một ban chuyên án an ninh cấp quốc gia để dò tìm nguồn gốc của “Thư của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị” cũng là một nhiệm vụ quá nan giải.
Chỉ biết rằng khi thủ đoạn đã trở nên công khai đến mức sẵn lòng dùng tài liệu chính trị nội bộ để đấu tố nhau, những người đang được coi là “đồng chí” đã thực sự biến thành kẻ thù của nhau, đẩy chế độ lao nhanh đến cuối đường tận diệt.
Cuộc bỏ phiếu sinh tử
“Tình đồng chí” biểu cảm đến thế và câu hỏi từ đâu xuất hiện những tài liệu thuộc độ “tuyệt mật” trên mạng xã hội là hoàn toàn xứng đáng được áp vào trường hợp “Thư của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị”. Nếu quả bức thư này là thật, xác suất tài liệu này được “vô tình” lộ ra từ nội bộ là rất nhỏ.
Trừ phi ai đó cố ý làm điều đó.
Tuy nhiên, nếu tạm gác lại nhiều nội dung giải trình của bức thư trên mà một số dư luận đã ít nhiều nghe đến, có lẽ chi tiết làm người ta ngạc nhiên và phải luận bàn nhiều nhất là một đoạn trong bức thư “Tôi đã ghi rõ nguyện vọng gửi đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là: TÔI XIN KHÔNG TÁI CỬ”.
Chưa cần biết nội dung trên là thật hay giả, nhưng một cựu quan chức nhà nước có nhiều kinh nghiệm về công tác tổ chức cán bộ đã khẳng định rằng nếu biết trước về ứng viên chủ động xin “rút”, ông sẽ không viết phiếu giới thiệu/bỏ phiếu thuận hoặc sẽ lưỡng lự khi viết phiếu/bỏ phiếu cho ứng viên đó.
Hội nghị Trung ương 13 vừa chìm xuống và Hội nghị Trung ương 14 đang ập đến lại là những cuộc chiến mang tính sinh tử về bỏ phiếu cho thành phần Bộ Chính trị, trong đó có các vai trò của “tứ trụ” và đặc biệt là cái ghế tổng bí thư. Hệ quả nào đã và sẽ xảy ra nếu một số ủy viên Trung ương đảng đinh ninh rằng Thủ tướng Dũng đã chính thức có thư xin “nghỉ”?
Không cần hồ nghi rằng khi chỉ còn chưa đầy một tháng nữa sẽ diễn ra Đại hội 12 của đảng cầm quyền, những cú ra đòn độc đáo lẫn độc địa nhất sẽ không còn cần mai phục chờ thời nữa.
*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Phạm Chí Dũng

Phạm Chí Dũng là nhà báo độc lập, tiến sĩ kinh tế sống và làm việc tại Sài Gòn, Việt Nam. Trước năm 2013, đã có thời gian 30 năm làm việc trong quân đội, chính quyền và khối đảng. Do viết bài chống tham nhũng, từng bị công an bắt vào năm 2012. Năm 2013, tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2014, cùng các cộng sự thành lập Hội nhà báo độc lập Việt Nam và giữ cương vị chủ tịch của tổ chức này. Cũng trong năm 2014, được Tổ chức phóng viên không biên giới vinh danh 'Anh hùng thông tin'.
Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/quanh-hoi-nghi-muoi-ba-ai-tung-ra-tailieu-chinh-tri-noi-bo/3117410.html

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Dân biểu Hoa Kỳ kêu gọi đưa các thương phế binh VNCH sang Mỹ định cư

Dân biểu Hoa Kỳ kêu gọi đưa các thương phế binh VNCH sang Mỹ định cư

RFA 23.12.2015

Chia sẻ
000_Hkg10174176
Những thương phế binh VNCH trong một buổi nhận tiền từ thiện tại chùa Liên Trì, TPHCM hôm 9/4/2015

Một nhóm Dân biểu vừa đưa ra lời kêu gọi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tái định cư thương phế binh VNCH.
Trong thư đề ngày 17/12/2015,  năm vị Dân biểu Hoa Kỳ gồm các Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Quốc hội Hoa Kỳ, Dân biểu Alan Lowenthal, Dân biểu Christopher Smith, Dân biểu Gerald Connolly và Dân biểu Zoe Lofgren đã kêu gọi Ngoại trưởng John Kerry  xem xét về việc có thể dùng các luật lệ hiện hành để tái định cư các Cựu quân nhân thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn sót lại tại Việt Nam.
Trong thư  các Dân biểu nhấn mạnh, đây là những chiến sĩ can trường đã chiến đấu sát cánh với quân nhân Hoa Kỳ và rất tiếc, họ đã bị bỏ sót lại trong bóng tối, khi chương trình tái định cư quen gọi là H.O được khai triển.
Dân biểu Alan Lowenthal nêu trong thông cáo báo chí, là đã đến lúc cần đưa họ ra ánh sáng và dành cho các thương phế binh này cơ hội được tái định cư tại Hoa Kỳ.
5 vị Dân biểu Hoa Kỳ nhấn mạnh, những sĩ quan cũng như thương phế binh VNCH cùng gia đình họ hiện còn lưu lại Việt Nam, hiện đang sống trong cảnh nghèo nàn với nhiều vấn đề sức khỏe không được quan tâm đúng mức và phải đối diện với những sự phân biệt đối xử vì quá khứ phục vụ của họ trong quân đội VNCH.
Được biết Hội H.O Cứu trợ Thương Phế Binh VNCH đã lập hồ sơ của hơn 500 cựu sĩ quan Thương Phế Binh VNCH có thể xem xét cho chương trình tái định cư.

Ý kiến (1

Con H.O 

nơi gửi USA

Toi ung ho cac vi dan bieu trong viec van dong tai dinh cu cac thuong phe binh VNCH tai VN. Ho la nhung nguoi linh xung dang duoc su cham soc nhan dao trong quang doi con lai.
23/12/2015 14:38

Nguồn:  http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/us-repre-cal-kerry-to-reset-arvn-12232015113851.html

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

CPQGVNLT và CIA hay CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẢI TAN RÃ 2016


 Đào Minh Quân đã thêm 4 ảnh mới — cùng với Thuy Trang Nguyen16 người khác.
Đã chia sẻ bài viết của Đào Minh Quân.
CPQGVNLT và CIA
hay CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẢI TAN RÃ 2016


VPTT: Nhận được bài viết “Cuộc Chiến Giữa MSS Và CIA!” của Tt Huỳnh Thúc Khải (HTK) viết từ Sài gòn 13/7/2015 do một Đại Biểu của CPQGVNLT chuyển đến, nên chúng tôi muốn triển khai chi tiết để mọi người tự suy luận.
- MSS là tên của cơ quan tình báo Trung Quốc (Bộ An ninh quốc gia - Ministry of State Security – MSS) là cơ quan tình báo “đầu sỏ” lớn nhất của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi là Tình Báo Hoa Nam)…
- CIA là cơ quan tình báo của Hoa kỳ (Cục Tình báo Trung ương Mỹ - Central Intelligence Agency)
Trước đây, hơn ¼ thế kỷ qua, đảng và Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ (VNTDC), tiền thân của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CPQGVNLT) đã lột mặt nạ của Hồ Chí Minh tại UNESCO năm 1990, chỉ rõ tên này là một điệp viên người Tàu được TQ cho xâm nhập VN, dựng nên đảng CSVN và cái gọi là “Chính Phủ VNDCCH”, tiền thân của “nhà nước CHXHCNVN”. Cả đảng CSVN và “Nhà nước” CHXHCNVN hiện nay tuy hai là một, đều do CS Tàu dựng lên, lèo lái và chi phối để gieo rắc biết bao tai ương cho dân tộc Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung và đang từng bước giải thể tà quyền CSVN bằng những phương thức linh động, mềm mại do Thủ Tướng Đào Minh Quân, người lãnh đạo của VNTDC và CPQGVNLT để bao vây triệt tiêu CS trong sự thờ ơ của một số người còn mong chờ MỘT PHÉP LẠ.
Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng: Khoảng đầu thập niên 1960, khi Mỹ muốn đưa quân sang VN, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không đồng ý, vì ông muốn giữ vững tinh thần độc lập quốc gia, dân tộc… không muốn cho phía CS có cớ để bôi nhọ, tuyên truyền “VNCH rước ngoại xâm”… Chính vì điều này, năm 1963 CIA đã dùng ...(mua chuộc) một số tướng lãnh trong quân đội VNCH để “đảo chánh”, và sát hại hai anh em Tt Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu… Ngoài ra, còn có vụ “Mỹ muốn thuê cảng Cam Ranh 100 năm” nhưng Tổng thống Diệm không đồng ý, vụ này cũng “thêm dầu vào lửa” để CIA đi đến quyết định “tiễn hai anh em NĐD lên đường”…
Qua nền Đệ nhị Cộng hòa… khi Mỹ muốn “rút lui khỏi cuộc chiến”, Tổng thống Ng Văn Thiệu cũng không đồng ý… (Mỹ làm áp lực ép TT Thiệu ký Hiệp định Paris…) Khi đó Tổng thống Thiệu cũng linh cảm “bóng tử thần của CIA cũng đang lờn vờn đâu đây trong Dinh Độc lập”- một kịch bản đảo chính giống như trường hợp Tt Diệm sắp xảy ra với ông... Do đó, ông đã phải rút một số sĩ quan thân cận trong quân đội về Dinh Độc lập để bảo vệ ông khỏi “lưỡi hái tử thần của CIA”!
Năm 1973, khi TT Thiệu mời Bộ trưởng quốc phòng Do thái –Moise Dayan qua VN để cố vấn việc “làm thế nào để đánh thắng CS” thì ông tướng này cũng đã nói với TT Thiệu rằng: “Muốn thắng CS phải để CS thắng” (trước)… Một điều chắc chắn không thể không xảy ra: trước khi qua VN để “cố vấn cho TT Thiệu”, ông tướng độc nhãn Do thái này cũng đã “họp qua đường dây nóng với chính phủ Hoa kỳ” và CIA! (Hoa kỳ với Do thái là một) Lời cố vấn của ông rõ ràng là một “thông báo” (hoặc “thông điệp” của chính phủ Hoa kỳ gửi) cho phía chính phủ VNCH rằng “Mỹ sẽ thực hiện kế hoạch di tản chiến thuật” khỏi miền Nam VN. Do đó mới có Hiệp định Paris năm 1973 và TT Thiệu không thể… không ký!
Phía Bắc Việt cũng đã ký giấy đầu hàng từ đầu năm 1973, trước khi (được Mỹ cho) ngồi vào ký Hiệp định Paris… Mỹ rút khỏi VN vì một mục tiêu lớn hơn…!
Thật ra, Tướng Moise Dayan còn gọi là “Độc nhản tướng quân” sinh ngày 20/05/1915 – mất 16/10/1981) là nhà chính trị và tướng lĩnh quân đội của Israel. Vị thầy đầu tiên của Tướng Moise Dayan về quân sự là viên tướng người Anh Orde Wingate.
Dayan từng bị người Anh bắt giữ vào năm 1939 do tham gia phong trào Phục quốc Do Thái, nhưng được thả hai năm sau vào tháng 2 năm 1941, như là một phần của sự hợp tác giữa phong trào Haganah với người Anh trong Thế chiến thứ hai. Dayan được giao một nhiệm vụ nhỏ trong lực lượng trinh sát đặc nhiệm Australian-Palmach-Arab, được thành lập để chuẩn bị cho Đồng Minh xâm nhập Syria và Liban. Ngày 7 tháng 6, ngay đêm trước khi cuộc xâm nhập này, các đơn vị vượt biên qua sông Litani. Một vài giờ sau đó, một viên đạn pháo nổ gần và các mảnh vỡ của nó đã gây ra tổn thương nghiêm trọng vào mắt trái của ông. Phải mất 6 giờ trôi qua trước khi có thể đưa Dayan đến nơi cứu thương, nhưng đã quá trễ. Vì thế, ông buộc phải mang mảnh che mắt màu đen ở mắt trái và sau đó đã trở thành thương hiệu của chính ông với biệt danh "Độc nhãn tướng quân".
Trong thời gian làm Tổng tư lệnh Các lực lượng Phòng vệ Israel từ năm 1953 đến năm 1958, Moshe Dayan là biểu tượng của sức mạnh chiến đấu của dân Do Thái. Sau đó ông làm bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của Israel.
Tướng độc nhãn Do Thái MOSHE DAYAN sang thăm Việt Nam trước năm 1975, ông tuyên bố rằng: “Muốn thắng cộng sản, phải để cho công sản thắng trước”.
Nhận định nầy của tướng Moshe Dayan đến nay vẫn được nhiều người cho là có giá trị. Do nhân dân Việt Nam ngày nay đã nhìn thấy rõ bản chất vô đạo, phi nhân bản của cái gọi là CHXHCNVN kinh dị buôn dân, bán nước. Nói theo ngôn từ của triết gia Arthur Koestler thì chế độ CSVN hiện nay giống như một dòng sông bị nhiễm độc, bao nhiêu thứ rác rến hôi thối từ dưới đáy sông lần lượt trồi lên trên mặt nước, đó là là những bộ mặt nham nhở của những tên đầu sỏ tội ác đảng CSVN, mà CPQGVNLT đã đệ nạp đơn kiện tại Tòa Hình Sự Quốc Tế ngày 16/02/2013.
Chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống và Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Hòa đàm Paris, Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái chứ không phải của CIA.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số gần 14 triệu người, trong đó trên 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái). Dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
Dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger?
Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ:
Trên chính trường Hoa Kỳ, thế lực và vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái rất đậm nét. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái.
Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái.
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton.
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh. Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford.
Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho người Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Cũng vì chuyện này mà dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine.
Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để người Do Thái dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của khối Ả Rập và sau đó, Mỹ tiếp tục yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại các cuộc tấn công lúc đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ là “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông. Nhưng chỉ vì duy nhứt có Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng bỏ lại những đồng minh như Lào, Cam Bốt, Đài Loan và Việt Nam… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ. Trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích với khối Hồi Giáo với dân số 1,3 tỷ người và có tiềm năng rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa.
Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ, nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương thúc ép Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái?
Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam:
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ - đa số gốc Do Thái quản trị - khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.
Việc Tướng độc nhãn Moshe Dayan - Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái - đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966, chứ không phải năm 1973 như Tt. Huỳnh Thúc Khải) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhãn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu ông ta chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!
Phong trào phản chiến càng lên cao đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)….
Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam, cho đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng thực tế Kissinger sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam.
Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: “Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái, chứ không phải của CIA.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhãn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận, chứ không phải là một “ông tướng bách chiến thắng” như báo chí loan tải.
Trong một chừng mực nào đó, như Tt Huỳnh Thúc Khải nhận định: Trong một Nội bộ đảng CSVN gần đây có “tin đồn” rằng “được chia làm hai phe: thân Mỹ và thân Tàu”! Những diễn biến trong nội bộ và bên ngoài cũng cho thấy điều đó không hẳn chỉ là tin đồn, mà nó là… như vậy!
Sự chia rẽ trong nội bộ đảng CSVN, đừng nói là “không có bàn tay của CIA”… nhất là khi Mỹ đã có mục tiêu “chuyển trục về Châu Á – Thái bình dương”. Vì sao đám “thân Tàu” trong đảng CSVN lần lược bị “lên đường” (Ng Bá Thanh, Phùng Quang Th…) mà thủ tướng “3X” (Dũng Xà Mâu) không “hề hấn” gì? Nếu không có sự “chống lưng” và “đỡ đạn” của CIA thì liệu “3X- Dũng Xà Mâu” có thoát khỏi “lưỡi hái tử thần của tình báo Hoa nam- MSS” không?
Nếu CIA bảo vệ ‘3X’ thì CIA cũng đương nhiên điều khiển được ‘3X’! (Nếu 3X thoát khỏi sự bảo vệ của CIA thì MSS – tình báo Hoa nam sẽ “cắc bùm” – tiễn 3X lên đường gặp “Bá Thanh” và “Phùng Lợn” trong vài tiếng đồng hồ sau đó! ‘3X’ buộc phải ở trong sự bảo vệ của CIA).
Biết rằng “theo Mỹ là mất đảng”… nhưng rõ ràng những diễn biến gần đây cho thấy đảng CSVN “không còn sự lựa chọn nào khác”! Vì sao? Câu trả lời phải chăng là “thế lực đằng sau 3X mạnh hơn” nếu không muốn nói là quá mạnh, so với thế lực chống lưng cho “bác Cả Lú và tướng Phùng Quang Lợn”! Ai chống lưng cho ‘3X’ - nếu không phải là CIA?
Sang năm 2016, sau đại hội XII của đảng CSVN, ‘3X’ sẽ ngồi cùng lúc hai ghế: Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Đây là lộ trình… khả thi.
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…).
Sau khi ngồi ghế “tổng thống” rồi, ‘3X’ bị buộc phải bàn giao chính phủ cho… để “bản thân và gia đình được tha mạng” (tài sản tính sau… - ‘3X’ như một tài xế taxi, bị ba thằng ‘C, I, A’… ngồi phía sau vừa bảo vệ, vừa xỉ súng vô lưng, bảo đi đâu thì đi đó… thoát ra khỏi xe thì bị MSS- tình báo Hoa nam “cắc bùm” cũng thế thôi! Thà làm theo lệnh để bản thân và gia đình còn có cơ hội sống…)
Và Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng Nguyễn Tấn Dũng bàn giao chính phủ cho thủ tướng ...........- Vì sao?
Từ đầu năm 2000, khi Tổng thống Bill Clinton sắp qua VN… Một quan chức Hoa kỳ công tác tại VN có nói “VN cần một ‘New blood’…” (VN cần một “dòng máu mới”, thế hệ mới…)
Nếu Hoa kỳ vì quyền l
ợi “cốt lõi” ở Biển đông thì Hoa kỳ cũng không vì đó mà tiếp tục sử dụng “dòng máu cũ”- đảng CSVN- một tập đoàn đã bị đưa danh sách lên tòa án Quốc tế (ICC) với tội danh “khủng bố, giết người, cướp của”… rồi! (Tòa án quốc tế đang thụ lý hồ sơ)
Hoa kỳ sẽ làm TẤT CẢ để đưa VNCH đến chiến thắng cuối cùng. Nói cách khác, Hoa kỳ sẽ đưa người Việt quốc gia tị nạn và “cờ vàng” trở về phục hưng lại quê hương, như cách mà Hoa kỳ và Liên hiệp quốc đã giúp người Do thái Hồi hương và phục dựng lại quê hương! (1948)
Hoa kỳ sẽ không sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”… Trái lại, trong 40 năm qua, đám con em của quân dân cán chính VNCH đã được HK tuyển dụng và “âm thầm” đào tạo… được học hành có chủ đích hoặc không chủ đích… sẽ trở về phục dựng lại quê hương. Hoa kỳ không “âm thầm đào tạo” những thế hệ người Việt này, rồi “bỏ đi” mà sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”! (đoàn Thanh niên CS- HCM)
Song song với việc đào tạo nhân tài cho “quốc gia VN” trong tương lai… Hoa kỳ cũng đã chuẩn bị sẵn một “Chính phủ Lưu vong” được nuôi dưỡng và chuẩn bị bài bản… để chờ ngày trở về “nói chuyện với tà quyền CSVN”! Nếu không có sự công nhận của chính phủ Hoa kỳ và các tổ chức quốc tế thì cũng sẽ không bao giờ có chuyện “cờ vàng tồn tại trên đất Mỹ” và tung bay ngang hàng với cờ Hiệp Chủng quốc Hoa kỳ, cũng như một số quốc gia Tự do trên thế giới như Canada, Úc…! (cờ đỏ chỉ là “chấp nhận một hiện tại để ngoại giao” thôi… người ta thừa biết nó là cờ của tỉnh Phúc kiến – Trung cộng - giống như cờ của một tiểu bang tại Hoa kỳ)
Tất nhiên, Nguyễn Tấn Dũng, để toàn mạng, sẽ phải bàn giao chính quyền cho một Tân Chính Phủ là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu cho đó là “ván cờ của CIA đã sắp”… (không có dân chủ, dân chiết gì ở đây đâu) thì rất chủ quan.
(CÒN TIẾP)
6 người thích nội dung này.
Bình Luận
Loan Nguyen
Loan Nguyen Sang năm 2016, sau đại hội XII của đảng CSVN, ‘3X’ sẽ ngồi cùng lúc hai ghế: Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Đây là lộ trình… khả thi.
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…)
...Xem thêm
Trinh Ngoc Toan
Trinh Ngoc Toan
Trinh Ngoc Toan Cộng Hòa Thời Báo
Trứng rồng lại nở ra rồng (khởi đầu bằng tia lữa soi sáng đêm đen)
...Xem thêm
Cộng Hòa Thời Báo

Mai Nguyễn Huỳnh Xin được chia sẻ bài viết về Bloge Mai đây Hòa Bình- Rất cảm ơn tác giả và Loan nguyên

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Bước chân Việt Nam

Bước chân Việt Nam



Xót xa với hình ảnh bé gái 1 chân đi tất rách, 1 chân xỏ chiếc găng tay                           

Khánh Linh (vitalk) - Bức ảnh chụp lại đôi bàn chân của một em bé giữa cái rét buốt của trời đông. Một chân đi chiếc tất đã rách vài chỗ, một chân đi chiếc găng tay nhỏ xíu tới mức chỉ vừa cho nửa bàn chân của cô bé khiến nửa kia tím lại vì lạnh. 
Nhìn mà xót xa quá. Thời tiết mùa lạnh, với nhiều bạn trẻ thì thích thú vì được diện những bộ đồ đông đẹp, được ngắm tuyết, được ủ ấm ngủ nướng trong chăn ấm đệm êm, nhưng ở ngoài kia có biết bao nhiêu người, nhất là trẻ em khổ sở vì lạnh giá. Đến cái để đủ ấm cũng không có.
Qua bức ảnh một em bé vùng cao một chân đi chiếc tất thủng lỗ chỗ, một chân xỏ vào chiếc găng tay bé xíu lấm lem, cộng đồng mạng đã cùng nhau kêu gọi, chia sẻ "lá lành đùm lá rách" để giúp cho các em trải qua mùa đông giá lạnh này. 
Được biết cô bé trong bức ảnh có tên là Huyền, là học sinh của Trường mầm non Hoa Ban 2, điểm trường Huối Lè, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, TP Sơn La. Tại nơi đây, gia đình các em đều khó khăn, thiếu thốn và không có đủ áo ấm để mặc. 
Cô giáo Tòng Hằng, người đã chụp và chia sẻ bức ảnh đó cho biết: "Em bé trong ảnh tên là Huyền, người Khơ Mú, là học sinh của lớp mình. Dạo này trời lạnh quá, nhìn thấy em đi tất như vậy mình thương quá không biết làm sao. 
Lớp học của mình cách trung tâm khoảng 7 km, lớp có 36 em học sinh. Bình thường, các em ở đây còn chẳng có giầy đi, nhà nào khá hơn thì có dép tổ ong, còn lại toàn đi chân đất thôi. Đợt này rét về nên các em phải làm vậy cho ấm hơn đó. Thời tiết trên này lạnh lắm, nếu nói là có đủ ấm không chắc là không thể đủ được, lớp học lại không đảm bảo nữa", cô Hằng chia sẻ.
 
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2015/12/buoc-chan-viet-nam.html#more

Một kiểu cầm quyền không giống ai

Một kiểu cầm quyền không giống ai

Chẳng nước nào có cái kiểu cầm quyền kỳ quặc, độc đáo như ở Việt Nam.

Nhiệm vụ đầu tiên của mọi chính quyền chân chính là bảo vệ công dân nước mình đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, người già, khỏi những bất công, bệnh tật, tai ương, khỏi những hành động phi pháp. Vậy mà hàng ngày, khắp nơi xảy ra bao chuyện bất công nhưng chính quyền CS vẫn vô cảm, còn đứng về phía đàn áp, hiếp đáp dân lành.
Hằng ngày biết bao vụ xử án xảy ra, tại đó Bộ Chính trị và đảng ủy CS các cấp đã quyết định mức án trước, được xã hội gọi là «bản án tiền chế», không có luật sư, hay có luật sư cũng bằng không vì bị cắt lời, các lý lẽ không được cân nhắc, xem xét. Các luật sư bị công an và ác ôn đánh cho đổ máu chỉ vì bênh vực dân theo đúng luật.
Có nước nào như ở Việt Nam các chiến sỹ dũng cảm, yêu nước xuống đường chống bành trướng, theo đúng chính sách công khai của đảng lại bị ngăn chặn, phá phách, bắt bớ, đánh đập đến bị trọng thuơng, bị tù đày dài dài? Có nước nào hai nhạc sỹ sáng tác bài hát chống xâm lăng, cổ vũ lòng yêu nước bất khuất, lẽ công bằng trong cuộc sống, mà bị tù đến hơn 4 và 6 năm? Chính quyền yếu bóng vía sợ cả những câu hát dân gian lên án bọn bành trướng.
Hai lĩnh vực quan trọng nhất có ý nghĩa đối với vận mệnh quốc gia, phát triển đất nước phồn vinh là lĩnh vực giáo dục và y tế lại bê bối, chậm tiến và bệ rạc đến cùng cực. Ở đó lúc nhúc những giáo sư, phó giáo sư «dỏm», những «tiến sỹ giả» làm nòng cốt, một bộ trưởng giáo dục bất tài, mất gốc đến độ muốn cắt giảm, lược bỏ môn Sử học là môn quyết định nhân cách của công dân. Một nền y tế tồi bại, lẽ ra phải chiếu cố người nghèo bất hạnh, chữa miễn phí cho những bệnh hiểm nghèo như ở mọi nước văn minh, thì trái lại người nghèo, người mắc bệnh nan y lâm vào bế tắc, phải nằm chung 2 người một giường, nhiều khi còn phải trải chiếu nằm dưới gầm giường trong cơn cùng cực.
Trong khi chính quyền mọi nước coi việc thu chi ngân sách là trọng yếu nhất, là huyết mạch quốc gia, thì ở Việt Nam việc thu chi của nhà nước luôn mù mờ, không minh bạch, rò rỉ lớn ở mọi cấp, vì cơ quan thu thuế, hải quan, tài chính, ngân hàng, thanh tra, kiểm sát đều trong tay «đảng cầm quyền» - thực tế là «đảng cầm tiền» - tha hồ chi tiêu, tàn phá nền tài chính đến tận gốc. Ở mọi cấp các cơ quan tài chính kế toán đều có 3,4 loại sổ sách kế toán khác hẳn nhau tuy cùng một nội dung, thu gốc đã bị xà xẻo, rồi báo cáo lên cấp trên một bản kế toán ma thứ nhất, lên quận cấu véo thêm một khoản lớn, làm bản kế toán ma thứ hai, thứ ba, rồi lên tỉnh, lên Bộ Tài chính lại có bản kế toán khác hẳn, ra đến Quốc hội chỉ là con số ma, con số chết. Đã vậy một nền tài chính tong teo lại bị chi tiêu ngông ngênh, bỏ ra hàng nghìn tỷ xây trụ sở tỉnh và tượng đài kỷ niệm; phí tổn xây cầu đường lên đến hàng tỷ mỗi mét; số xe các quan lớn dùng lên đến 40 ngàn chiếc, lương lái xe và chi phí xăng dầu bảo quản hàng năm lên đến hàng tỷ đô la, trong khi trường học nhếch nhác, học sinh đói khổ vượt sông đến trường bằng cách đu dây, lương giáo viên trả chậm đến 3, 4 tháng.
Chính quyền kêu gọi đến khản cổ công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, hiện đại hóa… nhưng thực tế đến nay không làm nổi một chiếc đinh vít tiên tiến để dùng trong xây dựng cầu cống, nhà cửa, cao ốc, nhà máy.
Một bài báo của một cô nhà báo có tâm huyết nhận định rất đúng rằng «Nhà nước này còn nợ nhân dân, dân tộc bài tóan phát triển hiện đại, để Việt Nam không hổ thẹn với láng giềng gần xa, đi trên con đường phồn vinh và hạnh phúc».
Chính quyền hiện tại còn vô cảm, vô trách nhiệm trong việc thực hiện biên chế nhà nước gọn, nhẹ, có năng suất cao, dù luôn «kêu gọi giảm biên chế nhưng sau đó luôn luôn là tăng ghế nhà ăn» đến độ phi lý nhất. Hơn 10 năm trước Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã báo động là biên chế phình quá lớn đến độ dị dạng, riêng số viên chức ăn lương một tỉnh như Thanh Hóa đã bằng biên chế của toàn bộ Phủ Toàn quyền Đông Dương cai trị cả 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia năm 1944.
Báo Đất Việt ngày 13/12 đã báo động là Hoa Kỳ, một nước có diện tích rộng gần gấp 30 lần và dân số đông gần gấp 4 lần so với Việt Nam, vậy mà Hoa Kỳ chỉ có 2,1 triệu viên chức ăn lương (chưa kể quân đội), trong khi đó ở Việt Nam hiện nay có số viên chức ăn lương là 2,8 triệu. Hoa Kỳ có bộ máy cầm quyền thực sự tinh nhạy, trong sạch, có hiệu quả. Nếu Việt Nam cũng đào tạo được những viên chức thành thạo công việc và có tinh thần trách nhiệm như ở Hoa Kỳ, thì Việt Nam chỉ cần có gần 1 triệu viên chức là đủ, có thể giảm biên nhà nước đến 2 triệu người.
Vấn đề quản lý ngân sách, chi thu tài chính công khai, minh bạch ở mọi cấp lẽ ra phải là một trong những nội dung lớn nhất trong dự thảo Nghị quyết của Đại Hội XII sắp đến, nhưng nó bị chìm nghỉm, không thấy tăm hơi đâu cả.
Cầm quyền mà bỏ qua các vấn đề hệ trọng quyết định là tài chính, ngân sách, biên chế, chi cho giáo dục, y tế là ưu tiên, đào tạo công nhân kỹ thuật viên chức theo kịp chuẩn mực quốc tế…thì rõ ràng là không cầm quyền, là bỏ mặc đất nước nổi trôi vô vọng, với biết bao bất công, phi lý xảy ra hàng ngày, khắp nơi, đè nặng lên cuộc sống của mỗi công dân, mỗi gia đình trong xã hội bất hạnh chưa tìm ra lối thoát.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng đảng CS «không cầm quyền», bỏ mặc cho chính quyền bê tha, như tê liệt, chính là do viên chức càng trên cao càng mê mải «cầm tiền» quá nhiều trong một xã hội bất công, quá ư lạc hậu.

* Blog của nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/mot-kieu-cam-quyen-khong-giong-ai/3112460.html

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

OPERASION LINK BACKER- HÀNH QUÂN B.52- KHÔNG CẦN CHIẾN THẮNG!?


 
OPERASION LINK BACKER- HÀNH QUÂN B.52- KHÔNG CẦN CHIẾN THẮNG!?

Chiến dịch hành quân: OPERATION LINK BACKER ii,tại Hà Nội, gọi là hành quân không cần chiến thắng. Đó là cuộc đội bomb san bằng Hà Nội bằng B.52 của Hoa Kỳ, suốt 12 ngày đêm không chiến. Nhằm để đưa Lê Đức Thọ của Cộng Sản Bắc Việt trở về bàn hội nghị Ba Lê, để ký kết Hiệp Định Paris/73. Và bắt Miển Nam VNCH, Nguyễn Vă Thiệu đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt.
Thay vì CSBV, tại Hà Nội bị dội bom, phải đầu hàng đầu hàng không lực B. 52 Hoa Kỳ, với bức công điện: " Đầu hàng vô điều kiện " được gởi về Bộ TTM Hoa Kỳ, đặt tại Sài Gòn. Nhưng anh Bạn đồng minh Mỹ không muốn chấp nhận sự đầu hàng này từ phía CSBVN.
Vì Hoa Kỳ muốn đội bom Hà Nội, là để hù dọa Việt Cộng miền Bắc không còn ảo tưởng chiến thắng được Miền Nam VNCH- Vì có Mỹ dở đầu- và như Trung Quốc ra mệnh lệnh " Giải phóng miền Nam VN " Và, ngược lại, Hoa kỳ muốn làm giá " Mặt Hàng Miền Nam VN" là món hàng rất có giá trị, muốn bán và trao đổi với thị trường tiêu thụ đông dân Trung Quốc. Nếu Trung Quốc Cộng Sản được làm chủ Đông Dương- Việt- Miên- Lào trong đó có cả Miền Nam VNCH, là Hoa Kỳ Trung Quốc, có chia nhau ảnh hưởng quyền lợi kinh tế châu Á Thái bình dương, thì thế giới này mới được an ổn trong hòa bình... trong vòng tay của siêu cường quốc MỸ- Trung.
Trong Chiến Tranh VN, Mỹ chủ động hầu hết các mặt trận, từ trên không, xuống dưới biển, đều do Không Quân và Hải quân Hoa Kỳ nắm giữ và do Mỹ chủ động chiến tranh. Quân VN không có quyết định thắng thua trên chiến trường, mà chỉ là tự vệ, phản công khi nguy hiễm cần thiết trước quân thù VC tấn công mà thôi.
Chiến tranh VN kết thúc trong buồn tủi và hận lòng của người lính chiến QL.VNCH, là do Hoa Kỳ không muốn chiến đấu và " Không muốn chiến thắng " vì tự do VN, chỉ muốn là mặt hàng hóa trao đổi thị trường kinh tế béo bở Trung Quốc mà thôi.
Huỳnh Mai St.8872

Nam Nguyen Hoang Dao với Phạm Đăng Quỳnh và 66 người khác.
20 Tháng 12 2013 lúc 11:07 ·

NHỮNG QUY ĐỊNH PHI CÔNG MỸ PHẢI TUÂN THEO ĐỂ TRÁNH NÉM BOM VÀO NHỮNG CƠ SỞ DÂN CƯ KHI THAM CHIẾN Ở VIỆTNam

(Các bạn chú ý phần cmt của chú Hoàng Ngọc Diêu đã đưa ra những dẫn chứng để xác định các thông tin dưới đây)

Trong tất cả các cuộc dội bom ở Bắc Việt, Mỹ đã tránh không muốn làm Bắc Việt đổ nát mà chỉ dội bom theo lối trói tay phi công. Mỹ nổi tiếng là gởi quân tham chiến nhưng luôn luôn trói tay lính của họ bằng đủ mọi thứ gọi là "rules of engagement". Nào là "thou shall not fire unless you're fired upon". Nào là tránh xa khu dân cư và nhà thương, hoặc những khu vực có giá trị lịch sử... dù là của địch quân.
* Thậm chí còn có quy định : phi cơ Mỹ không được rượt theo và bắn phía sau phi cơ Bắc Việt nếu phi cơ Bắc Việt quay đầu chạy và còn cách Gia Lâm khoảng 10 hay 15 cây số gì đó

Phi công Mỹ thời đó rất thất vọng và chán nãn vì họ là người phải lái máy bay vào lằn tên lửa đạn. Nhưng họ không được quyền chon mục tiêu. Mục tiêu của mỗi phi đội dội bom phải được theo lệnh của Pentagon từ Mỹ chuyển sang. Và các tướng lãnh ngồi chỉ huy cuộc chiến thì lại bị bó buộc kềm chế bởi đám chính trị gia từ tòa Nhà Trắng.

Ngay như những phi vụ MIGCAP (Mig Combat Air Patrol -- tạm gọi là Phi vụ Săn Mig) thời đó cũng bị hạn chế tuyệt đối bởi cái gọi là rules of engagement rất là... stupid. Hà nội có một phi trường quân sự chính là Gia Lâm nơi tất cả phi cơ quân sự của Bắc Việt xuất phát và trở về sau mỗi phi vụ. Phi trường Gia Lâm của bắc Việt cũng quan trọng như phi trường quân sự Biên Hòa của VNCH thời đó.

Điều đáng buồn cười là nếu phi cơ Mỹ bay MIGCAP, họ không được bắn phi cơ Migs trước mặt dù họ phát hiện được Migs trên radar. Họ phải chờ có cái gọi là "tally ho", tức là visual sighting, nói rõ hơn là nhận dạng bang mắt. Điều đó rất nguy hiểm cho phi công Mỹ. Vì lúc đó, các loại hỏa tiễn (Việt cộng gọi là tên lửa) vừa được chế tạo và đem thử trong các trận không chiến. Tên lửa thời đó cho dung là tầm xa, tầm trung, hay tầm nhiệt đều không chính xác như các loại được xài bây giờ.

Chẳng những vậy, các nhà vẻ kiểu phản lực cơ chiến đấu của Mỹ đã có một lỗi lầm lớn là họ cho rằng tên lửa là võ khí đôc nhất sẽ được trang bị trên các chiến đấu cơ trong tương lai trong các trận không chiến. Họ đã tước hết các khẩu đại liên và đại bác khi vẽ kiểu và chế tạo phi cơ. Chiến đấu cơ chỉ được trang bị hoàn toàn bằng tên lửa.

Dè đâu đám chính trị gia Mỹ lại bó tay phi công bằng cách cấm không cho giao chiến trước khi phát hiện bogeys (phi cơ địch) bang lối visual sighting. Họ chỉ được quyền giao chiến khi đã confirm là đã "tally ho" đối phương. Ở một vị trí gần sát như vậy, cộng với tốc độ chop nhoáng của phản lực chiến đấu cơ, không cách gì mà phi công có thể có "radar lock" vào đối phướng. Muốn khai hỏa tên lửa với một tỷ lệ khá chính xác, cần phải có confirmed radar lock. Muốn có radar lock phải có khoảng cách tối thiểu. Không có radar lock thì đừng bắn vì chỉ tốn tiền vô ích. Mỗi tên lửa trị giá trên dưới cả triệu đô la thời đó.

Trong khi Phantom của Mỹ chỉ có vài ba trái tên lửa và không có đại bác phòng thân, thời gian đầu, đa số tên lửa trở nên vô giá trị. Mỗi trận đụng độ là phi công Mỹ chỉ trông cậy vào dàn máy phản lức cực mạnh của Phantom để.... chạy chết. Vì Mig bay chậm hơn Phantom. Bù lại, họ có đại bác và đại liên đầy đủ, sẳn sàng cho các trận dog fight (không chiến).

Nói rõ hơn là phi công Mỹ bị gởi ra bắc để bay MIGCAP, nhưng sự thật là ra đó để bị SAM (Surface to Air Missle -- hỏa tiễn địa không) của CSBV bắn mà thôi.

(NGUỒN TIN SƯU TẦM: đc cung cấp bởi fb-er Untamed Valley)