PROVISIONAL NATIONAL GOVERNMENT OF VIETNAM
Được biết, trong năm 1987, ông Đào Minh Quân hiện là Thủ Tướng CPQGVNLT
đã công bố bàn Tuyên Ngôn “KỶ NGUYÊN TÂN DÂN” và thành lập Phong Trào Tân Dân Chủ (Phong
Trào Tân Dân) đầu
tiên tại Hoa Kỳ năm 1990. Hiện tại Việt Nam có khoảng trên dưới
200 ngàn thành viên của
phong trào, phần đông được kết nạp tại các trại tỵ nạn Cộng
Sản vùng Đông Nam Á gồm Hồng Kông, Mã Lai, Phi Luật Tân, Thái
Lan và Nam Dương. Ngoài khoảng 15 ngàn thành viên
của Phong Trào Tân Dân này đã được cứu xét định cư tại Hoa
Kỳ, phần đông còn lại được hồi hương về Việt Nam theo chương
trình CPA (Comprehansive Plan Of Action) do Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tài trợ.
KHÔNG CÓ AI BƯNG BÍT ĐỰƠC SỰ TḤÂT MÃI MÃI
HIẾN ƯỚC LÂM THỜI
PROVISIONAL CHARTER
PHẦN
MỘT:
Nhận Định Chương thứ I:
Ý Thức:
Sống, phải sung mãn Khí Việt. Chết, phải hoá Linh Khí Đất nước ta vốn
tiềm Linh tụ khí. Dân tộc ta tất nhiên
phát sinh Nhân Kiệt. Chủ Đạo Việt có truyền thống vô bại và văn hoá Đại
Hoà, được ấn chỉ, ấn quyết và đã ấn chứng trong suốt nguồn mạch Văn
Hiến Văn Lang, lấy Làng làm căn bản xã
hội. Được minh xác trong Kinh Dương Vương. Là Quốc Đạo, là Minh Triết,
rất Nhân Chủ và Dân Chủ, nay gọi là Tổ Tiên Chánh Giáo - Đại Đạo Sinh
Tồn của Việt Nam. Và tới đây, hy vọng
sẽ là kỷ nguyên Mới của nhân loại, được mặc khải là Tân Dân Minh Đạo, đã phát khởi trong Kỷ Nguyên mới, Kỷ Nguyên Tân Dân năm 1987.
Đại
đạo sinh tồn là nhu cầu Sống thực tại và thăng hoa của nhân loại, có
mục đích phụ trợ các Đại Tôn Giáo
trên con đường giải thoát, cứu độ hay cứu rỗi chúng sinh. Lịch sử Cứu
Quốc và Kiến Quốc hiện nay phải triệu tập cho được Anh Hào Tuấn Kiệt
Việt nam trong nước và toàn cầu, để tụ cho được nguồn Linh Khí
Thiêng Liêng vô bại của Đất Trời Việt Nam, của xương tuỷ máu thịt Việt
Nam, của nền Văn Hiến Việt Đạo, đã được sáng hoá bởi tiền nhân, do nhân
dân và của chính chúng ta vậy.
Chủ Lực Việt phải thấu nhập Linh Khí để phát huy Minh Trí và Minh Triết
cho chính thân tâm mình, gia đình, dân tộc và nhân loại. Sấm sử truyền
tụng trong nhân gian và
khát vọng của dân tộc từ xưa đến nay vẫn minh chứng rằng: Khi Sơn Hà
nguy biến, Quốc Gia lâm nguy thì Hồn Thiêng Sông Núi, Anh Linh ngàn đời
Tiên Thánh Tổ, sẽ tái xuất sinh để Tụ
Anh và điều động toàn dân cùng khối chủ lực của thế hệ chiến thắng. Lãnh tụ từ đó khởi sinh. Không phải tự cá nhân, không phải do bất cứ một nhóm, hay thế lực nào,
mà từ trong nhân gian, từ nguồn thiêng linh khí và từ đấu tranh hoá hiện, để Cưú Quốc và Kiến Quốc.
Niềm tin đó là sức mạnh Vạn Thắng.
Niềm tin đó báo hiệu một khúc quanh lịch sử của dân tộc. Và thăng hoa
theo thời gian, có thể là thông điệp cho cả nhân
loại. Nhân đạo tính là nguồn sống tâm linh và ý thức cao quý nhất, tiềm
tàng trong tâm thức của người Việt Nam. Tiên Hiền Liệt Tổ đã muôn một
tuyên xưng, hành xử Nhân
Đạo trong suốt mạch sống lịch sử. Vũ trụ bao la, thế giới chập chùng
không bờ bến. Tâm thức, ý thức và tri thức vẫn là những bất hoà sâu sắc,
tế vi. Chỉ có nguồn mạch Nhân Chủ được khai thông,
hoá được Bất Hoà, tạo mối An Hoà thì chư nhân mới Quảng Lạc. Đó là
giềng mối của Nhân Đạo Việt, là tinh Việt, tính Việt vậy thay. Dẫn dắt
từ bao nghìn năm nhiều biến hoá. Nhưng
thử nghĩ xem cả nhân loại có dân tộc nào đủ quán tính để hành xử thương
yêu thành Đạo Sống (Nhân Đạo) như người Việt Nam?
Gần
năm ngàn năm lập quốc, Nhân Đạo tính đã trở thành Minh Triết của dân
tộc. Nền Nhân Chủ Cương Thường đã Hoá Hiện trong suốt
mạch sống của lịch sử, đã trở thành Nhân Tính Việt, là ánh quang minh
nhất của cả nhân loại, đã thể hiện trong cung cách của Tiền Nhân, thương
dân yêu nước, thương yêu cả
muôn triệu Anh Hồn đã siêu linh trong Thánh sử, thương yêu cả khói mây
mê muội giặc xưa, khi họ xâm phạm Đất Trời Việt Nam. Cây đa lá thụ,
muôn muôn cội trùng, tử sinh
trên khắp mặt Núi Sông.Ôi! Vô cùng vô tận, sâu thẳm trùng khơi, dung
dung chứa chứa, vạn vạn sóng biếc, vô ảo, vô biên, huyền năng vô tận, là
dạt dào là
tối thắng của tầng sóng đáy trùng trùng điệp điệp, là sức bật vô song,
chí thượng của dân ta. Đã bao lần, Nhân Đạo Việt sung toả diệu năng làm
tinh thế cho Chủ Động, Chủ Thắng, là
cội rễ của ý chí Quốc Dân. Kìa nhìn xem giặc Bắc ác lang mà dân ta còn
tha được. Đã tử trận vẫn còn được ta siêu độ, tế linh. Lại nhìn xem
Tướng thần Phạm Ngũ Lão,
thương Nước Non mà đâm thịt chẳng đau.
Ôi!
Nhân Đạo đã là Tính Việt, trở
nên Tinh Việt tạo ra Linh Việt. Mở khí Nhân, sáng linh Tâm, ắt nhiên
trí tỏ. Cười dũng, Chí hùng, ôm cả Đại Thế trong lòng, dạ mang mang Việt
Nam, làm gì cũng phải tụ Chí
Nhân, tự Chí Thành, tức Hoà Thông Nhân Đạo Việt. Muốn khôi phục nước
thì trước hết phải lấy lại Đạo, lấy lại giềng mối của dân tộc. Người dân
Việt Nam bản chất thông minh cần cù,
đầy nhân hậu và nghĩa dũng, là miếng đất màu mỡ tươi tốt cho cương
thường đạo lý và các hạt giống tốt lành của tín ngưỡng đâm chồi, nở nhụy
khai hoa. Đức từ bi hỷ xả, nhân ái, hiền
lương của Tôn Giáo đã thành cội rễ trong lòng dân Việt. Gác lại những
nguyên do và ẩn khúc khác, chỉ thâu nhận những tinh hoa phù hợp với linh
Việt và truyền thống
Việt, sẽ may thay, là con đường quan lạc cho thế giới khi bế tắc, hay
tạm thời bị nghẽn đọng. Như dòng sông cuồn cuộn, bị bờ đất nhỏ cản trở.
