PHẬT GIÁO LÀ “KHOA HỌC TÂM LINH”
“Đạo Phật nhấn mạnh sư tu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Thích Nhất Hạnh, Trái Tim Của Bụt)
Ý Tưởng lớn là gì?
Tôi đã có thể dự đoán những lời phê bình. Khoa học thì nói về kinh nghiệm được thực chứng khách quan. Trong khi đó, Thiền Phật giáo, là nói về bạn, sự trải nghiệm chủ quan của riêng bạn trong tâm trí của chính bạn. Tất cả những điều đó có thể gọi là “chứng nghiệm” cho những tác động tích cực của trạng thái thiền, về khả năng vô tận của tâm thức con người như an lạc, từ bi và định tĩnh, vv…
Tạm để các khía cạnh “tinh thần” của giáo pháp sang một bên, khoa học thần kinh và nhận thức đã chú ý đến phương pháp thiền trong thời gian gần đây. Trong lúc các đề tài nghiên cứu như vậy đang tạo nên một luồng tranh cãi trong cộng đồng khoa học, thì ngày càng có nhiều sự đồng thuận rằng việc thực hành thiền định liên tục có thể làm thay đổi cấu trúc não bộ và phát triển khả năng nhận thức.
Đó là những giai đoạn đầu của nền khoa học thần kinh về thiền định, nhưng Kadam Morten, một vị giáo thọ trong truyền thống Phật Giáo New Kadampa, biện luận rằng Đức Phật (Cồ Đàm – Bậc đã sống ở Ấn Độ khoảng chừng 2500 năm về trước) là vị sáng lập “nền khoa học tâm linh”, việc thực hành Thiền Phật giáo (lặp lại lời của Đức Geshe Kelsang – người sáng lập New Kadampa), cho phép bất cứ ai cũng có thể quán chiếu tự ngã với “những vọng tưởng” của sân giận, ganh tị, và chấp trước, những trạng thái này chiếm ưu thế trong đời sống tỉnh thức của chúng ta như từ bi, hỉ, xả.
Đây là “hướng tâm linh” đang hiện hữu mà Phật Giáo tin là sự trải nghiệm được thực chứng được thông qua tu tập, đây cũng là những nền tảng nổi bật của Phật Giáo để phân biệt với Chính Thống Vô Thần, đã phủ nhận sự tồn tại của bất kì chiều hướng nào.
Tầm quan trọng là gì?
Những khía cạnh này của Phật pháp được duy trì trong nhiều truyền thống khác nhau như lý duyên khởi và tính chất tương quan của các pháp - một học thuyết thống nhất tất cả các pháp môn. Thực ra mà nói, họ tranh cãi nhau rằng hầu hết thật tế nhân loại mà chúng ta biết chỉ là sự bóp méo, kết quả của vọng tưởng đã ô nhiễm những tâm thức cá nhân, và chúng ta đã nhận ra tâm phân biệt vốn không có tồn tại.
Đối với nhân loại, Phật tử tin rằng ban tình thương cho người khác là hiệu quả tương ứng của sự thấu hiểu lý duyên khởi và chia sẻ kinh nghiệm đau khổ do tâm tạo ra. Thông qua quán chiếu, “nhà khoa học Phật giáo” đến để thấy rõ nguổn gốc của tâm bất an, tán loạn chính mình và giác biết những điểm khác biệt bên ngoài đã chia cách chúng ta, từ đó có thể khởi lòng thương cảm những người khác hơn.
Một vị khách khác mới đây của Big Think, nhà triết học Alain de Botton, không đồng tình với siêu hình học của Phật giáo, nhưng ông chia sẻ một niềm tin chính yếu rằng tận sâu thẫm bên trong những hành vi xấu ra biểu hiện ra bên ngoài đối đãi với nhau, vẫn có tồn tại những giá trị nhân văn như là sự tử tế, tình thương yêu, và giá trị của trẻ thơ – và đó là thách thức lớn nhất của chúng ta khi muôn loài không đánh mất bản lai tốt của họ.
Tất nhiên, nếu bạn tin điều đó như là nồng cốt, mọi người thì bạo lực, tranh đấu và tàn ác, và vì thế không có sự tranh luận nào khiến bạn quan tâm. Nhưng nếu bạn đồng tình rằng lòng căm thù, lo lắng, tham lam, và ghen tuông là thứ yếu và bản chất bên trong của những tâm phá hoại sâu sắc đó – vẫn hiện hữu– tìm một vài biện pháp đáng tin cậy để điều ngự hoặc chuyển hóa chúng – và bằng cách ấy tánh bản thiện của chúng ta trở nên tốt hơn – xứng đáng để nhân loại truy tìm.
(http://bigthink.com/think-tank/buddhism-as-a-science-of-the-mind)
Buddhism as a “Science of the Mind”
by JASON GOTS
Buddhism is not a collection of views. It is a practice to help us eliminate wrong views.
Thich Nhat Hanh, The Heart of Buddha's Teaching.
What’s the Big Idea?
I can already anticipate the critiques. Science is about objective, reproducible verification. Buddhist meditation, on the other hand, is about you, alone with your own subjective experience of your own mind. All of its so-called “evidence,” of the positive effects of meditation, the limitless capacity of the human heart for joy, compassion, and peace, etc. is anecdotal.
Putting aside for the moment the more “spiritual” aspects of Buddhist teaching, neuro and cognitive science have been paying close attention to meditation for some time now. While such studies are a source of controversy in the scientific community, there is increasing consensus that the sustained practice of meditation can permanently change the structure of the brain and improve attentional capacity.
It’s early days still for the neuroscience of meditation, but Kadam Morten, a teacher in the New Kadampa tradition of Buddhism, argues that the Buddha (Gautama Buddha, who lived in India approximately 2500 years ago) was the creator of a “science of the mind.” The practice of Buddhist meditation, he says (echoing Geshe Kelsang, the founder of New Kadampa), enables anyone to verify through self-study that beneath the “deluded mind-states” of anger, jealousy, and attachment which dominate our waking lives there exists a universal, self-renewing wellspring of compassion, joy, and love.
This “spiritual dimension” of our existence, which Buddhists believe is empirically verifiable through practice, is what fundamentally distinguishes Buddhism from what might be called Orthodox Atheism, which denies the existence of any such dimension.
What’s the Significance?
Those aspects of Buddha’s teachings that have been preserved in various traditions share a belief in the interdependence and interconnectedness of all things – a kind of unified theory of everything. In effect, they argue that most of human reality as we know it is a distortion, the result of the delusions that afflict our individual minds, and that we perceive distinctions where none exist.
For humans, Buddhists believe, compassion for others is the logical response to the understanding of interdependence and the shared experience of suffering that deluded mind-states cause. Through observation, the “Buddhist scientist” comes to understand the sources of her own confusion and psychic dissonance, and, seeing through the external differences that divide us, can better empathize with others.
Another recent Big Think guest, philosopher Alain de Botton, might disagree with the metaphysics of Buddhism, but he shares this core belief – that beneath our often horrible outward behavior toward one another, there exists a set of shared human values such as kindness, compassion, and value of children – and that our biggest challenge as a species is not losing track of them.
Of course if you believe that, at their core, people are violent and competitive and cruel, then neither argument is likely to interest you much. But if you agree that hatred, anxiety, greed, and jealousy are secondary and deeply destructive aspects of our nature, then – after survival – finding some reliable method to control or eradicate them – and thereby liberating our better angels –becomes pretty much the only worthwhile human pursuit.Nguồn: https://hoavouu.com/a44264/phat-giao-la-khoa-hoc-tam-linh
Khoa học lý giải Tâm linh thế nào? | |||
Einstein đã nói lên quan điểm về sự tương đồng giữa Khoa học hiện đại và Phật giáo. Có thể dẫn ra một ví dụ minh hoạ như sau: Tiên đề của thuyết lượng tử là "Nguyên lý bổ sung đối ngẫu" khẳng định rằng Sóng và Hạt là hai mặt bổ sung cho nhau của thực tại. Nguyên lí này dẫn đến một hệ quả cực kỳ quan trọng là vật thể vi mô chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào, có nghĩa là chuyển từ vị trí này sang vị trí khác theo vô số con đường cùng một lúc.
Khoa học và Tâm linh không đối nghịch nhau
Ông là một nhà khoa học rất tâm huyết trong việc tìm hiểu và nghiên cứu về tâm linh. Ông nghĩ sao về sự tương tác giữa khoa học và tâm linh? Thế kỷ XX, vật lí học hân hoan chào đón sự ra đời của Thuyết tương đối và Thuyết lượng tử. Thế kỷ XXI, theo như tiên đoán của nhiều học giả nổi tiếng, sẽ được đánh dấu một bước tiến vĩ đại, đó là sự nhận thức được rằng Khoa học và Tâm linh không đối nghịch nhau. Nó là hai mặt đối ngẫu bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại. Pauli, nhà vật lí nguyên tử lừng danh của thế kỷ XX đã nhận định rằng: "Nếu Vật lý và Tâm linh được xem như các mặt bổ sung cho nhau của thực tại thì sẽ cực kỳ thoả mãn". Nhưng có một thực tế, là những gì không lý giải được, những gì hư hư, thực thực, thậm chí vô lí thì một số người cho rằng: Phật bảo thế, Thánh bảo thế... Einstein đã nói lên quan điểm về sự tương đồng giữa Khoa học hiện đại và Phật giáo. Có thể dẫn ra một ví dụ minh hoạ như sau: Tiên đề của thuyết lượng tử là "Nguyên lý bổ sung đối ngẫu" khẳng định rằng Sóng và Hạt là hai mặt bổ sung cho nhau của thực tại. Nguyên lí này dẫn đến một hệ quả cực kỳ quan trọng là vật thể vi mô chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào, có nghĩa là chuyển từ vị trí này sang vị trí khác theo vô số con đường cùng một lúc. Suy rộng ra là vật thể vi mô có thể cùng một lúc có mặt tại vô số vị trí khác nhau, cùng một lúc có thể ở vô số trạng thái khác nhau, cùng một lúc có thể làm vô số việc khác nhau. Điều này gợi cho ta liên tưởng tới Kinh Phật nói về các đức Phật, các chư vị Bồ tát phân thân ra trăm nghìn vạn ức hoá thân đi khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, giáo hoá cứu độ chúng sinh.
Einstein đã nói lên quan điểm về sự tương đồng giữa Khoa học hiện đại và Phật giáo
Cần sự hỗ trợ của "trực ngộ chân như"Dù ông có chứng minh thế nào đi chăng nữa thì rõ ràng cho đến nay vẫn còn rất nhiều điều điều bí ẩn mà khoa học chưa giải thích được? Khi nghiên cứu các lĩnh vực với mức độ tinh tế khác nhau thì cách tiếp cận phải khác nhau. Đặc biệt với các hiện tượng siêu tinh tế thì đòi hỏi phải vận dụng các khái niệm và các hệ tiên đề hoàn toàn mới, có thể rất xa lạ với những điều đã quen thuộc trước đó. Chẳng hạn, có thể còn có các dạng siêu tương tác ứng với các dạng siêu năng lượng, liên quan đến các hiện tượng siêu tự nhiên mà các giác quan bình thường của con người không thể cảm nhận được, cũng như khoa học và kỹ thuật hiện nay chưa đủ trình độ để phát hiện. Đặc biệt, trong thế giới vi mô, khi mọi quan hệ tương tác đều được vận hành bởi các quy luật lượng tử, nguyên lí đối ngẫu càng thể hiện rõ nét là một nguyên lí nền tảng dẫn đến những điều huyền diệu, nhiều khi khó diễn đạt được tường tận bằng ngôn ngữ của lập luận logic thông thường, mà cần sự hỗ trợ của yếu tố "trực ngộ chân như" (giác ngộ). Các hoạt động tâm linh hiện nay chưa được số đông ủng hộ. Phải chăng đó là vì bản thân vấn đề tâm linh chưa tự chứng minh được sự trong sáng, mặt tích cực, lợi ích cho đời sống xã hội? Trong những thập niên gần đây, ngày càng dồn dập thông tin về những khả năng đặc biệt của con người, những hiện tượng kỳ bí mang tính tâm linh thể hiện rất đa dạng trong đời sống cộng đồng trong nước cũng như trên thế giới. Tiếp cận những vấn đề này một cách khách quan với thái độ thực sự cầu thị, tôn trọng sự thật, khiêm tốn học hỏi để khám phá, nhằm mục đích tối thượng phục vụ lợi ích cộng đồng là điều tâm đắc của nhiều người. Bên cạnh đó, cũng có những hiện tượng tiêu cực dẫn đến những hệ quả không tốt, làm hại đến uy tín của những người hoạt động chân chính. Vậy theo ông có cách nào để kìm chế được mặt tiêu cực đó? Ngoài việc tăng cường quản lý Nhà nước, việc làm sáng tỏ về mặt khoa học các hiện tượng mang tính tâm linh cũng là một đóng góp rất hữu hiệu. Ông có tin vào số phận không thưa ông? Về mặt lí thuyết chưa ai chứng minh được là có hoặc không có số phận. Ở đây, tuỳ thuộc vào lòng tin và sự trải nghiệm của mỗi người.
Phật pháp chỉ đường lìa mê về bến Giác Theo tôi được biết, ngay trong khoa học cũng có những thứ được chứng minh, nhưng không xuất hiện một cách tường minh? Tạo hoá đã ban cho vũ trụ chúng ta các dạng tương tác một cách tối ưu bao gồm tương tác mạnh, tương tác yếu, tương tác điện từ và tương tác hấp dẫn. Đó là các loại tương tác cơ bản nhất tạo nên bức tranh của cả vũ trụ chúng ta. Bất kỳ một loại tương tác nào, một hiện tượng nào dù phức tạp đến mấy, từ vi mô đến vĩ mô cũng đều bắt nguồn từ các loại tương tác đó. Một hướng nghiên cứu có tính thời sự nhất hiện nay là xây dựng Lí thuyết thống nhất, tức là tìm một cơ cấu thiết kế chung gắn kết các loại tương tác với nhau trên cùng một nền tảng và phương hướng được xem là có nhiều triển vọng nhất để xây dựng Lí thuyết thống nhất nói trên chính là Lí thuyết Dây. Điều đặc biệt là trong lí thuyết Dây nhất thiết phải có các trường "Vong". Các trường "Vong" này giữ vai trò then chốt trong cơ cấu của lí thuyết, chi phối các cơ chế tương tác nhưng không hề xuất hiện một cách tường minh trong thực tế. Ở góc độ là một nhà khoa học, ông muốn nhắn nhủ điều gì đến cả những người đang làm công tác nghiên cứu tâm linh, những người có khả năng đặc biệt? Đây là cuộc viễn chinh khoa học gian nan nhưng đầy hứa hẹn, đòi hỏi sự kết hợp hài hoà giữa Khoa học và Tâm linh, sự đóng góp lâu dài công sức và trí tuệ của các nhà khoa học và các nhà ngoại cảm. Chúng ta có cơ sở để hy vọng rằng cùng với sự phát triển ngày càng sâu rộng của khoa học và công nghệ, dần dà sẽ tiếp cận được những hiện tượng mà cho tới nay vẫn được xem là huyền bí hoặc hầu như là phi lý. Chúng ta sẽ có được những phương pháp hữu hiệu và thực hiện những bước tiến theo tinh thần "Phật pháp chỉ đường lìa mê về bến Giác". Xin trân trọng cảm ơn ông. Mong rằng tất cả những linh hồn, những con người còn u mê sẽ tìm được con đường về bến Giác Thiện. Xin kính chúc ông sức khoẻ!
theo Tầm Nhìn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét