Công hàm Phạm Văn Đồng giống như một tờ giấy nợ, vì không được ghi rõ ràng, cho nên đến nay vẫn gây rắc rối cho Việt Nam trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc giành chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
>> tag ‘công hàm Phạm Văn Đồng’
Tại
cuộc họp báo quốc tế ngày 23/05/2014, vào lúc khủng hoảng Biển Đông
đang dâng cao do vụ giàn khoan Hải Dương 981, Bộ Ngoại giao Việt Nam lần
đầu tiên đã chính thức tuyên bố rằng công thư ( công hàm ) Phạm Văn
Đồng năm 1958 “ không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa”.
Trong cuộc họp báo đó, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới,
Bộ Ngoại giao Việt Nam lập luận: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải
lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế
đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị
công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó
Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, Trung
Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn
chưa có được”.
Nhưng
công hàm Phạm Văn Đồng giống như một tờ giấy nợ, vì không được ghi rõ
ràng, cho nên đến nay vẫn gây rắc rối cho Việt Nam trong cuộc chiến pháp
lý với Trung Quốc giành chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Trước
hết, hãy trở ngược lịch sử : Ngày 4/9/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã
tuyên bố với quốc tế quyết định của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12
hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm hai
quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt
Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm
Văn Đồng đã gởi cho thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói trên của chính phủ Trung Quốc và “sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
Trong
thời gian qua, các lãnh đạo, quan chức Nhà nước và báo chí chính thức
của Việt Nam đã liên tiếp đưa ra những tuyên bố và đăng những bài viết
để chứng minh rằng công hàm nói trên của Phạm Văn Đồng chẳng có giá trị
gì. Trong cuộc gặp gỡ với cử tri ở Sài Gòn ngày 26/06, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang đã tuyên bố: “ Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ nói Hoàng Sa là của Trung Quốc”. Nhưng lập luận của ông Sang thì rối rắm vô cùng, theo như tường thuật của tờ VietnamNet: “Tôi
đọc kỹ từng chữ, cụ Phạm Văn Đồng nói xung quanh công nhận 12 hải lý.
Lúc bấy giờ, lãnh hải có 3 hải lý thôi. Thế giới cũng bàn luận từ năm đó
đến năm 1982. Lúc đó, tư duy của các cụ mình cũng theo tư duy số đông
của thế giới, tức là người ta muốn quốc gia có biển là lãnh hải phải 12
hải lý thì mình thừa nhận 12 hải lý đó”.
Cũng
theo chiều hướng “hóa giải” di sản công hàm Phạm Văn Đồng, tờ Tiền
Phong từ ngày 09/07 vừa qua đã đăng trên mạng một loạt bài nhắc lại
những dữ liệu lịch sử để chứng minh rằng từ năm 1954 sau hiệp định
Genève cho đến năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà trước đây từng
bị xem là “chính phủ bù nhìn của Mỹ”, là “ngụy quyền”, đã liên tục thực
thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng
phía Trung Quốc trong thời gian qua vẫn tiếp tục viện dẫn công hàm Phạm
Văn Đồng để chứng minh rằng Việt Nam đã mặc nhiên công nhận chủ quyền
của Bắc Kinh trên Hoàng Sa và Trường Sa. Gần đây nhất, Lý Kiến Vĩ, một
học giả Trung Quốc, trong một bài đề ngày 24/06/2014, viết cho Trường
Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, khi lập luận về chủ quyền
của Bắc Kinh trên quần đảo Hoàng Sa, đã đề cập đến công hàm Phạm Văn
Đông. Bà Lý Kiến Vĩ, cũng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Biển,
Viện Quốc gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc, có nhắc đến một chi
tiết đó là trong cuộc gặp vào năm 1977 với Phó Thủ tướng lúc đó là Lý
Tiên Niệm, ông Phạm Văn Đồng có nói rõ : « Nên hiểu các tuyên bố của
chúng ta, kể cả tuyên bố trong công hàm của tôi gửi Thủ tướng Chu Ân
Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong bối cảnh lịch sử của thời đại. Trong
cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế
quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
Học giả Lý Kiến Vĩ viết rằng :
“Rõ ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc
hiểu nó trong bối cảnh lịch sử . Lập luận này đi ngược với nguyên tắc
quốc tế “estoppels”, theo đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời
điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận
chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp,
thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu lực pháp lý”.
Nhưng
công hàm Phạm Văn Đồng không chỉ là chủ đề tranh cãi giữa các học giả
hay của những tuyên bố qua lại của lãnh đạo hai nước mà nay đã trở thành
vấn đề pháp lý quốc tế, bởi vì Bắc Kinh đã sử dụng công hàm này như là
một trong những luận cứ để khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường
Sa trong các văn bản của Đại biện Phái đoàn đại diện thường trực Trung
Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 22/05 và 09/06 liên quan đến vụ
giàn khoan Hải Dương 981.
Ngày
03/07 vừa qua, đại sứ Lê Hoài Trung, trưởng phái đoàn Việt Nam tại LHQ
lại phải đề nghị Tổng thư ký Ban Ki Moon cho lưu hai văn bản nêu lập
trường của Việt Nam về vụ giàn khoan Hải Dương 981 để bác bỏ hai văn bản
nói trên, tố cáo Bắc Kinh « cố tình xuyên tạc » công thư Phạm Văn Đồng.
