Vén lên màn bí mật tại Việt Nam: Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ?
Mai Thanh Truyết (Danlambao) - Bài viết nầy trích trong quyển sách “Từ Bauxite Đến Uranium: Tiến trình Đô Hộ Việt Nam Của Trung Cộng” xuất
bản tại Nam California năm 2009, và đã được cập nhật hóa. Tác giả đã đi
nói chuyện nhiều nơi, nhưng cho đến ngày hôm nay, CSVN vẫn chưa có một
lời “phản bác hay phản biện”. Tại sao có sự im lặng khó hiểu như vậy?
Phải chăng, đó là một sự thật mà họ “há miệng mắc quai?”
Trong hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản
biện là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy rẫy
trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau,
giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi Châu
và những nơi có dấu chân TC khai thác các công trình quặng mỏ hay những
công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.
Cộng sản Hà Nội cũng như Trung Cộng (TC) cũng không thể nào chối cãi
được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Tàu dù dưới dạng công nhân hay
chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn
riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều
trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các
cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp,
đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng
nầy xảy ra ngay chính trên mảnh đất quê hương của mình mà cán bộ hay
công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên. Những khu biệt lập
nầy do TC hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có người “lạ” nào hay
cán bộ, công an Việt Nam có thể bén mảng đến được, mặc dù những công ty
họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý.
Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi,
đặc biệt tại Vũng Áng, nơi có nhà máy gang thép Hưng Nghiệp Formosa tạo
nên một luồn sóng phẫn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ những
người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền công
nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi được.
Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán
xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và gần đây
nhất tại thành phố Alger, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức cá
nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự
hống hách, ức hiếp của người Hán trên mảnh đất quê hương của người bản
xứ.
Trở lại Việt Nam, riêng tại hai vùng đang là điểm nóng từ năm 2008 ở
Việt Nam; đó là Tân Rai Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nầy hiện
đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ 10 năm
nay dưới sự đồng thuận của CSVN. Sau khi không thể bưng bít được, CSVN
đã phải bạch hoá công bố hai công trình trên mặc dù đã ký kết với TC từ
năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, qua quá nhiều áp lực của đông
đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiễm
hoạ từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự nếu để cho TC khai
thác hai vùng nầy.
Nhưng trầm trọng hơn cả là qua việc nhường bước cho TC khai thác, CSVN
để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (mà bây giờ đã biến thành tinh thần
quốc tế hữu sản chăng?) trong việc hợp tác với TC. Và đây cũng có thể
được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm Việt Nam
không tiếng súng của TC.
Hiện nay, đã có sự hiện diện của trên 10.000 công nhân TC ở Tân Rai và
trên 7.000 ở Nhân Cơ. Đây là những con số do chính Ủy Ban Nhân Dân ở hai
tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự chắc phải cao hơn nhiều
và theo như dự kiến của hai công trình khai thác trên, con số công nhân
TC sẽ đạt đến 10.000 người cho mỗi nơi như trong dự án đã ghi.
Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự TC ở hai địa điểm
trên là, tại sao họ có mặt 10 năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc chuẩn bị
hoàn tất việc khai thác cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm
cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su
v.v... mà chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên
viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách
ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung
quanh?
Đây là một tiến độ công trình rất chậm so với số lượng nhân công hiện có
và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà
quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường.
Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai thác quặng mỏ bauxite hay không?
Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác quặng mỏ
bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm chính
của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác?
Kể từ 2014 trở đi, hàng năm, tại hai dự án nầy, CSVN đều khai lỗ hang
chục triệu Mỹ kim mà vẫn tiếp tục khai thác và chấp nhận sự hiện diện
của hàng chục ngàn nhân công, hay quân nhân (?) TC… tiếp tục chiếm đóng,
và tiếp tục “sản xuất”… trên 3.000 “đứa con lai” tại hai nơi nầy.
Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của bài
viết, người viết xin lần lượt tạo dựng ra nhiều giả thuyết qua các tin
tức có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC trên
mảnh đất quê hương Việt Nam.
1. Việc khai thác quặng mỏ Uranium
Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi
sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của núi lửa
hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao
so với các vùng đất tự nhiên khác. Và sác xuất có quặng mỏ Uranium cũng
rất cao.
Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình
sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế
giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất
đồng vị (isotope) Uranium: Uranium235 và Uranium238. U238 được xem như
là đồng vị nặng vì có số NEUTRON nhiều hơn U235. Chính U235 mới đích
thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường
có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi. Việc khai thác
gồm:
- Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235;
- Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện (enrich) để đạt được nồng độ
Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau.
Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tán vật lý, và
dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay
Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở
các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau
được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom
nguyên tử, ít nhất, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối
với các nồng độ thấp hơn, tuỳ thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong
việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn
trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con
người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.
2. Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc
Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp
xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn
còn hoạt động. CSVN dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống
sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công
nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng
như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn về áp suất hay nhiệt
độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong
các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các valve
an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai
nạn. Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước
ngoài.
Câu hỏi được đặt ra nơi đây là: Tại sao người Pháp cho lắp đặt Trung
Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài
Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ?
Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm nầy?
Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm
gần nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn
nguyên liệu phóng xạ tại chỗ?
Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngũi của Nhật Bổn
vào thế chiến thứ hai vào những năm 1941, 42, 43…, họ cũng đã gởi nhiều
phái đoàn địa chất để thăm dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh
Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên
trên vùng Bolloven nầy. Thêm một nguồn tin từ một niên trưởng giáo sư
hiện ở Phoenix, vào cuối năm 1944, một chiếc tàu Nhật trên đường từ Việt
Nam trở về Nhật bị quân đội Đồng minh đánh chìm vì bị nghi có chở một
số mẫu quặng mỏ Uranium lầy từ Cao nguyên Trung phần. Nhưng tất cả đều
được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào công bố về vấn đề
trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn nguyên liệu phóng xạ
Uranium hay không?
3. Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên Trung phần
Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto,
Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi
họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về
việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả
thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng
xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có
những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác.
Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên
mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế
giới thêm một lần nữa.
Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210
ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở
một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than
Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung
bình với oxid uranium ở Cao nguyên.
Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận
một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến
cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không
công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc
bấy giờ không cho phép.
Và ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn
nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con
đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite.
Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể ly trích và khai thác được
hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ
quốc phòng và quân sự.
Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:
- Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận
hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra ở đây. TC
với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên vào nơi đây
từ năm 2009?
- Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê mướn trong vòng 50 năm?
Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật
giữa CSVN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung
phần Việt Nam. Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và
Điểm chính là việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất
phóng xạ Uranium 235 để làm tăng lợi khí“cường quốc” của Hán tộc.
Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam.
4. Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium
Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối
phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc
khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đem đến sự hủy diệt thảm thực
vật ở miền Cao nguyên nầy, nhưng đứng về hiệu quả kinh tế, phát triển
quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm nhiều ưu thế
hơn cả.
Thêm một điểm cần lưu ý là, một khi Việt Nam chủ động và làm chủ được
nguồn nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên
thương trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng sẽ
được nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong các
mặc cả trong nhiều lãnh vực nhất là quốc phòng đối với những quốc gia
khác trên thế giới. Kinh nghiệm Bắc Hàn, một quốc gia nghèo đói, nhưng
vì có “nguyên tử và hạt nhân” cho nên làm cho thế giới …kiên dè!
5. Thay lời kết
Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng mỏ
Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất cao.
Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những người
lính dưới dạng công nhân ở hai nơi nầy.
Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội và
hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê
hương?
Một điều không thể chối cải được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC
đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như
trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng. Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa
lục địa, và nhất là lợi dụng tình trạng còn lỏng lẻo của Hội Quốc liên,
tiền thân của Liên Hiệp quốc thời bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội
vàng chiếm đóng quốc gia Tây Turquistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng
như chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Tiếp theo sau, chính sách Hán hóa bắt
đầu thực hiện bằng cách cho người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần
lần đồng hóa bằng những cuộc hôn nhân dị chủng. Hồ Cẩm Đào, và Tập Cận
Bình ngày nay vẫn tiếp tục chương trình trên và kết quả hiện tại là dân
Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương mình, và dân Tân Cương
chỉ còn chiếm 42% trên tổng số cư dân tại nơi đây.
Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong “tầm
bắn” của TC trong chính sách nầy trong một tương lai không xa. Hẳn chúng
ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, hai món
hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính quyền thời
bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu cứu vãn
miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn nguyên liệu
quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao.
Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo
cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở
Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và kinh tế của
thế giới để đình chỉ việc khai thác trên. Nếu không, TC, một khi làm chủ
được nguồn nguyên liệu nầy sẽ mọc “thêm râu thêm cánh” và ngang nhiên
tung hoành như đi vào chỗ không người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ
nghĩa bành trướng của TC càng được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên
Sử mới của TC mà biên giới gồm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã
Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nam Bắc Hàn v.v... Bằng bất cứ giá nào,
người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu nầy lọt vào tay TC.
Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh chấp quốc tế và thảm
họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có tranh chấp.
Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo hậu
thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điềi kiện tối
cần thiết trong lúc nầy. Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn với Ấn
Độ, một đối lực ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn Độ cũng vừa
có một quyết định sáng suốt trước hiễm hoại TC là chấm dứt hợp đồng xây
dựng đường ống dẫn dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và Vân Nam (TC).
Đây là bước ngăn chặn có hiệu quả nhất trước sự bành trướng của TC.
Sự kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất cần
thiết trong lúc nầy hơn bao giờ hết vì chính đảng Cộng sản Bắc Việt đã
bất lực một khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong lúc họ có
khả ngăn chặn từ lúc đầu.
Lịch sử Việt Nam sẽ không quên tội ác kể trên của CSVN, thái thú biết nói tiếng Việt của Trung Cộng.
Mai Thanh Truyết - Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam - VEPS
______________________________________
Ghi chú: Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, ông
Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi trường & Tài nguyên lúc đó công bố
ngày 4 tháng 8 là Việt Nam quyết định thăm dò và khai thác quặng mỏ
Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng 8.000 tấn quặng oxid uranium
U3O8. Việc khai thác nầy chia làm hai đợt cho đến 2020. Đối với một số
địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm Đồng nhưng không nói cụ thể
như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk Nông cũng không được nhắc tới.
Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ và nhạy cảm vì còn nằm dưới chiêu
bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC?
Và ông cũng cho biết là đã ký Biên bản ghi nhớ (Memorendum of
Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công
nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên.
nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2018/04/ven-len-man-bi-mat-tai-viet-nam-quang.html#more
nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2018/04/ven-len-man-bi-mat-tai-viet-nam-quang.html#more
Nhưng hán ngụy vẫn gát bỏ ngoài tai.
Xin trích dẫn một đoạn trong bài viết KHÔNG CẦN ĐÁNH, HÁN NGỤY VC VẪN DÂNG NƯỚC liên quan đến vấn đề " Bauxite Tây Nguyên ".
Nhượng quyền khai thác Mỏ bauxite Tây nguyên
Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam. Dự án này đã gây ra nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau trong dư luận, báo chí, Quốc hội. Các ý kiến chủ yếu xoay quanh vấn đề an ninh, quốc phòng, hiệu quả kinh tế, hậu quả xã hội, tác động đối với môi trường sinh thái, công nghệ Trung Quốc lạc hậu, việc sử dụng lao động phổ thông Trung Quốc tại khu vực Tây Nguyên trái với Luật lao động Việt Nam.
Từ năm 2001, trong Ðại hội IX, dự án này đã được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua: “Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Ðại hội IX và Ðại hội X của Ðảng đến nay”.
Ngày 1 tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 167 phê duyệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét