Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

THIỀN ĐỊNH- TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

 

18. THIỀN ĐỊNH- TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

18. THIỀN ĐỊNH- TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

18.1. Bất kỳ khi nào bạn có thể tìm ra thời gian chỉ để mình có đấy thì hãy loại bỏ việc làm. Nghĩ cũng là làm, tập trung tư tưởng cũng là làm, suy tư cũng là làm. Cho dù một khoảnh khắc bạn không làm gì và bạn chỉ ở trung tâm của mình, hoàn toàn thư thái- thì đó là THIỀN. Và một khi bạn đã biết về cái mẹo của nó thì bạn có thể còn lại trong trạng thái đó lâu tùy ý, cuối cùng bạn có thể còn lại trong trạng thái đó 24 tiếng một ngày.  Một khi bạn đã trở nên nhận thức được cách thức con người mà bạn có thể còn lại không bị xáo động, thì dần dần bạn có thể làm mọi việc mà vẫn giữ  tỉnh táo, rằng con người bạn không bị xáo động. Trước hết bạn hãy học có đấy, và rồi hãy học một chút hành động: Lau sàn, tắm giặt, nhưng vẫn giữ bản thân mình được định tâm. Thế rồi bạn có thể làm những điều phức tạp hơn. Nhưng bạn không là tác nhân, bạn là người quan sát. Đó là bí mật của THIỀN. Nhận biết đó, cái quan sát đó nên còn lại tuyệt đối thanh thản, yên tĩnh.  Khi đó toàn bộ tâm thức mình được định tâm vào bên trong thì bạn sẽ biết, bởi vì bạn là người biết, nhận biết. Bạn chưa bao giờ mất nó cả. Bạn chỉ đơn thuần thu được nhận biết của mình rối trong cả ngàn lẻ một thứ. Bạn hãy rút ra nhận biết của mình từ mọi nơi và hãy để cho nó nghỉ lại bên trong bạn, thế là bạn đã về nhà.
18.2. Cốt lõi bản chất, tinh thần của thiền là học cách chứng kiến. Bước đầu tiên trong nhận biết là phải quan sát thân thể bạn. Dần dần người ta trở nên ngày càng tỉnh táo về từng cử chỉ, từng chuyển động. Khi bạn bắt đầu nhận biết đến ý nghĩ của mình, chúng còn tinh tế hơn thân thể. Chính hiện tượng quan sát nó làm thay đổi nó. Dần dần các ý nghĩ bắt đầu rơi rụng, không còn hỗn loạn và trở nên hài hòa hơn. Trong cả hai lần sự yên bình bắt đầu lan tỏa, rồi bạn thấy thân thể và tâm trí cũng hài hòa với nhau nữa. Lần đầu tiên một sự hòa hợp, nó giúp cho công việc ở bước thứ ba- tức là trở nên nhận biết về tình cảm, xúc động, tâm trạng của bạn. Một khi bạn đã nhận biết về tất cả ba điều này thì chúng sẽ trở nên gắn với nhau trong một hiện tượng hài hòa- thế thì điều thứ tư xảy ra. Đó là sự nhận biết tối thượng làm cho người ta được thức tỉnh. Người ta trở nên nhận biết về nhận biết của mình. Điều đó tạo nên một vị phật, một người thức tỉnh. Mà chỉ trong sự thức tỉnh đó mà người ta mới nhận ra phúc lạc là gì. Thân thể biết tới hoan lạc, tâm trí biết tới hạnh phúc, trái tim biết tới niềm vui sướng, cái thứ tư biết tới phúc lạc. Phúc lạc là mục tiêu của người tìm kiếm, và nhận biết là con đường hướng tới nó.
18.3. điều quan trọng là ở chỗ bạn mang tính quan sát, ở chỗ bạn không quên quan sát, ở chỗ bạn đang quan sát, quan sát,…, quan sát,… Và dần dần khi người quan sát trở nên ngày càng vững chắc, ổn định, không dao động thì việc biến đổi xảy ra. Những cái bạn đã quan sát bây giờ biến mất. Lần đầu tiên bản thân người quan sát trở thành được quan sát. Bạn đã về nhà.
18.4. Quan sát là thiền. Điều bạn quan sát thì không liên quan. Bạn có thể quan sát cây cối, con sông, đám mây, trẻ con đang nô đùa xung quanh… Phẩm chất của quan sát, của nhận biết và tỉnh táo- đó chính là thiền là gì. Bạn nhìn lên cây, bạn đấy, cây đấy, nhưng bạn không tìm thấy một điều nữa sao? Rằng bạn đang thấy cây, rằng có một nhân chứng trong bạn, người thấy bạn đang thấy cây.
18.5. Khi bạn đã thoát ra khỏi tâm trí, quan sát nó, nhận biết nó, chỉ là một nhân chứng thì bạn là thông minh. Bạn đã hoàn tác lại điều xã hội đã làm cho bạn. Bạn đã thoát ra khỏi nó, bạn là người tự do. Trong thực tế lần đầu tiên bạn là con người đích thực. Bây giờ toàn bộ bầu trời là của bạn. Thông minh đem tới tự do, đem tới sự hồn nhiên.
18.6. Thiền định là phúc lạc trong khi cô độc. Người ta thực sự sống động khi người ta trở nên có khả năng về nó, khi không còn phụ thuộc thêm nữa vào bất kỳ ai, vào bất kỳ tình huống nào, vào bất kỳ điều kiện nào. Và bởi vì nó là của riêng người ta nên nó có thể còn lại vào buổi sáng, buổi tối, ngày, đêm, trong tuổi thanh xuân hay tuổi già, trong khi mạnh khỏe hay lúc ốm đau, trong cuộc sống, cả trong cái chết nữa. Nó có thể còn lại bởi vì nó không phải là cái gì đó xảy ra cho bạn từ bên ngoài. Nó là cái gì đó tuôn ra trong bạn. Nó chính là bản tính của bạn, nó là tự tính.
18.7. Thiền định là một phương cách làm cho bạn nhận biết về cái ta thực sự của bạn- cái không do bạn tạo ra, cái không cần bạn tạo ra, cái mà bạn đã là như vậy rồi. Bạn được sinh ra với nó. Bạn là nó! Nó cần được khám phá ra. Khi con người biết được cái ta thực sự của mình thì anh ta trở thành một cá nhân. Anh ta không còn thuộc về tâm lý đám đông nữa. Anh ta sẽ không mê tín, không thể bị khai thác, không thể bị dắt đi như gia súc, không thể bị ra lệnh và chỉ huy. Anh ta sẽ sống theo ánh sáng của mình. Cuộc sống của anh ta sẽ cực kỳ đẹp đẽ và toàn vẹn.
18.8. Thiền có vài điều căn bản, bản chất. Đó là thư thái, quan sát, không phán xét và dần dần, dần dần,… cái im lặng vĩ đại sẽ choàng lên bạn. Bạn có đấy, nhưng không có nghĩa “Tôi đây”- chỉ là không gian thuần khiết.
18.9. Một thiền nhân thực sự thì vui đùa. Với anh ta, cuộc sống là vui tươi, cuộc sống là leela, một trò chơi. Anh ta tận hưởng nó trọn vẹn. Anh ta không nghiêm trang. Anh ta thư thái.
18.10. Thiền xảy ra chỉ cho những người không hám kết quả. Thiền là trạng thái không hướng mục tiêu.
18.11. Khi hạnh phúc, bạn tận hưởng. Khi hạnh phúc trôi qua thì bạn trở nên buồn bã, có gì sai trong đó nào? Hãy tận hưởng nó đi. Một khi bạn có khả năng tận hưởng cả nỗi buồn, thì bạn không là cả hai. Và nếu bạn tận hưởng cả nỗi buồn thì nó cũng có cái đẹp riêng đấy. Hạnh phúc có đôi chút nông cạn, còn nỗi buồn thì rất sâu. Ngồi im lặng và tận hưởng nỗi buồn, rồi bất chợt, nỗi buồn không còn là nỗi buồn nữa; nó đã trở thành một khoảnh khắc im lặng, an bình, đẹp đẽ. Và bỗng nhiên bạn hiểu ra rằng bạn chẳng là cả hai- chẳng hạnh phúc mà cũng chẳng buồn bã, bạn là người quan sát, bạn quan sát đỉnh núi, bạn quan sát thung lũng, nhưng bạn không là cả hai. Một khi bạn đạt tới điểm này thì bạn có thể cứ tôn vinh mọi thứ. Bạn tôn vinh cuộc sống; bạn tôn vinh cái chết.
18.12. Bất kỳ cái gì bạn trải qua trong cuộc hành trình bên trong của mình, bạn đều không phải là nó. Bạn là người quan sát nó. Nó có thể là cái không, là phúc lạc, là im lặng. Nhưng bạn cần phải nhớ: Dù bạn có trải qua chứng nghiệm đẹp đẽ đến đâu, say mê đến đâu thì bạn vẫn không phải là nó; bạn là người chứng nghiệm nó. Và nếu bạn cứ tiếp tục mãi như thế thì điều tối thượng trong cuộc hành trình là điểm mà không còn một chứng nghiệm nào nữa- chẳng còn im lặng, chẳng còn phúc lạc, chẳng cái không. Chẳng có gì còn như một đối tượng đối với bạn mà chỉ có chủ thể bạn thôi. Tấm gương thì rỗng không. Nó không phải là cái đang phản xạ. Nó là bạn. Khi người quan sát là cái được quan sát, khi người thấy là cái được thấy thì bạn đã về nhà. Người quan sát và cái được quan sát là hai khía cạnh của nhân chứng. Khi chúng tan biến vào nhau, khi chúng là một, thì lần đầu tiên nhân chứng nảy sinh trong sự toàn bộ của nó.
18.13. Hãy làm nhiều, nhưng chớ có là tác nhân- thế thì bạn đạt được cả hai. Hãy đi vào trong thế giới nhưng chớ có là một phần của nó. Hãy sống trong thế giới nhưng đừng để thế giới sống trong bạn.
18.14. Bước, hãy bước chậm rãi, có quan sát. Nhìn, hãy nhìn có quan sát. Và bạn sẽ thấy cây còn xanh hơn chúng đã từng thế, còn hoa hồng thì lại hồng hơn là chúng từng thế. Hãy lắng nghe, lắng nghe một cách chăm chú. Khi bạn đang nói, hãy nói một cách chăm chú. Hãy để toàn bộ hoạt động tỉnh thức của bạn trở thành hết tự động hóa.
18.15. Nếu bạn có thể làm điều gì đó với việc thở, thế thì bạn sẽ bất thần quay trở về hiện tại, thế thì bạn sẽ đạt tới ngọn nguồn của cuộc sống, thế thì bạn có thể siêu việt lên thời gian và không gian, thế thì bạn trong thế giới này và cũng vượt ra ngoài nó nữa.
18.16. Bất kỳ ý nghĩ nào thoáng qua màn ảnh tâm trí bạn, hãy chỉ là người quan sát. Bất kỳ xúc động nào trôi qua màn ảnh trái tim bạn, hãy vẫn còn là một nhân chứng- chớ tham dự vào, đừng bị đồng nhất, đừng đánh giá cái gì tốt, cái gì xấu; đấy không phải là phần thiền của bạn.
18.17. Bất kỳ cái gì bạn đang làm, bạn hãy giữ sự chú ý của mình vào lỗ hổng giữa hai hơi thở. Nhưng nó phải dược thực hành trong hoạt động. Tại sao phải hoạt động? Vì hoạt động làm rối trí. Hãy cố định vào lỗ hổng và không dừng hoạt động; hãy để cho hoạt động tiếp tục. Bạn sẽ có hai tầng tồn tại- việc làm và con người. Nếu phương pháp này được thực hành thì toàn bộ cuộc sống của bạn sẽ trở thành một vở kịch dài, bạn sẽ là nghệ sỹ đóng vai. Nếu bạn quên mất lỗ hổng thì bạn không đóng vai, bạn trở thành vai diễn. Và đấy không phải là vở kịch nữa. Bạn đã lầm nó thành cuộc sống. Để phá vỡ cái đồng nhất đó, bạn hãy dùng kỹ thuật này. Khi đó toàn bộ cuộc sống dường như không xảy ra cho bạn- dường như nó xảy ra cho một ai đó khác.
18.18. Bất kỳ khi nào bạn cảm thấy rằng tâm trí không lặng lẽ- căng thẳng, lo âu, huyên thuyên triền miên, ưu phiền hay mơ mộng- thì hãy làm một việc: thở thật sâu. Thở ra thật sâu, nén bụng, duy trì trong vài dây. Rồi cho phép thân thể hít vào thật sâu, lại dừng trong vài dây. Thở ra hoàn toàn và hít vào hoàn toàn, tạo thành một nhịp điệu. Hít vào, giữ lại, thở ra, giữ lại. Lập tức bạn sẽ cảm thấy một sự thay đổi đang tới trong toàn bộ con người bạn. Tâm trạng sẽ ra đi. Một khí hậu mới sẽ đi vào trong bạn.
18.19. Hãy cố gắng thành không có đầu. Hãy quán tưởng bạn không có đầu, di chuyển không đầu. Và khi bạn cảm thấy đầu bạn đã biến mất thì trung tâm của bạn sẽ tụt xuống tim- ngay lập tức. Bạn sẽ nhìn thế giới qua con tim chứ không qua đầu. Và thứ hai, hãy yêu mến nhiều hơn! Khi yêu thì đương nhiên cái đầu phải bị mất đi. Khi bạn nhìn qua trái tim thì toàn bộ vũ trụ trông có vẻ thống nhất, như cái Một, như Thượng đế. Cái tổng thể không thể nào nhìn thấy được thông qua cái đầu, vì cái đầu chỉ biết phân tích, không biết tổng hợp.
18.20. Bất kỳ khi nào bạn nghĩ tới tình yêu là bạn nghĩ tới trái tim. Sự thực, bất kỳ khi nào bạn đang yêu thì bạn đều thư thái, và bởi vì bạn thư thái nên bạn tràn ngập an bình. Và sự an bình đó nảy sinh từ trái tim. Cho nên an bình và tình yêu đã trở nên gắn bó, liên kết với nhau. Bất kỳ khi nào bạn đang yêu thì bạn đều an bình; bất kỳ khi nào bạn không yêu thì bạn đều xáo đông. Bởi an bình và trái tim đã trở nên được gắn với tình yêu.
18.21. Bất kỳ khi nào bạn cảm thấy sự an bình giữa hai nách tràn ngập trong bạn, lan tỏa đến trung tâm trái tim riêng của bạn, thì thế giới có vẻ như ảo tưởng. Đây là một dấu hiệu bạn đã đi vào thiền. Nếu thế giới trở nên không thật thì bạn đã định tâm vào con người mình. Bây giờ bề mặt và bạn trở nên xa xôi tới mức bạn có thể nhìn vào bề mặt như một cái gì đó khách quan, một cái gì đó khác với bạn. Bạn không còn đồng nhất nữa. Và nếu thế giới là không thật thì bạn hoàn toàn thư thái, nếu không thì thực tại thế giới cứ đụng chạm vào bạn, cứ nện vào bạn.
18.22. Shiva nói: “Người được ân huệ, khi các giác quan bị hấp thụ vào tim, đạt tới trung tâm hoa sen”. Tim là hoa sen. Mọi giác quan đều là việc mở ra của hoa sen, là cánh hoa sen. Đóa hoa sen này của trái tim sẽ cho bạn việc định tâm. Một khi bạn biết về trung tâm trái tim thì rất dễ dàng tụt xuống trung tâm rốn.
18.23. Atisha nói: “Hãy là chính mình!” Dù nỗi đau khổ là gì thì cứ để nó như thế. Hãy chứng nghiệm nó trong sự mạnh mẽ toàn bộ của nó. Điều ấy sẽ khó khăn, nó sẽ đau lòng. Bạn có thể bỗng nhiên nhận biết rằng nỗi đau không chỉ trong tim, mà ở khắp trên thân thể. Nếu bạn kinh nghiệm nó thì hãy hấp thu nó. Nó là một năng lượng quí giá, đừng ném nó đi. Hãy hấp thu nó, uống nó, chấp nhận nó, đón chào nó, biết ơn nó. Có thể mất vài ngày để tiêu hóa được nó, nhưng cái ngày mà nó xảy ra thì bạn tình cờ gặp cánh cửa mà thực sự sẽ mang bạn đi xa, xa hẳn. Một cuộc hành trình mới đã bắt đầu trong cuộc đời bạn. Ngay lập tức, khoảnh khắc bạn chấp nhận nỗi đau thì năng lượng của nó, phẩm chất của nó đã thay đổi. Nó không còn là nỗi đau nữa. Người ta không thể nào tin được rằng đau khổ có thể được chuyển hóa thành cực lạc, rằng nỗi đau có thể trở thành niềm vui.
18.24. Cứ mỗi sáng, khi thức dậy, điều đầu tiên bạn cần quyết định trước khi mở mắt: “Hôm nay ta muốn gì nào? Khốn khổ? Vui sướng? Ta định chọn gì cho ngày hôm nay?” Và điều xảy ra là bao giờ bạn cũng chọn vui sướng.
18.25. Bất kỳ khi nào có niềm vui thì bạn đều cảm thấy rằng nó đang đến từ bên ngoài. Bạn đã gặp một người bạn- tất nhiên dường như niềm vui đến từ người bạn, từ việc thấy anh ta. Thế mà thực chất đấy lại không phải là cảnh ngộ thực tại. Niềm vui bao giờ cũng bên trong bạn. Người bạn chỉ là một tình huống. Người bạn đã giúp cho niềm vui ló ra. Và điều này thì không chỉ xảy ra cho niềm vui, mà cho mọi thứ: với giận dữ, với buồn rầu, với khốn khổ, với hạnh phúc, với mọi thứ… Người khác chỉ là tình huống, trong đó mọi thứ ẩn kín trong bạn được bầy tỏ. Họ không phải là nguyên nhân, họ không gây ra điều gì đó trong bạn. Bất kỳ cái gì xảy ra , nó đều đang xảy ra cho bạn. Bất kỳ khi nào điều này xảy ra thì hãy cứ duy trì việc định tâm trong cảm giác bên trong, và thế thì bạn sẽ có một thái độ khác về mọi thứ trong cuộc sống. Ngay cả với những xúc động tiêu cực, bạn cũng cứ làm như thế này. Khi bạn giận, đừng có định tâm vào người đã làm phát sinh nó. Hãy để cho anh ta ở phần ngoại vi. Bạn chỉ trở nên giận dữ. Đừng hợp lý hóa, đừng cho rằng con người này đã tạo ra nó. Đừng lên án người đó. Anh ta chỉ là một tình huống. Và hãy cảm thấy biết ơn anh ta, rằng anh ta đã giúp một cái gì đó vốn ẩn chứa được ra công khai. Anh ta đã đập vào bạn ở đâu đó, vào vết thương đã ẩn kín ở đó. Nếu xúc động là tiêu cực thì bạn sẽ được tự do khỏi nó, bởi việc nhận biết rằng nó ở bên trong bạn. Nếu xúc động là tích cực thì bạn sẽ trở thành bản thân niềm xúc động đó. Nếu nó là niềm vui thì bạn sẽ trở thành niềm vui. Nếu nó là giận dữ thì giận dữ sẽ tan biến.
18.26. Shiva nói: “Trong tâm trạng cực kỳ ham muốn, hãy đừng bị xáo động”. Khi ham muốn cuốn hút bạn, bạn bị xáo động. Ham muốn là căn bệnh. Nhưng làm sao mà yên tĩnh được? Bạn đang giận dữ, cơn giận đang cuốn hút bạn. Bạn nhất thời điên lên, bị nó ám ảnh: bạn không còn ý thức nữa. Bỗng nhiên hãy nhớ: đừng xáo động. Cơn giận sẽ có đó, nhưng bây giờ bạn có một điểm bên trong bạn còn không bị xáo động. Cơn giận ở phần ngoại vi, nó xáo động, nhưng bạn có thể nhìn vào nó, và thế thì bạn sẽ không bị xáo động, bởi vì bạn chỉ là nhân chứng. Điểm yên tĩnh này là tâm trí nguyên thủy của bạn, nó chưa bao giờ bị xáo động cả. Giận dữ không thể tồn tại mà không có cái gì đó bên trong bạn vượt ra ngoài cơn giận. Nhận thức về trung tâm yên tĩnh này làm cho bạn trở thành ông chủ. Ngoài ra, bạn là một nô lệ, và nô lệ cho biết bao người. Mọi thứ đều thành ông chủ, còn bạn trở thành nô lệ cho toàn bộ vũ trụ. Hiển nhiên bạn sẽ trong rắc rối. Với biết bao ông chủ như thế, kéo bạn đi theo biết bao hướng, bạn chẳng bao giờ thống nhất được, bạn không phải là một đơn vị, bạn sẽ trong đau khổ. Chỉ người chủ của chính mình mới có thể siêu việt lên trên đau khổ.
18.27. Hãy nhớ tới bản thân bạn, dù bạn đang làm bất kỳ cái gì. Hãy cảm thấy “Tôi đây”. Đừng có nghĩ gì. Chỉ cảm thấy rằng bạn có đấy. Cảm giác không thành lời này, cho dù chỉ có trong một khoảnh khắc, cũng sẽ cho bạn một thoáng nhìn- một thoáng nhìn của cái thực. Chỉ một khoảnh khắc thôi bạn được ném trở lại với trung tâm con người mình. Bạn đang ở ngoài tấm gương, bạn đã siêu việt trên thế giới của phản xạ, bạn là sự tồn tại. Và bạn có thể làm điều đó bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu, bất kỳ khi bạn đang làm gì, bạn có thể bỗng nhiên nhớ lại chính mình. Chỉ nỗ lực là cần thiết- một nỗ lực liên tục là cần thiết.
18.28. Bất kỳ khi nào bạn biết một điều gì đấy thì bao giờ cũng nên nhớ đến người biết. Đừng quên điều đó trong khách thể. Hãy nhớ đến chủ thể. Khi lắng nghe, bạn hãy biết tới diễn giả và cũng biết tới cả thính giả nữa. Tri thức của bạn phải là mũi tên hai đầu, trỏ tới hai điểm- người biết và cái được biết. Điều này gọi là tự nhớ hay chính tâm. Và thế thì điều kỳ diệu xảy ra, bạn chẳng là hai cái đó nữa, bạn trở thành cái thứ ba, bạn trở thành một nhân chứng. Trong tự nhớ bạn dịch chuyển khỏi điểm cố định của người biết. Thế thì người biết là tâm trí bạn và cái được biết là thế giới, và bạn trở thành điểm thứ ba, tâm thức, cái ta chứng kiến. Điểm thứ ba này không thể được siêu việt lên nữa- và cái đó là cái tối thượng. Cái mà còn có thể được siêu việt lên thì chẳng đáng giá gì, nó không phải là bản tính của bạn- bạn có thể siêu việt lên trên nó. Một khi bạn biết được điều đó thì bạn trở thành cả hai. Thế thì cái được biết và người biết chỉ còn là đôi cánh của bạn. Chúng là sự mở rộng của bạn. Thế thì thế giới và điều thiêng liêng, cả hai đều là sự mở rộng của bạn. Bạn đã đi đến chính trung tâm của con người. Và trung tâm này chính là nhân chứng.
18.29. Bạn có thể nhìn chăm chăm vào một chấm trên tường, bạn có thể dừng mắt bạn. Nhưng chuyển động là bản tính của mắt, nên một hiện tượng rất lạ xảy ra, chúng sẽ bắt đầu chuyển vào bên trong. Thế thì mắt nhẩy từ bên ngoài vào tâm thức bên trong. Mắt là điểm hội ngộ của bạn và thân thể bạn. Không còn chỗ nào khác trên thân thể lại là điểm gặp gỡ sâu sắc như vậy.
18.30. Shiva nói: “Mắt nhắm, hãy thấy chi tiết con người bên trong của bạn- thấy bản tính của bạn”. Hãy nhắm mắt lại và dừng chuyển động của chúng. Hãy cảm thấy dường như chúng đã trở thành đá, và rồi hãy duy trì trạng thái “mắt đá” đó. Đừng làm bất cứ điều gì; chỉ còn ở đó thôi. Rồi bỗng nhiên một hôm bạn trở nên nhận biết rằng bạn đang nhìn vào bên trong bạn. Hãy quên toàn bộ thân thể; hãy chuyển tới ngón chân cái. Hãy đứng ở đó và nhìn. Rồi chuyển lên qua cẳng chân, đi ngược lên, đi tới mọi chi. Thế thì nhiều điều sẽ xảy ra! Thế thì thân thể bạn trở thành một phương tiện nhạy cảm lắm, bạn không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì nếu bạn chạm vào ai đó, bạn có thể đi vào trong tay của bạn một cách hoàn toàn và cái chạm đó sẽ trở thành việc biến đổi. Nếu bạn có thể chuyển vào bất kỳ phần nào của thân thể bạn một cách hoàn toàn, thì phần đó trở thành sống động, sống động một cách kỳ lạ. Thế thì bạn có thể chuyển vào mắt một cách hoàn toàn. Nếu bạn có thể chuyển vào mắt mình một cách hoàn toàn và rồi nhìn vào mắt ai đó thì bạn sẽ thấm sâu vào anh ta. Nếu bạn có thể thấy thân thể mình một cách hoàn toàn từ bên trong thì bạn sẽ chẳng bao giờ rơi vào ảo tưởng rằng bạn là thân thể. Thế thì bạn sẽ vẫn còn khác biệt: bên trong, nhưng không phải là nó, trong thân thể nhưng không phải là thân thể. Bây giờ bạn có thể di chuyển tự do vào trong tâm trí mình, sâu xuống dưới, cái hang bên trong của tâm trí. Thế thì bạn sẽ trở nên tách biệt với cả tâm trí nữa. Thân thể và tâm trí đã được đi vào và được nhìn từ bên trong. Thế thì bạn đơn thuần là một nhân chứng và nhân chứng này không thể được thấm nhuần vào. Đó là cốt lõi bên trong nhất của bạn, cái ta của bạn. Hãy nhớ: bạn không thể chứng kiến ngọn nguồn chứng kiến!
18.31. Shiva nói: “Hãy nhìn vào cái bát mà không thấy ranh giới hay vật liệu. Trong thoáng chốc hãy trở nên nhận biết”. Hãy nhìn vào bất kỳ cái gì nhưng với phẩm chất khác hẳn. Không nhìn vào ranh giới, hãy nhìn vào đối tượng như một tổng thể. Khi bạn nhìn vào một vật như một tổng thể, thì mắt không cần chuyển động nữa. Điều thứ hai, hãy nhìn vào nó như một hình dạng, không phải là một chất liệu. Điều gì sẽ xảy ra? Bạn bỗng nhiên trở nên nhận biết về cái ta của mình. Hãy duy trì với cái tổng thể và hình dạng, bây giờ mắt không chuyển động. Và chúng thì cần chuyển đông theo bản tính của chúng, cho nên chúng chuyển hướng vào bạn. Nó sẽ quay lại. Nó sẽ trở về nhà. Và bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết về cái ta của mình. Khi lần đầu tiên bạn trở nên nhận biết về cái ta của mình thì nó có cái đẹp và phúc lạc chưa từng thấy bao giờ.
18.32. Hãy nhìn vào một bông hoa hồng, trước hết hãy nhìn nó chăm chú trong vài phút, và rồi hãy đảo ngược tiến trình: hoa hồng đang nhìn vào bạn. Bạn sẽ ngạc nhiên,  biết bao nhiêu năng lượng hoa hồng có thể  trao cho bạn. Cũng như vậy có thể thực hiện với cây cối, các vì sao và với mọi người, nhất là người mà bạn yêu. Hãy nhìn vào mắt nhau. Trước hết hãy nhìn vào người kia và rồi bắt đầu cảm thấy người kia quay năng lượng vào bạn, bạn sẽ cảm thấy được cung cấp thêm năng lượng. Khi đi ra từ nó, bạn sẽ được trẻ trung lại, sống động lại.
18.33. Trước khi ra khỏi giường, vào sáng sớm, bạn hãy nằm ngửa, mắt nhắm lại. Khi hít vào, bạn hãy quán tưởng ánh sáng vàng trút vào đầu bạn, dường như mặt trời mọc ngay trên đầu bạn. Ánh sáng này cứ đi vào, đi vào, đến tận các ngón chân. Và khi bạn thở ra, hãy quán tưởng bóng tối đi vào từ ngón chân bạn, đi lên, và đi qua đầu. Và hãy làm như vậy khi sắp đi ngủ.
18.34. Shiva nói: “Tỉnh, ngủ, mơ, hãy biết bạn là ánh sáng”. Trong khi “tỉnh”, di chuyển, ăn, làm việc, hãy nhớ bản thân bạn là ánh sáng, dường như trong tim bạn có một ngọn lửa đang bùng cháy, và thân thể bạn chẳng là gì khác hơn là vầng hào quang quanh ngọn lửa đó. Kiên trì điều này trong 3 tháng. Sau đó bạn có thể đưa nó vào trong mơ. Nó đã trở thành một thực tại. Mọi thứ đều là ánh sáng, bạn là ánh sáng. Trong khi chìm vào giấc ngủ, bạn hãy nghĩ về ngọn lửa. Nhớ nó…nhớ… bạn chìm vào giấc ngủ, và rồi việc nhớ vẫn tiếp tục. Và cảm giác này sẽ đi vào trong các giấc mơ, giấc mơ sẽ bắt đầu biến mất. Sẽ ngày càng ít giấc mơ hơn và ngày càng ngủ say hơn. Và một khi bạn đi vào giấc ngủ với cảm giác rằng bạn là ngọn lửa thì bạn sẽ nhận biết trong nó- giấc ngủ chỉ xảy ra cho thân thể, không phải cho bạn. Thân thể cần nghỉ ngơi, tâm thức không cần nghỉ ngơi, vì thân thể là máy móc, nó cần nhiện liệu, nó cần nghỉ ngơi. Đó là lý do tại sao khi được sinh ra nó chúng lại trẻ trung, rồi nó trở nên già đi, và nó chết. Tâm thức thì chẳng bao giờ sinh, chẳng bao giờ già, chẳng bao giờ chết. Nó không cần nhiên liệu, không cần nghỉ ngơi. Nó là năng lượng thuần khiết, năng lượng vĩnh hằng bất diệt.
18.35. Shiva nói: “Hãy cảm thấy vũ trụ như sự hiện diện sống trong mờ”. Và tâm trí bạn sẽ trở nên hoàn toàn im lặng và bạn cảm thấy sự hiện diện của sự tồn tại sống mãi. Bạn sẽ chỉ là một phần trong nó, không nặng gánh, không căng thẳng… giọt nước đã rơi vào đại dương. Hãy thử nhiều cách. Hãy cầm tay ai đó, nhắm mắt lại và cảm thấy cuộc sống trong người khác. Hãy cảm thấy nó, cho phép nó đi vào bạn. Hãy cảm thấy cuộc sống riêng của bạn và cho phép nó đi vào người khác. Hãy ngồi gần cây cối và chạm vào vỏ cây. Hãy nhắm mắt lại và cảm thấy cuộc sống đang nảy sinh trong cây, và rồi bạn sẽ lập tức được thay đổi.
18.36. Hãy nhìn vào bóng tối. Hãy cảm thấy thoải mái và nhìn vào nó. Nó sẽ bắt đầu đi vào mắt bạn, và bạn cũng đang đi vào trong nó., điều đó sẽ làm sạch mọi bóng tối âm bản (của ánh sáng) của bạn. Ở đấy, sống với bóng tối trong 3 tháng, mỗi ngày một giờ, bạn sẽ mất mọi cảm giác về cá nhân, về phân tích. Thế thì bạn sẽ không còn là một hòn đảo nữa, bạn sẽ trở thành đại dương. Bạn sẽ là một với bóng tối. Và bóng tối thì là một đại dương bao la; chẳng có gì mênh mông, chẳng có gì vĩnh cửu đến như vậy. Và tiếp theo đó, bạn hãy nằm ra và cảm thấy dường như bạn đang gần mẹ mình. Bóng tối là mẹ, người mẹ của tất cả chúng ta. Bước thứ ba: Di chuyển, đi làm, nói chuyện, ăn uống hay làm bất cứ việc gì, hãy mang một mảng bóng tối bên trong bạn. Bóng tối đã đi vào trong bạn, hãy mang nó theo. Nếu bạn mang bóng tối theo bên mình, bạn sẽ thư thái, bình tĩnh lạ thường. Giấc ngủ của bạn sẽ trở nên sâu đến mức giấc mơ sẽ biến mất. Khi bạn thiền về bóng tối trong đêm thì bóng tối bên trong mà bạn vẫn đang mang cả ngày sẽ giúp bạn gặp gỡ- bóng tối bên trong sẽ gặp gỡ bóng tối bên ngoài.
18.37. Shiva nói: “Trong đêm mưa không trăng, hãy nhắm mắt lại và thấy cái đen tối trước mắt bạn. Mở mắt ra thấy cái đen tối. Thế là sai lầm sẽ biến mất mãi mãi”. Bởi vì, nếu bóng tối bên trong được cảm thấy thì bạn trở thành trầm tĩnh, im lặng, không xáo động đến mức mà cái sai lầm không thể nào còn lại với bạn được. Bóng tối bên trong đã hấp thu nó. Bạn đã trở thành một chân không vô hạn, trong đó mọi thứ có thể bị rơi vào và sẽ không trở lại. Bạn bây giờ giống như một vực thẳm.
18.38. Shiva nói: “Hãy tắm trong trung tâm của âm thanh, như trong âm thanh liên tục của thác nước, hay bằng cách lấy ngón tay bịt tai, hãy nghe âm thanh của các âm thanh”. Hãy nhắm mắt lại và cảm thấy toàn bộ vũ trụ tràn ngập âm thanh. Hãy cảm thấy dường như mọi âm thanh đều đang hướng về bạn và bạn là trung tâm. Khi đó âm thanh bỗng nhiên sẽ biến mất và bạn sẽ đi vào cái vô âm, trung tâm cuộc sống. Khi đó chẳng có âm thanh nào quấy rầy được bạn. Có một điểm mà không âm thanh nào đi vào được- đó là bạn. Với âm thanh, bạn liên lạc với người khác; với vô âm, bạn rơi vào vực thẳm của riêng mình. Một phần là nghe thấy âm thanh dồn tới trung tâm bạn, phần kia là dừng mọi âm thanh và cảm thấy trung tâm vô âm. Cả hai điều này cần thực hành để bạn có thể chuyển từ cực nọ sang cực kia. Và thế thì bạn sẽ trẻ trung mãi mãi.
18.39. Hãy đi vào đền. Chuông hay khánh đang có đó. Trước hết hãy trở nên hoàn toàn tỉnh táo. Và nếu có ý nghĩ thì hãy đợi. Với ý nghĩ, bạn không thể tỉnh táo. Khi bạn không có ý nghĩ và bạn tỉnh táo thì hãy đi với âm thanh. Hãy nhìn khi âm thanh không có đó rồi nhắm mắt lại. Rồi hãy nhìn âm thanh khi được tạo ra, rồi hãy di chuyển với âm thanh. Âm thanh sẽ trở nên chậm dần, tinh tế hơn,… và rồi nó không còn nữa. Hãy tỉnh táo di chuyển cùng với âm thanh đến chính ngọn nguồn. Hãy thấy cả hai cực của âm thanh, cả cái bắt đầu và cái kết thúc. Bạn sẽ trở thành một con người hoàn toàn khác.
18.40. Hãy nhìn vào sự sáng tỏ của bầu trời và trở thành một với nó. Trức hết, không chớp mắt, hãy nhìn thẳng. Thứ hai: đừng nghĩ về bầu trời. Hãy là bầu trời. Hãy chỉ nhìn và di chuyển vào trong bầu trời, và hãy cho phép bầu trời di chuyển vào trong bạn. Khi bầu trời đã đi vào trong bạn, thì bạn có thể nhắm mắt. Bạn sẽ thấy nó cũng ở bên trong nữa. Hãy duy trì bầu trời bên trong. Tâm trí sẽ chậm dần và trong vài phút sẽ không còn ý nghĩ nữa, không còn mây nữa, khi đó bầu trời bên ngoài và bên trong trở thành một. Chỉ vì ý nghĩ mà bên ngoài mới là bên ngoài và bên trong mới là bên trong. Khi ý nghĩ không có đó thì bên ngoài và bên trong mất biên giới, chúng trở thành một.
18.41. Hãy nhắm mắt và hãy bao hàm mọi thứ tồn tại trong bạn, đừng loại trừ cái gì cả: cây cối, bầu trời, mặt trời lên,… Hãy cố gắng bao hàm ngày càng nhiều hơn, mở rộng nhiều hơn… thế thì bạn càng lùi xa chính các góc của sự tồn tại. Rồi một ngày nào đó, bạn là điều duy nhất; toàn bộ sự tồn tại đều được bao hàm vào. Đây là điều tối thượng của các chứng nghiệm tôn giáo.
18.42. Cuộc sống là cuộc hành hương tới cái chết. Từ ngay lúc sinh ra, cái chết đã bắt đầu tiến tới bạn: bạn đã bắt đầu đi dần về cái chết. Và tai họa lớn nhất xảy ra cho tâm trí con người là ở chỗ nó chống lại cái chết. Điều đó có nghĩa là bạn đã bỏ lỡ điều bí ẩn lớn nhất và cũng có nghĩa là bạn đã bỏ lỡ chính bản thân cuộc sống- vì chúng gắn bó sâu sắc với nhau, chúng không phải là hai. Cuộc sống là sự trưởng thành; còn cái chết là việc nở hoa của nó. Cuộc hành trình và mục tiêu là không tách rời- cuộc hành trình kết thúc trong mục tiêu.
18.43. Shiva nói: “Hãy tập trung vào ngọn lửa đang nảy sinh qua hình dạng bạn, từ ngón chân lên, cho tới khi thân thể bùng cháy thành tro nhưng không phải bạn”. Trong cuộc sống chẳng có gì chắc chắn ngoại trừ cái chết. Chỉ cái chết mới không là ngẫu nhiên. Mọi thứ khác đều là sự ngẫu nhiên. Bạn đã chết, nửa chết, vì một khi người ta được sinh ra thì người ta phải đi đến cảnh giới của cái chết, đi vào trong nó. Bây giờ thì không có cách gì thay đổi được nó nữa! Cái chết đang xảy ra. Đó là một tiến trình. Khi bạn hít vào là cuộc sống, khi bạn thở ra là cái chết. Điều đầu tiên mà đứa trẻ làm là hít vào. Và người già, khi sắp chết sẽ thực hiện hành động cuối cùng, việc thở ra. Thân thể cần hít vào và thở ra, cần cả hai: sống và chết. Bạn hãy thở ra thật sâu và không hít vào bất kỳ khi nào mà bạn nhớ tới. Bạn sẽ cảm thấy một sự an bình sâu sắc, vì cái chết là an bình, là im lặng, bạn sẽ cảm thấy vô ngã. Điều đó dẫn tới sự sẵn sàng chết của bạn. Nó là đẹp đẽ. Cái chết là đẹp và chẳng cái gì giống cái chết cả- im lặng thế, thư thái thế, bình tĩnh thế, không rối loạn thế! Nhưng chúng ta hay sợ chết. Và tại sao chúng ta lại sợ chết? Làm sao chúng ta lại sợ điều mà chúng ta không biết? Bạn chưa bao giờ thực sự sống- điều đó tạo ra việc sợ cái chết. Nếu bạn sống động bạn sẽ đón mừng cái chết. Bạn đã biết cuộc sống; bây giờ bạn muốn biết luôn cả cái chết nữa. Bạn có thể làm sâu sắc hơn cảm giác này nếu bạn thở ra thật sâu 15 phút mỗi ngày trong khi bạn nhắm mắt. Và rồi hãy cho phép thân thể hít vào, và khi không khí đi vào thì bạn sẽ mở mắt, bạn đi ra. Khi không khí đi ra thì bạn đi vào. và không khí đi vào thì bạn lại đi ra. Sẽ không còn nỗi sợ chết, vì bây giờ cái chết dường như giống với thư thái, giống việc nghỉ ngơi sâu sắc.
18.44. Hãy nằm xuống, trước hết hãy quan niệm bản thân bạn như một cái xác chết. Hãy đem sự chú ý của bạn tới ngón chân. với mắt nhắm bạn hãy di chuyển vào bên trong. Hãy cảm thấy ngọn lửa đang bốc cháy từ ngón chân. Khi ngọn lửa đi lên thân thể,… dần dần rồi bạn sẽ biến mất. Bạn chỉ còn lại là người quan sát trên đồi, là nhân chứng và không có bản ngã. Và khi bạn biết điều này thì bạn có thể vẫn còn trong trạng thái này liên tục. Một khi bạn biết rằng, bạn có thể tách mình ra khỏi thân thể, thì bạn có thể vẫn còn trong thân thể, mà bạn lại sẽ không trong thân thể. Trong quan sát đó, bạn sẽ nhận ra một hiện tượng sâu sắc, rằng bản ngã là một thực thể sai lầm. Nó có đó bởi vì bạn đã đồng nhất nó với thân thể, với ý nghĩ, với tâm trí. Bạn chẳng là chúng. Bạn khác biệt với tất cả những thứ bao quanh mình, bạn khác biệt với phần ngoại vi của mình.
18.45. Bất kỳ lúc nào trong ngày, bạn hãy thư thái trên ghế, nhắm mắt lại, đặt hai lòng bàn tay lên hai mắt bạn. Nhưng đừng ấn. Chỉ chạm nhẹ. Cái chạm nhẹ này giữa hai mắt bắt đầu nhỏ giọt vào trong trái tim, và trái tim sẽ mở ra để đón nhận nó. Khi năng lượng rơi xuống này thành một luồng, rồi thành dòng sông, rồi thành trận lụt thì bạn sẽ bị cuốn đi hoàn toàn, cuốn đi xa mãi… Bạn sẽ không cảm thấy bạn có đấy. Bạn sẽ chỉ cảm thấy bạn đã trở thành vũ trụ. Vũ trụ tới rồi vũ trụ đi… Thực thể mà bạn đã từng là, bản ngã, sẽ không có đó.
18.46. Bạn hãy nhắm mắt, rồi tập trung cả hai mắt bạn vào giữa đôi lông mày. Giữa hai lông mày là tuyến yên, là con mắt thứ ba. Kỹ thuật này để khai mở con mắt thứ ba.  Nếu bạn chú ý đến nó thì cả hai mắt bạn sẽ bị thôi miên bởi con mắt thứ ba. Và lần đầu tiên bạn sẽ cảm thấy ý nghĩ chạy trước bạn, bạn sẽ trở thành nhân chứng.
18.47. Tử Lộ nói: “Người ta nên nhìn vào chỏm mũi mình”. Sao vậy? Điều này làm bạn thẳng hàng với con mắt thứ ba. Nhưng bạn phải rất nhẹ, không có bất kỳ căng thẳng nào. Bạn đơn thuần có đấy, hiện hữu, buông bỏ,… Điều chính yếu là hạ thấp tròng mắt và rồi cho phép ánh sáng chảy vào chính nó. Ngồi thẳng và trong tư thế thoải mái. Và khi bạn đã đạt đến điểm con mắt thứ ba thì bạn đã đạt đến điểm mà từ đó toàn bộ sự sáng tạo nảy sinh. Bạn đã đạt đến cái vô hình, cái không hiển lộ. Đây chính là không gian, là hạt mầm của toàn bộ sự tồn tại. Nó là toàn năng, toàn diện và vĩnh cửu.