Phái đoàn Việt Nam khẳng định, «
những kết luận mà Trung Quốc đưa ra hiện nay đang mâu thuẫn với chính
các phát biểu của Trung Quốc, trong đó có phát biểu của chính nhà lãnh
đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình. ». Họ nhắc lại rằng vào tháng 9 năm
1975, tức là 17 năm sau công thư Phạm Văn Đồng , Đặng Tiểu Bình đã nói
với Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với nguyên tắc thông qua Hiệp thương hữu
nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết”.
Theo phía Việt Nam, Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12
tháng 5 năm 1988 đã ghi nhận rõ ràng nội dung phát biểu này của Đặng
Tiểu Bình.
Cứ
như thế, mỗi lần đưa ra lập luận phản bác nhau, hai bên lại tiết lộ
thêm những chi tiết mới liên quan đến công hàm Phạm Văn Đồng và những
chi tiết này phản ánh mối quan hệ nhập nhằng giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng
sản Việt Nam và Trung Quốc từ thời chiến tranh cho đến thời hoà bình.
Trước
tình hình này, tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã và cũng là người đã dành nhiều
năm nghiên cứu về Hoàng Sa-Trường Sa, chủ trương rằng chính phủ Việt
Nam phải nhanh chóng giải quyết vấn đề tâm lý và chính trị về công hàm
Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ
Nguyễn Nhã từ Sài Gòn:
Thanh Phương
Theo rfi
Nguồnhttps://www.tindachieu.com/news/2014/07/cong-ham-pham-van-dong-mon-no-kho-go.htm
Lập luận và chứng cớ của Trung Quốc để đòi chủ quyền Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là cực kỳ vô lý
Trong khi Việt Nam có đầy đủ các
chứng lý phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế về chủ quyền của
mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì cách hành xử của Trung
Quốc lại là ỷ vào sức mạnh để áp chế và lợi dụng khi Việt Nam gặp khó
khăn thì tấn công chiếm đoạt kết hợp với việc đưa ra những cái gọi là
chứng cứ “bất khả tranh nghị” (không thể chối cãi) mà thực chất là những
lập luận và dẫn chứng phi lý thiếu căn cứ khoa học.
Cho đến tận đầu thế kỷ XX, các chính
quyền phong kiến Trung Quốc không biết gì và cũng không quan tâm đến hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ của Trung Hoa Dân quốc xuất bản
năm 1916 và sách giáo khoa dạy học trò của họ vào thời ấy vẫn nói cực
nam của Trung Hoa là đảo Hải Nam. Những đảo bị Trung Quốc chiếm đầu tiên
là vào năm 1956. Lợi dụng tình hình ở Việt Nam vừa kết thúc 300 ngày
tập kết, người Pháp rút khỏi hai quần đảo mà không kịp bàn giao, chính
quyền miền Nam còn bề bộn công việc cũng chưa ra tiếp quản, Quân Giải
phóng nhân dân Trung Hoa tiến ra chiếm đảo Phú Lâm (sau đổi thành Vĩnh
Hưng) thuộc quần đảo Hoàng Sa và từ Đài Loan, quân Tưởng Giới Thạch nhảy
vào chiếm giữ trái phép đảo Ba Bình (sau đổi thành Thái Bình) thuộc
quần đảo Trường Sa.
Sau khi đã ký thông cáo chung Thượng Hải
với Hoa Kỳ vào năm 1972 với những đổi chác vô cùng tệ hại, năm 1974 lợi
dụng tình thế chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang trong giai đoạn vô
cùng ác liệt, Trung Quốc đã cho quân đội tiến chiếm trái phép toàn bộ
các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1988, khi Việt Nam đang trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn sau hàng loạt sự kiện do chính họ gây ra (kích
động và hậu thuẫn Khmer đỏ gây chiến tranh biên giới Tây-Nam, trực tiếp
dùng 60 vạn quân tấn công từ phía bắc, tìm mọi cách cô lập Việt Nam trên
trường quốc tế...), Trung Quốc đã đem chiến hạm tấn công vào các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma và một số bãi
ngầm (Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Tư Nghĩa và Xu Bi).
Ngày 1-5-2014, Trung Quốc ngang nhiên
đưa giàn khoan Hải Dương 981 với hơn 100 tàu, bao gồm cả tàu chiến hộ
tống và máy bay uy hiếp vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam. Khi các lực lượng thi hành pháp luật của Việt Nam thi hành
chức trách, các tàu Trung Quốc tấn công bằng vòi rồng công suất mạnh và
đâm húc rất hung hãn. Bất chấp sự phản đối quyết liệt của nước chủ nhà
và dư luận quốc tế, Trung Quốc công khai với thế giới tham vọng độc
chiếm Biển Đông bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam mà họ đã mưu đồ từ lâu.
Như vậy là, xem xét một cách hệ thống
toàn bộ quá trình thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông và lấn dần các đảo
thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có thể thấy rõ họ
luôn luôn cậy thế nước lớn, bất chấp đạo lý và pháp lý. Bên cạnh những
hành động ngang ngược nhằm thị uy sức mạnh, Trung Quốc còn ra sức tuyên
truyền bằng cách ngụy tạo chứng cớ, đổi trắng thay đen, bất chấp sự thật
khách quan. Họ đã huy động một lực lượng khổng lồ và đầu tư lớn cho
việc ngụy tạo này. Xem xét một cách khách quan các lập luận và hệ thống
chứng lý do phía Trung Quốc đưa ra, mặc dù luôn được họ gọi là bằng
chứng không thể chối cãi, nhưng không khó nhận ra tính chất phi lý và
phản khoa học của chúng.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc thường nói họ
có đầy đủ chứng cứ để chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện và khai
thác hai quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa
(Trung Quốc gọi là Nam Sa) và làm chủ Biển Đông (trong vùng lưỡi bò) từ
cách đây hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, trên thực tế họ không đưa ra được một
bằng chứng xác thực nào mà chỉ dựa vào những trích dẫn từ các sách cổ
của các tác giả Trung Quốc rồi giải thích một cách tùy tiện theo ý mình
rằng đó là bằng chứng về việc họ phát hiện và khai thác hai quần đảo này
(1). Với cách thức tập hợp rất nhiều đoạn trích dẫn có dụng ý chủ quan,
cắt xén, lắp ghép tùy tiện là một cách tung hỏa mù, khiến những người
không có điều kiện tìm hiểu sâu dễ bị đánh lừa là tư liệu của Trung Quốc
rất dày dặn. Tuy nhiên, những đoạn trích như vậy hoàn toàn không có giá
trị chứng minh việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Điều nguy hiểm là trong lập luận, Trung Quốc thường đề cao
cái gọi là “chủ quyền lịch sử”, theo đó, từ thế kỷ II trước
công nguyên, vùng đất nay là Trung Trung Bộ của Việt Nam, từng là một
quận của nhà Hán (quận Nhật Nam) và như vậy, vùng biển, các đảo thuộc
quận này đương nhiên là của Trung Quốc. Kiểu lý sự này hết sức phi lý và
phản khoa học, nếu không nói là rất phản động và đậm chất thực dân. Khi
lập luận như vậy họ cũng đã cố tình quên rằng cả nước Trung Hoa đã từng
nằm dưới ách cai trị của người Mông Cổ từ năm 1271 đến năm 1368. Theo
cách lý sự đó, người Mông Cổ hoàn toàn có thể đòi chủ quyền lịch sử đối
với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc.
Để “gò theo” một nguyên tắc rất cơ bản
của luật pháp quốc tế là chủ quyền phải được thực thi liên tục (khác với
cái gọi là chủ quyền lịch sử), phía Trung Quốc đã cố tìm ra mỗi thời
dăm ba sự kiện để chứng minh họ liên tục thực thi chủ quyền trên hai
quần đảo này. Trung Quốc thừa hiểu rằng lập luận về “chủ quyền lịch sử”
của họ (dù chẳng ai thừa nhận) thì cũng không thể kéo dài sau chiến
thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, khi người Việt đã giành lại độc
lập chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nên họ ra sức tìm kiếm chứng cớ từ đời
Tống (thành lập năm 960). Họ viện dẫn các sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, Chư phiên chí
của Triệu Nhữ Quát những đoạn nói về hai quần đảo Vạn Lý Trường
Sa và Thiên Lý Thạch Đường (mà sau này Trung Quốc nói là tên khác
của Tây Sa/Hoàng Sa và Nam Sa/Trường Sa) (2). Nhưng như tên gọi
của những sách này, “Lĩnh ngoại” là ngoài biên giới Trung Quốc, nói về những chuyện bên ngoài. “Chư phiên”
là các nước Trung Quốc cho là chư hầu của mình, chuyện chép
về các nước xung quanh mình. Do vậy, những mô tả về biển, đảo
hoặc hải trình đi tới các nước, như Giao Chỉ, Chiêm Thành, Chân
Lạp thì tên các quần đảo Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường
(mà Trung Quốc cho là Tây Sa và Nam Sa) được nhắc đến để chỉ
vị trí hoàn toàn không có ý nghĩa nào trong việc xác định chủ
quyền của Trung Quốc. Đấy là chưa kể từ ngữ dùng trong các
sách này cho thấy tác giả cũng chỉ nghe truyền lại (truyền
văn), chứ không biết đích xác ra sao.
Sang đến thời kỳ Trung Quốc bị người Mông Cổ chinh phục, lập ra triều Nguyên (nay Trung Quốc nhận là của Trung Quốc), họ dẫn một vài sự kiện chép trong Nguyên Sử như việc thủy quân nhà Nguyên đi qua “Thất Châu Dương, Thiên Lý Thạch Đường” để nói họ thực thi chủ quyền trên hai quần đảo. Thực ra đây là sự kiện quân Nguyên trên đường đi đánh Giava năm 1293. Hay việc năm 1279 Quách Thủ Kính theo lệnh vua Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn ở 27 nơi, trong đó có một điểm tương đương với Hoàng Sa của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng sự kiện này góp phần khẳng chủ quyền của họ vào thời Nguyên trên quần đảo Hoàng Sa. Khi lập luận, họ không dẫn giải hết rằng cùng thời điểm đó, Quách Thủ Kính đã tiến hành đo đạc trên một phạm vi rất rộng, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc (Xibêri), đúng như chỉ dụ của vua Nguyên là đo đạc thiên văn “bốn biển”. Cần nhớ rằng đế chế Đại Nguyên dưới thời Đại Hãn Khubilai/ Hốt Tất Liệt (1271 - 1294) là thời kỳ hùng mạnh nhất và năm 1279 chính là năm lãnh thổ đế chế mở rộng đến cực đại, với diện tích lên tới 24 triệu km2, nối liền từ Thái Bình Dương sang đến Địa Trung Hải. Nhưng cũng trong giai đoạn lịch sử này quân và dân Đại Việt đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Với đà lập luận như vậy, đến một lúc nào đó, khi có điều kiện Trung Quốc có thể chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ Hàn Quốc và Liên bang Nga.
Sang đến thời kỳ Trung Quốc bị người Mông Cổ chinh phục, lập ra triều Nguyên (nay Trung Quốc nhận là của Trung Quốc), họ dẫn một vài sự kiện chép trong Nguyên Sử như việc thủy quân nhà Nguyên đi qua “Thất Châu Dương, Thiên Lý Thạch Đường” để nói họ thực thi chủ quyền trên hai quần đảo. Thực ra đây là sự kiện quân Nguyên trên đường đi đánh Giava năm 1293. Hay việc năm 1279 Quách Thủ Kính theo lệnh vua Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn ở 27 nơi, trong đó có một điểm tương đương với Hoàng Sa của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng sự kiện này góp phần khẳng chủ quyền của họ vào thời Nguyên trên quần đảo Hoàng Sa. Khi lập luận, họ không dẫn giải hết rằng cùng thời điểm đó, Quách Thủ Kính đã tiến hành đo đạc trên một phạm vi rất rộng, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc (Xibêri), đúng như chỉ dụ của vua Nguyên là đo đạc thiên văn “bốn biển”. Cần nhớ rằng đế chế Đại Nguyên dưới thời Đại Hãn Khubilai/ Hốt Tất Liệt (1271 - 1294) là thời kỳ hùng mạnh nhất và năm 1279 chính là năm lãnh thổ đế chế mở rộng đến cực đại, với diện tích lên tới 24 triệu km2, nối liền từ Thái Bình Dương sang đến Địa Trung Hải. Nhưng cũng trong giai đoạn lịch sử này quân và dân Đại Việt đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Với đà lập luận như vậy, đến một lúc nào đó, khi có điều kiện Trung Quốc có thể chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ Hàn Quốc và Liên bang Nga.
Trung Quốc đặc biệt đề cao cái gọi là
“phát kiến hàng hải” của Trịnh Hòa vào thế kỷ XV. Dưới thời Minh, trong
khoảng thời gian gần 30 năm, từ năm 1405 đến năm 1433, một quan thái
giám là Trịnh Hòa trước sau đã có bảy lần vượt biển xuống Đông Nam Á,
sang đến Ấn Độ Dương, qua Hồng Hải tới các nước Ả Rập và thậm chí xuống
đến tận bờ biển Đông Phi. Phía Trung Quốc đề cao sự kiện này và đối với
Biển Đông, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì họ cho đây là
bằng chứng hùng hồn của việc thực thi chủ quyền. Chưa nói đến sự phi lý
của việc đồng nhất một chuyến du hành biển xa với việc khẳng định chủ
quyền, những người muốn lợi dụng sự kiện này để nói về chủ quyền của
Trung Quốc trên Biển Đông đã cố tình hay vô ý quên rằng Trịnh Hòa đã
công phu vẽ lại cuộc hành trình của mình thành hàng trăm tấm hải đồ.
Trên hải đồ vẽ đoạn đi ngang qua Việt Nam, chú thích ở dưới ghi một hàng
chữ nhỏ Giao Chỉ dương /Biển Giao Chỉ (交阯洋). Giao Chỉ là tên gọi Việt
Nam theo cách của Trung Quốc. Như vậy là ở thế kỷ XV, Đô đốc Trịnh Hòa
chắc chắn am tường chủ quyền các vùng biển, hải đảo mà ông đi qua hơn
những người Trung Quốc hiện nay. Nếu đúng là đã thuộc về Trung Quốc sau
chuyến đi của ông, hay đã là của Trung Quốc từ trước đó như chính quyền
Trung Quốc hiện đang tuyên truyền thì trên hải đồ vùng này chắc hẳn phải
ghi Đại Minh nam hải, hay chữ gì đó để ghi nhận chủ quyền của Trung Quốc mới đúng.
Dưới thời nhà Thanh Trung Quốc có sự
kiện Tổng đốc Lưỡng Quảng sai Đô đốc Lý Chuẩn dẫn mấy tàu chiến nhỏ đi
vòng xuống một số đảo phía nam Hải Nam vào tháng 6-1909. Sự kiện này
chẳng mấy được quan tâm lúc đương thời. Đấy là thời kỳ triều đình nhà
Thanh một mặt bị quân Nhật o ép, mặt khác đang đứng trước nguy cơ bị
cách mạng lật đổ (Cách mạng Tân Hợi nổ ra vào năm 1911) nên họ chẳng có
lòng dạ nào để tính đến việc mở rộng chủ quyền ra các đảo phía nam.
Nhưng 12 năm sau, vào tháng 3-1921, chính quyền quân sự tỉnh Quảng Đông
của Trung Hoa dân quốc lại làm rùm beng chuyện này khi lợi dụng hoàn
cảnh Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, đã ký sắc lệnh nhập Tây Sa vào
huyện Châu Nhai, phủ Quỳnh Châu (Hải Nam). Đây là lần đầu tiên tên Tây
Sa xuất hiện và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc đương nhiên coi Hoàng Sa
của Việt Nam là của mình bằng một sắc lệnh. Hành động này của chính
quyền mới tiến hành đồng thời với việc làm rùm beng sự kiện mà họ gọi là
Đô đốc Lý Chuẩn thu phục Tây Sa, mô tả các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa
như các đảo hoang vô chủ. Đây có thể xem như một bước ngoặt trong ý đồ
bành trướng xuống Biển Đông của Trung Quốc. Trong thư đề ngày 4-5-1909,
Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có nói
cuộc khảo sát trái phép của đoàn tiền trạm do Ngô Kính Vinh, trước đoàn
của Lý Chuẩn đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây
kiểu nhà đá, tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò. Và đặc biệt trên
đảo có các ngư dân Việt Nam. Họ mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa và bị
đối xử tàn tệ, bị bắt đến Hải Nam3. Những thông tin này cho
thấy khi quân tướng nhà Thanh kéo đến vào năm 1909, Hoàng Sa không phải
là đảo hoang, cho dù lúc ấy có thể người Pháp chưa kịp tới tiếp tục
quyền quản lý. Việc Trung Quốc đề cao sự kiện Lý Chuẩn ra Hoàng Sa không
có ý nghĩa gì vì Việt Nam đã có đầy đủ chứng cứ xác thực, đáng tin cậy
và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế về thụ đắc lãnh thổ và chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII.
Trong toàn bộ hệ thống lập luận của
Trung Quốc, đường 9 đoạn (còn gọi là đường chữ U hay đường lưỡi bò),
vừa mới đây Trung Quốc lại chỉnh sửa bản đồ “đường lưỡi bò” 9 đoạn thành
“bản đồ dọc” với “đường lưỡi bò” 10 đoạn, là biểu tượng tập trung nhất
cho tham vọng của Trung Quốc về Biển Đông và các hải đảo trong đó. Năm
2009, Trung Quốc chính thức đệ trình và yêu cầu lưu truyền trong các
nước thành viên Liên hợp quốc bản đồ thể hiện yêu sách về chủ quyền
biển, đảo của mình, trong đó 80% Biển Đông được bao bởi đường chữ U với ý
nghĩa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Từ đó đến nay Trung Quốc ra sức
quảng bá, tuyên truyền và áp đặt biểu tượng này ở bất cứ đâu có thể, như
in bản đồ, đưa vào rất nhiều loại sách phát hành ra ngoài, in cả lên hộ
chiếu của công dân Trung Quốc và ngang nhiên tuyên bố họ đã có chủ
quyền đối với cả vùng này từ hơn 2.000 năm nay. Nhưng trên thế giới
(nhất là với những người không tìm hiểu kỹ) không ai ngờ rằng cái ranh
giới phản ánh tham vọng phi lý ấy của Trung Quốc lại được vẽ ra một cách
tùy tiện, vô căn cứ và ngang ngược đến thế. Cho đến nay không biết đích
xác khi nào và ai là tác giả đã phóng tác ra đường chữ U tham lam và
ngạo ngược đó. Trung Quốc chưa bao giờ giải thích với thế giới cũng như
trong các cuộc họp song phương với các nước trong khu vực Biển Đông về
việc này. Chính các học giả Trung Quốc cũng lúng túng và giải thích rất
khác nhau về nguồn gốc và ý nghĩa của nó. Vậy mà vào năm 1948, chỉ ít
tháng trước khi bị đánh bật khỏi lục địa, chính quyền Tưởng Giới Thạch
đã cho in hình vẽ kỳ quặc này lên bản đồ có tên Bản đồ vị trí các đảo
Nam Hải (南海诸岛位置图) do Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ chính thức ấn
hành. Ở thời điểm này hình chữ U gồm 11 đoạn đứt khúc ôm trọn cả Vịnh
Bắc Bộ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Năm 1949 Đảng
Cộng sản Trung Quốc giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với Quốc dân
đảng, thiết lập quan hệ ngoại giao hữu hảo với Việt Nam. Tuy nhiên họ
vẫn tiếp tục thực hiện tham vọng “đường chữ U”. Năm 1953 chính quyền
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho vẽ lại bản đồ vẫn giữ lại đường cong đứt
khúc, nhưng đã bỏ bớt 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ, nên chỉ còn lại 9 đoạn.
Tính chất tùy tiện và phi lý của đường
chữ U trước hết ở chỗ lúc đầu nó được vẽ ra bằng tay bởi một người tên
là Hu Jinjie đâu đó vào năm 1914 và đến năm 1947, một viên chức của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa tên là Bai Meichu vẽ lại đường này trong một bản
đồ cá nhân4. Những bản đồ có đường chữ U 11 đoạn do Trung
Hoa dân quốc in và 9 đoạn của chính quyền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
đều không phát hành rộng rãi nên ít người biết và nhất là, không ai có
thể tin đấy là một yêu sách lãnh thổ. Cách làm thiếu minh bạch như vậy,
nhưng năm 2009, khi yêu cầu Liên hợp quốc lưu hành tấm bản đồ phi lý này
Trung Quốc đã ngang nhiên nói rằng đã công bố nó hơn nửa thế kỷ mà
không ai có ý kiến gì. Tham vọng của Trung Quốc ngày càng lộ rõ. Đấy là
một ý đồ chiến lược, lâu dài và họ đang quyết thực hiện bằng mọi giá.
Không từ bất cứ thủ đoạn nào để đạt được
mục đích, gần đây Trung Quốc còn viện dẫn thư của cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng như một chứng cớ về việc Việt Nam thừa nhận chủ quyền Trung Quốc
trên hai quần đảo. Trước hết phải thấy đây là một hành vi phi đạo lý và
xảo trá. Viện dẫn một bức thư đầy tính ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng trong thời khắc cực kỳ khó khăn của Việt Nam để đòi chủ quyền lãnh
thổ, Trung Quốc đã cho thấy họ có thể không từ bất cứ điều gì vì lợi
ích của họ. Đấy không phải là cách hành xử của bạn bè.
Tuy nhiên, khi họ đã ngang nhiên thách
rằng nếu định kiện Trung Quốc “nhớ đính kèm thư này vào hồ sơ”, thì cũng
cần xem xét văn bản trên khía cạnh pháp lý.
Trước hết phải định danh văn bản là thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai chứ không phải là Công hàm của Chính phủ mà phía Trung Quốc luôn nói và không ít phương tiện thông tin đại chúng của Việt Nam vô tình nhắc lại. Đây là cách Trung Quốc cố tình làm theo lối “lập lờ đánh lận con đen”. Cho dù lúc đó ông Phạm Văn Đồng đang giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ, nhưng hình thức văn bản là một bức thư của cá nhân Thủ tướng thông báo cho ông Chu Ân Lai việc Chính phủ Việt Nam ghi nhận và tán thành quyết định của Trung Quốc về hải phận 12 hải lý. Lời văn như vậy là rõ ràng. Việc Trung Quốc gán ghép ý kiến này vào việc thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là cực kỳ phi lý vì 4 lý do sau đây:
1- Trong thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chỉ thông báo ý kiến của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành quyết định về lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Điều này vừa có ý nghĩa ngoại giao nhưng cũng có một thực tế là biểu thị quan điểm không đồng tình với đề xuất lãnh hải chỉ có 3 hải lý của phía Hoa Kỳ đưa ra trong các lần đàm phán về luật biển.
Trước hết phải định danh văn bản là thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai chứ không phải là Công hàm của Chính phủ mà phía Trung Quốc luôn nói và không ít phương tiện thông tin đại chúng của Việt Nam vô tình nhắc lại. Đây là cách Trung Quốc cố tình làm theo lối “lập lờ đánh lận con đen”. Cho dù lúc đó ông Phạm Văn Đồng đang giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ, nhưng hình thức văn bản là một bức thư của cá nhân Thủ tướng thông báo cho ông Chu Ân Lai việc Chính phủ Việt Nam ghi nhận và tán thành quyết định của Trung Quốc về hải phận 12 hải lý. Lời văn như vậy là rõ ràng. Việc Trung Quốc gán ghép ý kiến này vào việc thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là cực kỳ phi lý vì 4 lý do sau đây:
1- Trong thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chỉ thông báo ý kiến của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành quyết định về lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Điều này vừa có ý nghĩa ngoại giao nhưng cũng có một thực tế là biểu thị quan điểm không đồng tình với đề xuất lãnh hải chỉ có 3 hải lý của phía Hoa Kỳ đưa ra trong các lần đàm phán về luật biển.
2- Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 vĩ
tuyến 17 trở thành giới tuyến tạm thời để phân chia quyền quản lý lãnh
thổ cho đến khi tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Năm 1958 việc tổng
tuyển cử vẫn chưa diễn ra. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chịu
trách nhiệm quản lý lãnh thổ Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 17. Hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía nam vĩ tuyến 17. Ở thời điểm đó
không có cách giải thích nào nói là Thủ tướng Phạm Văn Đồng có quyền
công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.
3- Theo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946, ngay cả trong trường hợp những phần lãnh thổ thuộc
quyền quản lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Thủ tướng cũng không có
quyền định đoạt. Thậm chí, một sắc lệnh do Thủ tướng ký cũng phải được
Chủ tịch nước phê chuẩn mới được ban hành. Lãnh thổ là vấn đề lớn nên
quyền quyết định thuộc về Quốc hội (khi ấy là Nghị viện nhân dân). Nói
Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm công nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không hiểu hoặc cố tình
không hiểu luật pháp của Việt Nam. Sự cố tình giải thích sai ấy là vô
giá trị.
4- Nếu Trung Quốc cố tình đeo bám lý sự này thì vô hình trung họ đã mặc nhiên thừa nhận một điều: Phải đến khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai vào năm 1958 họ mới được Việt Nam chính thức công nhận chủ quyền trên hai quần đảo (?). Vậy thì bao nhiêu công sức để chứng minh họ đã xác lập chủ quyền từ thời Tây Hán cách ngày nay hơn 2.000 năm, rồi liên tục thực thi qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên (của Mông Cổ), Thanh, Tưởng Giới Thạch thì được ai công nhận?
4- Nếu Trung Quốc cố tình đeo bám lý sự này thì vô hình trung họ đã mặc nhiên thừa nhận một điều: Phải đến khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai vào năm 1958 họ mới được Việt Nam chính thức công nhận chủ quyền trên hai quần đảo (?). Vậy thì bao nhiêu công sức để chứng minh họ đã xác lập chủ quyền từ thời Tây Hán cách ngày nay hơn 2.000 năm, rồi liên tục thực thi qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên (của Mông Cổ), Thanh, Tưởng Giới Thạch thì được ai công nhận?
Trong toàn bộ quá trình từng bước thực
hiện ý đồ lấn dần các đảo tiến tới độc chiếm Biển Đông, phương pháp chủ
đạo là ỷ vào sức mạnh, dùng vũ lực để giải quyết. Cách hành xử này vi
phạm nghiêm trọng mọi luật pháp quốc tế trong thụ đắc lãnh thổ. Bạo lực
và cưỡng chiếm không thể đẻ ra chủ quyền. Trung Quốc cũng rất dày công
trong việc ngụy tạo chứng lý và tìm tòi ra cách lập luận có lợi cho họ.
Nhưng như một quy luật khách quan, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc nên họ càng cố gắng ngụy tạo thì thế
giới càng thấy rõ tính chất phi lý, phản khoa học của những lập luận và
chứng lý mà họ nêu ra. Chúng ta hoàn toàn có thể vững tin vào thắng lợi
khi đưa Trung Quốc ra phân xử trước Tòa án trọng tài quốc tế về luật
biển vì lẽ phải và chân lý thuộc về chúng ta.
GS. TSKH. Vũ Minh Giang
Đại học Quốc gia Hà Nội
(Theo Tạp chí Cộng sản)
____________
(1) Vũ Minh Giang: “Căn cứ khoa học về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam số 21 (664)/2013
(2) Phần lớn các tài liệu này đều được dẫn lại trong sách Thái Bình ngự lãm (太平御覧,) của Lý Phượng, được biên soạn vào thời Tống, muộn hơn thời của các nguyên tác. Những đoạn trích này được tập hợp trong cuốn sách do Hàn Chấn Hoa chủ biên. Xin xem 韩 振 华(主编): 我國南海諸島史料滙编 . 厦门大学 南洋研究院出版 1985 年và 东方出版社1988 年7月第1版.
(3) Dẫn theo Nguyễn Nhã: Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử.
(4) Yu, Peter Kien-Hong: The Chinese
(broken) U-shaped line in the South China Sea: points, lines, and zones,
Contemporary Southeast Asia, 01/12/2003, tr. 2. Dẫn theo Nguyễn Hồng
Thao: Yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc dưới góc độ luật pháp quốc tế. nghiencuubiendong.vn.
Nguồn: http://www.nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=4624:lp-lun-va-chng-c-ca-trung-quc-oi-ch-quyn-bin-ong-va-qun-o-hoang-sa-va-trng-sa-ca-vit-nam-la-cc-k-vo-ly&catid=169:bin-o-que-hng&Itemid=641
Bức công hàm bán đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Đại Nghĩa (Danlambao) - Hoàng
Sa, Trường Sa đang từng ngày nhắc lại chuyện đau buồn của người dân
Việt Nam. Tôi không quên Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa viết lại đề
tài này qua bức công hàm bán biển đảo của thủ tướng Việt cộng Phạm Văn Đồng
năm 1958. Bức công hàm đã gây một hậu quả tai hại nghiêm trọng đến chủ
quyền của đất nước khiến ngày nay người dân Việt Nam phải mất đi biển
đảo và ngư trường đánh bắt. Do cái công hàm này khiến Trung cộng lấy đó
làm bằng cớ để giành chủ quyền và ngày đêm lấn chiếm, bồi đắp biển đảo
của tổ quốc ta.
Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phủ nhận giá trị của bức công
hàm với sự ngụy biện ấu trĩ, khó bề chối cãi, báo điện tử VNExpress cho
rằng bức công hàm chỉ:
“Ghi nhận và tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, nội dung công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có một chữ nào công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc”. (VNExpress online ngày 23-5-2014)
Sau bao nhiêu năm hữu nghị, bao nhiêu năm ngậm đắng nuốt cay, theo báo mạng của đài RFI đưa tin: “Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị”.
Một sự phủ nhận không thuyết phục vì ngoài bức công hàm này CSVN còn
nhiều tài liệu khác công nhận chủ quyền của Trung cộng trên quần đảo của
ta.
“Sau nhiều năm im lặng, mãi đến những năm gần đây, chính quyền Việt
Nam mới lên tiếng giải thích về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng
lần đầu tiên, Hà Nội vừa chính thức tuyên bố công hàm đó là vô giá trị,
tức là không hề nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa”. (RFI online ngày 24-5-2014)
Muốn biết rõ sự việc, cần xem lại cả hai văn bản, một của Trung cộng,
hai của Việt cộng, chúng ta sẽ thấy rõ Việt cộng đang cố tình chối
quanh.
- Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Ttrung cộng Chu Ân Lai (bản dịch tiếng Việt của Trần Đông Đức)
“Công bố của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải
Ngày 4 tháng 9 năm 1958
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa)
Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc
phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)
Quyết nghị:
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân
toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố
lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải.
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các đảo, với Đài Loan cùng với các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc hải đảo của Trung Quốc…”
- Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của thủ tướng Việt cộng Phạm Văn Đồng.
“Thủ tướng phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí lời chào rất trân trọng./.
Kính gửi: Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958”. (x-cafevn online ngày 19-5-2009)
Phạm Văn Đồng nói tôn trọng 12 hải lý của Trung cộng, như vậy 12 hải lý đó xuất phát từ đâu, có phải từ quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) hay không?
Bức công hàm năm 1958 đồng thời đã xác nhận lời của Thứ trưởng Ngoại giao CSVN Ung Văn Khiêm trong lần gặp đại biện lâm thời của Trung cộng là Lý Chí Dân tại Hà Nội năm 1956 như sau:
“Theo trang web của Bộ Ngoại giao TQ, vào giữa năm 1956, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của TQ rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc về lãnh thổ TQ”. (BBC online ngày 24-1-2008)
Việt cộng đừng cãi chối, không chỉ có cái công hàm này không đâu, còn
nữa, còn nhiều điều mà Việt cộng đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là
của Trung cộng.
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm, trong một cuộc
họp báo tại Hà Nội ngày 2-12-1992 đã giải thích một cách gượng ép phải
công nhận một sự bất đắc dĩ, cũng như còn có một mưu mô xảo trá vì biết
rằng lúc ấy Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc chủ quyền
của VHCN nhưng cũng cứ nhận vơ là của đồng chí hữu hảo để xin một ít bom
đạn. Sau năm 1975 Hoàng Sa và Trường Sa thực tế thuộc về Việt cộng thì
họ lại chối quanh là “tạm công nhận” chớ trước đó không tính được hậu
quả ngày nay. Ông Cầm nói:
“Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa
như vậy là do Hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương tất cả lãnh
thổ từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam là thuộc về chính quyền miền Nam, kể cả
hai quần đảo này.
Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào
cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt-Trung
đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem
Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.
Trong thinh thần đấy thì do tính cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.
Đặc biệt việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn đế
quốc Mỹ không sử dụng quần đảo để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận
như thế với Trung Quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và pháp
lý của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cả”. (RFA online ngày 12-12-2007)
Những chứng cớ cho thấy Việt cộng trước đây đã công nhận chủ quyền của
Trung cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà sau này Trung cộng
lấy đó làm bằng chứng là một cuốn sách dạy cho học sinh lớp 9 xuất bản
cách đây 40 năm đã công nhận chủ quyền của Trung cộng trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa …
“Trả lời ban Việt ngữ đài VOA, một nhà sử học đã bảo vệ luận án tiến
sĩ xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Tiến sĩ Nguyễn Nhã, xác nhận là sách giáo khoa liên hệ dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam có công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa, mà TQ gọi là Tây Sa. Là thuộc chủ quyền của TQ…” (VOA online ngày 13-6-2014)
Chứng cớ thứ 2 là của Bộ Giáo dục Việt Nam mà tờ Hoàn Cầu Thời báo của
Trung cộng dựa vào đó cho rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của họ ở
biển Đông.
“Từ một tuần lễ nay, dư luận báo chí tại Việt Nam đã sôi nổi hẳn lên
sau phát hiện của báo Thanh Niên, theo đó, Bộ Giáo dục Việt Nam, từ năm
2007, đã bắt học sinh phải sử dụng phần mềm tin học bản đồ công nhận chủ
quyền của Trung Quốc trên biển Đông. Sau khi vụ việc bùng lên, Bộ Giáo
dục Việt Nam đã ra lệnh cấm, nhưng vụ này đã lập tức bị báo Trung Quốc
khai thác để nhấn mạnh rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc
tại biển Đông”. (RFI online ngày 29-12-2013)
Bằng chứng hùng hồn nhất là một cuốn sách của Bộ Ngoại giao CSVN viết bằng chữ Anh mang tựa đề: “U.S Intervention and Aggression in Viet Nam during the last twenty years”. Trần Quốc Việt cho biết trong bài “Thêm một bằng chứng bán nước rõ ràng của đảng CSVN” đầy đủ chi tiết.
“Một cuốn sách của Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ấn hành ở Hà Nội vào năm 1965 khẳng định rất rõ ràng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc…
…hải phận của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xung quanh quần đảo Hoàng Sa là ‘khu vực chiến đấu’ của lực lượng vũ trang Mỹ”. (DanLamBao online ngày 24-1-2014)
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một người bất đồng chính kiến tại Hà
Nội thường lên tiếng phản biện một cách cam đảm. Trong bài “TQ xâm lược
Việt Nam” có đoạn Tiến sĩ viết:
“Bội phản cha ông, thời đảng CSVN trị vì, các cuộc xâm lược từ phương Bắc đều do lãnh tụ đảng CSVN ‘mời’.
Thời Hồ Chí Minh có công hàm 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Thời Lê Duẩn, không biết có mời không nhưng, năm 1974, khi binh lính đồng bào mình (Việt Nam Cộng Hòa) bị TQ diệt để chiếm Hoàng Sa thì lãnh đạo CSBV chỉ đứng nhìn và vỗ tay”. (DanChimViet online ngày 4-7-2012)
Với bao nhiêu chứng cứ Việt cộng khó mà chối quanh với bọn bá quyền nước
lớn Trung cộng, Việt cộng có đưa ra bao nhiêu bằng cớ về lịch sử cũng
không thuyết phục bằng những tài liệu mà mình đã mặc nhiên công nhận
trước đây. Sở dĩ Việt cộng không dám đưa Trung cộng ra tòa là vì há
miệng mắc quai và nhất là đối đầu với đồng chí 16 chữ vàng và 4 tốt đang
nắm “lý lẽ của kẻ mạnh”.
Ngày nay người dân Việt Nam muốn hóa giải cái hậu quả tai hại của cái công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958 cũng như hủy bỏ mật ước nô lệ của Nguyễn Văn Linh tại Thành Đô năm 1990 chỉ còn có cách duy nhất là: giải tán đảng cộng sản Việt Nam và điều này chỉ có đảng viên cộng sản tự diễn biến.
24.10.2015
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2015/10/buc-cong-ham-ban-ao-hoang-sa-va-truong.html
Xem thêm:
cong-nhan-viet-nam-cong-hoa-
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/cong-nhan-viet-nam-cong-hoa-e-khang-inh.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét