Thứ Năm, 3 tháng 8, 2017

NỖI LÒNG NGƯỜI CHA CHIẾN TRANH!

11-MỘT QUÂN ĐỘI BỊ LÃNG QUÊN!!

Một Quân đội bị Lãng quên: Anh hùng và Bội phản trong QLVNCH

Thứ Sáu, 17 tháng Sáu năm 2016 03:14
nguon:saigonrcho.com
Tác Giả: Andrew Wiest


Trước hết xin cho phép tôi được tri ân hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại đã mời tham dự biến cố tuyệt vời này, và chúng tôi cũng muốn đặc biệt cám ơn ông Lê Tinh Thông vì ông đã bỏ nhiều công sức thực hiện cuộc hội thảo.

Tôi xin được tự giới thiệu là Andrew Wiest, dạy môn “Lịch sử Chiến tranh Việt Nam” tại Đại học Southern Mississipi. Tôi chào đời năm 1960, là vào thời điểm cuối của thế hệ “nhi đồng hậu Thế chiến II” tại Hoa Kỳ. Do đó, tôi còn quá trẻ để phục vụ trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng cuộc chiến ấy vẫn hiện diện quanh tuổi trưởng thành của tôi, nhất là trên các đài truyền hình. Tôi rất muốn học hỏi về cuộc chiến ấy, nhưng các trường từ trung học đến đại học không có nơi nào dạy môn đó cả.

Lịch sử và nhân dân Hoa Kỳ hình như đều muốn quên lãng trận chiến và những người chiến đấu trong chiến tranh đó.

Sau đấy, tôi học môn lịch sử quân sự trong đại học, và chuyên ngành về Thế chiến I. Nhưng tôi cũng kín đáo tự học hỏi về cuộc chiến của thế hệ chúng tôi: Chiến tranh Việt Nam. Để hiểu thấu đáo bí mật này, năm 1997, tôi tình nguyện giảng dạy một lớp về Chiến tranh Việt Nam. Như có thói quen trong các lớp mình dạy, tôi mời một số cựu chiến binh trong trận chiến đến diễn thuyết cho sinh viên. Những câu chuyện họ kể khiến cho tôi xúc động sâu xa. Tôi học được thêm về trận chiến Việt Nam, nhưng vẫn thấy thiếu sót cái gì đó, cho nên vào năm 2000, tôi đem một số cựu chiến binh và sinh viên sang tận Việt Nam để học về cuộc chiến ở ngay tại hiện trường.

Tuy nhiên, trong chuyến du hành đó, một việc rất bất ngờ đã xảy ra.

Tại Huế, tôi gặp ông Phạm Văn Đính, cựu sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, một người đã từng oanh liệt chiến đấu trong nhiều năm, để rồi năm 1972 phải đầu hàng cùng cả đơn vị bị vây hãm trong trận Tấn công mùa Phục sinh “Easter Offensive” [ta gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa]. Và bản thân ông thì chạy qua bên địch.

Khi trở về Hoa Kỳ, tôi gặp ông Trần Ngọc Huế, cũng là cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và chiến hữu của ông Đính. Tuy nhiên, thay vì đầu hàng, ông Huế lại cùng đơn vị chiến đấu đến cùng khi bị địch quân vây hãm trong chiến dịch Lam Sơn 719 tại Lào năm 1971. Ông Huế bị giam 13 năm trong trại tù cộng sản, thêm sáu năm quản thúc tại gia trước khi được đi qua Mỹ.

Với tôi, việc hai người là bạn thâm giao từng chiến đấu bên nhau, lại có hai kết cục quá khác biệt, là một bí mật nữa cần được giải đáp. Tôi sang Việt Nam để tìm hiểu về cuộc chiến tranh của người Hoa Kỳ, nào ngờ lại tìm thấy một cuộc chiến của người Việt Nam.

Sau đó, tôi bắt đầu tìm tòi và nghiên cứu tất cả những gì tôi thấy về miền Nam Việt Nam và trận chiến của họ, nhưng phải chấp nhận một sự thật phũ phàng là mình gần như không tìm thấy gì nhiều về những điều muốn biết. Vai trò của Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến hầu như là một sự vô hình với Tây Phương. Và tôi ý thức được là tôi đã có một dịp may lớn. Lấy cuộc đời của hai ông Đính và Huế làm tâm điểm, tôi quyết định sẽ làm những gì có thể làm được hầu điều chỉnh quan điểm lịch sử sai lầm và thảo lại lịch sử của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Sau sáu năm nghiên cứu và biên soạn của tôi, nhà “New York University” cho xuất bản cuốn “Một Quân đội bị Lãng quên: Anh hùng và Bội phản trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa”, với nội dung trình bày lại phần lớn của cuộc chiến có kết hợp quan điểm của Quân lực Cộng Hòa.

Tôi thường được hỏi, nhất là từ các sinh viên khi họ chuẩn bị đề thi cuối năm, rằng ta có thể thắng trong cuộc chiến Việt Nam không. Và câu trả lời của tôi – xin đừng cho sinh viên của tôi biết! – là một lời khẳng định: chắc chắn!

Thật ra, điều tôi muốn nói là các đơn vị Hoa Kỳ sẽ không thắng được dù nếu cố gắng thêm để đạt được vài thành tích lớn lao. Vì trận chiến Việt Nam không để Hoa Kỳ chiến thắng mà là để miền Nam chiến thắng. Rốt cuộc thì chỉ có Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mới có khả năng chuyển biến thắng lợi chiến thuật ngoài trận địa thành một thắng lợi chiến lược lâu dài.

Với lối suy nghĩ đó, tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta hiểu được miền Nam và bản chất của sự liên minh với Hoa Kỳ, thì mình mới hiểu thấu đáo về chiến tranh Việt Nam. Thay vì bị phủ nhận, miền Nam và quân đội của họ phải là trọng tâm của cuộc chiến. Đã đến lúc trả lại sự công bình cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Quan điểm của quảng đại quần chúng và của nhiều tài liệu lịch sử Tây phương về Quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà tôi tìm thấy đều đơn giản và sai sót trầm trọng. Nhiều chứng liệu lịch sử hoàn toàn gạt bỏ Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong khi một số khác sơ sài đề cập đến Quân lực này thì lại kết án họ là không hiệu quả và tất yếu thất bại dưới tay quân đội cộng sản. Chỉ cần một cái nhìn bao quát, nơi đâu ta cũng thấy công chúng và các chứng liệu lịch sử có ảnh hưởng đều đánh giá miền Nam là suy nhược trầm trọng.

Miền Nam Việt Nam đã gặp chiến tranh suốt thời kỳ ngắn ngủi, từ 1954 đến 1975 – họ không hề có một ngày an bình. Trong cuộc chiến, miền Nam mất hơn 200 ngàn chiến binh, chưa kể chán vạn tổn thất dân sự. Chiến tranh dai dẳng khốc liệt, còn khó khăn hơn mọi hoàn cảnh mà quân đội Hoa Kỳ đã phải đối phó. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, hơn một triệu rưởi người dân miền Nam đã rời bỏ quốc gia thân yêu của họ, và hàng trăm ngàn người bị giam trong các trại tập trung ở miền Bắc. Những chứng cớ không thể chối bỏ này cho ta thấy rằng thay vì hiển nhiên thất bại, miền Nam đã chiến đấu dai dẳng và quyết liệt cho quyền tự do của họ.

Nếu miền Nam đã chiến đấu anh dũng thì vì sao họ không thắng?

Với sự yểm trợ của người khổng lồ Hoa Kỳ, tại sao miền Nam không gieo cho hậu duệ của dân miền Bắc nỗi trăn trở là “vì sao miền Bắc lại thất trận”? Nếu Quân lực Việt Nam Cộng Hoà không có nhược điểm sinh tử và nếu họ có một chút hy vọng kiểm soát trọn quốc gia, thì câu hỏi chúng ta đặt ra lại càng gây khó chịu!
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chỉ là một lý cớ đã bị viện dẫn quá lâu nhằm giải thích sự thất bại của Hoa Kỳ. Và đã đến lúc ta phải xét lại trọn vẹn hơn vai trò của Hoa Kỳ trong sự thất bại của một quốc gia thật ra có hy vọng sống còn.

Các nguyên nhân thất bại của liên minh Mỹ-Việt thật rất phức tạp, quá phức tạp để ta có thể đào sâu trong khuôn khổ của buổi hội thảo. Vả lại, chủ đề nghiên cứu ban đầu của tôi chỉ nhắm vào hai sĩ quan trung cấp trong Quân lực Cộng Hoà và chú trọng vào tình hình chiến sự tại Quân Đoàn I.

Vì vậy, cuốn sách của tôi, hay buổi nói chuyện hôm nay, không có tham vọng trình bày trọn vẹn lịch sử phức tạp của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng cả quyển sách lẫn bài thuyết trình hôm nay có thể nêu ra vài kết luận khái quát về khả năng và lịch sử của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cũng như gợi ý thảo luận về ưu khuyết điểm của sự vận hành và thất bại của liên minh Mỹ-Việt.

Dù có thể là quá khái quát, tôi cần nêu lên hai điểm khởi đầu.

Trước nhất – dù đã chiến đấu trong nhiều năm rồi, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà là một vận dụng bất toàn khi mối quan tâm của Hoa Kỳ vào trận chiến Việt Nam bắt đầu gia tăng vào đầu thập niên 1960. Trong khi quân nhân miền Nam đã chiến đấu can trường thì đa số lãnh đạo cao cấp nhất của Quân lực Cộng Hoà đều bị chính trị hóa và bị phân hóa. Cuộc tranh giành quyền lực nội bộ phương hại nặng nề cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà – đặc biệt là sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ – nên cần được thay đổi từ căn bản.

Thứ hai – dù đầy thiện chí, những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm gây dựng quân đội cho miền Nam cho thấy những hiểu biết phiến diện của họ về thực trạng Việt Nam. Sau chiến tranh Cao Ly, Hoa Kỳ cố lập ra một lực lượng quân sự tại miền Nam với bản chất quá Tây Phương. Thay vì thi hành trong khuôn khổ văn hóa Việt Nam, mà lại lãng quên nhiều triển vọng của hình thái chiến tranh chống nổi dậy, người Mỹ góp phần gây dựng Quân lực Cộng Hoà quanh các đơn vị Bộ binh Mỹ, vốn lệ thuộc vào nguồn tiếp vận dồi dào, vào hỏa lực và kỹ thuật, để đoạt thắng lợi chiến thuật.

Khi xây dựng Quân lực Cộng Hòa như một sức mạnh quy ước, người Mỹ hầu như coi thường khía cạnh phiến loạn của cuộc chiến ở miền Nam, khiến Quân lực Việt Nam Cộng Hoà không sẵn sàng đối phó với cuộc chiến. Chính sách Hoa Kỳ cũng sai lầm khi xây dựng một Quân lực Cộng Hòa dù hữu hiệu cũng quá tốn kém – một quân đội thuộc loại hạng nhất thế giới mà kinh tế miền Nam không thể cáng đáng nổi.

Việc Hoa Kỳ trực tiếp nhập cuộc năm 1965 chỉ làm tình thế thêm rối ren.

Đáng lẽ gửi quân đội đến phối hợp với Quân lực miền Nam tại chiến trường này, Hoa Kỳ lại đưa quân vào giành chiến thắng thay cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Đáng lý là cùng làm việc trong một tập thể để tạo dựng một quân đội và một miền Nam có khả năng vượt qua chiến tranh, quân lực Mỹ lại đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hoà qua bên lề để một mình giành lấy chiến thắng. Quyết định ấy đã gạt Quân lực Cộng Hoà và lãnh đạo quân sự của họ ra ngoài biên, đâm ra trì hoãn và cản trở những cải cách cần thiết.

Chính sách này còn khiến cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà càng tùy thuộc vào Hoa Kỳ về cố vấn, tiếp vận và hỏa lực.

Như ta sẽ thấy, các đơn vị Cộng Hòa đã chiến đấu anh dũng bên các đơn vị đồng minh, và gặt hái nhiều chiến thắng vẻ vang, mà thường bị lãng quên trong lịch sử chung của trận chiến. Tuy nhiên, cho đến năm 1968 chính sách Hoa Kỳ có góp phần tạo ra một Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, dù hữu hiệu về chiến thuật, chỉ được thiết trí để tác chiến bên quân lực Mỹ, thay vì là một quân đội có thể tự tồn tại. Chỉ sau vụ tấn công 1968, khi Hoa Kỳ muốn rút khỏi chiến tranh hơn là bảo đảm sự sống còn của Quân lực miền Nam, họ mới giúp đào tạo một Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có khả năng tự lực tự cường sau khi quân Mỹ triệt thoái. Nhưng việc đó quá trễ, và quá ít.

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và sau đó là Tư lệnh Quân Đoàn I của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, đã tóm lược sự tình như sau: “Gia nhập cuộc chiến với tinh thần và tác phong của một đội cứu hỏa, người Mỹ hăng hái xông vào cứu vãn ngôi nhà Việt Nam khỏi bị thiêu hủy, nhưng không hề quan tâm đến nạn nhân. Cho tới khi ý thức được rằng cả nạn nhân cũng phải được huấn luyện thành người cứu hỏa để cứu lấy ngôi nhà của họ thì Hoa Kỳ mới bắt đếu lưu tâm đến họ. Một khoảng thời gian quí báu đã bị lãng phí. Đến khi các nạn nhân được cấp cứu đã có thể đứng dậy tiến lên vài bước, thì đội cứu hỏa được gọi về trạm của họ”.

Trong khung cảnh đó, khi tìm hiểu kỹ về trường hợp của các ông Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế, tôi có cơ hội nghiên cứu sâu rộng hơn vai trò tác chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.


Đa số sử gia Tây phương về chiến tranh Việt Nam đều điểm lại các bài ký sự chiến trường nổi tiếng, từ trận đánh tại thung lũng Ia Drang năm 1965 đến trận đánh trên đồi Hamburger Hill năm 1969. Các bài tường thuật này thường là xúc động và vinh danh chiến binh Mỹ. Tuy nhiên chúng lại thiếu một yếu tố quan trọng. Trong các trận đó, hầu như Quân lực Cộng Hoà đều bị đồng loạt bỏ quên.

Thực tế thì người chiến binh Cộng Hòa đã hiện diện trên các chiến trường đó. Họ đã từng tác chiến trước khi lính Mỹ tới, rồi họ chiến đấu bên quân lực Mỹ trong hầu hết các trận lớn của cuộc chiến. Để hiểu được tường tận những thịnh suy của cả cuộc chiến, chúng ta phải đưa Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vào khối sử liệu về trận chiến.

Trong buổi nói chuyện ngày hôm nay, tôi chỉ đề cập đến hai trận đánh quan trọng nhất trong cuộc nghiên cứu của tôi để chứng minh là hiển nhiên phải kể đến vai trò của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa một cách đầy đủ hơn trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Cứ chọn bất cứ quyển sách nào về cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 là quý vị cũng có thể thấy rất nhiều tin tức hay dữ kiện về các trận đánh tại thành phố Huế. Trong tất cả các quyển sách đó, tác giả đều ngợi ca Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là đơn vị đã trước hết bảo vệ rồi gan dạ vãn hồi an ninh chung quanh công sự của bộ Tư lệnh MACV của Mỹ. Và đơn vị đã tái chiếm Huế bằng cách đánh đuổi địch từ nhà này xuyên qua nhà khác cũng là Thủy quân Lục chiến Mỹ.

Họ không ngớt lời xưng tụng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn bỏ quên sự tham chiến của các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà.

Các quân nhân Thủy quân Lục chiến Mỹ đã giao tranh rất anh dũng, và đã giải phóng một phần lớn phía Nam sông Hương, và chứng minh được danh tiếng như những đơn vị tinh nhuệ nhất thế giới. Trong trận Tết Mậu Thân oanh liệt đó, Thủy quân Lục chiến Mỹ có 147 chiến binh hy sinh (theo số liệu của ông Keith William Nolan trong cuốn “Battle of Hue – Tet 1968” xuất bản năm 1996, trang 185).

Nhưng cũng trong trận Mậu Thân đó, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà lại ít đươc đề cập đến, dầu họ đã đánh đuổi địch tại nhiều địa điểm nhất, đặc biệt là trong Thành Nội. Thành tích của các đơn vị Việt Nam, với hỏa lực và vũ khí yếu kém hơn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, được minh chứng với Đại đội Hắc Báo của Trần Ngọc Huế và Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 3 của Phạm Văn Đính. Họ chiến thắng các lực lượng Bắc Việt và Cộng sản miền Nam trong một trận chiến dài và gian khổ mà không có sự yểm trợ hỏa lực trực tiếp của các lực lượng đại pháo cơ hữu.

Sau khi chiến trận kết thúc, phía Việt Nam Cộng Hòa có 357 quân nhân tử trận, và giết được 2.642 bộ đội Bắc Việt và cộng sản miền Nam. Không ai có thể nghi ngờ được việc quân nhân Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ chiến đấu cách anh dũng và gian khổ tại Huế. Tuy nhiên, người ta quan niệm rằng trận chiến đó là của người Hoa Kỳ, với sự trợ lực nhỏ của quân lực miền Nam. Đấy là một quan niệm hết sức sai lầm.

Trận đánh giải phóng thành phố Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cơ hội để chúng ta nhìn nhận một cách chính xác và trả cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà những thành quả và danh dự mà họ đã tạo được trong một chiến thắng có thể nói là hào hùng và anh dũng nhất.

Một trận đánh cũng nổi tiếng nhất trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ và trong phim ảnh, là trận chiến tại đồi Hamburger vào năm 1969.

Trong các sách vở hiện có, các tác giả đều mô tả một trận đánh bi thảm và anh dũng của các đơn vị Hoa Kỳ thuộc Tiểu đoàn 3, Sư đoàn 187 Nhảy Dù, nhằm tái chiếm ngọn đồi đã bị các quân nhân Bắc Việt cuồng tín chiếm giữ suốt mười ngày. Khi gần thoái chí thì các quân nhân Mỹ lại tìm ra phương cách chiến thắng quân địch, và chiếm được vị trí oai hùng trong quân sử Hoa Kỳ từ cuộc chiến Việt Nam.

Tuy nhiên, sự thực lại khác hẳn.

Chính Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3 của Sư đoàn I Bộ binh Việt Nam – dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Đính – đã tiến chiếm đỉnh đồi trước. Để rồi được điều động đi nơi khác mà “nhường” chiến thắng lại cho lực lượng Hoa Kỳ.

Chỉ với hai thí dụ cụ thể đó để làm điểm tựa, chúng ta có thể thấy được rằng muốn hiểu biết rõ ràng và thâm sâu về chiến tranh Việt Nam, ta phải kể đến sự tham gia của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vào lịch sử của chiến tranh Việt Nam.

Sau Tết Mậu Thân, vai trò của Quân lực này trong trận chiến đã thay đổi một cách rõ rệt. Đa số người lính Cộng Hoà nghĩ là họ đã thắng trận chiến chống quân cộng sản tại miền Nam từ năm 1969. Đa số các vùng nông thôn đều bình yên, và địch thủ đang lẩn trốn. Về phần hai ông Đính và Huế, họ nghĩ rằng bước tiến sắp tới sẽ là tiến qua Lào hoặc tấn công ra Bắc Việt để đánh vào gốc. Cũng như các chiến hữu trong Quân lực, họ rất ngạc nhiên vì đáng lẽ tiếp tục tiến mạnh thì người Mỹ lại bắt đầu rút lui: một hành động làm thay đổi toàn diện cục diện của chiến tranh Việt Nam.

Đa số các sử gia người Mỹ về chiến tranh Việt Nam không mấy để ý đến trận chiến sau năm 1970, vì cho rằng thảm kịch của Hoa Kỳ sắp sửa hạ màn. Nhưng, thảm kịch của quốc gia Việt Nam mới chỉ bắt đầu. Những trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến chưa khai diễn, những trận chiến ít được truyền thông và báo chí Tây Phương theo dõi – mà lại là những trận then chốt để hiểu được vì sao chiến tranh Việt Nam lại kết thúc như vậy.

Vì không còn nhiều thời gian duyệt xét lại từng trận đánh lớn, tôi sẽ nhắc đến hai trận đánh nổi bật nhất trong công việc nghiên cứu của riêng tôi: trận Lam Sơn 719 vào đất Lào và trận tổng tấn công mùa Phục Sinh, gọi là Eastern Offensive vào năm 1972 [mà người Việt gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa).

Trong trận đánh sang Lào năm 1971, lần đầu tiên Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tung các đại đơn vị vào đất địch mà không có cố vấn Hoa Kỳ. Trong trận chiến, quân đội Việt Nam đã tỏ ra rất hùng mạnh. Trước một địch thủ đông hơn, với khí giới tối tân hơn do khối cộng sản cung cấp, các quân nhân miền Nam đã kiên trì chiến đấu, được thể hiện qua kinh nghiệm của Trần Ngọc Huế. Ông Huế, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, thuộc Trung đoàn 2 của Quân đoàn I Bộ binh, đã cùng đơn vị của ông phải giải vây sau sáu lần bị địch bao vây, trước khi Huế bị trọng thương. Chỉ có 26 người còn sống sót trở lại Việt Nam, trong khi Huế bị bắt làm tù binh và bị giam 13 năm trong các trại tù cộng sản tại miền Bắc.

Kinh nghiệm của chiến dịch Lam Sơn 719 cũng cho thấy là quân lực Việt Nam chưa sẵn sàng để sống còn một mình. Họ có vấn đề lãnh đạo ở cấp cao nhất. Và vẫn phải tùy thuộc vào hỏa lực yểm trợ của Hoa Kỳ, là những khó khăn có thể giải quyết được trong tương lai. Thay vì bổ khuyết và sửa chữa các khó khăn này, Hoa Kỳ lại càng rút quân nhanh chóng hơn.

Vào mùa Phục Sinh năm 1972, quân đội Bắc Việt tung toàn lực vào Nam với hy vọng mau chóng kết thúc trận chiến. Mặc dù bị thiệt hại nhiều lúc đầu, quân lực Việt Nam đã chống trả mãnh liệt tại các chiến trường Quảng Trị, Kontum và An Lộc – những trận chiến gần như không được biết tại Hoa Kỳ. Không có bất cứ trợ giúp nào của binh lính Mỹ tại trận địa, chỉ có các cố vấn Mỹ và hỏa lực Hoa Kỳ, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã dứt khoát đánh bại địch quân trên ngần ấy mặt trận.

Với quân cộng sản miền Nam bị triệt hạ, hai chiến dịch Lam Sơn 719 và tái chiếm cổ thành Quảng Trị chứng minh cho thế giới thấy Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, với sự cố vấn và yểm trợ của Hoa Kỳ, vẫn có thể đương đầu với quân Bắc Việt.

Trên một số phương diện, hệ thống kết hợp này đã thành công. Quân lực Việt Nam từng được đào tạo để chiến đấu bên lực lượng Bộ binh Hoa Kỳ. Bây giờ, việc hợp tác giữa nhân lực Việt Nam và hỏa lực Mỹ đã chứng tỏ sự công hiệu, nhất là trong trận tấn công mùa Phục Sinh. Nhưng người Mỹ đã quá mỏi mệt với “trận chiến của họ”, nên nhanh chóng rút cả cố vấn lẫn sự yểm trợ hỏa lực ra khỏi chiến tranh. Cuối cùng, họ cắt giảm luôn viện trợ tài chánh cho Việt Nam.

Hoa Kỳ đã bỏ ra nhiều thời gian và công sức giúp cho việc đào tạo một Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể chiến đấu trong một liên minh bên cạnh quân lực Hoa Kỳ, với Hoa Kỳ giữ vai chính. Quân lực Cộng Hoà chiến đấu rất giỏi trong cái thế phân công ấy, và thắng bao nhiêu trận mà hoàn toàn bị Tây Phương phủ nhận. Vào giai đoạn cuối của trận chiến, liên minh ấy đã vất vả tiến gần chiến thắng thực sự. Nhưng chẳng may, người đồng minh chỉ đạo lại bỏ cuộc, để quân lực Việt Nam trong một hoàn cảnh mà họ không hề được huấn luyện để đảm nhiệm – là đơn phương chiến đấu. Với thời gian, họ sẽ thích ứng để đảm đương vai trò mới đó. Nhưng việc Hoa Kỳ rút hết viện trợ quân sự và tài chánh lại không cho Quân lực miền Nam khoảng thời gian thích ứng này.

Hoa Kỳ tháo chạy quá nhanh, để Quân lực Việt Nam Cộng Hoà có thể tồn tại một mình.

Để hiểu biết tường tận trận chiến Việt Nam, chúng ta phải nói đến Quân lực Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến. Một điều mà tôi hy vọng rằng quyển sách của tôi có thể làm là chứng minh Quân lực miền Nam đã chiến đấu cam go và bền bỉ cho nền độc lập của Việt Nam Cộng Hòa. Quân lực Việt Nam có thể thắng trận chiến, và xứng đáng được hưởng một số phận khác.

Tôi muốn kết thúc phần phát biểu của tôi bằng cách cám ơn một lần nữa tất cả quý vị đã cho tôi cơ hội nói chuyện hôm nay, bằng cách chào kính các cựu quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Quý vị là bậc anh hùng, và tôi vinh dự được là kẻ tường thuật.


“VIETNAM’S FORGOTTEN ARMY” By Andrew Wiest

Release Date: 12/1/2007

Vietnams Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN chronicles the lives of Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue, two of the brightest young stars in the Army of the Republic of Vietnam (ARVN). Both men fought with valor in a war that seemed to have no end, exemplifying ARVN bravery and determination that is largely forgotten or ignored in the West. However, while Hue fought until he was captured by the North Vietnamese Army and then endured thirteen years of captivity, Dinh surrendered and defected to the enemy, for whom he served as a teacher in the reeducation of his former ARVN comrades.

An understanding of how two lives that were so similar diverged so dramatically provides a lens through which to understand the ARVN and South Vietnams complex relationship with Americas government and military. The lives of Dinh and Hue reflect the ARVNs battlefield successes, from the recapture of the Citadel in Hue City in the Tet Offensive of 1968, to Dinhs unheralded role in the seizure of Hamburger Hill a year later. However, their careers expose an ARVN that was over-politicized, tactically flawed, and dependent on American logistical and firepower support. Marginalized within an American war, ARVN faced a grim fate as U.S. forces began to exit the conflict. As the structure of the ARVN/U.S. alliance unraveled, Dinh and Hue were left alone to make the most difficult decisions of their lives.

Andrew Wiest weaves historical analysis with a compelling narrative, culled from extensive interviews with Dinh, Hue, and other key figures. Once both military superstars, Dinh is viewed by a traitor by many within the South Vietnamese community, while Hue, an expatriate living in northern Virginia, is seen as a hero who never let go of his ideals. Their experiences and legacies mirror that of the ARVNs rise and fall as well as the tragic history of South Vietnam.

About the Author:

Andrew Wiest is Professor of History and Co-Director of the Center for the Study of War and Society at the University of Southern Mississippi. He is co-editor of War in the Age of Technology: Myriad Faces of Modern Armed Combat (NYU Press, 2001) and author or co-author of numerous books, including Rolling Thunder in a Gentle Land: The Vietnam War Revisited, Atlas of World War II, and The Vietnam War, 1959 – 1975. He lives in Hattiesburg, MS.

• “Exceptional, both in content and readability. Vietnam’s Forgotten Army addresses one of the lacunas in the historiography of the war — the story of the South Vietnamese soldier, a story that more often than not is totally ignored or only given the briefest of consideration. The author’s vivid description of combat and its toll put a human face on what for many historians is merely a clinical discussion of unit moves, victories and defeats.” (James H. Willbanks, Director, Department of Military History, U.S. Army Command and General Staff College)

• “Vietnam’s Forgotten Army offers a compelling account of two heroic ARVN officers who, in the final years of the war, choose diametrically opposed courses of action. One surrenders, and enjoys a relatively easy subsequent life, but is plagued by guilt. His comrade-in-arms remains true to the Republic, suffers many years of separation, imprisonment and deprivation, but ultimately finds fulfillment. In the process of telling this remarkable story, Wiest offers a better understanding of the trials and travails of those who served in the Armed Forces of the Republic of Vietnam.” (James R. Reckner, Director, The Vietnam Center, Texas Tech University)


 Andrew Wiest

***********

12- Tác giả cuốn "Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên"
trả lời phỏng vấn RFA
Nguyễn Khanh, phóng viên đài RFA

Quyển sách viết bằng Anh Ngữ mang nhan đề “Việt Nam , Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên: Anh Hùng Và Kẻ Phản Bội Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” do Giáo Sư Tiến Sĩ Sử Học Andrew Wiest viết, mới được ra mắt hôm Chủ Nhật vừa rồi. Ngay sau buổi ra mắt sách, Tiến Sĩ Wiest đã dành cho Nguyễn Khanh của Ban Việt Ngữ chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt sau đây.

Nguyễn Khanh: Là người chào đời trong thập niên 60, ông đâu có liên hệ gì với cuộc chiến Việt Nam . Tại sao ông lại viết quyển sách về cuộc chiến ông không hề liên quan?


Tiến sĩ Andrew Wiest: Mặc dù lúc đó tôi còn quá nhỏ, nhưng phải nói là tôi lớn lên với cuộc chiến Việt Nam . Lúc đó truyền hình, báo chí lúc nào cũng nói đến cuộc chiến, và cuộc chiến này có ảnh hưởng sâu đậm với những người lớn tuổi hơn tôi.


Ðây là cuộc chiến mang nhiều bí mật. Một cuộc chiến hầu như không được giảng dậy trong lớp học, không được viết thành sách để những thế hệ sau này có thể hiểu những chuyện gì đã xảy ra, một cuộc chiến mà theo tôi, hình như chính người Mỹ muốn quên đi, quên càng nhanh càng tốt, không ai muốn nói tới nó. Chính những bí mật đó đã khiến tôi chú ý đến cuộc chiến Việt Nam .

Khi tôi quyết định theo học các lớp sử quân sự, tôi hy vọng sẽ được giảng dậy về cuộc chiến này, nhưng chẳng ai nói tới cả. Tôi có cảm tưởng là mọi người muốn bảo tôi rằng quên nó đi, đừng nhắc tới làm gì, và điều đó lại làm tôi càng phải chú ý hơn.

Nguyễn Khanh: như vậy, phải chăng qua quyển sách này, ông muốn cho người đọc một cáinhìn, một hiểu biết đúng về cuộc chiến? Một cái nhìn, một hiểu biết cân bằng hơn?

Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi hy vọng như vậy. Trong quyển sách, tôi có trình bày là quân đội miền Nam Việt Nam không được sử sách nhắc đến gì mấy, hoặc là quân đội miền Nam Việt Nam không được trình bày một cách cặn kẽ trước người đọc Mỹ. Vì thế trong quyển sách này, tôi giới thiệu đến người đọc hai nhân vật của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một anh hùng, một phản bội, và hy vọng từ đó tất cả mọi người nhìn cuộc chiến dưới những góc nhìn khác nhau.

Tôi cũng hy vọng là hình ảnh tương phản tuyệt đối và đặc biệt này, anh hùng tuyệt đối, phản bội cũng tuyệt đối, sẽ giúp tôi trình bày câu chuyện trong một khung cảnh báo quát hơn.

Nguyễn Khanh: nhưng thưa Giáo Sư, cuộc chiến kết thúc đã gần 33 năm rồi, các vết thương có lẽ cũng đã lành. Ở thời điểm như vậy mà ông vẫn bỏ thì giờ để viết về một cuộc chiến chính ông nói mọi người đều muốn quên?

Tiến sĩ Andrew Wiest: phải thành thật mà nói với ông rằng trong bối cảnh chiến tranh thời đó, thì câu chuyện mà tôi tìm được là một câu chuyện tuyệt vời. Khi lớn lên, tôi được đọc biết bao nhiêu chuyện tuyệt diệu nói về cuộc thế chiến thứ Hai, từ chuyện trốn thoát khỏi ngục từ Ðức Quốc Xã, cho đến những câu chuyện anh hùng ở trận chiến Normandy, kể cả chuyện những kẻ phản bội đồng đội.

Khi nghe được câu chuyện của ông Phạm Văn Ðính và chuyện của ông Trần Ngọc Huế, tôi cũng chỉ mong mình kể lại được một câu chuyện đầy sống động liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, về cuộc chiến bị quên lãng.

Những người thật sự liên hệ đến cuộc chiến này chính là những người Việt Nam bị bỏ quên. Họ chiến đấu hết sức mình, chiến đấu dũng cảm hơn cả những người đã tham gia các cuộc chiến trước đó. Họ đã chiến đấu trong niềm tự hào của những kẻ anh hùng, và họ cũng đã chiến đấu trong những nỗi khốn cùng của người không may lâm vào cuộc chiến.

Là một sử gia, tôi quyết định tìm cho được những gì mới về chiến tranh Việt Nam, y hệt như những người đi tìm cái mới khi muốn viết về trận thế chiến thứ Nhất. Có cả tỷ tỷ quyển sách viết về trận thế chiến thứ nhất rồi, trong khi cuộc chiến Việt Nam thì chưa, nên tôi mừng vì tìm thấy được một viên hột xoàn quý giá nằm dưới đáy sông. Thành ra, tôi viết quyển sách với một niềm hứng thú

Nguyễn Khanh: phải chăng vì thế mà một phần quyển sách được ông đặt là “Việt Nam : Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên”? Tại sao họ lại bị bỏ quên và họ bị bỏ quên như thế nào?

Tiến sĩ Andrew Wiest: câu hỏi của ông hay quá!!! Thật ra tựa lúc đầu tôi đề nghị với nhà xuất bản là “Con Ðường Danh Dự” vì có một quyển sách thật hay đã được quay thành phim viết về Thế Chiến Thứ Nhất mang nhan đề là “Con Ðường Vinh Quang”. Tôi dùng “Con Ðường Danh Dự” vì muốn trình bày cho người đọc thấy cả hai nhân vật, một anh hùng, một phản bội đều mang trong lòng ý tưởng “danh dự”, và để cho người đọc phán quyết xem ai là người có thể tin được 

Khi tôi gửi quyển sách đến nhà xuất bản, thì người chịu trách nhiệm đọc và chọn quyển sách nói rằng tựa do tôi đặt không giúp người đọc biết là quyển sách họ cầm trong tay nói về cuộc chiến Việt Nam, cần phải có một cái tựa khác để độc giả biết ngay quyển sách của tôi nói về chuyện gì. Cuối cùng, chúng tôi đồng ý “Việt Nam : Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên” là một tựa sách hay, và chúng tôi cũng đồng ý dùng cả lá cờ vàng 3 sọc đỏ chạy ngay trên bìa quyển sách để tạo lôi cuốn.

Còn về câu hỏi ông đặt ra quân đội này đã bị bỏ quên như thế nào? Thưa ông, họ bị bỏ quên vì chẳng ai viết về họ cả. Thế giới Tây Phương không ai muốn viết, muốn nhắc về họ. Qua tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, điều tôi tìm thấy là một lịch sử đấu tranh anh hùng mà hầu như người khác, chẳng mấy ai biết.

Nguyễn Khanh: và đó là thông điệp mà ông muốn gửi đến người đọc???

Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi nghĩ đây là một thông điệp mạnh mẽ được gửi đến người đọc. Ðương nhiên trong cộng đồng người miền Nam , quân đội này không bao giờ bị bỏ quên. Ðó là một quân đội trong quá khứ có một sức sống mãnh liệt, và sức sống này vẫn còn hiện diện với họ ngày hôm nay cũng như trong tương lai.

Tôi xin kể cho ông nghe một câu chuyện. Mới đây, khi đến thành phố Adelai ở Australia, tôi ghé thăm Ðài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam và nhìn thấy người lính Australia bên cạnh người lính Miền Nam, nhìn thấy lá cờ Australia bên cạnh lá cờ Miền Nam Việt Nam. Nếu đến Ðài Tưởng Niệm ở thủ đô Washington, ông thấy tất cả đều là hình ảnh của người lính Mỹ. Tôi có thể nói là với nhân dân Hoa Kỳ, điều họ nhớ đến là quân đội Mỹ đã từng chiến đấu ở Việt Nam, nhớ những kinh nghiệm từ bài học Việt Nam. Và đó là lý do tại sao tôi lại dùng từ “bị bỏ quên”.

Nguyễn Khanh: tôi có cảm tưởng ông đang muốn làm điều mà tôi xin được gọi là sửa lại lịch sử cho đúng. Thưa ông, có phải như vậy không?

Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi không dùng từ “sửa lại lịch sử” mà tôi muốn dùng từ “đóng góp thêm”. Lịch sử cuộc chiến Việt Nam thường chỉ được trình bầy ở bề nổi, không được trình bầy ở bề sâu. Tôi nghĩ rằng không phải chỉ quyển sách này, mà những quyển sách khác viết về nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, nguyên nhân khu vực, nguyên nhân toàn cầu, nếu người viết thoát được cải vỏ bọc Mỹ Quốc, thì người viết sẽ có được cái nhìn sâu rộng hơn. Tôi tin đó là hướng mà tôi đang đi.

Nguyễn Khanh: sau quyển sách ra mắt ngày hôm nay, quyển sách kế tiếp ông sẽ viết về đề tài gì? Liệu có phải là cuộc chiến Việt Nam nữa không?

Tiến sĩ Andrew Wiest: tôi cũng hy vọng như vậy. Như ông thấy, tôi mất 7 năm trời mới hoàn tất được quyển sách này. Có thể là lần này tôi may mắn tìm được một câu chuyện thật tuyệt vời để kể lại với người đọc, đưa ra được những chứng cớ xác đáng để các nhà sử học dùng làm tài liệu nghiên cứu. Là một nhà sử học, đó là mục tiêu tôi đặt hàng đầu: các nhà sử học khác có tài liệu đích thực để tham khảo, và người đọc có được một quyển sách hay để đọc.

Nếu viết thêm về cuộc chiến Việt Nam, có thể tôi sẽ viết về những người đã được tưởng thưởng các huy chương cao quý của quân đội Hoa Kỳ, như huy chương Sao Bạc, Sao Ðồng. Tìm tài liệu chắc không khó, nhưng viết ra theo cái nhìn của người viết sử thì rất khó. Tôi không muốn viết một quyển sách để sau đó nghe mọi người bảo quyển sách đọc thì hay, nhưng chẳng có gì để đóng góp cho kho tàng sử liệu cả.

Ngay cả chuyện các cố vấn Mỹ cũng là đề tài đáng viết. Sách nói về cuộc chiến đều là sách nói về các trận đánh, và không ai nói về vai trò của các cố vấn Hoa Kỳ cả. Họ cũng thuộc thành phần bị bỏ quên, và tôi tin đó là một quyển sách đáng viết.

Nguyễn Khanh: cám ơn Tiến Sĩ Wiest.
https://sites.google.com/site/cqnucc...-qun-i-b-b-qun

*************

Cuối đời của ông Phạm Văn Đính 

Chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975. 

Tháng 5 năm 1983, sau gần 12 năm bị cầm tù trong các nhà tù Cộng sản kể từ năm 1972 tại Lào, cựu tr/tá quân lực VNCH Trần đình Huế đã được thả về với gia đình.
Ngày 7 tháng 11 năm 1991, ông Huế và gia đình lên máy bay rời khỏi Việt Nam để đến Hoa Kỳ, định cư tại Falls Church, tiểu bang Virginia. Tại đây, vợ chồng ông Huế cùng với 3 người con gái đã bắt đầu một cuộc sống mới sau 20 năm chiến tranh, chia ly, tuyệt vọng và thiếu thốn. 

Về phần viên cựu trung tá ( cả quân lực VNCH lẫn quân đội nhân dân Việt Nam ) Phạm văn Đính, sau khi chiến tranh chấm dứt đã trở về đời sống dân sự, định cư ở thành phố Huế quê hương của cả ông Đính lẫn ông Huế.

Ông Đính vẫn tham gia chính quyền mới với chức vụ nhỏ trong một cơ quan chuyên trách về thể thao, rồi sau đó là một cơ quan kinh tế.

Năm 1989, ông Đính “từ quan”, ra làm doanh nghiệp riêng. Ông mở một công ty vận chuyển nhỏ có tính cách gia đình cùng với các con.

Năm 2001, tương đối thành công trong doanh nghiệp của mình, ông Phạm văn Đính đến Mỹ, theo lời mời của sử gia Andrew Wiest để trả lời những câu hỏi phỏng vấn liên quan đến phần đời quan trọng nhất của ông Đính, và nhất là về quyết định đầu hàng của ông. 

Trong khi ở chính trên quê hương của mình, với chính quyền mà ông đã đầu hàng, tiết kiệm biết bao sinh mạng của cả hai bên tham chiến, ông Đính không được phép kể về sự kiện ấy.

Khi đến Mỹ, ông Đính cũng không được những người từng một thời là chiến hữu của ông, cấp chỉ huy của ông, thuộc quyền của ông, chấp nhận. Họ gọi ông là kẻ phản bội. 

Trở về nước, ông Đính đã qua đời năm 2007 vì tai biến mạch máu não. 


Cho đến chết, bàn tay ông chìa ra với những chiến hữu năm xưa vẫn không có ai nắm lấy.

http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,62353,63856

************

Chuyện Trò Cùng Ðồng Ðội:
Anh hùng và bội phản
Huy Phương

Trước tháng 4 năm 1972, Trung Tá Trần Ngọc Huế và Trung Tá Phạm văn Ðính đều là hai anh hùng của Quân Lực VNCH, cả hai đều đã từng chỉ huy đơn vị tinh nhuệ của SÐ IBB là Ðại Ðội Hắc Báo. 

Năm 1971, Trung Tá Trần Ngọc Huế là Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 2/2 đánh vào Shépone trong cuộc hành quân Lam Sơn 719.

Vị trí của ông đã bị cộng sản tràn ngập và ông bị bắt làm tù binh và bị đưa ra Bắc và ở trong nhà tù 13 năm.

Kẻ bội phản là cựu Trung Tá Phạm Văn Ðính, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 56 (Sư Ðoàn 3BB) tại căn cứ Tân Lâm (Carrol), cuối tháng 4, 1972 đã đầu hàng trước quân đội, không những chỉ đầu hàng mà Trung Tá Ðính đã theo giặc, vì sau đó ông đã lên đài phát thanh Hà Nội kêu gọi các chiến hữu ngày trước của ông buông súng theo “cách mạng” và đeo “quân hàm” trung tá của “Quân Ðội Nhân Dân”.

Ông “được” cộng sản cho làm “quản giáo” tại một trại tù (học tập cải tạo) đang giam giữ những chiến hữu của ông ngày trước.

Sau tháng 4, 1975, ông “Trung Tá” Phạm Văn Ðính vào miền Nam, nhưng sau đó không nghe nói ông nắm đơn vị nào trong quân đội Bắc Việt. Tôi nghĩ dù ngày nay miền Nam đã bị cộng sản thôn tính, dân chúng Huế-Thừa Thiên cũng như người miền Nam đã nhìn ông với đôi mắt ghẻ lạnh, cho đến khi ông qua đời, không biết ông có ngượng ngùng với cái cấp bậc trung tá ông đeo trên cổ áo hay không.

Sau năm 1975, tôi nghe những người cộng sản gọi những nhân vật trong hàng ngũ “chiêu hồi” là những kẻ “đầu hàng phản bội”, không biết họ dùng danh từ gì để gọi ông Trung Tá Phạm Văn Ðính.

Andrew Wiest là một giáo sư sử học tại Ðại Học Southern Mississippi, tác giả nhiều cuốn sách về chiến tranh, trong đó đã có hai cuốn viết về Việt Nam như “The Vietnam War, 1956-1975” (2002), “Rolling Thunder in a Gentle Land: The Vietnam War Revisited” (2006).

Năm nay (2008), ông vừa xuất bản một cuốn sách nhan đề “Vietnam's Forgotten Army- Heroisme anh Betrayal in the ARVN” để nói đến hai nhân vật Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính.

Thoạt đầu người ta giới thiệu Trung Tá Phạm Văn Ðính với ông, cuộc đời của một sĩ quan xuất sắc của VNCH trở thành một kẻ bỏ súng chạy theo địch quân là một đề tài khá hấp dẫn để trở thành một cuốn sách hay về chiến tranh Việt Nam. 

Giáo Sư Andrew Wiest đã mời ông Phạm Văn Ðính sang New Orleans Hoa Kỳ và tổ chức các buổi nói chuyện tại các đại học Hoa Kỳ về đề tài chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên ông đã được sự góp ý của nhiều giới chức Hoa Kỳ hủy bỏ dự định này.

Các sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ hiện nay đã từng là cố vấn trong các đơn vị mà ông Phạm Văn Ðính phục vụ trước kia, đã giới thiệu đến tác giả Andrew Wiest, Trung Tá Trần Ngọc Huế, đã xuất thân từ những đơn vị tương tự như ông Ðính, nhưng đã xứng đáng hơn với danh vị anh hùng.

Cuốn sách được hoàn tất với cuộc đời của hai Trung Tá Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính với những chiến trận lớn tại Vùng I Chiến Thuật mà cả hai đều đã đổ máu cho miền Nam nhưng về sau quyết định của hai người đã đưa họ về những lối rẽ khác nhau.

Ở trong trại tù tập trung của cộng sản dựng lên đầy dẫy ở hai miền Nam Bắc sau tháng 4 năm 1975, các chiến hữu ngày trước của chúng ta cũng đã có rất nhiều anh hùng nhưng không thiếu kẻ bội phản.

Những anh hùng của chúng ta đã đứng thẳng trước kẻ thù, có người đã chấp nhận gông cùm và đã có người hiên ngang trước cái chết.

Trong khi đó có những người gọi là bạn tù của chúng ta đã cam tâm chịu sự sai khiến của bọn cai tù, nhận những chức vụ “tay sai” để hành hạ, đánh đập anh em không thương tiếc, hoặc hèn hạ làm những tên chỉ điểm, mà chúng ta thường gọi chúng là “ăng ten”.

Ra hải ngoại, những người cựu tù nhân chính trị cũng đã nhận định rõ, ai là anh hùng mà ai là những kẻ đầu hàng phản bội trong các nhà tù cộng sản trước đây, chỉ tiếc là những những người này cũng cùng đi một chuyến tàu với chúng ta đến đây, lẫn lộn trong cộng đồng này.

Tuy đã tha thứ nhưng thực là chúng ta không bao giờ quên những khuôn mặt này, và hy vọng họ sẽ thức tỉnh và biết thế nào là và sự khinh rẻ của đồng đội hay đồng bào dành cho những hành vị bội phản, nhất là trong bối cảnh của cộng đồng tỵ nạn cộng sản hiện nay đang manh nha những thái độ đầu hàng hay thỏa hiệp đáng khinh miệt.

http://anhhungvaphanboi.blogspot.com...-boi-phan.html

*************
Originally Posted by Tigon
..........
...............
Về phần viên cựu trung tá ( cả quân lực VNCH lẫn quân đội nhân dân Việt Nam ) Phạm văn Đính, sau khi chiến tranh chấm dứt đã trở về đời sống dân sự, định cư ở thành phố Huế quê hương của cả ông Đính lẫn ông Huế.
Ông Đính vẫn tham gia chính quyền mới với chức vụ nhỏ trong một cơ quan chuyên trách về thể thao, rồi sau đó là một cơ quan kinh tế.
Năm 1989, ông Đính “từ quan”, ra làm doanh nghiệp riêng. Ông mở một công ty vận chuyển nhỏ có tính cách gia đình cùng với các con.
__________

Năm 2001, tương đối thành công trong doanh nghiệp của mình, ông Phạm văn Đính đến Mỹ, theo lời mời của sử gia Andrew Wiest để trả lời những câu hỏi phỏng vấn liên quan đến phần đời quan trọng nhất của ông Đính, và nhất là về quyết định đầu hàng của ông. 
Trong khi ở chính trên quê hương của mình, với chính quyền mà ông đã đầu hàng, tiết kiệm biết bao sinh mạng của cả hai bên tham chiến, ông Đính không được phép kể về sự kiện ấy.
__________
Khi đến Mỹ, ông Đính cũng không được những người từng một thời là chiến hữu của ông, cấp chỉ huy của ông, thuộc quyền của ông, chấp nhận. Họ gọi ông là kẻ phản bội.
____________
Trở về nước, ông Đính đã qua đời năm 2007 vì tai biến mạch máu não. 

Cho đến chết, bàn tay ông chìa ra với những chiến hữu năm xưa vẫn không có ai nắm lấy.


13- CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO


1 (2)CHS/PCT/ ĐN54-60,
Cựu tù nhân cải tạo Chế Văn Thức
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.
Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.
Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU, Biên Hòa.
Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978.
Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao qua ngành công an quản lý.
Tùy tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rão quanh một vòng rồi trở ra ngoài.
Đến 8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, còn tràn đầy sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, tình ca với những chiếc đàn guitar tự chế.
Các toán công an võ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên “ giải tán vào bên trong láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an võ trang bắt đi ba người tù đem ra ngoài khu giam.
Lập tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp Đại úy để thông báo tình hình và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân ra khỏi láng, làm theo những gì bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên ngoài, Giám thị trại vẫn im lìm, bên trong âm thanh hò reo của tù nhân vang dội toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau ba năm do bộ đội quản lý, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại rất dễ dàng.
Đã giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Hòa.
Có tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saigòn giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại lên tiếng:
“Yêu cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào.”
Không ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“ Phải thả người vào trước đã”.
Hai bên, lời qua tiếng lại giằng co mãi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên trì ngồi dưới sương khuya.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm rì, rồi dần dần nghe rõ tiếng xích sắt của xe tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối Máu. Bọn cai tù lượng định tình thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
” Nếu ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ không vào ngủ”.
Tiếng gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ dòn, đạn hú xé không gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước tình huống đã cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo cho Giám thị trại:
”Ngày mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng thời loan báo đến các K:
“Yêu cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LÃNH GẠO VÀ THỰC PHÂM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào.”
Tiếng hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghỉ trước, nhưng không một ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một toán anh nuôi nào có thể cưởng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống còn.
Thấy tình thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù.
Giám thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya lắm rôi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn cỏn va chạm vào trụ cổng K1, của mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo hò gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel, 24 tháng 12 năm 1978, đã là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ còn đúng một tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện về tình hình biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẽ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đòn thù mà chúng sẽ áp dụng.
Sau những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bửa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường vào chiều tối, mọi người đã đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường công an võ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyễn trại”.
Trong đời người tù cải tạo, chuyễn trại là cả một cực hình, một nỗi kinh hoàng không kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh mì bột bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ì ầm của đoàn xe Molotova tiến vào trước cổng trại.
Đoàn xe tù lên đường còn trong đếm tối, mãi đến lúc bình minh ló dạng, chúng tôi mới biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công an võ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa, mỗi chúng tôi cầm khúc bánh mì bo bo ngao ngán.
Người bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách. Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lan, củ mì (sắn) luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết xe chở khách gì, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ý của công an võ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, chìa tiền mua thức ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nhìn thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nĩ các cháu nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đã nổ máy chuyễn đi, họ ném theo lên xe tù những gì họ có trên rổ rá và đứng nhìn theo cho đến khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính lúc này, tôi đang kể lại ký ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng Tư-1975 – Xin nói rõ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lý, không thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xã Tuy Hòa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh vì tôi đã từng hành quân trên Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều. Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề vòng rào lưới B40 và kẽm gai kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lý Trại Giam Trung Ương điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi là hình ảnh gì, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân hình da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! Hình ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người, đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, thì cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù đang lao động giống y chang như vậy. Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động, đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời đã chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nhìn rõ những bộ áo quần tù, xám tro bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà chúng tôi đã nhìn thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đã cởi bỏ áo quần để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành phần tù gì? Họ là ai? Họ là tù hình sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân, công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo vì không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đình. Công tác lao động thường là công trình thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”, cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm sống, giúp đở mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù hình sự trong trại giam Xuân Phước, nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng tôi “liên hệ” với tù hình sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dãy nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một “trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ vãng lai, cũng không thấy khám bệnh. Thì ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên trong liên hồi vọng ra.
Những cháu còn chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân hình da bọc xương, đầu trọc không còn chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng hơi! Dãy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu nhà, chừng 5 met làm thành một phòng nhỏ, phòng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8 chúng tôi, nhìn qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết, quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc, một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng tôi đã vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù hình sự, có tên Đội Tự Giác, dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đã thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lý, mặc dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có thể đi lại đó đây, tìm kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đã kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến lúc vào tay ngành công an quản lý, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng tôi không khác gì so với các cháu tù hình sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu bếp làm cơm do tù hình sự phụ trách. Bửa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực ra nó là những lát mì (củ sắn).
Mì do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát mì tung ra phơi nắng ngay tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió, cát bụi bám đầy. Đến lúc lát mì khô đã đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát mì đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát mì không còn lên men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa. Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đã ươn sình, thối rữa. Lâu lâu, xe tải chở cá vào trại, đã nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3×2 mét, mặt trên bịt kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá không ăn muối cá ươn, ở đây cá đã ươn sình, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước lã, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lãnh, Saigon! Những khi toán anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được, cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi. Tôi không ăn được mắm thối, nhưng cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa Saigon, khuyên tôi:
“Anh không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần cho cơ thể hiện nay”.
Tôi đã đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống còn, phải nhắc đến công lao vô bờ bến của những người vợ. Mãi mãi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỹ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn lội vào trại tù Suối Máu, Biên Hòa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày đầu mới chuyễn đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức ăn do gia đình tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ. May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục tìm những thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi. Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đã khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắn thối mỗi bửa!
CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO.
Từ môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đã kể trên, hầu hết là ở các cháu tù hình sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiễm, tử vong cao.
Người bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục, nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giãi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc men chửa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát khiếp!
Địa ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “ Trại Cải Tạo” dưới chế độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưởng chiếm được Miền Nam, chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những lần tiếp xúc với tù nhân.
Một trong những đòn phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con người, làm cho con người mất hết lý trí, tiêu tan ý chí kháng cự. Nhưng chúng đã lầm!
Nói đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo, khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đã ĐÓI! họ đơn thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu vì lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đòn thù ác nghiệt, có tính toán của cộng sản.
Bao tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau, một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bửa cơm, tôi buồn tình dùng đũa, gõ vào miệng chén, ngâm nga:
Mình ngỡ những chưa ăn
ai ngờ đã ăn rồi.
Mình ngỡ những chưa ăn,
ai ngời đã ăn xong!
Ôi tấm thân tù tội …
Khi viết bài này tôi mới biết, vô tình tôi đã đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “ Tình Nhớ “ (Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng…). Lời tôi đổi, nói lên được tính dã man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các cháu tù hình sự, không còn lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng gì, như dế, châu chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh, phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bửa, có cháu bắt được nhiều mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai rai mỗi ngày.
Trại có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các cháu tù hình sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”, sinh hoạt “có thành tích”!
Đội tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an võ trang theo canh giữ. Sức khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội bòn tỉa được vài chút thức ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dãi hơn. Từ đó các cháu cử hai người đi tìm các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín, mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bửa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không còn. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa giông, các vườn trồng cây mì (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn mì, hái đọt mì cho vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn pin, bước vào gọi lớn: “Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi “ (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu )
Cán bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù hình sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
“Các cháu Đội tự giác ăn canh đọt mì, trúng độc tình trạng rất nguy kịch, xin các bạn ai còn đường, còn đậu xanh, vui lòng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu các cháu”
Gom góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vã quay nhanh trở lại khu giam tù hình sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho nhỏ:
“Cả đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đã chết ngay, may ra còn sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây đó có tiếng sụt sùi vì qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại khóc khi viết đến đây.
Thật vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đã 6 năm, hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng. Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc, các cháu tù hình sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, hì hục kéo qua con đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37 cháu trong Đội tự giác đã chết tối hôm qua,
Khi đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi đầu. Hai công an võ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
– Các anh làm gì vậy, làm gì vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc cho tên công an võ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu đã dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi, nơi đã có nhiều mộ của các cháu tù hình sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính trị chúng tôi cũng đã có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến nay, nghĩa địa này đã nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù hình sự đã bỏ mình trong ngục tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đã siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng. Cầu xin các bạn, các cháu hộ trì lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
California, Tháng Tư Đen 2012
CHS/PCT/ĐN5460
Cựu TNCT Chế Văn Thức


Nguồn: Báo Tổ Quốc

14- NỖI LÒNG NGƯỜI CHA CHIẾN TRANH!
      {Ngày của cha- Father`s day- 17/6/2012}
Hồi ký gởi cho con…!
Nhân ngày Father Day của cha,
17-6-2012
Tg: Huỳnh Mai St.8872
Bh: Dạ Lệ Huỳnh
    Người cha thời chinh chiến. Và người mẹ lúc chiến tranh.
   Suốt 37 năm qua, đây mới là ngày thật sự của cha dám nói lên nỗi lòng của người cha chiến tranh. Vì các cha, và chú các con đã bị dập vùi trong chiến tranh huynh đệ tương tàn, giữa thắng và thua cho cái mất Tự Do, Hòa bình dân tộc trong thế giới lưỡng cực Cộng Sản và Tư Bản.
   Vì tương lai dân tộc và thế hệ tuổi trẻ các con, các chú bác, cha anh, phải hy sinh đời trai trẻ, chiến đấu bảo vệ  độc lập, tự do, hòa bình dân việt trước sự thôn tín của ngoại bang quốc tế Cộng Sản Nga-Tàu. Và vì quyền lợi,cùng sự phản bội đồng minh chiến hữu Hoa Kỳ, đã đưa cha-ông các con vào vòng lao lý tù tội của người Cộng Sản anh em,mất nhân tính, đối xử hận thù dân tộc- “Ngụy Quân ,Ngụy Quyền” Cái ngày “gảy súng tan hàng” bao nhiêu tội lỗi, và lở lầm dân tộc;bị đánh mất Tự Do Miền Nam VNCH, đề bị người dân đổ trút trên đôi vai đầy tránh nhiệm của người chiến sĩ VNCH, thậm chí còn “Đâm sau lưng chiến sĩ” bằng một đòn phản quốc chạy theo Việt cộng nằm vù MTGPMN. Và sẵn sàng bỏ rơi họ trong nhà tù Cộng Sản VN vì họ hết giá trị bảo vệ Tụ Do cho miền nam VN, và mang tất cả ảnh tượng “Xui xẻo, tai họa…!?”, đến nỗi thân nhân, gia đình, bạn bè không dám tiếp xúc tù cải tạo,vì sợ mang họa, mất công ăn việc làm và ghép tội phản động chế độ!-CNXH/CS. Cha bị bắc buộc phải nói lên tất cả sự thật phủ phàng dân tộc, vì cha bị cáo buộc phản động của chính quyền Cộng Sản hóa Miền Nam! bắc nhốt tù cải tạo, mà không ngày tuyên án vì yêu tổ quốc Tự do Việt Nam!?.
    Biết bao nhiêu nỗi oan hờn chế độ đổ trút lên đầu chiến sĩ VNCH. Nó oan hơn cả đám “Dân Oan” bị chính quyền CS/HN đàn áp,cưỡng chế đất đai của người dân có công với cách mạng “Giải phóng Miền Nam VN”, được CS/HN chia chát chiến lợi phẩm đất đai, nhà cửa ruộng vườn dân quân miền Nam. Nay họ không còn gì để mất…!? Trái lại Dân Oan bây giờ mất phần chiến lợi phẩm từ dân miền Nam, lại kêu ngược lại: “Chiến Sĩ VNCH Ơi!!!- các anh hãy cứu chúng tôi với!” có phải chăng, người dân cả nước, dù có là Cộng Sản, hay không Cộng Sản!? đã được phản tỉnh Tự Do, và biết tin yêu dân chủ,nhân quyền và bảo vệ quyền tư hữu người dân của chiến sĩ tự do VNCH.
   Trước vận nước, đổi thay tư tưởng, vì chính nghĩa quốc gia dân tộc của người Việt yêu nước, đã đánh thức tỉnh lòng dân, nhưng tiếc thay trong nước đang tồn tại một số người tuổi trẻ thanh niên rương cột quốc gia. đang chìm ngập trong ăn chơi, bất cần đời, theo chủ nghĩa “Mặc Kê Nô” Sống chết “Cha bây!?”… chì biết có tiền và giá đẹp, xe hơi, nhà lầu. Mặc cho kẽ ăn mày ngoài sương gió, những người khối rách áo ôm,bán từng tấm vé số nuôi thân, của các thương phế binh, cô nhi quả phụ, và các em bé Quốc gia Nghĩa Tử, chie61nn tranh không nhà! Họ là ai!? Là cha mẹ, cô chú, ông bà, anh em ruột thịt đã từng dành dụm chia sẻ từng chén bo bo, từng củ sắn mì, để nuôi họ lớn thành người có sức vốc, lớn khôn. Để rồi! họ “Bưng bô, bợ đít” chạy theo kẽ thù Cộng Sản,phản bội cha ông mình!?
   Nay cũng là ngày của cha, ngày của quốc tế làm cha- Father Day, 17/6/2012. Cha các con,. phải lấy quyền làm cha, nhắc nhở, và đặc trách nhiệm với các con trước cảnh “Quốc gia Hưng vong; thất phu hữu trách” hãy quay trở lại với lương tâm dân tộc, và dừng vô cảm trước dọa đầy dân tộc, trước ngu7oi2 anh em Cộng Sản tán tận lương tâm, trả thù dân tộc theo âm mưu xích hóa giặc Tàu Bắc Phương
   Xin viết ra đây: “ Nỗi lòng của người cha chiến tranh” để tạo một hướng đi đúng trong lòng dân tộc. Và là miền hãnh diện cho tổ quốc mai sau. Vận nước, tự do- dân tộc nằm trong lòng tay tuổi trẻ Việt Mam. Xóa nhòa mặc cảm tội lỗi tiền nhân- Tội tổ tiên- và mạnh dạn; tự tin xây dựng tổ quốc hòa bình; dân tộc tự do!!!
 NGƯỜI LÍNH GIÀ TRÊN XE XÍCH LÔ.

Huỳnh Mai St.8872
Bh Dạ Lệ Huỳnh           
August 23,2011                                         -&-
3:13 PM
    Người lính già trên xe xích lô
Không biết bắt đầu từ đâu để kể lại chuyện đời của một người lính già trên chiếc xe xích lô trong bối cảnh quê hương tàn rồi chinh chiến..!
Sau biến cố lịch sử 30-4-1975 nhà nước CHXHCNVN khuyến khích và cổ động người dân thành phố đi xây dựng vùng kinh tế mới để cai tạo lương thực cho người dân khi quê hương vừa mới “ Giai phóng...”Cũng như hầu hết các Sĩ Quan,quân,dân,cán,chánh chế độ Sàigon dược lệnh tập trung cải tạo của Quân Quản Sàigon trong thời gian ngắn 10 ngày cho đến 01 tháng,tùy theo cấp bậc trong quân đội mà họ đã tham gia chính quyền Sàigon,hầu có điều kiện và tư tưởng tư duy nhận thức và bắt kịp nhip sống đổi mới,gia nhập Xã Hội Chủ Nghĩa- XHCNVN- sau khi gia nhập quyền công dân xã hội mới này...
  Bác Thọ là người Sĩ Quan đồng ngũ Cải Tạo rất tốt và lao động cũng tốt, nên được chính phủ Cách mạng “Khoan hồng”cho trở về xum hợp gia đình sớm các bạn cùng trại.Vì cải tạo dưới 3 năm, chỉ mới được 2 năm 11 tháng 24 ngày nếu tính tới Nóel và tết tây mới đủ 3 năm để đủ tiêu chuẩn tù cải tạo của Cộng Sản thì Mỹ mới chịu chấp nhận rước đi theo diện tị nạn H.O{Humainright-Object]...
  Như vậy bác Thọ cùng số anh em cải tạo khác ra trại sớm đều bị Mỹ đồng minh bỏ rơi thêm một lần nữa!?.Nhưng bác vẫn không lấy làm buồn và sẵn sàng nhận lấy hậu quả trách nhiệm mà mình đã gây ra với dân với nước mà phía Cách Mạng gọi là kẻ thù tay sai “Mỹ- Ngụy” hay Ngụy Quân ,Ngụy quyền .Sự nhục nhã nầy có ai biết và ai hay!?...
 Vì bổn phận và trách nhiệm của một người công dân Xã Hội mới với sự khuyến khích của chính quyền địa phương thành phố phường khóm...nên bác theo vợ con khăn gói gia đình và giao nhà ở trong trại khu gia binh lại cho chính quyền địa phương cùng vợ con và nồi niêu xoong chảo ra đi xây dựng vùng kinh tế mới để xây dựng lại đời mới theo tiếng gọi quê hương XHCN.
   Sau được chính quyền phường-khóm địa phương giải phóng Quận 10 Tp/HCM kêu lên hợp liên tổ trong khu vực thành một hội đồng nhân dân, như một tòa án để cứu xét phục hồi quyền công dân cho đám “Ngụy Quân,Ngụy quyền”học tập cải tạo mới về.Nơi đây khác với cuộc đấu tố thời cải cách ruộng đất nắm 1954 ngoài Bắc.Họ là cán bộ Cộng sản nằm vùng chính quyền địa phương chủ trì phiên xử trong hôi đồng tòa án nhân dân này bắt an hem cải tạo chúng tôi phải tự thú kê khai những hành động làm tay sai cho đế quốc Mỹ;giết hại đồng bào,o ép biểu tình và chống lại nhân dân chống Mỹ giải phóng dân tộc v.v.Họ là kẻ chiến thắng nhờ sự ủng hộ đồng tình của nhân dân Sài gòn/Miền Nam nằm vùng và nuôi dưỡng bao che cho Việt Cộng theo lời xúi giục của chúng,nên có ngày nhục nhả hôm nay của anh em cải tạo chiến sĩ VNCH một đời chiến đấu vì dân ,vì nước,nay bị Việt Cộng sĩ nhục là kẻ phản Quốc trước bà con khu phố mình ở! Thì nổi nhục này nào ai biết chăng trước sự im lặng của đồng bào khu phố mình đang sống.Vì vậy nên phải khăn gói ra đi vùng kinh tế mới để tránh nhục này.Thà chết sướng hơn!Để tỏ lòng căm phẩm và khí tiết của một người quân nhân chiến sĩ VNCH trong buổi hợp khu phố này có anh sĩ quan cải tạo nhà ở sát vách nơi hội trường xét xử cải tạo phục hồi quyền công dân,anh ta ném đá trên mái tole hội trường ầm ầm…làm cắt đứt những lời tự thú không có thật do ép buộc của Việt Công nằm vùng khu phố để được người dân biểu quyết cho phục hồi quyền công dân thì mới đựợc cán bộ VC  địa phương cấp quyền công dân.Tiêng ném đá ầm…ầm! át cả tiếng sĩ nhục.đê hèn này,cam tâm làm nô lệ cộng sản chung cùng người dân bị Cộng Sản đánh lừa vào thiên dàng Xã Nghĩa Cộng sản.Riêng số phận của chiến hữu cải tạo chúng tôi bị các Cờ Đỏ/30 dân phòng lùng xục ví bắt, và trở về báo cáo thủ trưởng hội đồng nhân dân là bọn phản động sợ xét xử của nhân dân nên nhảy từ trên cao mái nhà, rớt xuống đất Tự Tử chết rồi!...Anh em Cải Tạo chúng tôi có mặt trong hôi trường xét xử chỉ biết xót xa,ngâm ngùi cho một khí tiết anh hùng của người lính VNCH và cảm thấy xấu hổ khi cầm lấy tờ giấy sĩ nhục quyền công dân của kẻ thù cộng Sản cấp cho.Tại sao nhục nhả đến vậy!?Phải chăng vì gia đình vợ con phải nhục nhả.Hay kỳ vọng vào sự phục hồi Tự Do dân tộc mà tổ quốc thiêng liêng vinh dự giao phó trách nhiệm cho chiến sĩ VNCH!.
 Suốt mấy năm trời cật lực lao động cả vợ chồng con cái nơi vùng kinh tế mới, cũng không đem lại  cho mãnh đất  mầu mỡ  xinh tươi hơn lên...Thảo nào người dân vùng nầy bỏ đất ra đi cũng vì nơi nầy đồng khô cỏ cháy,đất mặn phèn chua,đất cày lên sỏi đá,cỏ cây còi cọc không mọc nổi.Rắn rít,bò cạp,muỗi rừng,đỉa -vắt lềnh khênh làm vợ con tôi khóc rắm ra rắm rức than khổ đời!cho vợ con “Lính Ngụy”.nơi.mãnh đất không nuôi nổi cuộc sống con người!?...làm bác Thọ buồn mà không nói ra thân phận người lính chiến bại không bảo vệ được cuộc sống vợ con trong cái xã hội lấy sức người “Cày lên sòi đá thành cơm”…Nơi đây là mãnh đất vun thân-Vùng Kinh Tế Mới- cho những mãnh đời cô thân thất thế từ thành phố ra đi cải tạo lao động theo chính sách của người Cộng Sản”Giải phóng Miền Nam”để tránh ngồi mát ăn bát vàng,hay sự trả thù theo lý tưởng Cộng Sản với Dân-Quân Cán Chính Miền Nam!?
Thơ,

Cánh Đồng Tha Phương!

Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huynh

Từ cõi chết trở về trong căm lặng!
Người thân không đón xóm giềng ngẩn ngơ,
Một màu đỏ thắm con tim băng giá,
Lạc lỏng quê hương không chút tình người,
Vinh quang kẻ thắng người tù sỉ nhục!?
Nhìn nhau ứa lệ ngập lòng thương đau,
Cải Tạo-Ngụy Dân…chung đường rẻ lối,
Chuồng nhỏ chuồng to cũng chỉ là chuồng!?
                      ***
Khi xưa tình nghĩa tối đèn tắt lửa!
Ngày nay cháy lửa đèn lòng tối thui,
Gia Binh trại lính…về trong cải tạo!
Cờ đỏ sao vàng che khuất nhà xưa,
Nằm vùng phục kích người đi kinh tế,
Thế chỗ nhà dân Cộng Sản chiếm nhà,
Gồng gánh nhau đi chân rung bụng đói,
Chân trời hoang phế cánh đồng tha phương,
***
Trong trại ngoài tù buồn sao lên mắt!
Đưa tiễn người đi theo diện HO
Bạn tù chiến đấu phục hồi danh dự,
Bỏ lại mình tôi một chút tình khờ!
Trách chi quê hương còn sầu hận quốc,
Cùng nhau ẩm hận suối nguồn núi song
Mai-kia hòa bình quê hương trở lại,
Đồng xanh phủ mộ bạt ngàng lãng quên!
                               ***
Nhìn trăng soi dõi hồn theo lối nhỏ!
Tìm về trận chiến những hố hầm hoang,
Ta biết cỏ cây còn hơn bom dạn,
Dáng đứng ngả nghiêng vết đạn bom cày,
Ta đi tìm lại trăng thề nữa mãnh,
Đường trăng lối nhỏ đủ mãnh trăng soi,
Đồng hoang rực rở trăng vàng lúa chin,
Tha hương rạng rở hẹn một ngày về…!

                                      Huynh Mai
                           {Mùa trăng Kinh tế Mới}
  Còn bác Thọ thì trải thân gánh vác mọi việc thay thế vợ con vì chúng còn nhỏ thiếu học hành nơi rừng sâu nước độc đầy rẩy bom mìn và chất độc da cam do Mỹ khai hoang nơi căn cứ mật khu Việt Cộng nằm vùng.Nay chiến thắng chúng bỏ vùng đất chết này để về thành phô chiếm nhà dân dể ở và đày ải dân thành phố thay thế mạng chúng nơi đồng hoang cỏ cháy này!?...Bà vợ là con nhà giàu tư bản Sàigon,nữ sinh Gia Long trường Áo Tím {có tiếng ngày xưa}nên chân yếu tay mềm không kham nổi công việc đồng áng xó rừng quanh năm vắng bóng người...Còn bác là một quân nhân lính chiến có tinh thần vượt khó và có trách nhiệm tiêu chuẩn sản xuất lương thực có thừa nhưng khổ nổi bác không quen việc hay chuyên môn đồng áng ở nông trường trồng cây lương thực, bác chỉ quen tay cầm súng.Nay súng thay cày thay cuốc thì bác thiếu kinh nghiệm lẩn kỷ thuật trồng trọt làm mất năng xuất lao động sản xuất lương thực theo tiêu chuẩn đề ra của hợp tác xã nông trường.cho xã viên phải đạt yêu cầu.
  Thấy không lợi ích gì cho chính sách cải tạo lương thực do chinh phủ Miền Bắc CS đề ra để cải thiện khẩu phần ăn của người dân ngoài hai món thực phẩm sắn,khoai,cơm độn khi linh tế nhà nước còn khó khăn.Thất bại đó vì hai nguyên do.Một đất xấu không thích hợp cay trồng và con giống...Hai người lao động không chuyên nghiệp không kỹ thuật cánh tác hiệu quả,họ làm với tính cách đối phó để trả nợ "Quỉ thần",vì họ là dân thành phố không quen lao động "ngồi mát ăn bát vàng"chuyên lo buôn bán làm ăn ,thuộc thành phần tiễu thương tư sản mạii bản,đem họ đi lao động sản xuất thay thế nông dân thì sai chức năng tính toán bằng cái đầu óc mưu sinh đem lại phúc lợi cho xã hội mà họ có vai trò trách nhiệm của họ.Thành phần tiểu tư sàn tư nhân,họ lao động bằng trí óc và không ăn bám Xã hội như mọi người Cộng Sản thường quan niệm không đúng,nên dùng chính sách "Vùng kinh tế mới" để "cải tạo lao  động"cho tư bàn  chủ nghĩa Miền Nam,làm sai biệt ý nghĩa tốt đẹp của nhà nước XHCN biết lo cho cái đói, cai no cho dân Miền Nam vừa được giai phóng!???
  Vì không phải chức năng nghề nghiệp nhà nông sản xuất nông sản theo chỉ tiêu nhà nước Cộng sản đề ra trên mỗi đầu người bằng cách tính công chấm điểm nên thất bại hoàn toàn mô hình “ Kinh Tế Mới” của chính quyền giải phóng miền nam.Nên ai muốn ờ lại nông trường kinh tế thì ở .Ai muốn trở về  thành phố thì về…sau khi giao lại đất khu kinh tế mới vừa được thành khoảnh, được dọn dẹp sạch sẻ bomb mìn chiến tranh trở thành khu vườn cây trái và ruộng lúa xum xê chín vàng, nhờ công sức khai hoang khẩn đất của người dân thành phố đi cải tạo lao động miệt mài sau bao năn giải nắng dầm mưa…Đất này giờ trở thành khu nông trường kinh tế của nhà nước đê cấp đất cho đồng bào Miền Bắc vào Nam theo chính sách phân phối đất đai và cải cách ruộng đất đồng đều cho dân miền Bắc thiếu đất trồng trọt và cải thiện lương thực{sắn khoai} cho Miền Nam tiêu dung vì thiếu lương thực…Nếu người dân nào muốn bám đất giữ làng-vì tiếc công khai phá đất hoang thì phải di chuyển vào sâu trong hẻm núi ,lại  phải cất nhà,xây lại trường học và lập khu y-tế, mở đường vận chuyển sản phẩm lương thực thêm một lần nữa mà không ai,người dân kinh tế mới mong muốn khi bị nhà nước giải phóng bắt buộc đuổi dân vào vùng sâu và xa hơn.Đây là hình thức cướp đất và tài sản của cãi lương thực của dân Miền Nam một cách thâm độc, tinh vi của bản chất Công Sản khi giải phóng được miền nam.
   Nhà nước Cộng Sản VC/GPMN không cấm đoán người dân kinh tế khi có chính sách đổi mới và mở rộng thị trường làm ăn với nước ngoài được phía Mỹ bải bỏ lệnh cấm vận và bang giao với Việt Nam 1995 làm cuộc sống người dân sung túc và tinh thần thoải mái hơn hết thời ăn khoai sắn độn cơm !...nên người dân liều bỏ khu kinh tế mới trở về thành phố làm ăn buôn bán sinh nhai bằng sức lao động sản xuất, kinh doanh thích hợp với nghề của chàng hơ cày cấy nơi đồng khô cỏ cháy.Vì vậy họ-Người đi kinh tế- quyết định trở về thành phố sinh sống hơn là phải vào sâu thêm ở vùng xa kinh tế,khi bị nhà nước lấy đất đuổi dân.Và đem dân dân Miền Bắc vào lấn chiếm tạo thành vùng đất hứa theo sách lược bành trướng Cộng sản quốc tế HCM...
   Dân kinh tế mới trở về thành phố,giờ đây là là của HCM và mang tên bác.Họ về với hai bàn tay trắng,quần áo tả tơi với bầy trẻ thơ bụng ỏng,lưng eo, ốm gầy đầy tật bệnh rừng thiêng nước độc:sốt rét rừng và chất độc da cam- Dioxin.Họ về đây để sống trên các vỉa hè,phố chợ bến xe…để tránh gió mưa,mà không còn nơi cư ngụ vì nhà của họ bị cơ quan chính quyền cách mạng chiếm dụng,đuổi đi kinh tế mới dể phân phát lại nhà cửa cho cán bộ miền Bắc vào Nam công tác mang cả vợ con theo có nhà ở để phục vụ nhân dân giải phóng miền Nam.Tất cả nhà của,đất đai của của tiểu tư sản miền nam đều bị chinh quyền cách mạng giải phóng hết về Bắc chỉ còn khoai sắn độn cơm hằng ngày là không thèm giải phóng và nó vẫn cò tự-do dân chủ công khai,bình đẵng hiện diện trong xã hội miền nam và trân trọng trong các bữa ăn hằng ngày đói nghèo của dân miền nam.
   Họ là người kinh tế mới về không có gì để sống!,nên họ chấp nhận kiếp lang thang không nhà, không nghề nghiệp và  cũng không được thừa nhận quyền sống của một công dân của một xã hội chủ nghĩa cộng sản đổi đời họ.Dù cho họ có thật sự là chuyên chính vô sản dúng theo đường lối chính sách của Đãng  và nhà nước cộng sản đề ra chủ nghĩa tam vô quốc tế vô sản:Vô gia cư, vô nghề nghiệp và vô quyền sống vì phân biệt đối xử chế độ.Nay đám người khốn khổ này phải tự tìm kế sinh nhai bằng nhửng nghề mạc kiếp tư bản mà cộng sản tự cho là vô sản cũng không làm,vì họ-cộng sản là chủ nhân ông của miền đất hứa cai trị miền nam,và vì vậy nghề bán vé số,chạy xe ôm kéo xe thồ,làm phu bốc vác bén xe bến tàu là nghề của chàng!-Của người dân miền nam độc chiếm thị trường lao động khổ sai của dân miền cai trị.Người miền nam dù mất quyền tự do sống và chọn nghề nghiệp để sống,nhưng họ không mất tình người trong cuộc sống họ biết nhường cơm xẻ áo cho nhau trng những ngày tang thương đất nước,như nghề xin ăn vỉa hè phố chỉ dành cho các cô nhi tử sĩ,góa phụ chết chồng cuộc chiến miền nam.Hay những người ăn xin đầu đường xó chợ cho các thương phế binh VNCH đã hy sinh một phần thân thê thân thể cho bảo vệ tự-do miền nam chăng may đui mù, cụt tay,cụt chân đang lê lết hè phố trên chiếc xe lăn ọt ẹp kêu gọi tình thương của đồng loại bất cứ phe nào cả cuộc chiến vùa qua với tiếng hát câu ca,lời mời mua vé số thảm thương.Dù cho là Cộng Sản HCM có là thiên đường trần gian ngay tại miền nam này cũng không xóa nhòa hình ảnh đau thương dân tộc mình trong cơn oằn-oại rên xiết trong cái áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai trên cái Tụ-Do Dân Chủ Miền Nam nói riêng và cho cả dân tộc Bắc Nam nói chung.


                Anh thương phế binh vé số ngồi trên chiếc xe tăng tự chế cho cuộc đời mình sau ngày tàn  chinh chiến!

           Hậu thân người lính già trên xe xích- lô

            Bà Mẹ Tử Sĩ VNCH gánh gồng bán rau…nuôi sống một mình... côi cút không nhà!

  Riêng gia đình bác Thọ,người lính cũ Sàigon tiến thoái lưỡng nan không dám quyết định đừng nào,nên ở hay nên về thành phố...Nếu ở lại nông trường kinh tế thì chôn vùi tương lai hai đứa con không học hành và trở nên thất học.Người ở núi rừng còn muốn ra thành phố sống,tại sao phải chôn chặt cuộc đời hai con mình trên mãnh đất khô cằn khó sống này.Nếu cùng nhau bồng bế trở lại chốn cũ,thì nhà đâu để về,nhà cửa đã giao lại cho nhà nước quản lý hết rồi,và đã được chính quyền địa phương bố trí cấp nhà cho cán bộ hết rồi!...
...Rồi  một ngày sau 3 năm gian khổ đói khát,thiếu cái ăn cái mặc nơi khỉ ho cò gáy vắng bóng người vì nơi đây là vùng oanh kích tư -do của máy bay ném bom Mỹ và là nơi giải chất độc Da Cam dioxin khai hoang diệt cỏ triệt phá cơ sở mật khu nằm của cách mạng,nay thì hoang tàn toàn là vùng lá chết héo vàng màu da cam.Người dân kinh tế mới chúng tôi cày lên toàn là mãnh bom đạn trong xình lầy mà cây cối không bao giờ muốn mộc huống chi sự sống con người.?Nhiều lúc người dân kinh tế mới tự hỏi có phải nhà nước thương dân Không?...mà cứ tiếp tục đưa dân miền Bắc vào đây cùng chúng tôi tiếp tục khai hoang lập ấp làm gì cho bị phơi nhiễm chất độc Da Cam,khổ đời con cháu...
  Bác thọ đã có dịp và có lý do chánh đáng!..để trở lại Sàigon bỏ hẳn vùng kinh tế chết người để thoát nạn Da Cam {Dioxin}.và sau này bác biết minh cũng không thoát được phơi nhiễm Da Cam....Bác về Sàigon,mang cả gia đình đi theo để làm hồ sơ và nộp đơn xuất cảnh tái định cư tại Mỹ theo diện H.O{Humainright Obiject} chương trình tỵ nạn của phía Hoa Kỳ có thỏa thuận với Việt Nam,chỉ giành cho các Sĩ Quan Cai Tạo trên 3 năm hay 10 năm cao hơn...mới đạt chuẩn của phía Mỹ lấy người ra đi tái định cư...Còn bác và một số bạn bè cai tạo dưới 3 năm dù có thiếu một ngày dưới 3 năm vẩn bị từ chối thẳng thừng! không cho tham gia chương trình phong vấn H.O được Mỹ rước đi.Mỹ cho rằng chúng tôi "Ở tù non" còn thiếu tháng,thiếu ngày trong sự dạy dổ,trừng phạt lẫn sự trả thù của người cộng sản vì anh còn thiếu tinh thần chiến cho Tự-Do của Miền Nam nước anh !?...Cứ"Bóng đổ thầy, thầy đổ bống" chính giữa  Sĩ Quan Cải Tạo bị ở lại lãnh đủ trách nhiệm đổ lên đầu "làm mất Tư-Do"và bị người anh em Cộn Sản chiến thắng của mình nguyền rủa là tay sai Mỹ Ngụy đau  đớn,thê thảm vô cùng!?,chết không thể nhắm mắt được!?...Nhưng dù sao cũng còn một số người biết  thông cảm đời lính của nhau và biết cái lẽ thắng thua trong luật nhà binh của mấy anh công an sở Ngoại Vụ xuất cảnh CS Việt Nam thương tình thông cảm cho tình thế kẹt cứng của bác Thọ, nên chỉ bảo và mách nhỏ với bác tìm lối thoát tình thế bỏ rơi của Mỹ giúp bác được ra đi...bằng cách chỉnh lại hô sơ và sửa lại bản gốc giấy ra trại từ 2 năm rưởi thành 6 năm rưởi cho quá tiêu chuẩn đề ra để qua mặt phía Mỹ.Để Mỹ khỏi nghi ngờ gian lận hồ sơ thì phải đem về bản gốc tại trại cai tạo nơi đả cấp cho mình mãnh bằng "Đại học máu- Cải Tạo" phải mất 7 cây vàng thì chuyện này mới xong!? làm bác chới với  chết điếng người,lấy đâu ra tiền để mà chạy với chọt..!???
  Nếu có đủ số tiền nầy thì bác Thọ vượt biên từ lâu rồi,theo những chuyến tàu bán chính thức của các chú Ba Tàu Chợ Lớn bỏ tiền ra dút lót công an địa phương thuê mua bến bãi,đi tàu lớn an toàn có công an hộ tống ra khỏi vùng biển quốc tế...có đã ngồi đây năn nỉ kẻ phản bội đồng minh chiến hữu và kẻ thù làn tiền trắng trợn cho cuộc ra đi này không có danh dự  của người lính!.
  Quá thất vọng bác bỏ ra về trong sự nuối tiếc và thương cảm của Công an sở ngoại vụ TP/HCM cho một công dân"mới" vì chuyên chính vô sản không có tiền như bác.Trên đường về trở lại khu phố gia binh không còn nhà,bác đi ngang qua con đường me xưa {Tôn Đức Thắng bây giờ bên cạnh Sở Ngoại vụ và Dinh Độc Lập ngó ra },bác dừng lại và nhặt những quả me già chín rụng mà bác thường hay đùa nghịch,chơi giỡn ngày nào dưới gốc me già lúc thiếu thời còn đi học...nay bác mới biết giá trị và ý nghĩa của trái me già chín rụng giúp cho bác giải khát và đỡ đói lòng như lúc nầy không tiền dính túi mua cơm và khát nước.Chất chua lè của trái me làm bác nhăn mặt như thắm thía cái chua chát cuộc đời bác đang hứng chịu...Cố nuốt vào lòng nhưng sợ chột dạ,bụng đau vì chưa có hạt cơm nào dằn bụng từ lúc sáng đến giờ trước sự chứng kiến lạnh lùng của hàng me già đang thay lá non để loại bỏ những trái me già chín rụng...giữa bầu trời Sàigon đầy mây lảng đãng vô tình trôi qua!?.
      Sài gòn, con đường thả lá me bay trong chiều lộng gió...!
       Con đường me Sài gòn thay lá!.Me già chín rụng ngập đường đi!

...Bác Thọ cố quên đi những gì thân thương của kỹ niệm,nay chính nó cũng muốn lãng quên mình như chính những gốc me già kia...Bác mau chân trở về khu xóm xưa như người chạy trốn một thực tại phủ phàng...Bác nhớ buổi ban sáng,trên chuyến xe đò khuya trở về thành phố,hai đứa con của bác đói bụng lắm nên khi xuống xe tại bến,hai đứa con bác mừng rở vô cùng xen lẩn ngơ ngác và bở ngỡ đáng thương như chú "Máng lên thành" thấy cảnh người tấp nập,buôn bán rộn ràng nơi phố chợ đông người như trong giấc mơ chúng ước được.Đi qua  một hàng bán cơm tấm bì chả trứng chiên,hai đứa dừng lại, thòm thèm muốn ăn mà chả dám xin,sợ ba má la rầy làm xấu hổ trước đám đông .Biết hai con thèm ăn cũng như người vợ yêu quý của bác cũng chả dám kêu chồng cho ăn!...Biết được tâm trạng đói lòng của ba mẹ con nên bác đành bấm bụng rút ruột cái hầu bao,là của tiền chất mót,dành-dụm lâu nay bán bán mấy rẩy bắp ngô, những giồng khoai sắn để lo đi làm hồ sơ xuất cảnh chương trình H.O3.Mong sao được phía mỹ kêu lên phỏng vấn và khám sức khỏe cho ra đi.và thoát được lầm tham khốn khổ của vợ con.
   Kêu chủ quán bốn dỉa cơm tấm chả bì trứng cho cả nhà cùng ăn.Khi bà chủ mang ra,thấy hai đứa con bác đở hai dĩa cơm trong cánh tay bé nhỏ gầy guột run run lên vì đói khát thèm cơm lâu ngày không có ăn...toàn là rau củ luộc cùng sắn khoai thế cơm hằng ngày, nên khi gặp cơm tấm chả bì là món khoái khẩu nhất nên chúng rưng rưng nước mắt vì sung sướng....Bác ngồi đó nhìn hai con ăn ngấu nghiến vét sạch đỉa cơm không cần dạy bảo như hằng ngày.Thấy chúng còn thèm ăn,nên bác san-sớt dĩa cơm của bác phân đôi cho hai đứa ăn tiếp,còn vợ bác nhìn bác bẽn lẻn xấu hổ thấy mà thương!.
  Về lại xóm cũ của khu gia binh ngày xưa không còn nhà để ở vì người ta đã chiếm mất rồi...Thấy vậy người hàng xóm cũ, vốn bạn bè tốt bụng kêu cả nhà bác về tá túc vỉa hè còn trống lối đi.Nhờ thế nên bác che được mái bạt bằng nilon ở tạm không muốn trơ lại chốn rừng xưa khu kinh tế mới...Bạn bè lính tráng ngày xưa trong trại gia binh cố sống nếu kéo lại không đi vùng kinh tế thì khỏi mất nhà!?.Nay thấy bác trở về tất cả đều mừng,mõi người giúp một tay dựng lại cái chòi vĩa hè góp tiền mua cho bác một chiếc xích lô cà tàng làm phương kế sinh sống.Còn vợ bác được các bà hàng xóm rủ nhau ra bến xe miền tây xa cảng cho thuê cân hàng hóa chở về miền lục tỉnh bán buôn,nên cuộc ống dần dần ổn định và còn nuôi thêm một bà mẹ vợ say-xỉn tối ngày,bà say vì nỗi buồn quá bất đắc chí:gia đình bà bị đánh tư sản sập tiệm mấy cửa hàng ngoài chợ, nên chạy về sống tá túc với con gái và ông rễ đạp xích lô như bác Thọ....
  Nhờ chính sách kinh tế nhà nước XHCNVN càng lúc càng cởi mở hơn với nghị định 34 CP thời Vỏ Văn Kiệt  nới lỏng quyền làm ăn cá thể,biết chấp nhận quyền tư hữu tư nhân cho làm ăn và kinh doanh cá thể không vào tập đoàn hợp tác xã,quốc doanh và theo mô hình kinh tế thị trường,nên người dân làm ăn khấm khá hơn lên và chình quyền nhà nước XHCN cũng cởi mở ,tư tưởng thông thoáng hơn.nên bác Thọ với chiếc xe xích lô cà tàng kiếm sống qua ngày và có dịp đi đó đây tiếp xúc với bạn bè cùng mọi thành phần cuộc sống xã hội có liên quan đến anh em cải tạo và các  gia đình cô nhi tử sĩ,các góa phụ và thương thương phế binh VNCH vẫn còn khó khăn trong cuộc sống không bắt kịp nhịp sống xã hội đang tiến lên XHCN mà họ bị đẩy lùi lại đằng sau của sự lạc hậu nghèo nàn trong kinh tế thị trường mở cửa của Việt Nam.Tôi thấy họ vẫn dậm chân tại chỗ,nghèo vẫn hoàn nghèo dù nhà nước Vn nói họ không còn phân biệt đối xử như xưa,có phải chăng chúng ta mất khả năng phục hồi cái tính năng động thị trường kinh doanh làm ăn vốn có sẳn của Miến Nam mà nhà nước XHCN đa chấp nhận kinh tế thị trường tự-do là đúng với sở trường của chúng ta.Là vì những người cải tao và quân dân cán chính VNCH vẫn là kẻ thù truyền kiếp Cộng Sản nên lý lịch đen tối suốt 3 đời con cháu “Ngụy” không chen chân được vào thị trường quốc doanh nhà nước tổ chức,chỉ dàng cho con em liệt sĩ,cán bộ nằm vùng hay có công với cách mạng.. Không trách được xã hội đổi đời Cộng Sản mà sao vẫn còn những  người ăn mày bu  quanh nhửng đại gia tư bản đỏ để xin xõ việc làm và vòi vỉnh xin tiền thù lao chùi rừa chiếc xe bống lộn đắt tiền của đại gia.Họ là những tiến sĩ học bằng cấp đầy người,họ là giam đốc,tổng giám đốc,viên chức chính quyền có đủ mọi bằng cấp học vị đầy đường như kẹt xe  vào giờ cao điểm...
  Ở Sàigon này người ta dể nhận ra người  quen lắm!...cứ ra đường thấy ai đạp xích lô  bán vé số  ăn mày, ăn xin hỏi thăm đường đi là khỏi bị lạc đường vì họ là người cũ Sàigon ,chớ nên hỏi nhầm các đại gia,tiến sĩ,thạc sỉ hay những trí thức xách cặp chỉm chệ,toàn là cán bộ đổi đời xã nghĩa, tuy học vị họ cao nhưng hiểu biết kinh nghiệm sống thua kẽ ăn mày...vì ở nhà cao chì thấy bầu trời là của riêng họ,nên dể đạp nhầm kẽ ăn mày đang quì lạy,xin xỏ dưới chân mình.
Nhờ có chiếc xe xích lô hướng dẫn đường theo khách gọi mời chuyến đi,nên hang cùng xó xỉn nào bác củng biết tin tức cuộc sống dân tình khu phố bác đi qua!Nhưng khi nhin lại chính bàn thân mình, bác không biết là mình bị nhiễm chất độc Da Cam- dioxin- từ lâu rồi khi uống nước suối rừng trong vùng hành quân có nhiều lá chết Da Cam trôi theo dòng suối ,dù có đun sôi,nấu chín hay khử chất cloruaquin cũng vẫn bị phơi nhiễm Dioxin như thường!?vã lại sau giải phóng phải bị đi công trường lao động xây dựng nhà máy Nguyên Tử tại Đà Lạt do Mỹ bỏ lại  phía Bắc Vn vào tiếp thu lò phản ứng hạt nhân và vì không có chuyên gia kỷ thuật nguyên tử về rò rỉ hạt nhân ,nên cứ đưa bừa cao  công nhân vào xây dựng,thiết kế lại nhà máy nguyên tử Đà Lạt.Và không rành kỹ thuật phản ứng hạt nhân và không có chuyên viên giám giám sát nên bị rò rỉ nguyên từ làm cho một số công nhân nhiễm phóng xạ phải bỏ việc trở về nhà vì ói mửa nhức đầu...Từ đó sức khỏe cua bác yếu dần mà không ai có trách nhiệm xét nghiệm để định bệnh Da Cam hay nhiễm phóng xạ  nguyên tử Đà Lạt .dù có khác lạ sức khõe trong người nhưng không phương tiện  không tiền nên đành phó mặc cho số phận đẩy đưa đến cái chết!...Nay thì nó phát tác bệnh mỗi lúc một trâm trọng hơn,bác biết,bác buồn lắm mà không dám cho vợ con,bạn bè hay!chỉ làm lo lắng thêm mà thôi !?
  Mấy lúc gần đây sức khõe bác yếu dần không cho phép bác đạp xich lô nửa,bác thường hay ghế xe nằm ngủ trưa dưới bóng mát của con đường me sau một cuốc đi xa của khách trong một thân thể uể oải mệt nhoài chán nản bị cơn bệnh hành hạ. những lúc bác không đạp nỗi chiếc xích lô vì nó lớn  và năng hơn bác lúc về già đau yếu bệnh hoạn trổi dậy trong thân xác gầy còm ho hen của bác.Có một lần ông chở khách du lịch người Mỹ đi ngang tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ bác cùng hơi kiệt sức không đến dược điểm hẹn đúng giờ của khách Mỹ,bác được người Mỹ to con nặng ký nầy đuổi bác xuông xe và bắt bác leo ngồi tren xe dể cho người mỹ này chở dến diểm hẹn kịp giờ.Bác ngồi trên xe tuy mệt nhưng vẫn thoải mái trong lòng khi thấy người Mỹ giờ đây biết phục vụ lại Việt Nam trong cái lổi lầm phản bội miềm Nam VN để có cái hậu quả đau đớn cho gả phu xe người Việt Nam và thay thế vai trò đạp xích lô đưa người Việt Nam này đến điểm hẹn tương lai mà khách Mỹ muốn đến!? tại Việt Nam.
   Bác Thọ xích lô thấy đây là sự kiện hiếm có xẩy ra cách cư xử rất tình người của người Mỹ phương tây của các nước Tự-Do dân chủ không có phân biệt và có tinh thần bình đăng trong thành phần lao động xã hội .Không như Việt Nam Công sản phân biệt đối xử thành phần xích lô ,vé số, xe ôm, ăn mày là tang dư xã hội Mỹ Ngụy để lại  và không còn chút tình người để lại trong lương tâm của kẻ chiến thắng. Bác Thọ vừa vui lại vừa buồn tủi của hai thái cực cư xử của hai trạng thái kẻ chiến thắng và người phản bội bạn bè…làm cho bác không biết phải giải thích ra sao!? Khi kẻ thù dân tộc chinh là anh em máu ruột có cùng một quê hương tổ quốc và kẻ mình mang ơn trên cùng một chiến tuyến chống cộng lại là kẻ bán đứng Miền Nam của người Mỹ.Trong giây phút suy tư,tinh thần bất định của một thể xác suy kiệt mỗi mòn của bênh tật,bác đạp xe chạy vội đến khu chợ bán rượu cho giới bình dân xích lô, xe ôm hay tụ tập giải buồn băng ly rượu,mua về bằng một chai ba xi đế hảo hạng bằng tất cả số tiền vừa kiếm được của người Mỹ tốt bụng vừa đạp xe chở người vừa trả tiền cho người được chở là bác Thọ.Bác muốn uống rượu một mình nơi con đừng me xưa ấy cho một thời kỹ niệm sài gòn trước chiến tranh.Bác uống rượu một mình với những  trái me già chín rụng  theo từng cơn gió thoảng qua của buổi chiều mưa sắp đến dưới cội me già đang thay lá.
Thơ,
                   CHIẾN SĨ SAY! 
                                Huỳnh-Mai.St.8872
                                   Bh.Dạ lệ Huỳnh
Ảo thực đôi bờ ranh giới chiến tranh,
Dân tình nước Việt kiếp sống mong manh,
Chiến sĩ vì đời Tự-Do chiến đấu,
Sống chết tình vờ ảo-ảnh cơn say,
                      xox
Chiến sĩ, say mới là chiến đấu thực
Trọn tình non nước vẹn nghĩa Tự-Do
Vì say đâu biết đời là phản bội
Sau lưng chiến sĩ thương đau ngút ngàn
                        xox
Qua cơn say thấy đời là cõi thực
Có Tự-Do mới thấy được mình say
Mất Tự-Do rồi vì ai...chiến đấu…!?
Quê hương còn trong giấc ngủ nồng say
                         xox
Rượu nầy ta uống dưới cờ lâm chiến
Cho thật say; không gớm máu cộng thù
Máu loang đỏ thấy lòng mình cũng chết
Tái tê lòng dân Việt tỉnh mà chi
                         xox
Say men chiến đấu xây đời hạnh phúc
Xác thân nầy xây đắp ngày Tự-Do
Có ai thương tiếc phận đời chiến Sĩ
Cuộc chiến tàn rồi ảo ảnh cơn say
                           xox
Sau cơn say Tháng –Tư hồn thức tỉnh
Giữa trời Tự-Do máu đổ đầm đìa
Ta thấy sợ cho lòng người phản bội
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do
                            xox
Chiến sĩ, say trong tay cây súng gảy…
Bẻ súng cong nồng khóc ngất tỉnh say,
Tỉnh thấy chiến bào tả tơi rào thép
Say khói nhìn bội phản cho lòng đau
                        xox
Cơn say chợt tỉnh trong tù cải tạo
Men Tự-Do đâu thắm thế gian tình
Thiên đàng Xã Nghĩa một trời mộng tưởng
Bỏ mặc tù đày ảo ảnh cơn say,
                      xox
Giờ, chiến sĩ say là trong dĩ vãng!
Tìm lại mình nỗi nhớ chiến trương xưa,
Mượn rượu khỏa khuây Đời bất đắc chí,
Kinh kha bại tướng vở mộng không thành,
                          Xox
Chiều Saigon khói bay mùi thịt nướng,
Phồn vinh giả tạo…lủ trẻ ăn-chơi,
Quên đất nước cha ông là chiến sĩ,
Một thời chết dở lủ chó nướng thui…
                      Xox
Hãy chén nó đi vong nô phản quốc,
Chó săn, chó cộng chủ nó xâm-lăng,
Canh tù phát hiện tù nhân trốn trại
Rượt đuổi thuyền nhân tới tận biển khơi,
                        Xox
Rượu cạn mềm môi tinh thần chiến sĩ,
Phơi xác trên lò xác chó cộng nô,
Nghe mùi chó nướng.bomb cày xác giặc,
Cũng vì mồi chó.rượu vào càng say;
                        Xox
Có say mới biết đời là lẽ thật,
Địa ngục, thiên đàng Phật Chúa chia ngôi
Tư-Do là của con người định đoạt,
Khôn nhờ dạy chịu ta thời cứ say,
                        Xox
Giận thời nói vậy lòng thêm tan nát,
Vở mãnh trăng thề non nước mây che,
Hồn non nước réo gọi người chiến sĩ
Tỉnh say; đi nào chiến sĩ Tư-Do,
                        Xox
Ảo ảnh say; xác thù thay xác chó,
Nước mất ‘quê hương ‘ta nhậu thật say,
Ta thấy sợ cho lòng ngươi phản bội,
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do,
                             Huỳnh-Mai
                          [Ba lăm năm sau]
Bác chợt giật mình tỉnh thức vì một trái me rơi chín rụng trúng cái nón che khuất mặt trời ngủ trưa của bác chung quanh bác là dám nhò học trò lấy đá ném me chúng la hét ồn ào thấy vui ghê! chúng ném đá hoài mà me không rụng thấy vậy nóng lòng bác gượng ngồi dậy bước xuống xe theo lũ nhò thi trổ trồ tài ném me bác là tay bác thiện xạ bắn mẹ của thưởbé học trò trốn học hái me leo nhà Tây hái trộm mận xoài  bị chó Tây rượt chạy về nhà, bị mẹ đánh đòn bắt ăn phải hết một  thúng me chua mua ở chợ cho bỏ tội trốn học đi bắn me!.Bi đau bụng ỉa chảy hai ba ngày nên thấy me là phát sợ!?.sao bây giờ bác lại hái me cùng lủ trẻ học trò trong một thân thể già yếu bệnh hoạn suy tàn kiệt lực.Phải chăng là triệu chứng hiện ảnh ra đi của một người sắp chết mà nguyện ước chưa hoàn thành khi danh dự trách nhiệm tổ quốc bị tước đoạt trắng trợn không thương tiếc.Sự hồi sinh sống lại vui chơi với lủ trẻ học trò chỉ là ào ảnh hiện về!? của thời niên thiếu là phần thưởng cuối cùng của Thượng Đế ban cho loài người và cho bác Thọ không thỏa nguyện ước mơ cho dân,cho nước.Sau phúc vui chơi với trẻ nhỏ để sống lại thời dĩ vãng xa xưa cho thỏa lòng,bác cảm thấy hơi mệt mỏi buồn ngủ nên bác leo lên chiếc xe xích lô thân yêu kiếm sống hằng ngày của bác và ngủ một giấc dài vô tận đến nghìn thu...mặc cho mây trời vẫn bay và lá me vàng lã tả rơi trên thân xác bác như những giọt nước mắt tiễn đưa sau chiếc xe tang xích lô chở xác bác mà không có người  đưa  tiễn khóc cho thân phận chiến tranh của bác!!!-Một người lính già trên chiếc xe xích lô là cổ quan tài còn xót lại của quê hương đổ vở Việt Nam!!!

 Thơ,
 Quê Hương Tàn Chinh Chiến…!!                                                               {Một người lính già đã ra đi}                                                                                                               Huỳnh-Mai.St.8872                  
  Bh.Dạ Lệ Huỳnh
                  
                                                                           
                                                          
                                                 
Ngồi ngắm mây qua khung trời Cải-Tạo,
Lắng tiếng bomb rền…vọng tiếng rừng sâu,
Mắt lệ hỏa châu hết buồn chinh chiến,
Pháo hoa chiến thắng nhỏ lệ trong tù,
Một đời chinh chiến trọn giành tổ quốc,
Một thưở hòa bình cho đất nước tôi,
Mà sao cay đắng dành riêng Cải Tạo,
Góc tối tù đày phần thưởng chiến tranh,
Thương đau chấp nhận vì anh chiến sĩ,
Ngục tù cải tạo…quê hương hòa bình,
                          -0- 
Quê hương một dảy nước non dân tộc,
Một thoáng hòa bình…phải giá đắng cay,
Đời là hạnh phúc “Thiên-đàng Cộng-Sản”
Sống đời nô cộng chịu kiếp sắn khoai,
Bắp ngô độn bửa người thành trâu ngựa,
Hòa bình êm-ả trên đồng cỏ xanh,
Đó là hạnh phúc cho người phản chiến,
Con vật tế thần chủ nghĩa cộng nô,
 Đành lở rồi quê hương tàn chinh chiến,
Hòa bình không thấy…thấy toàn thương đau!?
                               -0- 
Hởi người chiến sĩ đừng buồn cải tạo,
Quê hương mình vận nước…hãy chưa thôi,
“Hòa bình phản chiến”ý người dân muốn,
Anh phải ngồi tù…phản chiến theo dân,
“Hòa bình gảy súng” thôi đành chấp nhận,
Danh dự trách nhiệm…đâu bằng hiếu dân,
Chiến đấu hy sinh cũng vì tổ quốc,
Cải tạo tù đày chết cũng vì dân,
Dù chiến bại chí hùng anh bất khuất,
Không hổ thẹn lòng chết cũng vì dân,
                         -0-
Lâu lắm rồi vận nước chưa đổi thay,
Ba lăm năm chiến thắng giấc ngủ dài,
Thở ngắn than dài mình ta thức trọn,
Canh xác Tự-Do cạnh xác người say,
Người dân chưa tỉnh…Tự-Do còn chết
Đấu tranh đơn độc…hiểm nguy riêng mình,
Chiến hữu Tự-Do tìm đường xứ ngoại,
Bỏ lại mình ta chôn xác Tự-Do,
Không kèn không trống… không ai đưa tiễn,
Tù trong, tù ngoài mộ chí Tự-Do,
                          -0-
Ta biết tủi hờn…hồn thiêng sông nùi,
Sống chặt đời thà nát với cỏ cây,
Thấy được mình.làm phân cho hoa lá,
Tô điểm thêm đời…thiếu vắng Tự-Do,
Mất Tự-Do rồi…đời đâu nghĩa sống,
Mồ hoang chiến sĩ…súng gảy vẫn còn,
Lưu dấu một thời hòa bình chiến đấu,
Để lại lòng người….một chút nhớ thương,
Sống chi một kiếp…đời người nô cộng!?
Quê hương tàn chinh chiến…mất Tự-Do,
                                        Huỳnh-Mai
                                   {Tàn chinh chiến} 

                                                                       
       Huỳnh Mai St.8872
        Bh. Dạ Lệ Huỳnh
{Một ngày được làm cha…!}
  Father Day- 17/6/2012