18.48. Con người bên trong nhất của bạn có bản chất ánh sáng. Tâm thức là ánh sáng, là ánh sáng duy nhất. Bạn đang tồn tại rất vô ý thức, làm mọi việc mà chẳng biết tại sao. Ham muốn mọi thứ, đòi hỏi mọi thứ chẳng biết tại sao. Bạn là người ngủ đang bước. Mộng du là bệnh tâm linh duy nhất- bước đi và sống trong mê ngủ. Hãy trở nên ý thức hơn đi. Hãy bắt đầu ý thức với các đối tượng. Hãy nhìn vào mọi vật với nhiều tỉnh táo hơn. Khi bạn đi qua một cái cây, hãy nhìn vào cây với nhiều tỉnh táo hơn. Bỗng nhiên nó xanh hơn, sống động hơn, đẹp hơn. Cây thì vẫn thế, chỉ có bạn đã thay đổi. Rồi một con chim hót trên cây: Hãy tỉnh táo! Dường như trong khoảnh khắc đó, bạn và tiếng chim hót đó cùng tồn tại. Và khi tiếng chim dừng lại, hãy lắng nghe sự thiếu vắng của tiếng chim. Thế thì tiếng chim đã trở thành tinh tế. Toàn bộ sự tồn tại tràn ngập bởi sự thiếu vắng của tiếng chim. Nó là tiếng ca của im lặng. Hãy thực hành với mùi hương, bông hoa,… Khi đối tượng hoàn toàn biến mất và sự thiếu vắng của đối tượng biến đi, ý nghĩ biến đi, và ý tưởng về vô trí biến đi. Bây giờ là khoảnh khắc ân huệ hạ xuống bạn, hoa đã trút xuống; đây là khoảnh khắc khi bạn được nối với ngọn nguồn cuộc sống. Đây là khoảnh khắc bạn không còn là kẻ ăn mày nữa, bạn đã trở thành hoàng đế.
18.49. Cuộc tìm kiếm tôn giáo là cuộc tìm kiếm để làm cho toàn bộ sự tồn tại là bụng mẹ.
18.50. Hãy trở thành phi sở hữu, vì với sở hữu thì địa ngục bắt đầu. Nó là chất độc cơ bản. Một khi cái “cuả tôi” đi vào thì bạn là một kẻ cạnh tranh với mọi người. Cuộc đời của bạn là cuộc đời của cạnh tranh, vật lộn, xung khắc, bạo hành, gây gổ. Bước tiếp sau cái “của tôi” là cái “tôi”. Khi bạn đã lắng xuống với “tôi” thì bạn có thể thấy rõ ràng bạn có một biên giới, và những người ngoài biên giới đó là “anh”, là “người khác”.
18.51. Vũ trụ là một. Chẳng cái gì bị phân chia cả. Mọi thứ đều được nối với mọi thứ khác; đó là việc nối chằng chịt nhau. bạn được nối với đất, với cây cối, với các vì sao, các con sông, các rặng núi,… Mỗi khoảnh khắc bạn đều đang thở- môt cách liên tục có một cây cầu với sự tồn tại. Bạn ăn, sự tồn tại đi vào trong bạn; bạn ỉa, nó trở thành phân bón- táo trên cây sẽ trở thành một phần trong thân thể bạn trong ngày mai, và một phần trong thân thể bạn sẽ chết đi và trở thành phân bón cho cây cối,… một sự cho và nhận liên tục. Không một khoảnh khắc nào nó dừng lại cả. Khi nó dừng thì bạn chết. Được trong sự thống nhất là sống; bị ra ngoài sự thống nhất là chết. Cho nên bạn càng nghĩ “Ta là tách biệt” thì bạn sẽ càng ít nhạy cảm, yếu đi, đờ đẫn hơn. Một khi bạn hiểu rằng chúng ta là thành viên của lẫn nhau, toàn bộ sự tồn tại này là một phần của bạn và bạn là một phần của toàn bộ sự tồn tại. Thế thì bỗng nhiên cái nhìn thay đổi. Chúng ta trong hòa hợp. Thực tại là một thể thống nhất; còn với ý tưởng “tôi”, “anh” thì chúng ta bị gạt ra ngoài lề thực tại. Bây giờ bạn sẽ liên tục trong cuộc chiến với thực tại. Bạn sẽ đánh nhau với gốc rễ của riêng mình; bạn sẽ đánh nhau với chính mình. Nếu tôi chỉ ngồi im lặng thì bạn không thể làm được điều đó- một việc đơn giản đến thế!… Bạn không thể ngồi yên lặng được vì cái “tôi” không cho phép bạn có lấy một khoảnh khắc thư thái. Một khi khoảnh khắc thư thái là được phép thì bạn sẽ có thể thấy được thực tại. Cái “tôi” là trung tâm sai lầm được bạn tạo ra. Trung tâm của bạn là trung tâm của tất cả. Cái ta đích thực của bạn là cái ta của tất cả. Tại trung tâm, toàn bộ sự tồn tại là một- hệt như nguồn gốc của ánh sáng, mặt trời, mọi tia đều là một.
18.52. Chướng ngại lớn nhất trên con đường thiền định là bản ngã sai lầm. Chướng ngại thứ hai là tâm trí huyên thuyên thường xuyên của bạn. Hãy thấy sự vật, đừng diễn đạt thành lời. Thiền nghĩa là sống không lời, phi ngôn ngữ. Thiền là cực điểm của tình yêu, tình yêu không cho riêng một người, mà là cho toàn bộ sự tồn tại. Thiền là mội quan hệ sống với toàn bộ sự tồn tại bao quanh bạn. Khi bạn tồn tại như một con người xã hội thì ngôn ngữ là cần. Nhưng khi bạn một mình với sự tồn tại thì cơ chế này phải được tắt đi. Nếu bạn không thể tắt được nó đi thì thì bạn sẽ trở thành nô lệ cho nó. Tâm trí phải là một công cụ, không phải là ông chủ. Nhưng nó đã trở thành ông chủ. Cho nên, thiền có nghiã là làm chủ cơ chế. Muốn vậy, bạn hãy quan sát tâm trí, cho phép nó hoàn toàn tự do. Bạn chỉ là một nhân chứng. Khi việc quan sát của bạn trở thành sâu sắc hơn thì nhận biết của bạn trở nên sâu sắc hơn, lỗ hổng bắt đầu nảy sinh. Một ý nghĩ trôi qua, ý nghĩ khác còn chưa tới, có một lỗ hổng. Một đám mây khác bay qua, đám mây khác còn đang tới, có một lỗ hổng. Trong những lỗ hổng đó, lần đầu tiên bạn sẽ có những thoáng nhìn về vô trí, bạn sẽ có hương vị của vô trí. Hãy gọi nó là hương vị của Thiền, của Đạo, hay Yoga. Trong khoảng hở ngắn ngủi đó, bỗng nhiên bầu trời sáng tỏ và mặt trời tỏa nắng. Màn ảnh trên mắt bạn không còn đó nữa. Bạn thấy rõ ràng, bạn thấy thấu suốt; toàn bộ sự tồn tại trở thành trong suốt.
18.53. Thiền là thư thái, thư thái trong chính mình. Bạn càng thư thái nhiều thì bạn càng thấy chính mình cởi mở, mong manh, bạn càng ít cứng nhắc. Bạn càng nhiều linh hoạt thì bỗng nhiên sự tồn tại thấm nhuần vào bạn. Thư thái nghĩa là cho phép bản thân bạn được rơi vào trong một trạng thái mà bạn không phải làm gì cả, vì nếu bạn đang làm điều gì đó thì căng thẳng sẽ tiếp tục. Hãy tận hưởng sự thư thái. Hãy nhắm mắt và lắng nghe tất cả những gì xảy ra xung quanh. Hãy chấp nhận tất cả những gì đang xảy ra xung quanh, hãy để cho nó thành một tổng thể hữu cơ. Chim chóc này, cây cối này, bầu trời này, mặt đất này, mặt trời này, bạn này, tôi này, tất cả đều có quan hệ với nhau. Đấy là một đơn vị hữu cơ. Nếu mặt trời biến mất thì cây cối cũng biến theo; nếu cây cối biến mất thì chim chóc cũng biến theo; nếu chim chóc hoặc cây cối biến mất thì bạn cũng biến mất. Đây là môi trường sinh thái. Mọi thứ đều có quan hệ sâu sắc với nhau. Cho nên bạn đừng chối bỏ cái gì. Nếu bạn chối bỏ những con chim đang hót này thì một cái gì đó bên trong bạn cũng bị chối bỏ. Hãy chấp nhận, thư thái và bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy năng lượng mênh mông đang dâng lên trong bạn.
18.54. Nhân chứng không phải là khán giả. Nhân chứng là người tham dự nhưng vẫn còn tỉnh táo. Nhân chứng là trong trạng thái vô vi. Đó là lời của Lão tử. Nhân chứng không phải người thoát ly cuộc sống. Anh ta vẫn sống trong cuộc đời, còn sống đầy đủ hơn nhiều, còn sống say mê hơn nhiều, nhưng vẫn là người quan sát bên trong, liên tục nhớ “Ta là tâm thức”.
18.55. Phật nói: “Đi qua con sông nhưng không để nước dính vào chân”. Đó là ý nghĩa biểu tượng phương Đông về hoa sen. Hoa sen là hoa sống trong nước, thế mà nước không thể nào dính được vào nó. Sống trong phố chợ nhưng không cho phép phố chợ đi vào con người bạn; sống trong thế giới nhưng không thuộc vào thế giới. Đó là điều được ngụ ý bởi “tâm thức chứng kiến”.
18.56. Một ai đó xúc phạm bạn và bạn phản ứng lại. Bạn xúc phạm Phật xem- Người không phản ứng,Người hành động. Phản ứng phụ thuộc vào người khác: anh ta nhấn vào một nút và bạn chỉ là một nạn nhân, một nô lệ; bạn hành xử như một cái máy. Người nhận biết thì chẳng bao giờ phản ứng lại, anh ta hành động theo nhận biết của riêng mình. Hành động không đến từ hành động của người khác. Không ai có thể nhấn phím cho anh ta được. Nếu anh ta tự phát cảm thấy rằng đây là điều phải, nên làm, thì anh ta làm nó; nếu anh ta cảm thấy chẳng cần làm thì anh ta giữ yên tĩnh. Anh ta không kìm nén, mà bao giờ cũng cởi mở, bầy tỏ.
18.57. Toàn bộ nỗi lo âu của con người là, anh ta muốn chọn cái có vẻ đẹp đẽ, sáng sủa. Anh ta muốn chọn tất cả những cái may, bỏ lại những cái rủi. Nhưng anh ta không biết rằng cái may không thể tồn tại mà lại không có cái rủi. Cái rủi là nền tảng, tuyệt đối cần thiết để cái may biểu lộ. Lựa chọn là lo âu, là tạo ra rắc rối cho chính bạn. Nhận biết là bất nhị, còn tâm trí là nhị nguyên. Cho nên hãy quan sát. Muốn thế, hãy lùi một chút để tạo ra khoảng cách giữa bạn và tâm trí bạn. Bạn đồng nhất với mọi thứ. Người ta đồng nhất với người khác và thế rồi họ tạo ra khốn khổ cho chính mình. Họ đồng nhất với mọi vật, rồi họ nhận lấy khốn khổ nếu những vật đó mất đi. Và mọi sự đồng nhất đều là đồng nhất với tâm trí. Hãy bước sang bên để vượt qua tâm trí.
18.58. Bất kỳ cái gì bạn chấp nhận cũng đều trở thành thiên đường, và bất kỳ cái gì bạn chối từ cũng đều trở thành địa ngục. Bất kỳ chỗ nào vị Thánh tới, họ cũng tạo ra thiên đường, họ mang thiên đường theo mình, bên trong mình. Bất kỳ nơi đâu kẻ tội lỗi đến, họ cũng đều tạo ra địa ngục. Họ không thể làm được điều khác. Đừng cố là cái gì khác. Đừng cố ở nơi nào đó khác. Đó là bệnh tật: bao giờ cũng cố trở thành ai đó khác, muốn ở nơi nào đó khác, bao giờ cũng loại bỏ cái đang có, và bao giờ cũng khát khao cái không có đó. Bạn không phải là việc trở thành; bạn là một con người, một sản phẩm đã hoàn thành của Thượng đế. Nhưng bạn lại cố gắng cải tiến Thượng đế. Bạn không thể cải tiến được. Bạn chỉ có khốn khổ thôi, khốn khổ không cần thiết. Cây cối hạnh phúc, chim chóc hạnh phúc và đám mây hạnh phúc- vì chúng không có chuyện trở thành. Chúng chỉ đơn thuần là bất kỳ cái gì chúng đang là. Hoa hồng không cố gắng trở thành hoa sen. Không, hoa hồng tuyệt đối hạnh phúc là hoa hồng. Hãy loại bỏ ham muốn. Hãy vui sướng trong con người bạn. Dù bạn là bất kỳ cái gì hãy cứ tận hưởng nó. Và bỗng nhiên thời gian biến mất, vì thời gian chỉ tồn tại với ham muốn, tương lai tồn tại với ham muốn. Việc hiểu cái vô ích của ham muốn là trở thành giác ngộ. Hãy thức tỉnh.
18.59. Cách dùng thời gian tốt nhất mà bạn có được là những thoáng nhìn nhỏ bé này- vì chung cuộc bạn chỉ thấy những khoảnh khắc chứng kiến này là được tiết kiệm, còn tất cả các khoảnh khắc khác đã trôi mất tăm mất tích. Tiền bạn kiếm được, danh vọng bạn thu được, sự kính trọng bạn thu được, tất cả đều trôi mất tăm. Chỉ những khoảnh khắc chớp lóe đó sẽ đi với bạn khi bạn rời bỏ cuộc sống này, bởi vì chúng thuộc về vĩnh hằng, chúng không thuộc về thời gian. Hãy cảm thấy hạnh phúc khi nó đang xảy ra, chậm rãi, từ từ, giọt nọ tới giọt kia và một đại dương vĩ đại có thể được tràn đầy.
18.60. Hãy tôn vinh, nhảy múa với cái im lặng của bạn. Khoảnh khắc này có đấy, thế là đủ. Sao phải đòi hỏi hơn nữa? Ngày mai sẽ chăm sóc cho chính nó. Khoảnh khắc này là quá nhiều rồi, tại sao không sống với nó, tôn vinh nó, chia sẻ nó, tận hưởng nó? Hãy để cho nó thành một bài ca, một điệu múa, một bài thơ, hãy để nó mang tính sáng tạo. Khoảnh khắc tiếp bao giờ cũng sinh ra từ khoảnh khắc này, vậy tại sao bạn phải lo lắng về nó? Nếu khoảnh khắc này là im lặng thì làm sao khoảng khắc tiếp theo lại hỗn loạn được? Nếu tôi hạnh phúc trong khoảnh khắc này thì làm sao tôi có thể bất hạnh trong khoảnh khắc tiếp được? Bạn là đấng sáng tạo của toàn bộ thế giới bao quanh bạn.
18.61. Cuộc sống là thiêng liêng; bạn không cần ép buộc bất kỳ cái gì lên nó, bạn không cần tạo khuôn nó, bạn không cần cho nó một hình mẫu, một kỷ luật hay trật tự. Cuộc sống có trật tự và kỷ luật riêng của nó. Bạn đơn thuần đơn di chuyển với nó, bạn nổi với nó, bạn không cố gắng thúc đẩy dòng sông. Dòng sông vẫn tuôn chảy- bạn trở thành một với nó và dòng sông đưa bạn ra đại dương. Đây là cuộc đời của điều xảy ra, không phải là của việc làm. Thế thì con người bạn vượt lên và bỗng nhiên bạn được tự do khỏi xung khắc. Trong cái mất trật tự của cuộc sống bạn tìm ra một trật tự mới, một trật tự có phẩm chất hoàn toàn khác. Nó chẳng có gì do bạn ép buộc cả. Nó thuộc vào bản chất của chính cuộc sống. Khi bạn được hoàn toàn tự do khỏi bản ngã thì một kỷ luật bên trong sẽ tới với bạn. Nó không có động cơ nào. Nó đơn thuần xảy ra như khi bạn thở, như khi bạn cảm thấy đói thì bạn ăn, như khi bạn buồn ngủ thì bạn lên giường.
18.62. Hãy bắt đầu bằng những hành động nhỏ của cuộc sống đời thường. khi bạn trở nên ngày một quen thuộc với nhận biết, khi nhận biết trở thành hệt như hơi thở, thế thì bất kỳ trong công việc nào, hành động nào bạn cũng có thể nhận biết. Cứ ăn và vẫn còn tỉnh táo rằng bạn đang ăn. Cứ bước, nhưng hãy thay thế việc suy nghĩ thành nhận biết. Nhưng nhận biết là có thể đối với những hành động nhỏ này. Và khi bạn có thói quen rồi thì hãy sử dụng việc nhận biết trong những hành động phức tạp hơn. Một ngày sẽ tới khi chỉ có mọi hoạt động trong thế giới, mà trong đó bạn luôn tỉnh táo và đồng thời thực hiện các hành động đó một cách toàn bộ. Và việc nhận biết trở thành tự phát, bạn không còn nhớ tới nó, không phải ép buộc nó.
18.63. Mặc cảm là một trong những ung thư của linh hồn. Không cần phải mặc cảm, điều đó là tự nhiên. Toàn bộ sự tồn tại là không mặc cảm và khoảnh khắc một người trở nên không mặc cảm thì anh ta trở thành một phần của luồng chảy cuộc đời vũ trụ. Đó là giác ngộ, đó là tâm thức không mặc cảm, hớn hở trong mọi thứ mà cuộc sống làm ra: ánh sáng là đẹp và bóng tối cũng đẹp như vậy.
18.64. Lầm lỗi là con người và tha thứ cũng là con người. Và tha thứ cho chính mình là một trong những đức hạnh lớn lao nhất, vì nếu bạn không thể tha thứ cho chính mình, thì bạn cũng không thể tha thứ cho bất kỳ ai khác trên thế gian nàyđược. Bạn đầy ắp những vết thương và mặc cảm làm sao bạn có thể tha thứ cho ai được? Bạn không nên cảm thấy mặc cảm. Nếu bạn làm điều gì mà bạn thấy không phải hoặc có thể làm tổn thương ai đó thì bạn đừng có làm lại nữa. Nhưng không cần phải mặc cảm, không cần phải ăn năn, không cần phải hối lỗi và tra tấn mình làm gì.
18.65. Người ta phải bắt đầu quan sát thân thể: bước, ngồi đi, ngủ ăn. Và rồi người ta nên chuyển sang các chứng nghiệm tinh tế hơn. Người ta nên bắt đầu quan sát ý nghĩ. Khi đã trở thành chuyên gia quan sát ý nghĩ thì người ta nên bắt đầu quan sát cảm giác. Sau khi bạn có thề thấy rằng bạn có thể quan sát cảm giác của mình được thì bạn nên quan sát tâm trạng của mình. Việc quan sát ngày một trở nên mạnh hơn. Khi quan sát tâm trạng của mình, người quan sát mạnh đến mức như quan sát chính mình, hệt như ngọn nến trong đêm tối không chỉ chiếu sáng mọi thứ quanh nó, mà còn chiếu sáng chính bản thân nó nữa. Việc tìm ra người quan sát trong sự thuần khiết của nó là thành tựu lớn nhất về tâm linh, vì người quan sát trong bạn chính là linh hồn bạn, là cái bất tử của bạn.
18.66. Thiền bao quát một cuộc hành hương rất dài. Chứng kiến là cái mở đầu, còn vô trí là cái hoàn thành. Chứng kiến là phương pháp để đạt tới vô trí. Chứng kiến là con đường mà bạn đang bắt đầu cảm thấy một khoảnh khắc vô ý nghĩ trong thoáng chốc. Cái có thể chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc thì cũng có thể trở thành vĩnh hằng. Và nếu bạn có thể biến đổi một khoảnh khắc thành trạng thái vô ý nghĩ thì bạn học được một điều bí mật đấy, cái chìa khó chính có thể mở mọi khoảnh khắc vào một thoáng nhìn vô trí. Vô trí là giai đoạn cuối cùng, khi tâm trí biến mất mãi mãi, và lỗ hổng vô ý nghĩ trở thành thực tại thực chất của bạn. Nhưng đừng nóng vội. Những bí ẩn tối hậu chỉ mở ra cho những người có lòng kiên nhẫn bao la. Một khi con người vào trạng thái vô trí thì chẳng có gì có thể làm phân tán được anh ta khỏi con người mình. Không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của vô trí. Bây giờ không còn tác hại nào có thể gây ra cho người đó. Không gắn bó nào, không tham lam nào, không ghen tỵ nào, không giận dữ nào có thể nảy sinh trong anh ta. Vô tâm là bầu trời tuyệt đối thuần khiết không một gợn mây.
18.67. Vô trí không có nghĩa là bạn không thể dùng tâm trí được. Nó có nghĩa là tâm trí không thể nào sử dụng được bạn mà nó bị đẩy sang bên. Bạn có thể đem nó vào trong hành động bất kỳ lúc nào bạn cần để trao đổi với thế giới. Nó như một người hầu, một công cụ vĩ đại. Nếu nó như một ông chủ thì thì là không may, là nguy hiểm. Nó sẽ phá hủy toàn bộ cuộc đời của bạn. Một khi tâm trí không vận hành thì bạn trở thành một phần của tâm trí vũ trụ, tâm trí phổ quát, lúc này tâm trí cá nhân của bạn vận hành như một người hầu đẹp đẽ. Nó đã nhận ra người chủ. Và nó đem lại những cái mới từ tâm trí vũ trụ cho những người vẫn còn bị xiềng xích bởi tâm trí cá nhân.
18.68. Chỉ có một cách thiền. Đó là nghệ thuật chứng kiến. Tâm điểm của tất cả các phương pháp thiền là chứng kiến. Nó sẽ thực hiện mọi việc cho toàn bộ sự biến đổi trong con người bạn và nó mở ra cánh cửa tới chân lý tối thượng.
Nguồn:https://thienosho.wordpress.com/2012/02/06/18-thi%E1%BB%81n-d%E1%BB%8Bnh-t%E1%BB%B1-do-d%E1%BA%A7u-tien-va-cu%E1%BB%91i-cung/

Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng - Krishnamurti

https://youtu.be/IpZqKDBC1pI

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 4

https://youtu.be/2Lks1YTJs_M


#thienosho #ThiềnOsho #TỉnhThứcCùngOsho

THIENOSHO - Chân lí chưa bao giờ tranh biện: nó là bài ca, không phải suy luận


THIENOSHOChào các bạn Thiền Osho. Đây là hóa thân của Dhammapada Con đường của Phật. Nhớ SUBSCRIBE giúp bé THIENOSHO chóng lớn để tiếp tục con đường hoằng pháp nhé. Cảm ơn nhiều.

https://youtu.be/CrQRpnUHMEo


Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 1

 https://youtu.be/G-yg4R8piFs

 

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 2

 https://youtu.be/oCuHberW7dc


Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 6

https://youtu.be/V_bYhgsdMII

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 5

 https://youtu.be/_P4czhTR0Qo

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 7

 https://youtu.be/_P4czhTR0Qo

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 8

 https://youtu.be/mu5SvT7cTos

 

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 9

 https://youtu.be/fFa6trocCW0

Nhật ký cuối cùng Krishnamurti Phần 10

https://youtu.be/fFa6trocCW0 

Dưới Chân Thày - Krishnamurti (1)

https://youtu.be/3xM-NUKV_WM 

Nói về Krishnamurti

 https://youtu.be/3xM-NUKV_WM

Krishnamurti Bài giảng ở New York 1971 3 4

https://youtu.be/tTXO9xLHxXk

A Di Đà Phật Phật Giáo VN Dưới Thể Chế Cộng Sản

https://youtu.be/XSnYPNpx-_U

Chùa Tam Chúc Ba Sao - Ngôi chùa lớn nhất Việt Nam

 https://youtu.be/ukG7sGjLkaM

Chùa Tam Chúc uy nghiêm nơi cảnh tiên ‘Vịnh Hạ Long trên cạn‘ ở Hà Nam



Khu du lịch Tam Chúc (Ba Sao - Hà Nam) được mệnh danh là 'Vịnh Hạ Long trên cạn', nơi khoác trên mình vẻ ngút ngàn và đẹp như cõi mộng, nơi mà du khách đến sẽ cảm nhận được sự thuần khiết, thanh bình và yên ả đến lạ thường.
Quần thể khu du lịch Tam Chúc tọa lạc trên mảnh đất Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. Nơi đây được Thủ tướng công nhận là Khu du lịch quốc gia theo Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 22/01/2013.
Đặc biệt, Chùa Tam Chúc sẽ là nơi đăng cai Đại lễ Veskas năm 2019 (Đại hội Phật giáo thế giới) tổ chức vào tháng 5/2019 và cũng là thời điểm Chùa được khánh thành giai đoạn I.
 Phối cảnh khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao được mệnh danh là cõi phật, cõi tiên - là

Chùa Tam Chúc với cảnh quan hùng vĩ

 Phối cảnh khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao được mệnh danh là cõi phật, cõi tiên - là Vịnh Hạ Long trên cạn . Ảnh Ngọc Xen
Chùa Tam Chúc có tổng diện tích gần 5.000 ha, bao gồm hồ nước: 1.000 ha, núi đá rừng tự nhiên: 3.000 ha, các thung lũng: 1.000 ha. Đây là ngôi chùa vô cùng đặc biệt với cảnh quan hùng vĩ: Tiền lục nhạn, hậu thất tinh (tiền lục nhạn nghĩa là mặt trước chùa có 6 quả núi giữa lòng hồ, tương truyền rằng đây là 6 quả chuông của nhà trời đưa xuống; hậu thất tinh là đằng sau có 7 ngọn núi có thể phát sáng khi có ánh sáng vào ban đêm). 
Ngôi chùa được thi công bởi rất nhiều những người thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Năm 2000, khi khảo sát làm thủy lợi lòng hồ Tam Chúc, công nhân xây dựng đã phát hiện ra rất nhiều dấu tích các hiện vật liên quan đến chùa Tam Chúc xưa. Từ các hiện vật khảo cổ, bước đầu có thể kết luận rằng chùa Tam Chúc đã có niên đại trên 1000 năm. 
Trải qua rất nhiều năm tháng, giờ chỉ còn lại những di tích cột gỗ, cột đá, xà đá còn vùi lấp ở nền móng cũ, trong đó có những cột gỗ có đường kính trên 1m, những xà đá, cột đá rất lớn mà chúng ta chưa thể hiểu được ông cha ta trước kia dựng chùa bằng cách nào với kích thước lớn như vậy.
12.000 bức tranh đá, 1.000 cột kinh đá
Ngôi chùa Tam Chúc được xây dựng lại có tới 12.000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật, được những người Hồi giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa ở Indonesia sau đó đưa sang Việt Nam.

Chùa Tam Chúc được xây dựng với hàng nghìn bức tranh bằng đá được ghép tỉ mỉ, cẩn thận bởi đôi bàn tay tài hoa của những người thợ. Ảnh Ngọc Xen

Chùa Tam Chúc đang thiết lập một vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn. Hiện tại đang dựng được khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân lành nghề Việt Nam tạc và dựng. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn thành.
Trên trục thần đạo Chùa Tam Chúc gồm: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan Âm, Cổng Tam Quan, Phòng họp Quốc tế. Những ngôi điện, các pho tượng Phật tại chùa Tam Chúc có diện tích, kích thước rất lớn.
Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh đang được thi công bởi những nghệ nhân Ấn Độ giáo và sẽ sớm hoàn thành trong năm 2018.
Điện Tam Thế có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², giúp cho 5.000 Phật tử có thể hành lễ cùng một lúc:
 Điện Tam Thế ở chùa Tam Chúc với ba pho tượng Phật đẹp tráng lệ: Ảnh Ngọc Xen
 Điện Tam Thế ở chùa Tam Chúc với ba pho tượng Phật đẹp tráng lệ: Ảnh Ngọc Xen
Bên dưới Điện Tam Thế là Điện Pháp chủ với pho tượng bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn:
 Điện Pháp Chủ ở chùa Tam Trúc với pho tượng Pháp Chủ bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn: Ảnh Ngọc Xen

Tiếp theo là Điện Quan Âm với pho tượng đồng nguyên khối nặng 100 tấn:

 Điện Pháp Chủ ở chùa Tam Trúc với pho tượng Pháp Chủ bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn: Ảnh Ngọc Xen
 Điện Quan Âm với pho tượng Quan Âm bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 100 tấn: Ảnh Ngọc Xen

Phòng họp Quốc tế nổi trên mặt hồ, có diện tích sàn 10.000m², có sức chứa 3.500 chỗ ngồi và Cổng Tam Quan đang trong quá trình thi công. Dự tính, thời gian hoàn thành quần thể chùa vào năm 2048. Từ khi khởi công đến khi hoàn thành là 50 năm.

 Điện Quan Âm với pho tượng Quan Âm bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 100 tấn: Ảnh Ngọc Xen
Quần thể khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao thực sự là một điểm đến tâm linh hấp dẫn, bởi nơi đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa nghìn năm tuổi với vẻ hùng vĩ của non nước bao la.
Đặc biệt, không khí trong lành và tiếng chim hót líu lo giữa  núi rừng rộng lớn là điều mà bất kì du khách nào cũng sẽ không thể nào quên khi đặt chân đến mảnh đất này.
Hiện nay, hệ thống giao thông kết nối Hà Nội và Hà Nam vô cùng thuận lợi. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính 30km và cách chùa Hương 4,5km tạo thành một quần thể ”Tam giác vàng” du lịch tâm linh, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của khách du lịch trong và ngoài nước. 
Với mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn giữ gìn cảnh quan môi trường sinh thái bền vững, trong thời gian không xa, khu du lịch Tam Chúc sẽ là điểm nhấn và được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Hà Nam.


https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2019/02/anh-van-nguoi-tham-gia-le-ruoc-nuoc-tai_17.html

Xem thêm:
THẾ GIỚI TÂM LINH- HUYỀN BÍ.
https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/12/the-gioi-tam-linh-huyen-bi.html

Sống từ đâu đến – Chết đi về đâu?

Sống từ đâu đến – Chết đi về đâu?
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
(Giảng tại đạo tràng Thiền TÁNH KHÔNG Houston Texas ngày 06-5-2018)

Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạng dài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn. Giai đoạn nào cũng nhiều phấn đấu, tranh đua, lo âu và phiền não. Ngoại trừ thời gian mới lọt lòng Mẹ, đứa bé chưa biết suy nghĩ, chưa biết phán đoán. Chỉ cười khóc theo bản năng đòi hỏi của cơ thể, và em bé thường được Cha Mẹ đáp ứng đầy đủ.

Giai đoạn kế, nếu may mắn được sinh trong gia đình khá giả các em được cắp sách đến trường. Nếu không may sinh ra trong gia cảnh nghèo nàn, khó khăn, dù còn rất nhỏ, ngoài giờ học ở trường các em vẫn phải bươn chải ra ngoài xã hội kiếm sống phụ với gia đình. Đó là chưa nói có rất nhiều em phải nghỉ học nửa chừng hoặc không được đến trường vì Cha Mẹ không có khả năng tài chánh. Thời gian này nỗi khổ đã hiện diện trong cuộc đời của người trẻ dù được sanh trong gia đình giàu hay nghèo.
Tiếp theo tạm gọi là giai đoạn của người lớn, lập gia đình, sinh con đẻ cái, làm việc quần quật kiếm tiền lo cho gia đình, nuôi dạy con thơ cho đến khi chúng trưởng thành. Cuộc sống gia đình có lúc vui vẻ hạnh phúc nhưng đa phần trải qua những phiền não lo âu từ trong nhà ra ngoài cộng đồng xã hội. Thời gian này con người sống trong căng thẳng vì lúc nào cũng nỗ lực, bon chen tranh đấu… hết sức của mình. Có thể những nỗ lực đó là để hướng tới một mục đích cao thượng, cũng có thể là vì tham vọng muốn được sự giàu sang về tài sản và danh lợi cho bản thân mình, gia đình mình. Dù mục đích tốt hay xấu, ít người nào chịu dừng lại ở một mức độ nào đó, bởi tiền tài danh vọng nhiều bao nhiêu cũng không lấp đầy túi tham của lòng người.
Rồi tuổi già đến lúc nào không hay, bệnh hoạn kéo tới hoành hành thân xác. Có nhiều người mang căn bệnh thể xác kéo dài dù tuổi đời rất thọ, có nhiều người tuổi đời còn rất trẻ nhưng lại đột quỵ sớm.
Khi giai đoạn cuối cùng đến, người ta nằm một chỗ thoi thóp thở. Đến lúc thở hơi ra, mà không hít vào được nữa, thì trở thành một cái xác bất động, cứng đờ, lạnh lẽo, vô tri giác. Lúc bấy giờ những người xung quanh dù không muốn cũng đành phải tuyên bố là người đó đã “chết” rồi, đã “mất” rồi! Khi nắp quan tài đậy lại, từ giây phút đó trở đi, không ai còn thấy người đã “chết” rồi, đã “mất” rồi đó còn hiện diện ở cõi Ta Bà này nữa, bởi cái xác đó đã được thân nhân chôn vùi dưới lòng đất lạnh, hoặc đã thiêu đốt thành tro bụi.

CDVD Hình 1
CDVD Hình 1

Chúng ta, ai cũng trải qua những giai đoạn nêu trên, nhưng có giây phút nào chúng ta chạnh lòng tự hỏi: “Mình là ai, từ đâu đến và sẽ về đâu khi một ngày nào đó mình chết đi?” hay bứt rứt vì câu: “Tại sao con người lại có mặt trên thế gian này để một ngày nào đó con người lại phải chết. Chết là chấm dứt là biến mất khỏi thế gian này, hay còn có một nơi nào khác để người chết trở về ?”. Để tìm câu trả lời chúng tôi mời quý vị hãy cùng với chúng tôi chia xẻ đề tài:“Con người từ đâu đến và chết đi về đâu? “ 

CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ NGUỒN GỐC CON NGƯỜI
Có nhiều quan điểm, học thuyết khác nhau về sự hiện diện của con người ở trên thế gian này.
  •  Những người tôn thờ chủ nghĩa duy vật thì cho rằng con người đến từ vật chất và chỉ sống duy nhất một đời hiện tại. Sau cái chết sẽ không còn gì nữa nên họ sống hưởng thụ không quan tâm gì đến đạo đức, bởi có gây ra tội ác hay sống thiện lành, sau cùng cũng đi đến sự chấm dứt là cái chết. Chết là hết thì cần gì phải lo.
  • Ở nước Ấn Độ cổ xưa, người ta tin rằng bên trong thể xác con người có linh hồn trường cửu. Sau khi chết tiểu ngã hay tiểu hồn của họ sẽ hoà nhập vào đại ngã Phạm Thiên. Để đạt mục đích đó, ở Ấn Độ có pháp môn tu khổ hạnh là pháp tu hành hạ thân xác. Họ cho rằng càng khổ hạnh nhiều chừng nào thì càng sớm đạt được thượng tâm. Đức Phật cũng đã từng tu theo pháp môn khổ hạnh này 6 năm dài, thượng tâm thượng trí Niết Bàn đâu không thấy, chỉ thấy suýt chút nữa thì mất mạng nếu không nhờ nữ mục đồng cứu sống bằng một chén sữa cừu.
  • Các nhà tôn giáo theo thần quyền thì cho rằng con người là sản phẩm của Thượng đế. Thượng đế là đấng tối cao, toàn năng, toàn quyền chẳng những tạo ra con người mà còn sáng tạo cả thế gian, vũ trụ. Con người sau khi chết chỉ có hai cảnh giới để đến. Đó là được lên Thiên đàng nếu ai tin và nghe theo lời dạy của Thượng đế. Ngược lại kẻ nào thắc mắc không đặt trọn vẹn đức tin vào Kinh Thánh thì bị xem là con chiên lạc đàn, sau khi chết sẽ bị đày xuống hoả ngục và bị thiêu rụi đời đời.
  •  Còn quan điểm của Phật giáo thì như thế nào?  Là người Phật tử chúng ta đã học qua “Tiến Trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca”. Trong đêm cuối của tuần lễ thứ Tư là đêm Bồ Tát thành đạo. Vào canh Một, Ngài chứng quả Túc Mạng Minh, đạt Trí tuệ hiểu biết về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp của chính Ngài. Canh thứ Hai, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh, đạt được Trí tuệ hiểu biết về sự luân hồi sinh tử của chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp là do Nhân Quả nghĩa là đời quá khứ họ tạo Nhân xấu thì đời này họ sẽ thọ Quả xấu, nếu đời quá khứ họ sống thiện lương thì đời này họ hưởng Quả tốt. Canh thứ Ba, Ngài chứng Lậu Tận Minh, là Trí tuệ biết rõ nguyên nhân của luân hồi sanh tử là lậu hoặc. Lậu hoặc là những thói quen, những đam mê huân tập từ nhiều đời quá khứ cho đến hiện tại và tiếp diễn trong nhiều đời ở tương lai. Lậu hoặc cũng có nghiệp tốt và nghiệp xấu nhưng đa phần là xấu ác khiến cho con người cứ phải luân hồi sanh tử.
Qua sự chứng ngộ ba Minh của Đức Phật, cho thấy cái chết của chúng sanh không phải là dấu chấm hết. Cái chết chỉ là sự bắt đầu cho một sự sống mới. Sự sống đó được mô tả qua thuyết “Thập Nhị Nhân Duyên hay thuyết Nhân Quả” như sau:
  • Thế nào là Nhân Duyên? Nhân là nguyên nhân, là cái Nhân chính trực tiếp sanh ra vật khác. Thí dụ như hạt mè là Nhân trực tiếp sanh ra cây mè, hạt đậu là Nhân trực tiếp sanh ra cây đậu. Duyên là sự trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho Nhân thành hình. Thí dụ như đất, nước, phân bón, ánh sáng mặt trời và sự chăm sóc của người làm vườn. Những thứ này đã trợ duyên, giúp đỡ cho các hạt nêu trên nẩy mầm thành cây.
Vậy “Thập Nhị Nhân Duyên” là mười hai Nhân cũng là Duyên, mà Nhân này có mặt sẽ sanh ra Nhân kia. Mười hai Nhân Duyên đó là: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão Tử.

Ý nghĩa đại cương của 12 nhân duyên như sau:

1) Vô minh: Là không hiểu biết như thật về hiện tượng thế gian. Đức Phật dạy tất cả các pháp có mặt trên thế gian này bao hàm cả con người do nhiều điều kiện mà thành, tức không thực chất tính cho nên nó vô ngã. Các pháp chỉ có mặt khi nhân duyên đầy đủ và nó sẽ hư hoại biến thành cái khác khi không đủ nhân duyên. Đó là tánh Huyễn của vạn pháp. Người vô minh không hiểu biết như thật về hiện tượng thế gian, nên chấp chặt mọi thứ trên đời là có thật, là thường hằng nên khi những thứ đó mất đi, thì phiền não, khổ đau.

2) Hành: Bởi vô minh nên con người thường có những ý nghĩ, lời nói và hành động tạo nghiệp. Có khi là nghiệp lành nhưng phần nhiều là nghiệp ác.

3) Thức: Là thần thức hay tử thức, đó là những lậu hoặc, tập khí do thân khẩu ý tác tạo, gọi chung là nghiệp. Các nghiệp này huân tập tạo thành nghiệp lực. Khi chết nghiệp lực dẫn dắt thần thức đi thọ lãnh quả báo khổ hay vui ở đời sau.

4) Danh sắc: Con người có hai phần tinh thần và vật chất. Tinh thần thì trừu tượng không có hình tướng gồm các khái niệm: thọ, tưởng, hành, thức gọi chung là Tâm, thuật ngữ nhà Phật gọi là Danh. Phần thân là thể chất có hình tướng màu sắc có thể sờ mó được gọi là Sắc.

5) Lục nhập: Là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh hay sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì lục thức được phát sinh. Đó là nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Lục thức này tác động vào tâm khiến cho tâm lúc nào cũng giao động nên gọi là lục nhập.

6) Xúc: Là sự tiếp xúc của lục căn với lục trần. Thí dụ mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng động, thân cảm thấy mát mẻ, lưỡi nếm vị ngọt đắng, mũi ngửi hương thơm, ý thích hay không thích một đối tượng nào đó.

7) Thọ: Cảm giác hay cảm nhận của thân hay tâm. Tâm cảm nhận vui buồn khi lục căn tiếp xúc lục trần. Thân cảm giác đau nóng khi tiếp xúc với lửa hay nước sôi.

8) Ái: Là ưa thích. Khi lãnh thọ cảnh vui thì yêu thích … đó là sanh tâm tham. Gặp cảnh không vừa ý, tâm khổ não, không ưa, ghét bỏ… thì sanh tâm sân hận. Tham ái, khát ái, là nguyên nhân thúc đẩy con người tạo nghiệp.

9) Thủ: Là bám lấy, giữ lấy. Gặp cảnh tốt, thì tham cầu giữ lấy. Gặp người mình ưa thích thì muốn chiếm hữu. Thủ cũng chính là nguồn gốc của tham.

10) Hữu: Là mong muốn hiện hữu ở đời này để hưởng thụ hay hiện hữu ở một cõi nào đó trong tương lai. Sự mong muốn này chính là Nhân đưa đến Quả là luân hồi sanh tử. Hữu cũng có nghĩa là Có. Muốn có mặt ở đời này và muốn sẽ có mặt ở đời lai sanh.

11) Sanh: Là sanh ra đời để thọ quả báo trả nghiệp do Ái, Thủ, Hữu là nhân đời trước gây ra.

12) Lão tử: Già rồi chết.

Nhìn chung mười hai nhân duyên này liên kết thành một vòng tròn luân hồi sinh tử của con người. Mắt xích Vô Minh là nguy hiểm nhất. Vì Vô Minh làm cho tâm trí chúng ta mê muội, không còn sáng suốt phân biệt đâu là thật đâu là giả. Vì Vô Minh nên hiểu biết sai lầm về con người và vạn vật trong vũ trụ, do đó sinh chấp ngã. Có ngã là có Ái, Ái thì ích kỷ, tham lam muốn chiếm hữu những gì mình yêu thích, không được thì tâm sân si khởi lên… làm khổ mình khổ người, tạo nghiệp. Bất cứ nghiệp nào dù tốt hay xấu, một khi đã tạo ra, thì nó được gìn giữ mãi trong tàng thức từ đời này sang đời khác, không bao giờ bị mất.
Nói theo khoa học thì những suy nghĩ hay những việc làm gây ấn tượng tốt hay xấu, mà mình lặp đi lặp lại thường xuyên thì những ấn tượng này ghi đậm trong Ký Ức Dài Hạn của mình khó mà quên.
Khi con người chết thì ngũ uẩn tan rã, thân tứ đại đất, nước, gió, lửa trở về với tứ đại, còn nghiệp thức thì tiếp tục bám theo tử thức. Nó chính là nghiệp lực thúc đẩy, dẫn dắt tử thức đi tái sanh.
Thuyết “Thập Nhị Nhân Duyên” mô tả sự sống của con người qua ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Con người bị dính chặt trong bánh xe luân hồi không thoát ra được chỉ vì Vô Minh. Vô Minh sinh ra Hành, Hành sinh ra Thức, Thức sinh ra Danh Sắc, Danh Sắc sinh Lục Nhập, Lục Nhập sinh Xúc, Xúc sinh Thọ, Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu, Hữu sinh Sanh (đời kế tiếp), Sanh sinh Già Chết. Cứ thế mà cuộc sống tiếp diễn: Sống rồi chết, chết rồi sống …, không biết chỗ nào là khởi đầu và cũng không biết chỗ nào là kết thúc.
CDVD Hình 2
CDVD Hình 2
CON NGƯỜI  HAY SỰ SỐNG TỪ ĐÂU ĐẾN, CHẾT ĐI VỀ ĐÂU THEO GIÁO LÝ NHÀ PHẬT?
Khi có sự giao hợp giữa nam và nữ trong thời kỳ người nữ có thể thụ thai, hợp duyên thì thần thức của người chết sẽ thác sinh vào thai mẹ. Trong bụng mẹ, thai sinh thu hút tinh huyết làm nhục thể, và sau đó tâm thức hoà hợp cùng nhục thể hình thành Danh Sắc. Danh là tâm thức. Sắc là nhục thể. Qua thời gian Danh Sắc lần lượt tượng hình đầy đủ lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Khi đủ ngày tháng, thai nhi được sanh ra, lục căn của hài nhi tiếp xúc với lục trần, do đó hài nhi biết nóng lạnh đau đớn hay êm ái. Do sự xúc chạm này mà tâm hài nhi dần phát sanh ra sự phân biệt, rồi từ đó có cảm thọ vui hay khổ. Cảm thọ vui khổ này phát sanh ra những khởi niệm ưa ghét, thích hay không thích. Chính sự tham ái đó khiến nó cố thủ, cố bám lấy cái nó ưa thích và muốn đòi hỏi được thoả mãn những điều ưa thích đó, nên nó tạo ra nghiệp căn, mà tạo nghiệp thì phải chịu quả báo.
Câu hỏi: Con người từ đâu đến, chết đi về đâu?” có nhiều cách trả lời, nhưng hợp lý hay không hợp lý là tuỳ theo quan niệm và đức tin của mỗi người, chúng ta không bài bác.
Theo giáo lý nhà Phật con người sau khi chết, tuỳ theo Nhân đã tạo trong đời hiện tại mà tái sanh vào sáu cõi. Nếu con người sống ở cõi đời này tạo nhiều Nhân thiện lành, biết mở lòng bố thí giúp đỡ người khác, giữ đúng giới đức, thì sau khi chết sẽ được sanh về cõi Trời hưởng phước. Cõi Người là cõi có khổ có vui. Sanh về cõi Người là để vay trả, trả vay những điều mình đã làm trong đời này hay nhiều đời trước.  Cõi A-Tu-La là cõi của những vị thần khi sống ở đời này họ tạo nhiều Nhân tốt nhưng tánh tình nóng nảy nên khi chết thì sanh về cõi A-Tu-La. Còn ba cõi kia là cõi Súc Sanh, Ngạ Quỹ, Địa Ngục, trong kinh gọi là ba đường ác, ba đường xấu. Con người sẽ sanh về những cõi ác nếu trong đời sống hiện tại họ gây ra quá nhiều tội lỗi làm tổn hại những người xung quanh, hoặc có hành động tàn ác giết người, giết vật v.v…
Chúng ta là người phàm phu với con mắt trần không thấy được những cõi vô hình. Đức Phật là bậc giác ngộ thấy biết, giảng lại cho chúng ta. Là người học Phật, chúng ta biết rằng những điều Đức Phật giảng dạy cho chúng ta là do sự tu tập và chứng ngộ mà nói ra chứ không dựa vào học thuyết của bất kỳ ai.

CON NGƯỜI SANH RA TỪ NHÂN QUẢ
Giáo lý quan trọng của Phật giáo là Lý Duyên Khởi, là Nhân Quả, là cái này có cái kia có, cái này sinh cái kia sinh; cái này không cái kia không, cái này diệt cái kia diệt. Như vậy có nghĩa là chúng ta “gieo Nhân nào thì nhận Quả đó”. Trong đời sống hiện tại chúng ta đang thọ nhận cái Quả vui buồn, hạnh phúc hay khổ đau là do chúng ta gieo Nhân làm khổ người hay mang hạnh phúc đến cho người từ đời trước. Và cái Quả trong hiện tại đời này, nếu không tu tập sửa chữa thì nó chính là cái Nhân để trổ Quả cho chúng ta nhận trong tương lai. Con người cứ như thế tương tục mãi không ngừng hết đời này qua đời khác theo vòng luân hồi mười hai mắt xích.
Từ điểm này chúng ta biết rằng con người sinh ra từ Nhân Quả và không phải chỉ sống một đời trong hiện tại này, mà đã trải qua nhiều đời trong quá khứ và trong tương lai còn tiếp nối nhiều cuộc sống khác. Như vậy chết là bỏ thân hiện tại trong đời này để có thân mới trong đời sống kế tiếp. Nói cách khác sống là thay thân cũ của đời trước để có thân mới trong đời này. Với con mắt của bậc trí tuệ thì con người của đời này và con người của đời sau không phải là một mà cũng không phải là hai.

LÀM SAO THOÁT KHỎI LUÂN HỒI SANH TỬ?
Đạo Phật là đạo dạy con người tu tập để thoát khổ giác ngộ giải thoát. Giải thoát ở đây là thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Trong kinh Thánh Cầu, Đức Phật cho biết: “Sanh, Già, Bệnh, Chết, Sầu Khổ, Ô Nhiễm là những cái tự mình bị sanh.” Cái Bị Sanh này đưa con người vào vòng luân hồi sanh tử. Khi biết sự nguy hại của Cái Bị Sanh, “Ngài tìm cầu Cái Vô Sanh“. 
Cái Vô Sanh là trạng thái vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, đó là trạng thái Niết Bàn.
Trong canh thứ Ba của đêm thành đạo Đức Phật đã chứng quả Lậu Tận Minh, biết như thật con người bị luân hồi sanh tử là do lậu hoặc tức nghiệp thức gây ra. Như vậy muốn thoát khỏi luân hồi sinh tử là phải tu tập làm sao cho sạch lậu hoặc. Trong lậu hoặc có ba căn bệnh chánh là tham sân si, chúng ta phải tu tập làm sao để không còn tam độc này ở trong tâm chúng ta nữa.
Bắt đầu tu tập chúng ta cần phải có Trí năng tỉnh ngộ học hỏi những điều Đức Phật đã chứng ngộ và dạy lại chúng ta. Hiểu thấu đáo về những Nhận thức của Đức Phật để chúng ta có cái nhìn đúng đắn về hiện tượng thế gian và chính bản thân chúng ta. Chúng ta phải nhận rõ vũ trụ hay con người đều thuộc về thế giới của thời gian và chịu ảnh hưởng của quy luật biến dịch, cho nên sự hiện hữu dài hay ngắn, đều phải trải qua chu kỳ thành, trụ, hoại, diệt (không), để trở thành cái khác.
Qua bài kinh Vô Ngã Tướng, chúng ta hiểu con người của chúng ta là do sự tập hợp của năm uẩn. Bản thân của chúng ta có hai phần quan trọng ngang nhau đó là thân và tâm. Chúng ta cần có thân khoẻ mạnh để tâm nương náu mà tu hành. Tu hành như thế nào? Đức Phật dạy các pháp Quán, Chỉ, Định, Huệ là phương tiện để đạt cứu cánh giải thoát giác ngộ.
Bước đầu chúng ta đặt mục tiêu gần gũi với cuộc đời phàm phu của chúng ta trước. Đó là tu làm sao để thân khoẻ, tâm an, trí tuệ sáng suốt. Rồi sau đó mới tiến tới mục tiêu cao hơn là thoát khổ, giải thoát, giác ngộ. Con đường tu tập chuyển đổi từ Tâm Phàm Phu trở thành Tâm Bậc Thánh đến Tâm Phật là con đường lý tưởng dài vô lượng kiếp. 

TU TẬP NHƯ THẾ NÀO?
– Tu Quán, Tu Huệ: Để chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi cái nhìn về cuộc đời, về công ăn việc làm, về tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng, về của cải vật chất. Những thứ đó đang ở trong tay chúng ta nhưng biết đâu sẽ có một ngày chúng ta mất trắng. Khi chuyện đó xảy ra chúng ta hiểu biết rằng vạn pháp vốn vô thường nếu thản nhiên chấp nhận thì chúng ta sẽ không buồn khổ. Đó ta chúng ta đã có Huệ.
Tu Quán để có cái nhìn về chính bản thân của chúng ta ngay trong sát na hiện tại này đang chịu quy luật biến dịch chi phối. Nó thay đổi từng sát na. Một lúc nào đó cái già, cái bệnh và cái chết sẽ đến với chúng ta. Chấp nhận sự thật chúng ta sẽ không cảm thấy quá lo buồn sợ hãi khi mỗi giai đoạn thời gian đời sống đến với chúng ta khi khoẻ mạnh lúc ốm đau.
– Thu thúc lục căn: Sáu căn tiếp xúc sáu trần, thấy, nghe, xúc chạm đối tượng biết rõ ràng đối tượng nhưng không khởi tâm ưa ghét, chê khen, phản ứng gì cả, có nghĩa là đối tượng sao biết y như vậy mà trong đầu không nói thầm về đối tượng. Đó là cái Biết đang là về đối tượng. Phương pháp tu tập này còn gọi là Pháp Như Thật cũng thuộc về Thiền Huệ Vipassanà, giúp tâm yên lặng thanh thản đưa tới Định.

– Tu Chỉ, Tu Định: Trong đời sống hằng ngày đầu óc chúng ta luôn bị giao động vì suy nghĩ nọ kia, nó đầy ấp những tham, sân, si… nên đưa đến phiền não khổ đau. Tâm cứ giao động liên tục thì không bao giờ chúng ta “giác ngộ” được điều gì. Bây giờ chúng ta tập sống trong cái Biết không Lời.
Tu Chỉ là làm sao cho tâm chúng ta được yên lặng, thanh thản. Thực tập bằng cách làm cái gì biết chúng ta đang làm cái đó.
Thí dụ: Quét nhà biết đang quét nhà, hút bụi biết đang hút bụi, rửa chén biết đang rửa chén…. mà trong đầu không khởi niệm gì cả nghĩa là không suy nghĩ, không nói lầm bầm trong đầu sao nhà dơ quá, sao nhiều chén bát quá .v..v….  Đó là chúng ta đang tu thiền Chỉ.
Thiền Chỉ giúp tâm yên lặng thanh thản nhưng không vững chắc. Khi toạ Thiền kinh nghiệm tâm yên lặng vững chắc, tầm tứ không khởi lên, lậu hoặc còn đó nhưng nằm yên, tham sân si không có. Trong lúc đó,  không có gì hết chỉ có cái Biết không lời trong tâm thì ba nghiệp được thanh tịnh. Như vậy, chúng ta tạo được Nhân thanh tịnh ngay trong bây giờ và ở đây. Đó là công đức vô lậu của chúng ta, dù chỉ năm, mười phút hay lâu hơn.

CDVD Hình 3
CDVD Hình 3

KẾT LUẬN
Khi đã hiểu sanh tử như thế nào, hiểu sự sống từ đâu đến và chết đi về đâu, thì đối với sự sống, chúng ta không tham cầu bởi chúng ta biết tấm thân ngũ uẩn này không thực chất tính, nên nó sẽ không vững bền với thời gian, nó bị ảnh hưởng bởi quy luật biến dịch, nên nó vô thường từng phút từng giây. Sống hay chết, tuỳ thuộc nơi duyên hợp hay duyên tan… mà thay đổi. Và đối với cái chết, chúng ta sẽ không sợ hãi, bởi chết không phải là chấm dứt, không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay đổi cũ mới mà thôi. Sự sanh trong hiện tại chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh. Sự chết trong hiện tại chỉ là một lần chết trong vô lượng lần chết.
Điều quan trọng là chúng ta sống như thế nào trong đời này, để đời sau chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mỗi lần chết đi, sang một đời sống khác là một dịp tốt để chúng ta học hỏi hầu tiến hoá trên con đường tâm linh. Người đời hay nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim“, chúng ta hãy bắt tay mài thỏi sắt lớn trong tâm chúng ta ngay từ bây giờ, bằng cách tập sống theo lời Phật dạy. Giữ giới đức được trong sạch, làm việc lành tránh việc dữ, tu Huệ, tu Định để phát huy Trí huệ tâm linh. Đó là theo con đường Giới-Định-Huệ mà Đức Phật đã đưa ra. Khi ánh sáng trí huệ chan hoà, thì bóng tối vô minh biến mất. Vô minh không còn thì vòng luân hồi cũng tan rã, bấy giờ người tu được hoàn toàn thoát khổ, giải thoát, giác ngộ.
Đã học Phật, chúng ta biết cuộc đời an lành hạnh phúc hay khổ đau của chúng ta không do ai ban phát cả, mà do quy luật Nhân Quả làm chủ, nhưng Nhân Quả đó lại do chúng ta làm chủ. Chúng ta có thể tạo ra Nhân tốt hay xấu để thọ lãnh Quả lành hay dữ. Ngay cả Đức Phật cũng không cứu được chúng ta ra khỏi ba đường dữ hay ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, mà chỉ chúng ta tự cứu chúng ta mà thôi. Cho nên chúng ta phải tự chọn cho chúng ta một lối sống, để khi thân hoại mạng chung, chúng ta tự làm chủ lấy mình thanh thản ra đi với hành trang phước đức và trí huệ hay là chúng ta bị nghiệp lực nặng nề làm chủ dẫn chúng ta sanh vào những chỗ tương ưng với đời sống đầy tội lỗi tham sân si của chúng ta để thọ Quả của Nhân đã gây ra trong đời này./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
 Nguồn: https://www.tanhkhong.org/a865/song-tu-dau-den-chet-di-ve-dau-

Vấn đề “tâm vật” trong đạo Phật

Thứ năm, 02/02/2017 | 08:53

Đạo Phật không vướng vào duy tâm, không vướng vào duy vật, nhưng cũng không phải một nhị nguyên thuyết. Duy thức học đạo Phật chủ trương rằng ngũ uẩn tức là toàn thể những hiện tượng vật lý, tâm lý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), đều là những thứ phát hiện của”chủng tử” tiềm tại trong A lại gia thức (Alaya - vinnana) mà thôi.

Đạo Phật chủ trương nhất nguyên hay đa nguyên, duy tâm hay duy vật? Đứng ngoài đạo Phật thì “vọng tưởng” rằng đạo Phật là nhất nguyên, là đa nguyên, là duy tâm hoặc là duy vật. Nhưng bước vào trong đạo Phật, trong rừng giáo lý để quan sát, người ta sẽ thấy một hiện tượng kỳ lạ. Là khi đứng về hướng này, người ta thấy đạo Phật chủ trương nhất nguyên, nhưng khi đứng qua hướng kia, lại thấy rõ ràng đạo Phật chủ trương đa nguyên. Rồi đứng trên miếng đất này, người ta thấy đạo Phật chủ trương duy tâm, nhưng đứng sang miếng đất khác, thì rõ ràng là đạo Phật chủ trương duy vật.

Quả thật là một sự kỳ lạ. Kẻ nóng tính nghe như thế sẽ bực mình và sẽ cho đó là một lối chủ trương ba phải. Nhưng không, đứng về phương diện triết học, đạo Phật có những hệ thống lý thuyết rất phong phú, mà tất cả đều đi đến một sự nhất trí vô cùng hoàn mỹ.

Nhiều người nghe câu kinh “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” liền chỉ ngay đạo Phật mà bảo rằng: Ấy đấy, đạo Phật duy tâm rõ ràng, còn chối cãi gì nữa. Thực ra, đạo Phật có chối cãi đâu. Đạo Phật chỉ giảng giải rằng chữ TÂM của đạo Phật không phải như chữ TÂM của thế gian, của triết học. Phật học là một môn Tâm học. Nhưng tâm ở đây không phải là linh hồn, là tất cả những hiện tượng tâm lý, và “tâm học” của đạo Phật rất khác xa “tâm lý học” của triết học vậy.

Cũng có kẻ thấy đạo Phật chủ trương bác bỏ thuyết linh hồn tồn tại độc lập (điểm này có thể làm nhiều bạn giật mình), không công nhận tạo hóa, thì lại chỉ vào đạo Phật mà bảo rằng: Ấy đấy, đạo Phật duy vật rõ ràng, còn chối cãi gì nữa. Thực ra, đạo Phật có chối cãi gì đâu. Đạo Phật chỉ giảng giải rằng cái mà người ta gọi là linh hồn ấy, đạo Phật gọi ý và thức, và khi xác thân tiêu hoại, ý và thức ấy không còn tác dụng nữa, nghĩa là không sinh hoạt như một hồn ma bóng quế như giới ít học hiểu lầm.

Chủ nghĩa DUY VẬT là một chủ nghĩa cho rằng thực tại chỉ là vật chất. Vũ trụ, nhân loại và sinh vật đều là vật chất, nói một cách tinh vi hơn, đều có nền tảng chung là vật chất. Cả đến phần tinh ba nhất của loài động vật là tư tưởng, là cảm tình cũng đều do nền tảng vật chất mà có. Những tư tưởng và tình cảm ấy không thể phát hiện nếu không có vật chất. Tinh thần cũng là sản phẩm thượng hạng của vật chất, duy có tinh tế hơn những sản phẩm khác như đường, như mật, như sinh tố, như thần kinh hệ… mà thôi.
Người chủ trương duy vật thường lý luận rằng: Chỗ nào không có vật chất thì không thể có tinh thần, do đó tinh thần là do vật chất mà có, tinh thần là một thuộc tính của vật chất.  

Ta không cần phải mất thì giờ để bác bẻ cái quan niệm nông cạn và thiên lệch này trong khi mọi người đều đã thấy cái vô lý của nó rồi. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng duy vật luận chỉ chú trọng đến phần ngoại giới, xao lãng hẳn phần nội giới phong phú sâu xa mà ở đấy nhà khoa học chỉ có thể dọi vào những tia sáng ngắn ngủi nhất.

Mà dù người duy vật có để ý đến nội giới đi nữa thì vẫn xem nội giới như một đối tượng tầm thường như bao nhiêu đối tượng vật chất khác, dù nhà duy vật cho nó là “một hình thức tinh tế nhất của vật chất”. Tinh thần tự đối tượng hóa đã là một việc khó làm, mà tinh thần tự cho mình là thuộc tính của vật chất lại là chuyện khó nghe. Đời thuở nào lại có một thứ thuộc tính kỳ quái có thể “biết” mình là thuộc tính của vật chất!

Còn bảo rằng “chỗ nào không có vật chất thì không có tinh thần” cũng thật lạ lùng. Làm như tai mắt người có thể “thấy” được thứ tinh thần tồn tại độc lập vậy. Tai mắt ta chỉ nhận được sự hiện hữu của tinh thần nhờ những dấu hiệu vật chất. Tinh thần vẫn hiện hữu đó nếu ta không nhờ một vài dấu hiệu vật chất, cũng như lúc nào cũng có làn sóng điện, và những âm thanh chở trên các làn sóng điện ấy, nhưng ta chỉ nhận được sự hiện hữu của các âm thanh được chở trên các làn sóng kia nếu ta có một chiếc máy thu thanh.

Vậy thì nhà duy vật đừng nên bắt ta đi tìm tinh thần ở chỗ không có vật chất. Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ đạo Phật cũng không nhận rằng có thể có cái “hiểu biết” (cái mà thế gian gọi là cái hồn) tồn tại ngoài xác thân loài động vật.

Chủ nghĩa DUY TÂM chủ trương ngược lại rằng vật chất không phải thực có, vật chất không tồn tại ngoài ý thức chủ quan của con người. Chỉ có ý thức chủ quan là thực tại, còn bao nhiêu cái khác đều là sản phẩm của ý thức chủ quan, đều là những biểu tượng của ý thức, gọi tắt là những “ý tượng”. Duy tâm luận chủ trương ngoài tâm ý của mình không còn gì cả; vũ trụ, thế giới, những người khác và chính tâm ý của những người khác cũng không thực tại.

Người duy tâm cũng như người duy vật cố tình phủ nhận một mặt của sự thực; người duy tâm cố tình làm ngơ không nhận những ảnh hưởng và những tác động của vật chất của sinh lý trên tư tưởng và tâm lý của mình. Những loài hữu tình sống chung quanh ta cũng có những cảm tình, những tư tưởng, nói tóm lại, một tâm lý chủ quan của họ. Trong sinh hoạt thường nhật ai không nhận rõ điều đó. Ta không thể chỉ công nhận có sự tồn tại của tâm ý riêng ta.

Đạo Phật không vướng vào duy tâm, không vướng vào duy vật, nhưng cũng không phải một nhị nguyên thuyết. Duy thức học đạo Phật chủ trương rằng ngũ uẩn tức là toàn thể những hiện tượng vật lý, tâm lý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), đều là những thứ phát hiện của “chủng tử” tiềm tại trong A lại gia thức (Alaya – vinnana) mà thôi.

Những hiện tượng tinh thần hay vật chất (sắc pháp và tâm pháp) đều là đứng về thế hiển phát. Khi chưa hiển phát, chúng đứng về thế tiềm tàng. Đứng về thế tiềm tàng, chúng gọi là “chủng tử” (danh từ của duy thức học). Đứng về thế hiển phát chúng gọi là hiện hạnh. Chủng tử sinh hiện hạnh, hiện hạnh trở về chủng tử, chủng tử là hiện hạnh, hiện hạnh là chủng tử, sự phát hiện nầy được tiếp diễn không ngừng.

Điểm này đòi hỏi chúng ta nhiều kiến thức về duy thức học. Ở đây chúng ta chỉ lược qua đại cương. Chủng tử là một thứ “năng lực” làm bản chất cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý, nghĩa là cho mọi hiện hạnh. Mà toàn thể chủng tử nằm gọn trong A lại gia thức, hoặc nói một cách khác, toàn thể chủng tử là A lại gia thức. Vậy A lại gia thức là căn bản cho mọi hiện tượng TÂM và VẬT.

Mỗi hiện tượng (tâm lý hay vật lý cũng vậy) khi tàn hoại thì trở về chủng tử đề rồi phát sinh hiện hạnh khác. Nói thế cho dễ hiểu, kỳ thực vì mỗi hiện hạnh sinh diệt trong từng giây phút, nên hiện hạnh luôn luôn trở về chủng tử và chủng tử luôn trở thành hiện hạnh. Các hiện hạnh sinh khởi cách nào? Sinh khởi theo luật tương quan tương duyên (loi d’interdépendance).

Ví dụ: ý thức, lý trí, tình cảm thì sinh khởi nhờ nương vào các hiện tượng sinh lý vật lý. Nương vào để được phát sinh mà thôi, chứ không phải các hiện tượng sinh lý vật lý “sinh ra” các hiện tượng tâm lý. Hiểu như thế, ta không còn cho tâm sinh vật, hay vật sinh tâm nữa. Chúng nương vào nhau mà tương sinh tương thành, và do chủng tử ở A lại gia. Chủng tử là “thân nhân duyên” nghĩa là những nhân chính, còn các hiện tượng giúp chúng phát sinh thì gọi là “tăng thượng duyên” nghĩa là các điều kiện thuận lợi giúp cho sự phát sinh ấy.

Nguyên nhân chính của mọi hiện tượng, như thế, tức là chủng tử. Nhưng gọi là nguyên nhân cũng không đúng hẳn; phải gọi là bản chất. Vậy chủng tử trong duy thức học được xem như là một thứ “năng lực” làm nền tảng cho cả hai loại hiện tượng TÂM và VẬT.

Tất cả chủng tử, hiện hạnh gom góp chung lại, gọi là A lại gia.

Sau khi thân xác tiêu hoại, thiếu điều kiện để “hiện hành”. Các hiện tượng tâm lý trở về tiềm phục nơi A lại gia. Như thế, không có một linh hồn tồn tại ngoài thể xác. Cái tác dụng tinh thần kia, sự hiểu biết phân biệt yêu, ghét kia không hiện hành nữa, thì sao gọi là còn linh hồn được. Tuy nhiên A lại gia thức sẽ biến chuyển, chín muồi, để đem tất cả năng lực chủng tử mà phát hiện ra một thế giới mới, một hoàn cảnh mới, một sinh mệnh mới.

Nghe nói thế, có người sẽ cho rằng đạo Phật đã rơi vào duy tâm. Nhưng không, không có một A lại gia tồn tại độc lập. Mà có nhiều A lại gia của nhiều chúng sinh. A lại gia này tồn tại nhờ sự hiện tồn của A lại gia khác, và các A lại gia khác cũng tồn tại nhờ A lại gia này. Tất cả đều vâng theo luật tương quan tương duyên mầu nhiệm.

Ý thức chủ quan của ta nằm gọn trong A lại gia ta. Thế giới khách quan tồn tại ngoài ý thức ấy, nhưng không phải chỉ là một thế giới hiện hạnh của riêng A lại gia ta, mà là một thế giới hiện hạnh do vô số A lại gia cộng đồng kiến tạo. Điểm này ta sẽ thấy rõ trong giáo lý tự biến cộng biến của duy nghiệp luận.

Chỉ khi nào A lại gia trong sạch, sáng suốt do công phu tinh luyện mà trở thành Đại viên Kính trí, nó mới tách rời ra khỏi sự cộng đồng ấy và thể nhập về biển bản thể vô cùng rộng lớn thanh tịnh và sáng suốt.

Gs.Trần Thạc Đức
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6/2016
NCPH
Nguồn: https://phatgiao.org.vn/van-de-tam-vat-trong-dao-phat-d25447.html

Đạo Phật Duy Tâm Hay Duy Vật - Thầy Thích Phước Tiến

https://youtu.be/DfmssWKvo0U


 ĐỨC PHẬT TRONG CÁI NHÌN CỦA CÁC KHOA HỌC GIA
Posted by tvdaidang on Friday, 6 November 2015

1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật:

Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Ðức].

Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức Phật kể cả trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan].

Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng Ta"].

Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng ích kỷ có ba dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình.

Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [- H.G. Wells].

Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman].

2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật

Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"].

Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật không đòi hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lý của đức Phật"].

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis].

Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [- Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Ðức].

Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ và từ bi". [Anatole France].

Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí. [- Một Văn Hào].

Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert Oppenheimer].

Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật. [- Tổng thống Nehru].

3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại:

Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông diệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm sanh khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru].

Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương].

Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [- Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay của Ngài. [- Một học giả Hồi Giáo].

Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan,"Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"].

4. Giáo pháp của Đức Phật:

Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và đã tìm thấy câu trả lời. [- Tiến Sĩ Graham Howe].

Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [- Tiến sĩ G. P. Malasekara].

Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo tôn giáo này. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"].

Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi. [- Gertrude Garatt].

Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy bởi sự khoáng đạt của tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ Edward Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương].

Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không còn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật giáo"].

Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids].

Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn còn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well].

Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"].

Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"].

"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].

(Nguồn: Email từ Phật tử)
Nguồn: http://www.thienviendaidang.net/node/521

TÔI LÀ AI ?



TÔI LÀ AI ?

Thiện Chí

Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào bạn chợt tự hỏi “ Tôi là ai ?”. Câu trả lời hiếm khi là có hoặc giả không hề! Bởi vì ai mà không tự biết mình ?
_ Biết mình là biết những gì? Biết mình ở đây không chỉ là biết lý lịch cá nhân, mà còn tự khẳng định lối sống của mình, phong cách quan hệ xã hội, sở thích và thành kiến; những ứng xử trong mọi tình huống giữa đời sống thực tế. Tất cả những điều đó hình thành con người xã hội của mỗi cá nhân. Những “yếu tố xã hội” ấy từ đâu đến? _ Nó đến từ nền giáo dục, từ tập quán gia đình, từ truyền thống dân tộc, qua đó, tùy theo nhận thức, tư duy bản thân mà đối tượng trở nên thành đạt hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ.
_ Hạnh phúc ? Thế gian vẫn còn tranh cãi thế nào là hạnh phúc thật.
_ Đau khổ ? Nguyên nhân thực sự là gì, bên trong hay bên ngoài?

Xã hội càng phát triển, thế giới càng văn minh, cuộc sống càng cạnh tranh gay gắt, con người phải quay cuồng đối phó từng ngày từng tháng, hậu quả là đời người bị ngoại cảnh chi phối không ngừng. Con người bèn tìm cách vận dụng mưu trí, thế lực, cơ hội để tự bảo vệ và sinh tồn. Rốt cuộc, các giải pháp đều là nhất thời, không bền vững, không lúc nào thật sự an tâm, cảm thấy không có lúc nào mình được làm chủ chính mình.

Nhà văn Cao Huy Thuần [1] , trong bài nói chuyện liên quan đến “cái tôi” của dân tộc, đã nói: “Tôi xa tôi rồi chăng?
Câu hỏi ấy cũng cần chảy máu trong lòng một dân tộc khi dân tộc ấy vọng ngoại. Khi dân tộc ấy không còn thấy cần thiết phải đặt ra câu hỏi "tôi là ai?".

Ý tác giả muốn nhấn mạnh giá trị bản sắc của mỗi dân tộc, phát huy bản sắc để giải phóng khỏi mọi lệ thuộc hay vay mượn cái của người làm cái của ta. Bởi vì bản sắc của ta là những gì được tổ tiên, được lịch sử cố kết nên qua hàng ngàn năm bằng mồ hôi, máu, nước mắt, bằng lẽ sống, tự lực, tự tồn. Giá trị của nó thật bền vững, thật vinh quang, vì nó là hồn nước, là sinh chất hài hòa nhất để dân tộc ngày càng văn minh tiến bộ trên mọi mặt nhân sinh, nhân bản và tâm linh.

Đó là nói về “bản sắc” của cộng đồng dân tộc, còn đối với một cá nhân, câu trả lời cho câu hỏi “tôi là ai” chính là bản sắc của cá nhân ấy. Ở đây bản sắc đó đã đúc kết bằng hai phần, một là bản ngã bẩm thụ từ lúc lọt lòng mẹ, hai là trải nghiệm tư duy đến lúc trưởng thành. Nên có tác giả viết: “Thế kỷ XXI: Tìm về đức tin và cuộc sống nội tâm [2] . Đó sẽ là một thế kỷ không dễ dàng. Khoa học kỹ thuật sẽ có những bước tiến vũ bão, kéo con người vào “cuộc chơi” của nó. Nghĩa là, nếu lỏng tay, con người sẽ bị điều khiển bởi chính những sáng tạo của mình. Đó là một nghịch lý có thật.
“Con người sẽ thoát ra khỏi nghịch lý ấy bằng cách nào? Thế kỷ XXI sẽ chứng kiến những cuộc tìm về với Đức Tin ở chiều sâu và diện rộng. Văn học sẽ trở lại ngôi đầu bảng. Văn học Nga với hành trình tìm kiếm Đức Tin của những con người vĩ đại như Dostoievski, Lev Toistoi, Tshekhov... sẽ lại được đọc nhiều nhất trên khắp hành tinh. Thơ kinh nguyện cầu của Tình yêu, Đau khố, Khắc khoải, Dâng hiến, Tin tưởng... sẽ là món ăn tinh thần không thể thiếu của loài người. Thơ sẽ trở lại ở chính những nước phát triển nhất, những nơi thừa tiền bạc nhưng thiếu đức tin, thừa khoa học nhưng thiếu hụt lương tri ("Science sans Conscience...”). Bởi con người không thể sống trong sự mất cân bằng. Mất cân bằng sinh thái cũng chết, mất cân bằng giữa tâm và thận cũng gay, mà mất cân bằng giữa sự thưa thãi vật chất và trống vắng tinh thần lại càng nguy.”


Đó là những khúc quanh để thoát khỏi nghịch lý ở “thượng từng kiến trúc” của xã hội. Còn ở “hạ từng cơ sở” nghịch lý càng nghiệt ngã đau khổ gấp bội. Như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao [3] :

“– Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. ….Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. i…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.


Các nhà phân tích cho rằng Chí Phèo đã bị tha hóa, nghĩa là dù muốn dù không hắn không thể sống bằng con người thật của hắn, tức “cái tôi” bản thiện.

Tại bàn tròn “Sống tử tế” do Tuần Việt Nam tổ chức hôm 17-9, nhà văn - nhà báo Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á - Phi, đã đặt câu hỏi: “Chúng ta được sống trong một xã hội với hệ thống luật pháp ngày càng đầy đủ, các hệ thống giám sát cũng chặt chẽ, đa dạng hơn và điều kiện kinh tế cũng tốt hơn nhưng tại sao sự tử tế đang rời bỏ chúng ta?”. Rồi ông tự trả lời, rất ngắn nhưng đầy nội hàm: “Có vấn đề nghiêm trọng của văn hóa đang bị phá vỡ”. Theo ông thì điều khiến người ta trăn trở không chỉ nằm ở số lượng tội phạm đang tăng lên mà ở cách thức người ta hành xử với nhau, đến mức người ta có thể giết cha, giết mẹ, giết vợ, giết chồng; có thể tàn nhẫn với con cái, hủy hoại thanh danh bạn bè.
Có thể có nhiều giải thích về sự suy thoái đạo đức nhưng nguyên nhân bao trùm nhất không thể không do thiếu vắng giáo dục, theo nghĩa rộng của từ này. Những tính chất tiêu cực mà GS Hoàng Tụy nói đến chính là khuôn mặt tha hóa, đáng sợ của những con người không được giáo huấn đầy đủ. " [4]


Với góc nhìn của nhà giáo dục là thế, với nhà đạo học hay bậc chân tu lại muốn đặt vấn đề tìm cách khám phá tiềm năng sâu thẳm trong nội tâm con người để giải quyết vấn nạn tha hóa hiện nay.
Sách Đạo Học Chỉ Nam [6] viết: “Giá trị con người do con người tự tạo . . .Nhưng đứng về cá nhân mà xét, thật hoàn cảnh xã hội và con người hiện nay, nhận thấy có gì xứng đáng đâu? Con người là một hạt sương trên ngọn cỏ, một, một lượng sóng giữa trùng dương, thoạt mất thoạt còn, yếu ớt đến nỗi một con vi trùng, một ngọn gió phớt qua cũng đủ tiêu diệt, trong một giờ hàng trăm hàng vạn người.
Một mặt khác, con người phải luôn luôn nhớ rằng : mình là “âm dương chi giao, quỉ thần chi hội” . Nghĩa là : mình đứng giữa âm dương, phân nữa là thần, phân nữa là quỉ, có phải mà cũng có quấy, có thiện mà cũng có ác, vậy con người phải chọn con đường mà đi. Đi trúng con đường lành thì lên, bằng sái con đường lành thì xuống. Con người còn có thể tu nên Tiên, nên Phật, làm sư biểu cho muôn đời. Như thế, giá trị con người không phải là con người tự tạo cho mình sao?

“Vậy vấn đề nhân bản là vấn đề hóc hiểm mà quan yếu. Nếu bản (gốc) không lập, thì Đạo không sanh. Người không gốc, thì người không đứng vững. Mà người là tâm, gốc của tâm là tánh. Biết vun trồng bản tánh, mới thiệt chỗ căn cơ, tông tổ của người.

TAM KẾT: Xin trích Đạo Học Chỉ Nam làm kết luận.

Thân phận người nổi trôi lặn hụp,
Dong rủi toan bắt chụp bóng mồi;
Vui buồn, họa phước đi đôi,
Nghiệp duyên ngang trái kéo lôi không ngừng.
Đời bởi đấy tưng bừng sóng gió,
Hóa ngọt chua đen đỏ thân thù;
Phủ màu tang tóc, âm u,
Trở thành địa ngục, ao tù cầm giam.
Ai ai cũng tham lam, ích kỷ,
Nào mấy ai dung dị cho ai;
Sống còn, chẳng có ngày mai,
Đắm mê tửu khí, sắc tài đáng kinh.
Tâm mất hẳn quân bình lẽ sống,
Còn biết đâu nòi giống thân yêu;
Quốc phong, luân lý đổ xiêu,
Đạo người như đã biến tiêu bao giờ.
Hồn dân tộc lờ đờ phiêu bạt,
Mỗi nhơn luân rời rạc, lạnh tê;
Hóa nên trầm trọng nặng nề,
Diễn bao tấn kịch ê chề, ngán ngao.
Bình tỉnh hỏi : Vì sao đến thế?
Do bởi đâu, tình tệ ngày nay?
Tại ai, ai đọa, ai đày?
Để cho nhơn loại ngậm cay nuốt hờn.
Giờ muốn biết, dừng chơn lại đã,
Thì rõ ngay thiệt giả dễ dàng;
Lập tâm mạnh mẽ phá tan,
Thoát ngoài ảo vọng, lên đàng tự do.
                          * * *
Địa vị nhơn sanh chẳng phải thường,
Tại người chưa nhận lẽ âm dương;
Ở trong điều lý, tâm là chủ,
Trời đất cùng ta một chủ trương.■

______________________________________

[1] Cao Huy Thuần, www.chungta.com, Dân tộc ta chưa xứng đáng với tổ tiên
[2] www. Chungta.com,Thế kỷ XXI: Tìm về đức tin và cuộc sống nội tâm
Thanh ThảoTrích "Mãi mãi là bí mật" (2005)
[3] .lhttp://kenhtrithuc.edu.vn/phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-tac-pham-cung-ten-cua-nha-van-nam-cao
[4] Cao Tuấn, Con người tha hóa, do đâu?
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/con-nguoi-tha-hoa-do-dau-20141006230846926.htm
[5] Theo Nho Giáo, ở Lễ Ký thì “Nhơn giả, kỳ Thiên Địa chi đức, âm dương chi giao, quỉ thần chi hội, ngũ hành chi tứ khí”. Nghĩa là : Con người là cái đức của Trời Đất, chỗ giao điểm của âm dương, nơi hội tụ của quỉ thần, cái tinh túy của ngũ hành. (ĐHCN)
[6] Đạo Học Chí Nam, Minh Lý Thánh Hội 1971, Mục Giá trị con người do con người tự tạo.

Thiện Chí

Khánh Ly & Chế Linh - LK Một Cõi Đi Về / Thành Phố Buồn / Như Cánh Vạc Bay (PBN 96)
https://youtu.be/3UQEK0Kk730

https://youtu.be/55bR5QrZkmc


Mai Nguyễn Huỳnh
St.8872
Mọi bí ẩn tâm linh và cuộc sống đầy ' ẩn mặc ' của loài người trong sự tồn tại ..trước thiên nhiên tạo hóa- Được phái đoàn khoa học Tây Phương khám phá, nghiên cứu, và đưa ra ánh sáng văn minh của thời đại khoa học- Để hợp thức hóa cùng thiên nhiên vũ trụ cho loài người cùng tiến hóa văn minh!!- Huỳnh fMai St.8872- Cựu chiến binh QL.VNCH
Cinque Terre


Hành Trình Về Phương Đông


Tác giả : Dr. Blair T. Spalding
Thể Loại : Văn Hóa - Tôn Giáo
Lượt xem : 52281

Danh sách chương


Hành trình về phương đông" kể về những trải nghiệm của một đoàn khoa học gồm các chuyên gia hàng đầu của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh được cử sang Ấn Độ nghiên cứu về huyền học và những khả năng siêu nhiên của con người.
Suốt hai năm trời rong ruổi khắp các đền chùa Ấn Độ, chứng kiến nhiều pháp thuật, nhiều cảnh mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo...của nhiều pháp sư, đạo sĩ...họ được tiếp xúc với những vị chân tu thông thái sống ẩn dật ở thị trấn hay trên rặng Tuyết Sơn. Nhờ thế, họ được chứng kiến, trải nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các khoa học cổ xưa và bí truyền của văn hóa Ấn Độ như yoga, thiền định, thuật chiêm tinh, các phép dưỡng sinh và chữa bệnh, những kiến thức về nhân duyên, nghiệp báo, luật nhân quả, cõi sống và cõi chết...
Nguồn: https://sachvui.com/ebook/hanh-trinh-ve-phuong-dong.36.html

KHẢ NĂNG ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC
& HỘI NHẬP THẾ GIỚI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI


Bước qua kỷ nguyên những năm 2000, toàn thế giới trở nên rất sôi nổi với những cuộc vận động HỘI NHẬP QUỐC TẾ và TOÀN CẦU HÓA trên nhiều phương diện.

Với những tiến bộ gia tốc của thời đại, thế giới đã trở nên một mặt bằng chung của mọi quốc gia, trong đó những mối quan hệ phức tạp, cọ xát với nhau ngày càng mạnh mẽ, tốc hành, khiến cho không nước nào có thể đơn phương họat động quốc tế bằng kế họach chủ quan của mình.

Do đó, học thuyết “hội nhập quốc tế” ra đời, nhằm thành lập các tổ chức tạo điều kiện cho các quốc gia thành viên đồng thuận với nhau trên nhiều lãnh vực để “làm ăn” có hiệu quả và đồng phát triển.

Tại Việt Nam, năm 2006 cũng là năm hết sức sôi nổi về những động thái “đồng hành” và “hội nhập” khi VN bước vào WTO, đồng thời tổ chức thành công Hội nghị APEC. Đây là những chuyển biến lạc quan khiến cho các nhà quan sát và bản thân giới lãnh đạo trong nước đều nhận định VN đang đứng trước “vận hội mới”.

Như thế, mọi thành phần xã hội, mọi đoàn thể, và ngay cả mỗi người VN không thể không quan tâm đến “vận hội mới” của đất nước để khẳng định vị trí của mình, đồng thời ý thức nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong vận hội đó.

Đạo Cao Đài là một tôn giáo dân tộc, khai sinh ngay trong lòng dân tộc, có tôn chỉ mục đích rất tích cực, cũng không thể đứng ngoài vận hội mới, mà trước tiên cần khẳng định khả năng “Đồng hành cùng dân tộc” và “Hội nhập thế giới” của Đạo.

I. KHẢ NĂNG ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC

Trướt hết, cần tìm hiểu hai chữ “đồng hành”.
Theo nghĩa hẹp, đồng hành là “cùng đi”, nhưng cùng đi trong tình huống nào ? Đi cùng một lúc hay cùng một đường, và có cùng đi đến một mục đích hay một địa điểm không ?
Nên đồng hành còn có nghĩa rộng rất quan trọng.
_ Trước nhất, những người đồng hành theo nghĩa rộng phải có mối quan hệ với nhau. Ví dụ câu “tam nhân đồng hành, tắc hữu ngã sư yên”, người xưa muốn dạy ta hãy tìm thấy mối liên hệ hữu ích và thân thiện trong giao tiếp xã hội.
_ Nhưng hơn thế nữa, phải có mối đồng cảm, đồng lý tưởng rồi mới đồng hành thật sự.
Và “dân tộc” ở đây cần hiểu là tổng thể những người dân có cùng nguồn gốc, lịch sử, văn hóa, truyền thống đã sống và đang sống trải qua nhiều thế hệ trên cùng một lãnh thổ, có chung một tình cảm đối với đồng bào và ý chí sinh tồn, phát triển hiện tại lẫn tương lai cho cộng đồng.
Lịch sử một dân tộc trải qua nhiều triều đại, nhiều nhà nước khác nhau, nhưng dân tộc tính, truyền thống hay nền văn hóa của dân tộc đó trước sau như một. Do đó, hai chữ “dân tộc” không đồng nghĩa với hai chữ “nhà nước”, mặc dù nhà nước và dân tộc đương nhiên có những tương quan cơ bản, mật thiết.
Vậy, muốn đồng hành cùng dân tộc, đối tượng phải có những mối tương quan, tương đồng từ nòi giống, tâm hồn đến tâm tư nguyện vọng, sự sống còn và tiến bộ của dân tộc.
Thế nên, đối với đạo Cao Đài, trên tổng thể, thử xét những mối tương quan-tương đồng đó trong dân tộc.

1. Đạo Cao Đài được xây dựng trên di sản truyền thống tín ngưỡng của dân tộc:

_ Truyền thống thờ Trời
_ Truyền thống Tam giáo đồng nguyên
_ Truyền thống thờ kính tổ tiên
_ Truyền thống tín ngưỡng dân gian

Đây là những truyền thống thuộc về nếp sinh họat tâm linh tiềm tàng lâu đời của dân tộc, đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của dân tộc, trở thành dân tộc tính đậm đà bản sắc.

2. Đạo Cao Đài có quan hệ đặc biệt với nhiều tôn giáo nội sinh hay ngọai nhập lâu đời tại VN.

Trong khi những truyền thống tín ngưỡng xa xưa đã thấm nhập bàng bạc vào tâm hồn người Việt nói chung, thì bên cạnh các tôn giáo khác, vào đầu thế kỷ 20, các đạo_ Minh Sư_Minh Đường_Minh Thiện_Minh Lý_Minh Tân đã định hình thành các tông phái có chùa chiềng, có cách thờ phượng đặc thù và hệ thống đạo pháp tu luyện cho môn đồ.

Nghiên cứu lịch sử lập giáo, ta thấy trên nền tư tưởng truyền thống Tam giáo đồng nguyên, đạo Cao Đài còn có nhiều mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với các tông phái nêu trên.Tiêu biểu nhất là nhị vị chân tu cao cấp của Minh Sư và Minh Đường là quí Ngài Trần Đạo Quang (phẩm Thái Lão Sư ) và Ngài Lê Văn Lịch (phẩm Dẫn Ân ) đã trở nên Chức sắc Thiên phong có công rất lớn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ).

Như thế đạo Cao Đài đã được xây dựng trên di sản tín ngưỡng “dân gian”, tín ngưỡng truyền thống, lẫn “tín ngưỡng bác học” Việt Nam. Tức là về mặt tâm linh, Cao Đài hình thành trên nền tảng dân tộc một cách sâu sắc.

3. Đạo Cao Đài được xây dựng trên di sản tâm lý bao dung-cởi mở của người Việt

Về phương diện này, nhiều nhà nghiên cứu xã hội nhân văn đã chứng minh. Ở đây chỉ nêu lên một vài điển hình tâm lý ấy của đạo Cao Đài.
_ Đạo Cao Đài có tính cộng đồng và nhập thế rất khoáng đạt trong sinh họat tôn giáo như tương trợ đồng đạo, đồng bào trong hôn quan, tang, tế bằng đạo nghĩa chân tình, được hướng dẫn chu đáo trong phần thế đạo. Như các họat động từ thiện xã hội, các lễ hội, các hình thức liên giao đều có tính cộng đồng thân thiết.
_ Với tinh thần “vạn giáo nhất lý” đạo Cao Đài rất thân thiện, tương đắc với các tôn giáo bạn.
_ Nhất là với tâm lý bao dung-cởi mở, người đạo Cao Đài rất hiếu hòa. Đối với đồng đạo đồng bào lấy tình thương yêu làm gốc; đối với đời lấy chỗ “đạo đời tương đắc” để có quan hệ tốt đẹp.

Những năm gần đây, toàn đạo Cao Đài luôn luôn sẵn sàng cùng với các tôn giáo bạn tham gia các cuộc vận động cứu trợ thiên tai lên đến hàng vài chục tỉ đồng như cuộc vận động nối vòng tay lớn năm 2012. Ngoài ra hằng năm đều đóng góp xây dựng nhà tình thương, tình nghĩa tại các địa phương, chăm sóc những gia đình khó khăn, cấp học bổng cho học sinh nghèo.
Đặc biệt, năm 2012, 7 Hội Thánh và Giáo hội, Tổ chức Cao Đài đã tham gia chuyến thăm Trường Sa cùng với các Tôn giáo bạn. Đoàn Cao Đài đã tặng Đảo biển tấm Bia lớn ghi tuyên ngôn bất hủ của anh hùng Lý Thường Kiệt (Nam Quốc sơ hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư; Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm; Nhử đẳng hành khang, thủ bại hư”. Ngoài ra còn ủng hộ đời sống đồng bào chiến sĩ Trường Sa 150 triệu đồng.

4. Đạo Cao Đài được xây dựng trên truyền thống yêu nước.

Bảo tồn và phát huy truyền thống yêu nước, đạo Cao Đài tôn thờ anh linh tổ quốc, tôn kính và noi gương chư Khai quốc công thần. Nơi các thánh sở Cao Đài đều có bàn thờ tổ quốc (ở điểm này, có câu nói bất hủ của Ngài Cao Triều Phát: “Bàn thờ tôn giáo có nhiều, bàn thờ tổ quốc chỉ có một.”)

Khi Đức Chí Tôn khai Tam kỳ phổ độ tại nước nhà, chơn linh các vị anh hùng trong lịch sử đã hiển thánh hiển thần tiếp tục hộ trì nòi giống Rồng Tiên.
Đơn cử như Thánh Nữ Trưng Vương (giáng cơ năm 1970)
Đức Lê Văn Duyệt (giáng cơ năm 1970)
Hay như Đức Thánh Hưng Đạo Vương ( giáng cơ năm 1947)
Và gần gũi hơn, như Đức Cao Triều Phát (giáng cơ năm 1967) .

Lòng yêu nước của người đạo Cao Đài vốn nằm trong “tiêu chí” đạo đức của người dân Việt: “ Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời đức hạnh là câu sửa mình.”.

5. Cụ thể hơn nữa, nhiều chức sắc và tín hữu Cao Đài từng tham gia hai cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước vừa qua.


Tiêu biểu như :

_Cụ Nguyễn Văn Ngợi
Ông Nguyễn Văn Ngợi sinh ngày 4/2/1900 trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1946, các chức sắc Cao Đài thuộc phái Tiên Thiên mời ông ra giúp đạo. Năm 1947, ông Ngợi được Mặt trận Việt Minh giao trách nhiệm mở Đại hội đại biểu Cao Đài toàn tỉnh Vĩnh Long. Ông Ngợi đã đứng ra truyền đạt Thánh giáo, Thánh kinh kêu gọi chức sắc, tín đồ kháng chiến.
Năm 1949, ông Ngợi giữ chức Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Sau đó, Ban chấp hành Cao Đài cứu quốc được thành lập, ông Ngợi được bầu làm Hội trưởng tại Vĩnh Long.
Về phía đạo, năm 1958, ông được thọ phong Ngọc Đầu Sư, một chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài.
_Cụ Cao Triều Phát: (nguồn: vi.wikipedia.org)
Ngày 30 tháng 4 năm 1932, dưới sự tiến dẫn của Giáo sư Nguyễn Kim Khuê và Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, ông bắt đầu nhập giáo tại Thánh thất Thái Dương Minh (nay thuộc ấp Thạch Sau, xã Khánh Hòa, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng)
Năm 1934 ông cùng đại diện các tôn giáo bạn tổ chức Hội lý đạo công đồng giáo lý tại Bạc Liêu. Năm 1937, ông tham gia công cuộc truyền giáo Cao Đài tại tỉnh Quảng Nam. Năm 1941, Cao Triều Phát được cử giữ chức chủ tịch Cao Đài mười hai phái thống nhất ở miền Hậu Giang. Năm 1945, ông được bầu làm chủ tịch Cao Đài mười một phái hiệp nhất tại chùa Minh Tân. Trong thời gian truyền đạo ở Hậu Giang từ năm 1941, ông bị Pháp bắt giam tại khám lớn Sài Gòn rồi bị quản thúc tại Bạc Liêu.
Ngày toàn quốc kháng chiến, 19 tháng 12 năm 1946, ông tham gia kháng chiến trong cương vị một chức sắc Chi phái Minh Chơn Đạo. Ông là người thành lập Thanh niên đạo đức đoàn qui tụ các thanh niên theo đạo Cao Đài Chi phái Minh Chơn Đạo làm công tác xã hội, văn hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Năm 1947 ông được bầu làm Hội trưởng Cao Đài Cứu quốc mười một phái hiệp nhất.
Thời gian ở miền Bắc ông giữ chức Chưởng quản Cửu Trùng Đài (tương đương Giáo tông) của Hội Thánh Cao Đài Duy Nhứt.
Ông từng là đại biểu quốc hội, cố vấn ủy ban kháng chiến Nam Bộ, ủy viên thường trực quốc hội, ủy viên ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam...
_Kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt : Sinh ngày 15-9-1918 tại làng An Hội (nay là phường 5, thị xã Bến Tre) trong một gia đình thuộc tầng lớp trên. Cha là Nguyễn Ngọc Tương, một điền chủ, đốc phủ sứ, đồng thời là Giáo tông chi phái Cao đài Ban Chỉnh, được Chính phủ VNDCCH tặng thưởng Huân chương Kháng chiến vì những công lao đóng góp trong sự nghiệp chống Pháp 1945 – 1954.
Là một trí thức thuộc tầng lớp trên, được đào tạo và nuôi nấng trong môi trường xã hội tư sản với nhiều ưu đãi, Nguyễn Ngọc Nhựt vẫn giữ được dòng máu yêu nước trong người. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và dân tộc, ông đã từ bỏ cuộc sống tiện nghi, giàu có để gia nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân, giải phóng đất nước. Chân tình và giản dị trong cuộc sống, Nguyễn Ngọc Nhựt đã mang hết nhiệt tình và tri thức của mình cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Khi bị sa vào tay giặc, trước mọi sự mua chuộc, dụ dỗ và khảo tra của kẻ thù, lòng trung thành tuyệt đối của ông đối với lý tưởng đã không hề suy suyển.
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bến Tre http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=230&Itemid=47)
6. Đạo Cao Đài được xây dựng trên di sản văn hóa Việt Nam

Trong hơn 80 năm qua, kinh điển, thánh ngôn, thánh giáo Cao Đài vừa là một phương tiện truyền đạo giáo dân, vừa bảo tồn, phát huy và phổ biến văn chương thi phú, ngôn ngữ Việt Nam vô cùng đắc lực và phong phú. Có thể nói văn học Cao Đài Việt Nam đã đạt đến tuyệt kỹ hàm xúc các giá trị chân thiện mỹ trong thời đại này.

Nghi lễ, lễ nhạc, lễ hội, lễ phục, kiến trúc Cao Đài thừa kế nghệ thuật và mỹ thuật Việt Nam để bày tỏ đạo lý một cách tinh vi, truyền cảm, có bản sắc văn hóa dân tộc rất độc đáo.

Những yếu tố trên đã khẳng định đạo Cao Đài là một tôn giáo dân tộc, hay nói với tình cảm thân thiết, là Đạo nhà.

“Ngày nay Trời mở Đạo nhà,
Cho hồn Nam Việt tinh ba kết thành.” (Đoàn Thị Điểm)

Như thế, có thể phác họa chân dung người tín hữu Cao Đài Việt Nam :

_ Về mặt tâm linh, có truyền thống tín ngưỡng hài hòa, dung hợp.
_ Về mặt tinh thần, có phẩm chất văn hóa VN,
_ Về mặt nhân sinh, có tính cộng đồng, bao dung, hiếu hòa.
_ Về mặt tình cảm, có lòng yêu nước, yêu quê hương dân tộc tha thiết

Bao nhiêu đặc tính đó cộng với đức tin nơi Thượng Đế khai đạo cứu độ nhân lọai thời Hạ nguơn trong mục đích “Thế đạo đại đồng , thiên đạo giải thoát.”trong khi toàn dân đang hướng đến mục tiêu “Nước giàu dân mạnh; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”, đủ để xác định khả năng đồng hành cùng dân tộc của người tín hữu Cao Đài và của đạo Cao Đài.

II. KHẢ NĂNG HỘI NHẬP THẾ GIỚI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

Đến đây, trước khi đi vào vấn đề, cũng cần phân tích kỹ ý nghĩa hai chữ “hội nhập”. Từ ngữ này khá mới, và gần đây được nhắc đến thường xuyên do những bước đột phá về kinh tế của nước ta trước xu thế kinh tế toàn cầu.

Trước hết, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa “hội nhập” trong ngữ cảnh “Hội nhập kinh tế quốc tế”. Theo Bách khoa tự diển Wikipedia thì :

“Hội nhập kinh tế quốc tế (international economic integration) là quá trình các doanh nghiệp của một quốc gia tham gia một cách chủ động, tích cực vào nền kinh tế thế giới.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ.
Nếu như toàn cầu hoá luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thì hội nhập kinh tế quốc tế luôn mang theo mình những cơ hội và thách thức to lớn. [. . .]”

Để hiểu rõ hơn, xin đối chiếu ý nghĩa từ ngữ “hội nhập” với cách giải thích của tự điển Anh ngữ : (The American Heritage Dictionary of English Language)

[Integrate ( hội nhập) :nội động từ: 1. làm thành một toàn thể bằng cách chuyển tất cả các thành phần vào nhau; hiệp nhất. . .]

Hội nhập kinh tế quốc tế và từ ngữ “hội nhập” có định nghĩa như thế; còn đối với tôn giáo, tôn giáo có xu hướng hội nhập vào cuộc diện thế giới không? Câu trả lời là có, bởi vì tôn giáo nào cũng có mục đích cứu thế, nên đều tìm cách đưa ảnh hưởng vào đời sống hoặc đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân lọai.

Vậy đạo Cao Đài có khả năng hội nhập đó như thế nào?

_ Trước hết đạo Cao Đài được trang bị bản thể luận “Đại linh quang – Tiểu linh quang” rút ra từ nguyên lý “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể” để nhìn nhận toàn thể nhân lọai có cùng một Bản thể duy nhất hầu khơi dậy tình thương đồng loại, không kỳ thị dân tộc hay tôn giáo.
_ Kế đến, đạo Cao Đài thuộc về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có mục đích tận độ chúng sanh, và tự nhận có sứ mạng thực thi mục đích đó.
_ Thứ ba, đạo Cao Đài là tôn giáo vừa nhập thế vừa xuất thế , song hành thế đạo và thiên đạo, tổng hợp đường lối hành đạo của Tam giáo đạo để cứu độ toàn diện con người về mặt nhân sinh lẫn tâm linh. Nhưng tựu trung khả năng độc đáo của Cao Đài vẫn rút ra từ phẩm chất truyền thống đạo đức dân tộc và bản tính dung hòa, dung hợp của con người Việt Nam. Đức Thượng Đế đã vận dụng những đặc điểm đó để khai Tam Kỳ Phổ Độ (TKPĐ) tại Việt Nam, lập thành tôn giáo Nhân bản – Đại đồng.

Trở lại ý nghĩa lịch sử của công cuộc khai Đạo tại đất nước Việt Nam, sự chọn lựa nơi khai sinh Tam kỳ phổ độ không phải là một ngẫu nhiên. Đó là sự ban trao sứ mạng tiên phong cho một dân tộc “có một nền văn hóa huy hoàng từ ngàn xưa được cấu tạo trên một nền tảng văn minh nhân bản sớm nhất nhân loại” như nhận định của bậc Cao tăng Vạn Hạnh Thiền Sư

Chính tố chất nhân bản này là động năng phổ quát-trường cửu, là tình người, là tính người, là bản vị đánh giá từng nấc thang tiến hóa của nhân lọai đạt đến Chân Thiện Mỹ.

Ngay như trên mảnh đất ngàn năm văn hiến này, khi trải qua chặng đường lịch sử bị bế tắc, sự thức tỉnh vươn lên bao giờ cũng là giải pháp “về nguồn”. Cụ thể như công cuộc đổi mới trong thời gian gần đây đã đem lại cho Việt Nam một vị thế mới, được một nhà cách mạng lão thành đánh giá như sau:
“ . . .Sẽ không có những sự kiện này nếu không có “đổi mới”. (Võ Văn Kiệt, bài viết Vị thế mới Việt Nam, báoTuổi Trẻ, thứ ba 07-11-2006)
Đổi mới ở đây không có nghĩa là vay mượn một tính cách nào, một hình thức nào mà là tỉnh táo nhận thức đúng đắn thực lực Việt Nam và trào lưu tiến bộ của thế giới để chọn lựa vị thế ưu việt nhất. Nói cách khác là biết người, biết ta. Đó là cái kinh nghiệm “một dân tộc chỉ có thể thật sự “làm bạn được với tất cả” khi khẳng định được mục tiêu độc lập dân tộc mình.”.

Những thành công nóng hổi mà Việt Nam đạt được hôm nay chứng tỏ Việt Nam đã hướng đúng mục tiêu. Ở đây chúng ta lại phải đề cao nhận định của nhà bình luận khả kính nói trên rằng: “Một mục tiêu không có gì quan trọng hơn là đi tới tận cùng những giá trị nhân văn của nhân lọai và dân tộc.”

Với nhận định này và với bài học thực tiễn vừa qua, khiến người tín hữu Cao Đài nhớ lại thánh ngôn của Đức Trần Hưng Đạo Đại Vương: “Sứ mạng trọng đại của Đại Đạo là phục hưng tinh thần truyền thống cổ truyền của dân tộc dính liền với sự phục hưng văn minh nhân loại, để xây dựng một nguơn hội thái bình vĩnh cửu cho muôn người” (Thiên Lý Đàn 10-5-1965)
( Sứ mạng Đại Đạo cần hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là sứ mạng của tôn giáo Cao Đài. NV.)

III.Ý THỨC ĐỒNG HÀNH và HỘI NHẬP CỦA NGƯỜI CAO ĐÀI


Trên đây chúng ta đã xác định khả năng “Đồng hành cùng dân tộc và hội nhập thế giới” của đạo Cao Đài. Nhưng một câu hỏi được nêu ra là: Người Cao Đài cần có những ý thức gì để bước vào cuộc đồng hành và hội nhập này?
Cần xác định rằng, vấn đề nêu lên không phải là một động thái cơ hội. Bởi vì mục đích đại đồng của Đại Đạo TKPĐ đã có từ trước Là “Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thoát” và Phương châm hành đạo Là: “Phụng sự dân sanh, xương minh dân trí và hoàn thành dân đức”.
Nên người Cao Đài cần tự ý thức:

1. Không mê ngủ trong đức tin, đừng ảo vọng trong lý tưởng. Phải học hỏi rèn luyện không ngừng, vượt qua mọi thử thách mới có đủ bản lãnh đồng hành và hội nhập.
2. Không tự giam mình trong “tháp ngà” của đạo. Bởi vì Đại Đạo không phải chỉ là một Hội thánh, một Thánh thất, một Cơ Quan, thậm chí không phải chỉ là Cao Đài giáo..
3. Muốn đại đồng cùng thiên hạ phải đại đồng cùng dân tộc trước đã ( Nói cách khác, muốn hội nhập cùng thế giới, phải đồng hành cùng dân tộc trước đã.). Sống đời tức là sống đạo.

4. Và hơn nữa muốn đồng hành cùng dân tộc, phải đồng hành cùng toàn đạo trước đã. Như Ơn Trên từng dạy một cách sâu sắc mà dễ hiểu là “ Đừng ai lấy thúng mà úp cái Đạo” và “ Đùng ai nghĩ rằng có thể trồng cây Đại Đạo trong lòng bàn tay của mình”. “Quá khứ, hiện tại, vị lai, dòng sông muôn ngỏ rồi cũng quy về biển cả. .”

IV. KẾ SÁCH THỰC TIỂN TRƯỚC MẮT CHO MỤC TIÊU ĐỒNG HÀNH & HỘI NHẬP
1. Tổ chức Giao Lưu Các Hội Thánh và Tổ chức Cao Đài nổ lực thực hiện các chương trình đã và đang đề ra trong các Hội nghị Giao lưu hằng nămvề:
_ Đào tạo chức sắc chức việc và nâng cao trình độ giáo lý cho tín đồ toàn đạo.
_ Chú trọng giáo dục thế hệ trẻ hướng về nếp sống văn hóa, văn minh và truyền thống đạo đức dân tộc.
_Truyền bá giáo lý chơn chánh qua các phương tiện truyền thông, báo chí để góp phần xây dựng xã hội an lạc, tiến bộ.
_Nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc; đoàn kết nội bộ các Hội thánh Cao Đài hướng về Đấng Cha chung Thượng Đế Cao Đài và Tôn chỉ mục đích Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
_ Vận động toàn đạo tham gia các hoạt động an sinh xã hội, từ thiện, cứu trợ cùng với các tôn giáo bạn do chính quyền và các đoàn thể phát động.
_Tích cực ủng hộ các cuộc vận động xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc.

2. Về hội nhập, trong tinh thần “Vạn giáo nhất lý”, quan hệ tốt với tôn giáo bạn trong và ngoài nước. Nghiên cứu giáo lý các tôn giáo, các sinh hoạt tôn giáo trong nước và quốc tế. Tham gia các hội nghị tôn giáo trong nước và quốc tế liên quan đến đời sống xã hội văn minh tiến bộ và sinh hoạt tâm linh hướng thượng. . . .
3. Đối với quốc tế, vận động tín đồ tìm hiểu, tham gia các chương trình bảo vệ môi trường xanh trong nước và thế giới; các chương trình sức khoẻ cộng đồng. Trao đổi văn hóa với các dân tộc trong và ngoài nước . . .

V. KẾT LUẬN

Đứng trước tình hình hiện nay của thế giới, một khi chúng ta nhận định rằng vận hội mới của đất nước gắn liền với thời cơ hội nhập cùng thế giới, thì người Cao Đài hơn ai hết, hãy nhớ lại thánh huấn của Đức Chí Tôn:
“ . . . Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo; phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn-sanh còn phải trầm luân nơi khổ ải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tòa Thánh Tây Ninh, Q.I, Mercredi 4 Aout 1926)

Và:
“Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Năm châu bốn bể hòa hài từ đây.”

Hay:
“Quyền [Đạo] Thầy hiệp cả vạn sanh
Đông Tây kim cổ lập thành tương lai.”

“ Năm châu bốn bể hòa hài” và “Đông Tây kim cổ lập thành tương lai” rõ ràng là những dự phóng xóa tan ranh giới ngăn cách giữa các dân tộc, tổng hòa văn hóa văn minh kim cổ nhân loại bằng một công năng có giá trị phổ quát vượt không gian. Đối với dân tộc, đó chính là bản thể đại đồng dân tộc; đối với thế giới nhân loại là nhân bản hay giá trị nhân văn, là cốt tủy của văn minh đích thực của kỷ nguyên mới.
Thời kỳ nầy Đức Thượng Đế khai Đạo tại Việt Nam là một đặc ân cho dân tộc này và cho cả hành tinh. Chính Thượng Đế đã mở ra cơ hội ngàn năm một thuở để loài người hội nhập cùng nhau trong cõi đời Thánh đức và cả trong Bản thể tâm linh, thông qua cánh cửa ngôi Cao Đài nội tại mà ai cũng có từ khi chào đời. Chiếc chìa khóa Thượng Đế đang sẵn sàng ban trao, ai là người giác ngộ hãy đến nhận .◙
                                                                                                                                          Thiện Chí
Nguồn: http://www.nhipcaugiaoly.com/post?id=796

115- ĐỜI ĐẠO SONG TU

Thứ bảy 20-4-02 - 4:00 giờ sáng


Làm thế nào để có khả năng cải thiện được người kẻ có tham vọng, tham vọng về tiền tài, quyền lực, khả năng tâm linh, tưởng mình là Phật, là Chúa?

Làm thế nào để giúp cho họ giác ngộ? Giúp cho họ tỉnh thức? Giúp cho họ buông bỏ tham vọng?

Phải chăng ta hoàn toàn bất lực trước những câu hỏi trên vì con người là một sinh vật nguy hiểm vì họ học càng nhiều, biết càng nhiều mà không tự chủ thì càng nguy hiểm cho chính họ và cho những người xung quanh họ?

Ta có thất bại trước khả năng giúp họ thức tỉnh chăng?

Mỗi người đến mặt đất này có một đời sống mà họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ta không thể gánh lấy trách nhiệm của một người khác. Ta cũng như họ, trước hết phải trách nhiệm đối với đời sống tâm linh và vật chất của chính mình. Ta tự tu, tự tiến để tìm đến sự giác ngộ, thoát khỏi một đời sống đầy thú tính tham sân si hỉ nộ ái ố để tiến đến giải thoát. Giải thoát chính ta trước tại cuộc sống mà ta đang sống. Giải thoát khỏi mọi ràng buộc của tâm linh và vật chất của chính ta trước hết. Sau đó ta đem hết những gì đã tìm thấy để phổ biến cho mọi người. Công việc của ta chỉ có thế. Ta không cưu mang đời sống của người khác. Ta phải chấm dứt tham vọng cứu người và cứu đời. Có tham vọng cứu đời và cứu người thì ta sẽ đi đến sự tự hủy diệt, mù quáng và nhất là đi đến ảo tưởng của quyền năng giả tạo. Đó là một con đường thật nguy hiểm cho người hành đạo.

Hành đạo là chính mình thực hiện con đường mà mình tìm thấy là phổ biến chân lý, phổ biến một con đường đưa con người đến giải thoát để họ tự thực hành để giải thoát chứ ta không giải thoát cho họ.

Phải diệt ngay tham vọng cứu người và cứu đời của ta tức khắc.

Ta chỉ hết lòng phổ biến chân lý, phổ biến những gì mà ta tìm thấy, mỗi người nhận được họ sẽ sử dụng tùy theo căn cơ và trình độ của họ. Họ tiến nhanh, tiến chậm. Họ tiến hay lùi, đều do nội tâm và hoàn cảnh của họ. Mỗi người đều tự chọn con đường mình đi chứ ta không chọn cho họ. Bổn phận ta là chỉ phổ truyền chân lý chứ không nên có tham vọng thay đổi đời sống của người khác hay sinh mệnh của người khác. Điều quan trọng của một người truyền đạo là phải có THIỆN TÂM chứ không có GIẢ TÂM. Ta giúp họ với một mục đích duy nhất là giúp họ THẤY. Khi họ thấy rồi thì tự họ quyết định dùng sự THẤY BIẾT đó cho phù hợp với cuộc đời họ. Họ muốn dùng sự Thấy Biết đó để hướng đời sống của họ hay thay đổi đời sống của họ là việc của họ. Họ muốn ngủ yên trong đời sống của họ là do họ quyết định, ta không quyết định giùm họ.

- Làm sao để tâm ta bình an không sợ hãi là sự thấy biết mà mình đã giúp cho họ có thể làm cho họ khổ khi họ nhìn được sự thật? Cái sự thật phũ phàng mà họ chưa được thấy vì đã bị hạnh phúc hay đau khổ của trần gian che phủ?

- THẤY BIẾTGIÁC NGỘ. Khi con người được giác ngộ họ sẽ được sung sướng tột bực về nhu cầu tâm linh. Còn áp dụng sự giác ngộ đó như thế nào trong đời sống thì do sự quyết định của mỗi người. Có người giữ sự giác ngộ trong đời sống sâu thẩm của tâm linh. Cũng có kẻ sẽ áp dụng trong đời sống bằng cách thực hiện những gì mà mình đã THẤY BIẾT bất chấp sự va chạm, thay đổi của đời sống mà họ đang hưởng thụ hạnh phúc hay đau khổ. Có kẻ đang đau khổ thì trở nên sung sướng nhờ giác ngộ vì bước ra khỏi sự đau khổ vì mù quáng. Có kẻ đau khổ vì nhận diện được hạnh phúc giả tạo mà họ đang có, để tìm đến hạnh phúc thật của sự trường cửu.

Ta phải chấm dứt tư tưởng cưu mang đời sống của người khác thì ta mới có khả năng thăng tiến trong đời sống tâm linh. Muốn có hạnh phúc trong đời và đạo hay đời và đạo song tu thì ta phải ở trong trạng thái Tâm Không, tức không vướng mắc.

* Thế nào là Đời Đạo song tu???

Đời Đạo song tu là Đạo và Đời không nghịch nhau và cả hai phải hành song song - không bị sự nghịch lý.

Đời Đạo song tu là một trình độ tuyệt đỉnh của một kiếp con người. Vì có những điều thuận đạo thì nghịch với đời và ngược lại.

Đời Đạo song tu là trình độ của người hành đạo TÂM KHÔNG. Nếu không đạt được trình độ này thì người hành đạo luôn luôn sống trong sự nghịch lý và lẩn quẩn không lối thoát. Nếu muốn nói rõ thì đó là con đường cụt đưa đến bí lối.

Có bao nhiêu kẻ không có khả năng Đời Đạo song tu đã đem đến tai tiếng cho tôn giáo, giáo hội của mình vì họ luôn sống trong nghịch lý. Họ hành sử theo quy luật giáo hội và đồng thời không kềm chế được tính người của mình.

Đạo đưa con người đi đến giải thoát còn giáo điều đưa con người đến sự kềm hãm thú tính lẫn kềm hãm tâm linh. Thay vì ta đưa tâm linh và thể xác đi đến sự thăng tiến thì ta lại dồn nén để nó hoành hành không lối thoát đưa đến những hành động bất ngờ do thú tính bộc phát.