Nhưng dòng nước lũ sẽ cuốn phăng rác rến, đào xoáy vỡ bờ, để suôi
dòng thế sự.
Trong
sự góp phần khai thông của toàn dân Việt Nam, dòng mạch sống
của dân tộc sẽ tiếp tục tiến ra bể khơi, bốc lên tận Trời, thành mưa,
tiếp tục tưới thắm những mầm cây, làm nảy lộc đâm chồi, hưng quang nòi
giống và xanh tươi đời sống. Nói cách khác,
khi Vật Cùng Bất Biến, đó là lẽ Huyền Thông của Vũ trụ. Cho tới khi hy
vọng gần như tan tành, thì sự phản ứng quyết liệt mới bộc phát. Tà quyền
sẽ bị đào thải hay bị tự huỷ diệt. Công chính
và công lý sẽ khởi sinh để tạo sự đoàn kết lật đổ bạo quyền, đưa nước
Việt lên vinh quang, hoà bình, an lạc, hoàn tất hội Rồng Mây tụ đỉnh
trong cảnh hạ thế tiên bồng.
Chương Thứ II: Nhận Định
Cấu tạo địa lý của Việt Nam thật đặc
biệt trong vị trí Đông Nam Á, là cửa ngõ ra Thái Bình Dương, là đầu cầu
quân sự khi có chiến tranh, là
giao điểm của văn minh Trung- Ấn và Tây Phương, là nơi quân bình cán
cân Đông Á về kinh tế, lại kèm một bên là Trường Sơn có Cửu Long Giang
bọc hậu, một bên là
Thái Bình Dương có thềm lục địa xây bờ, chứa đựng biết bao dầu khí,
khoáng sản, quý kim, trân ngọc, mà cho đến nay vẫn còn đang được thám
hiểm và nghiên cứu. Nhưng tiềm
tàng nhất không phải là vị thế địa lý, chính trị, quân sự, kinh tế hay
các mỏ khoáng, mỏ dầu có trữ lượng lớn nhất thế giới, mà là vị thế Văn
Hoá, là cái nôi
của văn minh nhân loại. Đây là một khám phá không phải mới mẻ, mà thật
sự đã được truy tìm và nhìn nhận như một bí mật của thứ võ khí tư tưởng
cực kỳ linh thiêng
và tối thắng, trong việc khôi phục lại Quốc Đạo và Thần Thế của dân tộc
Việt Nam và nhân dân Việt Nam trong vị trí Đông Á và trên toàn Thế
Giới.
Mặc
dù ngày nay, nhân loại thật đã quá thiên lệch về vật thể và lý trí. Văn
minh của khoa
học kỹ thuật và tiềm năng kinh tế đóng vai trò chủ động trong hầu hết
an bài của xã hội. Con người đã tiến một bước khá dài trong việc khám
phá thiên nhiên và cố thay
đoạt quyền của tạo hoá. Mặc dù bản chất sinh lý của nhân loại thì có
tính giới hạn, nhưng tư tưởng thì thật vô hạn. Tuy nhiên, trong mải mê
của các tìm kiếm, bảo vệ sự sinh
tồn bằng nhỡn quang khoa học, chúng ta đã để cho giới hạn của chủ nghĩa
hiện sinh và các “DUY” chủ nghĩa, bao gồm duy lý, duy tâm và duy vật,
đã và đang khống chế sự phát triển
có tính thông thiên tri, liên hợp với vũ trụ quan, hoà hợp với nhân
sinh quan và đặc thù vô giới hạn của suy tưởng nơi con người. Xác thân
tuy hữu hình, nhưng còn tâm
linh và lý trí, nên duy vật không thể diễn đạt hết con người. Nhưng nếu
Duy Tâm thuần khiết thì e rằng quên đi các nhu cầu bản thể xác thịt và
lý trí suy luận. Còn
nghiêng về Duy Lý một cách máy móc thì đương nhiên là thiếu sót phần
thực chất và tâm linh. Thậm chí có loại chủ nghĩa Duy Nhân cũng được bàn
đến, và
coi như có lẽ là toàn vẹn hơn các “Duy” chủ nghĩa kia. Tuy nhiên nhân
loại, ngoài bản chất người, còn có phần hồn tính thông nối với Trời Đất,
với thiêng liêng,
với càn khôn vũ trụ và cõi vô hình. Tóm lại các “DUY” chủ nghĩa này
cũng có thể đã tự khiếm khuyết để trở thành lỗi thời. Nhưng nguy hiểm
thay, các “DUY”
này hiện là nguồn gốc của bốn khuynh hướng đang ngự trị trong cấu trúc
xã hội hiện nay là Tư Bản, Cộng Sản, Xã Hội và Duy Tâm.
Tư Bản và Cộng Sản bề ngoài có vẻ dễ
hoà đồng nhau hơn, vì cùng chịu ảnh hưởng của vật chất, nhưng lại dị
đồng và đối kháng gay gắt trong cơ cấu. Cái Chung (cộng)
và Tư còn nhiều dị biệt. Còn khuynh hướng xã hội, vì chưa tạo được bề
thế nên cũng chỉ đưa ra một thứ lớp lang tạm thời cho các quốc gia đang
nghiêng ngả giữa hai con đường: Tư Bản và Cộng Sản, hay
đúng hơn, một loại sơn bóng trên gỗ mục, một miếng thuốc dán để trị
bệnh ung thư, không thể bật lên được tầng chủ nghĩa, đừng nói chi là chủ
thuyết hay Đạo. Còn Duy Tâm chủ nghĩa muốn đưa con
người hướng thượng, lại gần với tạo hoá, linh tâm. Nhưng lại tạo ra
những triết gia giữa chợ đời, nên dù có được khoác thêm chiếc áo Duy
Linh,được nhiều vị Đại sĩ giảng dạy. Nhưng cũng
không vượt qua được xác thân hiện tại và hiện thực. Nhân gian hay
khuyên lơn nhau rằng: “Có thực mới vực được đạo”, đã ngầm nhắc nhở đến
cái thực tế tuy phũ phàng, hạ cấp, nhưng
khó thể quên được, như miếng ăn kia, tuy tầm thường, nhưng tới giờ này
chưa có một siêu nhân hay thánh nhân nào có thể dứt bỏ hoàn toàn hay
nhịn ăn cả đời mình được.
Vả
lại, nếu tất cả nhân loại đều ăn chay trường, không có sắc
dục, không sinh sôi
phát huy nòi giống, thì trong bao lâu nữa nhân loại sẽ biến
mất trên địa cầu? Vì con người sẽ tuyệt tự, chết hết, mà
không có con cháu thay thế.
Tư
Bản và Cộng Sản có lớp lang hơn, đã chuẩn bị cho mình tầng chủ nghĩa và
dùng chính sách ‘lớn
giúp bé, giàu giúp nghèo’ để cột chặt và thầm lặng chế ngự các dân tộc
‘nhược tiểu’ kém ‘văn minh’ hơn, qua hình thức lý giải biện chứng của
văn bản vật
chất, hay bằng cách tặng tay này, lấy lại tay kia. Mang tiếng là viện
trợ, nhưng kẻ nhận không biết ơn người cho, tiếng là ‘nước lớn’ giúp
‘nước bé’, nhưng làm cho ‘nước bé’
thành lệ thuộc, trật tự xã hội bị đảo điên. Cùng gọi là nước ‘anh em’
nhưng không bình đẳng. ‘Anh’ rồi mới tới ‘em’. Có biết đâu ‘Lớn’ cũng do
‘nhiều
nhỏ’ mà thành. Có nghèo mới đẻ ra ‘giàu’.
Hơn
nữa, hai chủ nghĩa
tư bản và cộng sản, tuy có điểm khác biệt, nhưng tựu trung căn bản vị
của hai chế độ này chỉ là sự so sánh tư liệu hữu hình.Dù cho vô sản hay
tư bản, thì cũng là cách phân
định chủ quyền quản lý vật chất nằm phía cá nhân hay tập thể mà thôi.
Cũng
theo
thực luận của duy lý thì: Cực thịnh của Tư bản khó tránh khỏi tình
huống tiến đến vô sản, do phương thức tự do cạnh tranh, và cuối cùng kẻ
khôn lanh rồi cũng thu đoạt quyền sở hữu của những người
hiền lành, chậm chạp, kém khả năng hơn.
Ngược
lại, sự bố trí phân chia của cộng sản chủ nghĩa
khi tiến triển, cũng sẽ bắt đầu tạo ra sở hữu vật chất cá nhân, vô hình
chung tiến tới tư bản vị, hay nói đúng hơn đã là cơ sở của tư bản chủ
nghĩa vậy.
Sự
thay đổi quyền sở hữu vật chất này là yếu tố căn bản làm cho cả hai chủ
nghĩa Tư Bản và Cộng Sản đi vào vòng lẩn quẩn. Cực
thịnh của Tư Bản sẽ phát sinh tiểu dị cộng sản và sự phát triển tối đa
của cộng sản sẽ tạo hạt nhân tư bản, nếu không nói là hai ‘dị-đồng’ này
sẽ tự xáo trộn, nếu không biến thái,
tính kịp thời, hoà được ‘tiểu dị’ vào ‘đại đồng’, hay nói theo dịch lý,
là dung chứa Thiếu Dương trong Thái Âm, đưa Thiếu Âm vào Thái Dương,
thì cả hai
chủ nghĩa quyền lực này sẽ bị đào thải là lẽ tất nhiên.
Nhưng
nếu hai chủ nghĩa này
tự tương nhượng hay thoả hiệp để tồn tại, thì lại tạo ra một thứ
‘Công-Tư chủ nghĩa’, như một sự kết hợp của ‘Đồng Tính Luyến Ái, bán nam
bán nữ’, làm xáo trộn tự nhiên, bế
tắc qui trình Sinh Tử Biến Hoá của nhân loại, rồi cũng phải cùng đi vào
một vòng tròn tự diệt hay lẩn quẩn không lối thoát. Các khuynh hướng
này hiện nay tuy cố dung hoà. Nhưng
vì chính những mâu thuẫn sâu sắc, tế vi trong phạm trù chủ nghĩa, lại
là đường nét chính yếu của chế độ, nên không ngừng xung đột nhau vì
quyền lợi vật chất, khiến sự chung sống hoà
bình chỉ là mong manh. Hay nói đúng hơn: Phải điều đình hay tạm thời
nhân nhượng nhau, nhưng phải luôn thủ thế. Như cặp vợ chồng không hạp
nhau, càng nhịn càng tức, và sẽ có
ngày nổ bùng, dễ đi tới ly dị. Nhưng tiếc thay, thế giới chưa có trọng
tài nào đủ uy tín và khả năng để xét xử, hay ngăn trở những sung đột khi
trở thành quyết liệt như một nhu cầu sống còn.
Vả
lại, các thế lực không đơn giản như cặp vợ chồng chung dưới mái gia
đình, mà vì
con cái, có thể nhân nhượng nhau suốt đời. Do đó, khi không thích hợp
sẽ tách rời nhau, khởi sự chiến tranh, để tiến tới xâm lăng hay huỷ diệt
nhau mà thôi.
Thiết
nghĩ, tuy văn minh nay quả thiên về lý trí với thị trường và nguyên tắc
thống trị, đưa đến đấu tranh đẫm máu giữa các
trục quyền lực. Xã hội vẫn xâu xé tranh giành ảnh hưởng. Nhưng nếu ý
chí nhân loại vì nền An Hoà Chung, phải cần tìm ra nền văn minh nào
khác, dựa trên tình người,
trên yêu thương với nguyên lý thân tộc, để Hoà được các thế lực và hai
nhu cầu chính của nhân loại gồm vật chất cũng như tinh thần, hay nói rõ
hơn giữa quyền lợi xác thịt
và nhu cầu tư tưởng, tâm linh, thì hoà bình có thể duy trì lâu dài, xã
hội thoát khỏi cảnh cạnh tranh, con người thoát khỏi bế tắc của tư duy
và bất chính
của Tư Tâm, tạo được Nhân Hoà, đã được diễn giải trong chủ nghĩa Tân
Dân Chủ, chủ thuyết Tân Nhân Chủ và Tân Dân Minh Đạo. Cá nhân hoà thuận,
thì xã hội
mới hoan ca và thế giới an lạc. Đó chẳng phải là Thái Bình Minh Triết
đó sao?
Nếu
không, nhân loại khó tránh được một cuộc Thánh Chiến khủng khiếp, hay
một cuộc tương tranh khốc liệt để quyết định giữa hai thế lực mượn danh
‘Lương tâm’ và ‘Tội ác’ hay đúng
hơn giữa Thần Quyền và Thế Quyền vậy. Những thanh niên Việt Nam anh
dũng của Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ đã tham gia cùng với
CPQGVNLTsẳn sàng đứng ra nhận trách nhiệm với lịch sử, quyết
tâm đương đầu với Tầu Cộng và Việt Cộng để bảo vệ Tổ Quốc
và đồng bào Việt Nam.
Chương thứ III: Lược sử Việt Nam cận đại
Sau khi Pháp khống chế triều đình nhà Nguyễn,
bộc lộ dã tâm đô hộ Việt Nam, thì cuộc khởi nghĩa Cần Vương được khởi
xướng nhưng không thành công. Nhiều nhà ái
quốc đã tiếp nối đứng lên lãnh đạo quần chúng, tạo thành nhiều lực
lượng kháng chiến chống thực dân Pháp, ròng rã kiên trì và oanh liệt
trong suốt hơn một thế kỷ qua. Sau
cùng, do ảnh hưởng tình hình chính trị quốc tế, vì phải đối phó với
các cao trào chống đối ngay trong nước Pháp, vì thất bại trận
Điện Biên Phủ và do sự can thiệp của Hoa Kỳ, Pháp
đành phải rút khỏi Việt Nam.
Đảng
Lao Động Đông Dương một hình thức ngụy trang và là
tiền thân của cộng đảng Việt Nam, dựa vào đệ tam quốc tế cộng sản, dùng
bạo lực dã man và thủ đoạn lừa bịp để sát hại và cướp công của tất cả
các lực lượng kháng chiến, tiếp nhận ấn tín
từ Hoàng Đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã chiếm ngự được
miền Bắc nước ta năm 1945. Tập đoàn này được ‘các nước cộng sản anh em’
chi viện và giao phó ‘nghĩa vụ
quốc tế’ để tiếp tục xâm lăng miền nam Việt Nam.
Nam
Việt Nam cũng vậy, tuy đã trưng cầu dân
ý lập được chính phủ, nhưng nhận viện trợ của ‘Thế giới tự do’ biến
thành ‘tiền đồn chống cộng của Đông Nam Á’ để ngăn chặn sự xâm lăng của
miền Bắc. Thế rồi suốt gần 50 năm, chiến tranh Quốc
cộng tương tàn đã phá huỷ biết bao tiềm năng của đất nước, nhất là thế
hệ thanh niên, họ đã bị dụ dỗ, bị lợi dụng, bị ném vào một cuộc chiến
đẫm máu, tuyệt vọng, không hề có tương lai.
Một
lần nữa, cũng do sự sắp xếp của hậu trường chính trị, bị ‘Đồng minh’ bỏ
rơi, bị nạn hối lộ, tham
nhũng, bè phái trong chính quyền lũng đoạn, nên cho dù dân chúng và các
chiến sĩ QLVNCH anh dũng chiến đấu chống đỡ, nhưng rốt cuộc miền Nam bị
thất thủ. 30/4/1975, cộng sản đã cưỡng chiếm
toàn bộ Việt Nam. Nhân dân ta tưởng chừng như sẽ thoát được cơn khói
lửa chiến tranh, sẽ được hưởng thống nhất hoà bình, cùng chung sức xây
dựng đất nước.
Trái
lại, tập đoàn lãnh đạo cộng sản vì quá đắc chí và mãi mê trong ngu muội
của một chiến thắng ngoài
dự trù, đã mất đi những xảo quyệt, tinh ma trá hình trong thời kỳ đấu
tranh gian khổ, đã quên đi tình máu mủ đồng bào, nên mau chóng lộ nguyên
hình là những con
ác thú khủng khiếp. Thay vì áp dụng một chính sách ân xá, hoá giải hận
thù, Bắc Bộ Phủ đã dùng biện pháp trả thù tàn bạo, cầm tù, sát hại
biết bao nhà ái quốc, những anh tài của đất nước, mong tiêu diệt mầm
móng chống đối tại cả hai miền Nam Bắc. Họ tiếp tục gây biết bao thương
tâm và tội ác đối với nhân dân Việt Nam, cùng
hai nước láng giềng Lào và Cam Bốt.
Họ
dùng mọi thủ đoạn để vơ vét, cướp bóc,
sang đoạt tài sản của dân chúng. Nhân dân Việt Nam càng bị đày đoạ
trong nghèo đói, tù túng. Nạn tham ô, bè phái nhiểu loạn hơn bao giờ
hết. May thay công lý
vẫn còn đó, tương lai dân tộc Việt Nam vẫn chưa tận tuyệt. Từng tập
đoàn cộng sản trên toàn thế giới đã bị dân chúng nổi dậy khai trừ. Chính
đế quốc cộng sản Liên Xô, Ba Lan, Tiệp
Khắc cũng không thoát khỏi làn sóng cách mạng âm thầm nhưng mãnh liệt
này, đã bị hất ngã sụp đổ tan tành. Đương nhiên cộng đảng Việt Nam, một
thứ đàn em tay sai của cộng
sản Quốc tế, dù mê muội đến đâu, cũng phải nhìn thấy con đường bế tắc
của mình. Chúng chắc chắn sẽ bị cô lập và từng bước tan rã, nếu vẫn
ngoan cố bám lấy chủ nghĩa cộng sản lạc hậu và
thây ma Liên Bang Xô Viết đang bị chôn vùi. Tập đoàn cộng sản càng
ngoan cố lại càng bị sa lầy, mất chủ quyền, bất lực thiếu khả năng và
đạo đức để lãnh đạo đất nước. Cương thổ lần hồi bị ngoại
nhân tranh giành, cướp đoạt. Thêm nạn chuyên quyền, tham nhũng lan
tràn. Mạnh ai có quyền hành thì áp bức, vơ vét, bóc lột dân chúng. Trung
ương và địa phương không
kết hợp chặt chẽ và quản lý nghiêm túc. Thảm trạng ‘Thập Nhị Sứ Quân’
đang lan tràn khắp nơi trong nước. Chỉ có thiểu số dân Việt sinh sống
các vùng thành thị, bám
vào các thương buôn ngoại quốc, lòn cúi các lãnh chúa cộng sản để làm
ăn, hay được thân nhân từ nước ngoài giúp đỡ vốn liếng, thì có cuộc sống
dễ thở hơn,
thậm chí còn khá giả hơn trước. Thế nhưng tuyệt đại dân chúng vẫn đang
sống cơ cực, lầm than. Nhiều nhà không đủ cơm ăn áo mặc, con cái phải
bán trôn nuôi miệng, lương nhân
công thì rẻ mạt, nhân phẩm bị chà đạp, đạo đức bị vùi xuống hố sâu,
tuổi trẻ bị mất niềm tin và tương lai lạc lối. Nhiều người phải vượt
biên tìm tự do. Nhưng thế giới quá nhiều biến cố, nên
dần dà các nước tự do cũng đành cúi mặt phủi tay, không tận tình giúp
đỡ như trước kia.
Thế rồi các trại tỵ nạn bị cưỡng bức hăm doạ trả về
quê quán một cách thật tàn nhẫn, thật đáng thương tâm. Ngay chính những
người Việt đang sinh sống tại hải ngoại, nay cũng
khó khăn hơn trong sinh kế, tuy rất thông cảm xót xa, nhưng cũng bó tay
không giúp được người thân tại nội địa như lòng mong muốn. Bầu trời quê
hương đang thật tối tăm và mây đen ảm đạm.
Nhân dân Việt Nam đang chịu đựng quá nhiều nghịch cảnh và thử thách.
Mọi người đang chờ đợi, toàn dân đang khát khao một sự thay đổi. Dù nhắm
mắt sống qua ngày, nhưng tận đáy lòng
họ là cả một sự ước mơ, một sự trông ngóng đợi chờ biến cố tốt đẹp,
biến đổi cuộc đời tối tăm, vô vọng đầy lo lắng của họ, của con em họ,
gia đình họ thành một mái ấm hạnh phúc, an bình, thịnh vượng
và đạo nghĩa. Họ sẽ tự biến thành những con người Mới, những Tân Dân,
những người chủ mới thật sự của đất nước Việt Nam. Tân là mới, Tân Tân
Chủ là nền dân chủ mới, là Người Chủ Mới của
đất nước Việt Nam. Hiểu như vậy thật là đơn giản nhưng trọn vẹn đúng ý
nghĩa của nó. Ước mơ và chờ đợi này khi có thời cơ dễ biến thành một
ngọn sóng thần, một cơn bão táp giận dữ
cuốn trôi chế độ cộng sản, mà không ai có thể dự trù trước được. Đúng
là mặt tầng thì yên tĩnh, nhưng sóng đáy thì cuồng nộ.
Bọn
đầu xỏ cộng sản tay sai Tầu Cộng rất sợ biến cố này. Nhưng không thể
tức khắc mà rút lui hay tự nhiên đầu hàng, sợ sẽ bị chung
số phận như những tên đồ tể đã giết hại quá nhiều ngườI, nay buông dao
sẽ bị thanh toán. Bọn Việt gian trong nước, tập đoàn báo chí và truyền
thông vô lương tâm, các tên
chính khách cơ hội, hoặc mù mờ tại hải ngoại, đang được sử dụng để vuốt
ve quần chúng, tạo những bánh vẽ chính trị, dùng những ngòi bút chửi
bới cả cộng sản lẫn người Quốc Gia, làm cho đồng
bào tạm hả giận, nhưng lại thêm hoang mang. Thậm chí chúng còn hỗ trợ
tài chánh cho bọn tay sai trà trộn vào các hội đoàn quốc gia, rồi dùng
bình phong này ra
tuyên cáo, tuyên ngôn chống cộng ầm ĩ, chỉ để tạo tiếng vang và làm cho
đồng bào nguôi cơn thịnh nộ, giảm đi lòng căm thù. Sau đó lèo lái các
hội đoàn này
vào những mục tiêu ‘dậm chân tại chỗ’ không đoàn kết, hợp tác với
CPQGVNLT, thì làm sao chính Phủ này có thể tạo đủ uy tín và tiềm
năng trực diện đương đầu lật đổ tà
quyền cộng sản? Nhờ vậy Việt cộng sẽ còn thời gian và cơ hội để vơ vét
của cải, trước khi tìm đường thoát chạy an toàn. Đồng bào muốn nhận diện
bọn Việt gian, tay sai cộng sản này rất dễ, chúng
không bao giờ dám đề cập đến việc xoá bỏ chế độ cộng sản và đặc biệt
không dám đụng chạm đến Hồ Chí Minh, chứ đừng nói chi đến chuyện ký đạp
mặt tên tội đồ của dân tộc Việt Nam này.
Thật sự cơ hội duy nhất cho bọn CSVN là chấp nhận một cuộc Tổng Tuyển
Cử. Tuy nhiên, muốn giải pháp Tổng Tuyển Cử thật sự dân chủ, công bình
và hợp lý, thì vai trò của Chính Phủ Quốc
Gia Việt Nam Lâm Thời phải được chính thức công nhận, để tham gia vào
việc cùng soạn thảo các điều kiện, kế hoạch, thể thức và luật lệ tranh
cử. Bằng không, thủ đoạn bịp bợm, gian trá của tập
đoàn đầu xỏ CSVN lại có dịp tung hoành. Chắc chắn CPQGVNLT không tham
dự, sẽ cùng toàn dân Việt Nam phủ nhận kết quả. Chỉ có các thành viên
Việt gian và bọn cơ hội trục lợi đang
muốn chen chân tìm địa vị là mong muốn dự phần.
Tất
nhiên chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh
để hoàn tất nhiệm vụ lịch sử của mình là: Giải thể toàn bộ cơ chế của
cộng sản Việt Nam, thu hồi chủ quyền đất nước trả về cho toàn dân Việt
Nam. Nếu bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào đứng ra tham
gia tổng tuyển cử, tự nhận là thành phần quốc gia dân tộc, nhưng chưa
dám dứt khoát lập trường chống cộng, ít nhất bằng hành động ký đạp mặt
tên Việt gian, gián điệp quốc tế Hồ Chí
Minh, thì đây cũng chỉ là những bức bình phong nguỵ tạo rất nguy hiểm.
Toàn dân Việt nam sẽ không thể bị lừa bịp một lần nữa. Họ phải tỉnh thức
và khôn ngoan để chờ đợi một thắng lợi sau cùng,
một thắng lợi hoàn toàn và triệt để, hầu tạo được căn bản xây dựng lại
đất nước. Mây càng đen tối thì càng có mưa to, hết cơn giông bão sẽ
bình minh chói loà.
Cùng tất biến, đó là cơ thời biến hoá của vũ trụ. Nhân dân Việt Nam
đang chờ đợi một phép lạ. Nhưng chẳng hoài công vì ơn lành sẽ đến. Chỉ
cần một làn sấm chớp ngang trời là
cơn mưa sẽ ào xuống. Chỉ cần một tia lửa, là ngòi thuốc súng nổ bùng.
Chắc chắn như vậy, chế độ cộng sản sẽ bị tiêu diệt. Tà không thể thắng
chính. Công lý sẽ chế ngự bạo quyền. Dù
bằng Tổng Khởi Nghĩa hay Tổng Tuyển Cử chỉ là sự chấm dứt chủ nghĩa
cộng sản bằng hình thức chính trị hay quân sự, mềm hay cứng trong sắt
máu hay nhân đạo mà thôi.
Bọn đầu xỏ Bắc Bộ Phủ đang có một thời gian không lâu để chọn lựa phải pháp xét xử bọn chúng. Lúc đó, CPQGVNLT chỉ
biết thi hành Quốc lệnh của toàn dân, không thể làm một quan toà hay trạng sư biện hộ cho kẻ hung phạm ngoan cố được.
LẤY LẠI ĐẤT TỔ – KHÔNG LÀM KHỔ DÂN
PHẦN HAI: Lược Sử Hình Thành CPQGVNLT
Chương
thứ I:
Bối
cảnh lịch sử Gần một trăm năm cận đại, kể từ cuộc khởi nghĩa của Phong
Trào Cần Vương do Trung
Thần nhà Nguyễn chủ xướng, là giai đoạn đầu tiên chống thực dân Pháp.
Giai đoạn hai phải kể đến hai nhà ái quốc Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh khai sinh. Tuy bắt nguồn từ tư tưởng thái
Tây, nhưng có ý niệm quốc dân, đã bừng lên một số ý thức căn bản cho
các cuộc đấu tranh cách mạng kế tiếp. Vì chủ trương của hai nhà cách
mạng này có phần khác
biệt, đã tạo nên mầm móng cho nhiều khuynh hướng đấu tranh sau này.
Trong đó có hai khuynh hướng chính: một là vận động nước ngoài hỗ trợ
như Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hai là
khuynh hướng tổ chức Đảng từ trong nước như Quốc Dân Đảng, Duy Tân và
Đại Việt phối hợp nhau. Nhưng tựu trung vẫn chưa thể huy động toàn lực
nhân dân Việt Nam thành khối thống nhất. Để rồi cuối cùng sinh ra cuộc
tranh chấp nhau kịch liệt giữa những Đảng phái Quốc Dân và đảng lao
động Đông Dương tức Việt Nam Quốc Tế đồng minh hội, gọi tắt là ‘việt
minh’, tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam. Thật ra hai khối này
tuy chủ trương vận động toàn dân kháng Pháp, nhưng về tư tưởng, phương
cách hoạt động đều bị ảnh hưởng từ nước ngoài. Nhất là việt minh, hoàn
toàn do sự lãnh đạo bí mật của đảng cộng
sản quốc tế, đặt tổng hành dinh tại Mạc Tư Khoa. Khối còn lại gồm Phong
Trào Đông Kinh Nghĩa Thục (Kỳ ngoại Hầu Cường Để) chịu ảnh hưởng của
Nhật và Quốc Dân Đảng thì bị chi phối bởi Trung Hoa Quốc Gia. Dù
vậy, hai khối cực này cũng không đủ thực chất dân tộc và phương cách
hành xử thiếu tinh thần dân chủ, nên chưa thể gây dựng và huy động được
sức mạnh của toàn dân. Cuối cùng,
Cộng sản Đông Dương dựa vào đệ tam quốc tế cộng sản, dùng thủ đoạn lừa
bịp và bạo lực dã man để sát hại và cướp công kháng chiến của tất cả các
khối lực này và chiếm được miền
Bắc Việt Nam. Âm mưu này do Hồ Chí Minh, một gián điệp Tầu
Cộng, đã được cải dạng thành 1 người Việt Nam, lấy tên của 1
người thư ký Việt Nam tên là Nguyễn Sinh Côn,
tức Nguyễn Tất Thành, con của cụ Nguyễn Sinh Huy, quê qúan tại
làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, sau khi Nguyễn Sinh
Côn bị thiêu cháy trong trận hỏa hoạn tại
thư viện Hồng Kông năm 1930. Âm mưu này gọi là “LY MIÊU TRÁO
CHÚA” nhằm biến Hồ Chí Minh thành 1 nhà ái quốc Việt Nam, tạo
cho y có môi trường xâm nhập
vào các tổ chức đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp và
đứng ra nhận công lao Kháng Chiến, sau khi đã thanh toán tất cả
những nhà ái quốc chân chính khác. Hồ
Chí Minh và đồng bọn trong đảng CSVN đã nhân cơ hội Pháp rút
lui để cướp chính quyền miền Bắc tạo ra “Chính Phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa” nhưng thực chất là do
Tầu Cộng chi phối. May thay, trong giai đoạn kháng chiến chống thực
dân Pháp cũng đã khởi lên những tư tưởng Dân tộc, Dân Chủ và Nhân sinh
do các nhà lãnh
đạo kỳ tài, có uy lực và tạo được đặc chất Cách mạng phải có lẽ Đạo,
ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân như các ngài Phạm Công Tắc, Huỳnh
Phú Sổ, Lý Đông A đã
giúp phần không nhỏ trong việc tô bồi lại nền mống và chỉ đạo một số
thanh niên trong thế hệ kế tiếp, duy trì và phát triển tư tưởng, lập
trường dân tộc. Tuy nhiên vẫn chưa nảy sinh được tuấn
kiệt để lãnh đạo thanh niên, quy tụ anh hào, tập hợp sức toàn dân để
cứu nguy cho đất nước. Suốt gần 50 năm nay, chiến tranh quốc cộng tương
tàn, đã phá huỷ biết bao tiềm năng của đất nước, nhất là
thế hệ thanh niên, họ đã bị lợi dụng, bị ném vào một cuộc chiến đẫm
máu, tuyệt vọng, để bảo vệ chủ nghĩa cộng sản, tư bản và các chế độ tay
sai ngoại bang. Sức đề kháng từ các quần chúng
và lực lượng quốc gia chân chính đã nhiều lần bộc phát. Nhưng tiếc
thay, vận hội dân tộc chưa tới, tiềm năng của quốc gia chưa được tận
dụng triệt để, sức mạnh vô địch của nhân dân và thanh niên
Việt Nam chưa được lãnh đạo và kết tụ thành hùng lực, vạn thắng, vô
song để biến thành một cuộc cách mạng toàn diện, chân chính xoá bỏ các
ảnh hưởng ngoại lai, cứu nguy
cho dân tộc. Giai đoạn Quốc Cộng tương tàn này cũng khởi từ các tư
tưởng, phương cách tổ chức của Âu Mỹ và Nga Tàu. Hậu quả là miền Bắc thì
nghèo đói lạc hậu, còn miền
Nam thì ly tán băng hoại. Hiệp định Paris đã tố cáo rõ hai nhà cầm
quyền Nam, Bắc không có chủ quyền và đều là tay sai ngoại bang. Sau hiệp
định Paris 12/1972 sự rút lui từng phần
để tiến đến toàn phần lực lượng các Đồng Minh của Việt Nam Cộng Hoà
(nhà cầm quyền miền nam Việt Nam lúc bấy giờ) là một trong những lý do
quan trọng kéo theo sự suy sụp toàn bộ chế độ miền nam
Việt Nam ngày 30/4/75. Cộng sản sau khi cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam,
đã thủ tiêu tổ chức ‘Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam’, một
công cụ của cộng sản Hà Nội dựng lên tại miền
Nam làm bình phong che dấu dã tâm xâm lấn Nam Việt Nam. Một số lớn các
chiến sĩ quốc gia dân tộc bao gồm các quân binh chủng trong Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà, lực lượng Cảnh sát
Quốc Gia, lực lượng hành chánh cao cấp, các lực lượng đấu tranh phát
xuất từ Tôn Giáo, các nhà ái quốc, các đại diện tinh thần chân chính,
lực lượng các Chính đảng,
các đoàn thể nhân dân võ trang, tự vệ, kể cả những cán binh, bộ đội,
đảng viên cộng sản ly khai, đã thức tỉnh quay về với cội nguồn Dân tộc,
đã bị bắt bớ, sát hại trong các nhà
giam tập thể, gọi là trại cải tạo mọc lên như nấm từ Bắc đến Nam. Một
số anh hùng đã tuẫn tiết, một số không ít rút vaò miền đầm lầy, các vùng
sơn cước hoặc các thôn xa để mai
phục, kháng chiến. Một số khác đã cải danh tánh, sống bám vào thành thị
chờ thời cơ tiếp tay Phục Quốc.
Trong cơn quốc biến nhà tan, một số
anh chị em đã tháo chạy ra nước ngoài để tạm lánh sự càn quét, trả thù
đầy thú tính của bọn việt cộng và tay
sai, một mặt cũng để bảo tồn lực lượng, chờ dịp thuận lợi sẽ cùng toàn
dân xông lên giải cứu Quốc gia. Trong số đó, có Thanh niên, sinh viên,
học sinh Việt Nam một khối lực lượng trọng yếu, cũng mang
tâm huyết như vậy. Họ là nền tảng xây dựng Phong Trào Việt Nam
Tân Dân Chủ sau này.
Chương Thứ II: Tóm tắt sự hình thành Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ
Thế rồi trong suốt mười lăm năm qua, tại Quốc
Nội tầng lớp Quân dân cán Chính và thanh niên Việt Nam vẫn tiếp bước
theo chân các anh hùng kháng chiến, các lực lượng
phục quốc, đang tô thắm thêm cho màu cờ Đại Nghĩa Dân Chủ Dân Tộc. Tại
hải ngoại, thế hệ trẻ một mặt phải dấn thân vào các công tác văn hoá xã
hội để duy trì truyền thống
Dân tộc, phần phải đóng góp vào một số các bậc tiền phong, phần phải
mau chóng thích nghi với đời sống mới, phần phải ra sức thu thập nhanh
chóng và sâu rộng kiến thức, văn minh, khoa học,
kỹ thuật của các Quốc Gia tiên tiến, đáp ứng nhu cầu tiến thân. Nhưng
họ mang hoài bão phục vụ quê hương xứ sở như ngọn lửa thiêng luôn âm ỉ
trong lòng. Họ biết nhục với cái nhục
mất nước, biết đau với niềm đau của dân tộc và vẫn luôn luôn nuôi quyết
tâm giành lại Giang sơn đang tạm thời bị khống chế bởi bạo quyền Cộng
Sản. Lực lượng thanh niên sinh viên học sinh dù trong
hay ngoài nước là một, vẫn theo dòng sinh mệnh của dân tộc, vẫn có mặt
với lịch sử và sẵn sàng tiếp nối truyền thống của cha anh đứng lên viết
trang sử mới. Họ tiên liệu được hệ thống vô sản
trên toàn thế giới sẽ bị phản phục đổi thay. Cộng sản rốt cuộc sẽ bị
công phá, bị tự huỷ diệt ngay tại thành trì vững chắc nhất của chúng:
Mạc Tư Khoa và dĩ nhiên sẽ kéo theo sự suy sụp thê
thảm của chủ nghĩa cộng sản tại các nước Đông Âu và trên toàn thế giới.
Và ngay tại Việt Nam các cao trào đấu tranh đòi Dân Chủ Tự Do sẽ thêm
phát động mãnh liệt,
cho tới ngày quét sạch chủ nghĩa cộng sản trên quê hương.
Năm
Đinh Mão 1987, ông
Đào Minh Quân, một thành viên sáng lập Phong Trào Việt Nam Tân Dân
Chủ, nguyên là trưởng đoàn văn nghệ đấu tranh của lực lượng Người Việt
Quốc Gia (năm 1981-1983), sau khi hệ thống cơ cấu phôi
thai của Việt Nam Tân Dân Chủ Đảng thành Chủ Nghĩa Tân Nhân Chủ, bắt
đầu tiếp xúc, vận động những chính khách, những vị lão thành có uy tín,
xin ý kiến triệu tập một Quốc
Dân Đại Hội, biểu dương ý chí đại đoàn kết, thống nhất lập trường dân
tộc, hầu có đủ tầm vóc công bố Quốc Dân Quyết Nghị thành quyền lực Quốc
Dân để giải thể các cơ chế do cộng
đảng Việt Nam thành lập, mà không cần phải tiến hành một cuộc cách mạng
đẫm máu.
Ngày
4 tháng 8 năm 1989, ông được Hội Đồng Quốc Dân nguyên lão uỷ thác trọng
nhiệm Chủ tịch ban thường vụ, để vận động thành lập 2 cơ chế: Quốc Dân
Đoàn và Hội Đồng Quốc Dân Nguyên Lão,
sau khi đệ trình, được Hội Đồng và Việt Linh Nguyên Lão chấp nhận toàn
văn bản Sơ Thảo Quốc Dân quyết nghị.
Ngày 17 tháng 8 năm 1989 ông cùng Triết Gia
Lương Kim Định ký phổ biến thư gửi Quốc Dân đồng bào, kêu gọi hậu thuẫn
bản Quốc dân quyết định này, để tỏ rõ ý
chí của dân tộc trên trường Quốc tế. Ông quyết định cống hiến tài sản
cá nhân làm kinh phí cho những người có thiện tâm, thiện chí đi khắp thế
giới để vận động và phổ biến,
xin thêm ý kiến đóng góp, đồng thời mời gọi đồng bào, quý vị tiền bối,
thân hào, nhân sĩ dấn thân. Cao quý thay, không những hân hoan bổ túc ý
kiến, mà
hàng trăm vị nhân sĩ, chủ tịch các hội đoàn, lực lượng kháng chiến quốc
nội đã đến tận văn phòng diện kiến Chủ Tịch Ban Thường Vụ, nghiêm chỉnh
nhận tham gia trong hai cơ chế được mời gọi. Hơn thế nưã,
hầu hết đã ký tên đồng ý Bản Sơ Thảo Quốc Dân Quyết Nghị này làm căn
bản chính trị cho đại cuộc cứu quốc và kiến quốc của quốc dân Việt.
Thành quả rất quan trọng, lạ thường chưa từng
có này, trong cộng đồng người Việt đã làm cho tà quyền Hà Nội và tay
sai nao núng. Trung ương đảng cộng sản Việt Nam phải họp phiên khẩn cấp
tại Sàigòn vào ngày 15/8/1989
(thay vì họp tại Hà Nội như mọi khi), để đưa ra biện pháp đối phó. Một
mặt chúng mua chuộc, lũng đoạn hàng ngũ báo chí hải ngoại, công phá uy
tín của Triết Gia Lương Kim Định. Một
mặt chúng gây phân hoá trong hàng ngủ Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, là
một thành phần quan trọng trong kế hoạch tổ chức Quốc Dân Đại Hội. Mặt
khác chúng khơi dậy lòng đố
kỵ và tự ái trong Tổ Chức An Việt và mua chuộc báo chí tung những lời
đồn tạo sự ngờ vực trong quần chúng. Áp lực nặng nề này khiến Triết Gia
Lương Kim Định lo ngại Quốc Dân Đại Hội bất thành,
lòng dân thêm tan rã, phải dằn lòng tự quyết định giải tán Ban thường
vụ với lý do: ‘Vì quá nhiều người tham dự, nên phải mở ra thêm nhiều văn
phòng liên lạc tại khắp
nơi, chứ không tập trung về một cơ quan như trước’.
Nhìn
thấy được nguy cơ đang bị phân hoá,
lọt vào âm mưu của kẻ địch sẽ bị ngoại vây, nội loạn, chịu sự đánh phá
nhiều mặt trên nhiều trận tuyến và quan trọng nhất là để tránh gây mất
đoàn kết, làm tổn thương niềm tin
của đồng bào, dù đã tốn kém quá nhiều tâm quyết và tài chính, ông Đào
Minh Quân đành phải tuân hành chỉ thị, ngưng mọi hoạt động bên ngoài,
nhưng
âm thầm cũng cố Phong Trào VNTDC, gầy dựng cho thế hệ trẻ kế tiếp, tạo
thêm tiềm lực để đương đầu với tình thế khi cần.
Đầu năm 1990 tình hình thêm khẩn trương, nhiều
lực lượng trong quốc nội ra mặt đấu tranh, kêu gọi toàn bộ thành phần
kháng chiến Nam bộ đang uất hận vì cộng sản lừa bịp, vắt chanh
bỏ vỏ, cùng tham gia đòi Tự Do, Dân Chủ và Nhân quyền. Cộng sản liền
tăng cường bắt bớ và đàn áp. Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương CSVN phải
cho lưu hành tập tài liệu nội bộ có
tên ‘’Hoạt Động Của Một Số Thế Lực Thù Ngịch Và Chống Đối’’ để cảnh
giác toàn đảng. Nhưng thành phần lãnh đạo trong Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam trước đây, như Hoàng
Minh Chính, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Nguyễn Văn Trí đặc biệt là Nguyễn Hộ,
một thành viên chủ chốt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đã
thức tỉnh, nhận ra họ đã bị lừa gạt làm công
cụ chiếm miền Nam rồi bị CSVN cho “ngồi chơi xơi nước” nên rất
bất mãn với chế độ bất công và bất xứng của CSVN, nên đã cùng những
người miền Nam từng theo
Cộng Sản tập kết ra Bắc, đứng ra thành lập Câu Lạc Bộ Kháng Chiến để
gầy dựng lại tư thế chính trị. Vì không muốn đơn độc, nên họ rất muốn
liên kết với hải ngoại khi được tin CPQGVNLT manh nha thành
hình, mong tạo được sức mạnh liên thủ trong ngoài để qua đó, đòi quyền
tự trị miền Nam, như sự hứa hẹn của CS Bắc Việt trước năm 1966.
Nhưng nay Bắc Bộ Phủ đã nuốt lời và
còn dùng thủ đoạn vắt chanh bỏ vỏ, tìm cách bắt bớ, tiêu trừ vây cánh
của MTGPMN nên Nguyễn Hộ chính thức ly khai
đảng cộng sản, bỏ Sài Gòn lánh về Sông Bé để thành lập Liên Minh Các
Lực Lượng Dân Chủ (21/3/1990). Nắm lấy cơ hội này, Phong Trào VNTDC
quyết định phổ biến Thông cáo
số một, do ông Đào Minh Quân, Chủ tịch Ban Chấp Hành Trung Ương, đại
diện tuyên đọc ngày 30/4/1990 để công khai hoá hoạt động và chính thức
đề ra giải pháp Tổng Tuyển Cử tại Việt Nam.
Cùng ngày, các thành viên trong Phong Trào VNTDC đã tích cực hỗ trợ cho
cộng đồng Nam Cali rầm rộ xuống đường, biểu dương khí thế chống cộng
của người Việt tại hải ngoại, hoà chung với làn
sóng đấu tranh chống cộng của đồng bào trong quốc nội. Lần đầu tiên sau
mười lăm năm lưu vong, một cuộc tập họp trên ba ngàn người Việt tại Nam
Cali trong ngày Quốc hận thể hiện tinh thần chống cộng quyết liệt.
Nhiều
hội đoàn lực lượng người Việt tại hải ngoại rầm rộ biểu tình, tuần
hành, đọc những bản tuyên ngôn, tuyên cáo chống cộng nẩy lửa. Bọn cộng
sản rất nao núng, dồn hết mọi nổ lực để đưa ra một chiến dịch Quốc
Tế Vận qui mô, bằng cách nộp hồ sơ tại cơ quan Văn Hoá khoa học Liên
Hiệp Quốc, UNESCO, xin tôn vinh Hồ Chí Minh làm ‘’Danh Nhân Thế GiớI’’
nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ
100 (giả tạo)của y.
Đồng
bào và những tổ chức đấu tranh chân chính của người Việt chống
cộng ở hải ngoại đã cùng nhau gửi khoảng một tấn kháng thư đến Liên
Hiệp Quốc để chống đối. Thêm vào đó, Phong Trào VNTDC phát động chiến
dịch Ký Đạp Mặt Hồ Chí Minh do Tổ Chức
Dân Sử Việt đề xướng, có tác dụng lột trần sự thật và tội ác của thần
tượng giả hiệu này, khiến Liên Hiệp Quốc phải huỷ bỏ việc cứu xét hồ sơ
của già Hồ (19/5/1990) tạo thêm thắng lợi chiến
lược, có tầm vóc Quốc Tế, làm tan rã sự cấu kết của tập đoàn lãnh đạo
Bắc Bộ Phủ từ đó.
Chương Thứ III: Hình Thành Của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời
Tháng 8 năm 1990, Hoa Kỳ quyết định đưa quân vào Kuwait để ổn
định tình hình Trung Đông, và theo tiên đoán của các nhà thời cuộc, thì
sau đó vấn đề Đông
Dương cũng sẽ lần lượt được giải quyết. Cộng Đảng Việt Nam lo ngại sẽ
bị cô lập và tiến tới giải thể, nên tăng cường thêm nhiều cán bộ tuyên
vận và địch vận cao cấp như Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch ra
hải ngoại để vận động, cầu cạnh Hoa Kỳ. Một mặt chúng bắt giữ và quản
chế Nguyễn Hộ (7/9/0990), Đường bay Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu tấp nập
những chính khách, chính trị gia muốn đón gió, trở cờ, kể cả
những nhân vật rất cao cấp trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà trước đây.
Tình hình này khiến nhiều đoàn thể, lực lượng người Việt Quốc Gia hoang
mang, nản chí. Một số đoàn thể ngưng hoạt động để nghe
ngóng. Có những nhóm trước đó thường hô hào chống cộng rầm rộ, nay
chuyển hướng, đề nghị ‘’hoà giải’’ với cộng sản. Thậm chí có những tổ
chức chia thành hai phe, một
phe muốn ‘’hoà hợp’’ và một phe chống đối, tố cáo nhau quyết liệt. Cờ
vàng ba sọc đỏ vừa được kéo lên tung bay khắp nơi, nay bị kéo xuống.
Ngay tại thủ đô người Việt tỵ nạn cộng
sản vùng Nam Cali, chỉ còn duy nhất một lá Quốc Kỳ nhỏ được kéo lên tại
khu phố Nguyễn Huệ, nằm trên đường Bolsa và Ward. Hoàn cảnh lúc bấy giờ
như rắn không đầu, nhiều chiến sĩ quốc gia bị
sa sút tinh thần, đi đến tiêu cực, chán nản hoặc hốt hoảng, lo âu.
Không
thể chần chờ
được, phong trào VNTDC gấp rút thực hiện lá Quốc Kỳ Việt Nam dài nhất
thế giới (trên 90 feet) ngay tại trụ sở Trung Ương, thủ đô người Việt tỵ
nạn cộng sản và quyết định đứng ra triệu tập Đại Hội Dân Chủ
Đoàn Kết, để thỉnh thị ý kiến của quý vị nhân sĩ, trí thức và đồng bào
Việt Nam trong ba thế hệ: Lão Niên-Trung Niên và Thanh Niên về việc
thành lập một Chính phủ,
thực thi đại đoàn kết các lực lượng người Việt quốc gia chân chính,
trực diện đương đầu với tà quyền cộng sản Việt Nam. Tâm chí thư thay
Thiệp mời do Phong Trào VNTDC phổ biến ngày 20/9/1990 được
gửi đến hầu hết tất cả các đoàn thể, lực lượng chống cộng tại hải
ngoại. Tuy nhiên, vì tình hình lúc bấy giờ tối sáng chưa phân định,
nhiều người còn chờ đợi, ngần ngại chưa mạnh dạn tham
dự. Báo chí, truyền thanh, truyền hình không dám đăng tải các bản tin
tức liên quan đến biến cố này, sợ bị liên lụỵ. Có kẻ còn đóng vai là
người bàng quang để chờ
đợi kết quả. Chỉ có vài cơ quan báo chí, truyền thông vì chức năng
thông tin, đã can đảm phổ biến tin tức của Đại Hội. Nhưng cũng không
quảng bá rộng rãi được. Do đó, Ban Chấp
Hành Trung Ương VNTDC quyết định tự ấn tống hàng trăm ngàn tờ truyền
đơn, phát hành rộng rãi và liên tục nhiều số báo dân ý, để loan truyền
tin tức đại hội, thu thập ý kiến rộng
rãi của quần chúng về việc thành lập Chính Phủ. Sau khi vượt qua mọi đe
doạ, thử thách và trở ngại, Đại Hội đã được triệu tập, nhất trí trao
quyền cho phong trào VNTDC đứng ra mời gọi thành
lập chính phủ với danh xưng là Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời
(ngày 21/10/1990). Đây là Chính Phủ của những người dân Việt bị cộng sản
cướp nước. Thể theo lời yêu cầu của một số đồng bào
nhân sĩ, Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh VNTDC đã mời cụ
Nguyễn Trân nhận lời hy sinh gánh vác trách nhiệm Thủ tuớng, một vai trò
rất nguy hiểm và chắc chắn sẽ chịu nhiều áp
lực nặng nề trong tình hình quá rối ren và phức tạp lúc bấy giờ. Nhưng
sau đó, cụ Nguyễn Trân lại từ chối, với lý do sức khoẻ yếu kém, cụ bà
lại mang trọng bệnh và vì văn phòng
thường trực không đủ khả năng tập họp được một Đại Hội có sự tham dự
của đại diện tất cả người Việt trên toàn thế giới như cụ mong muốn. Vì
tình hình chính trị thế giới đột biến quá nhanh chóng,
Hoa Kỳ và khối tự do đã tiến hành những kế hoạch ảnh hưởng đến Á Châu
và Việt Nam. Liên Hiệp Quốc chính thức nhận đứng ra giải quyết cuộc diện
Cam Bốt, các cao trào trong quốc nội thêm
sôi sục nổi dậy đòi tự do và nhân quyền lan tràn khắp nơi. Để kịp thời
ứng phó với tình thế khẩn trương, rối ren trong quốc nội và hải ngoại,
cần phải có ngay một vị lãnh đạo sáng suốt,
có tinh thần dân tộc và lòng ái quốc chân chính, có lập trường chống
cộng vững vàng, minh bạch và dứt khoát, có quá khứ trong sạch có tình
thương đậm đà
với đồng bào ruột thịt Việt Nam có tấm lòng tận tuỵ, sẵn sàng hy sinh
vì đại nghĩa dân tộc, hầu tạo dựng đủ tư thế và cương vị để lèo lái con
thuyền Quốc Gia trong cơn sóng dữ, trực diện
đương đầu với hà quyền, tà phủ cộng sản Hà Nội, trên khắp các mặt trận
chính trị, ngoại giao, kinh tế và quốc tế vận. Ngày 11 tháng 12 năm 1990
một phiên họp khoáng đại được tổ chức
tại văn phòng thường trực của CPQGVNLT với sự tham dự của Thư ký đoàn
trong Đại Hội Dân Chủ Đoàn Kết và một số quý vị có lòng với đất nước,
cùng với ban chấp hành trung ương phong
trài VNTDC, nhất trí đưa đến quyết định mời ông Đào Minh Quân người
đang xử lý Văn Phòng Thường Trực của Chính phủ, đứng ra nhận trách nhiệm
Quyền Thủ Trưởng CPQGVNLT.
Nhưng
ông Đào Minh Quân đã từ chối và đề nghị thỉnh mời những vị nhân sĩ có
uy tín hơn. Sau cùng
đại hội đã đi đến quyết định trưng cầu ý kiến của đồng bào, bằng cách
dùng phiếu đề nghị để quyết định thỉnh mời một trong số 27 nhân sĩ tương
đối có tiếng tăm lúc bấy giờ (dù được đề nghị nhưng
ông Đào Minh Quân xin rút tên trong danh sách 28 vị được đề nghị. Do dó
trên phiếu trưng cầu chỉ có tên của 27 vị mà thôi). Hoặc nếu đồng bào
nào không tín
nhiệm những vị này thì có thể tự đề nghị một nhân sĩ khác, do chính
mình chọn lựa vào nhiệm vụ Thủ Tướng. Các phiếu này sẽ được mở ra vào
ngày 20 tháng 2 năm 1991. Điều
khó khăn là trong lúc đã thành lập Chính phủ lại không có Thủ Tướng.
Văn Phòng Thường trực và phong trào VNTDC một mặt kêu gọi vận động, một
mặt thỉnh cầu những người có
lòng ra giúp nước, nhưng vẫn chưa được đáp ứng nồng nhiệt.
Trong
lúc đó, Trần Văn
Trà và Nguyễn Thị Định đã đến Hoa Kỳ để vận động và cử người liên lạc
với văn phòng thường trực, bày tỏ thái độ sẳn sàng kết hợp. Nhưng chỉ
muốn trình bày kế hoạch trực tiếp với Thủ
Tướng CPQGVNLT mà thôi. Văn Phòng Thường Trực không thể giải quyết
được yêu cầu này, chỉ biết một mặt tha thiết kêu gọi cụ Nguyễn Trân đổi
ý, nhưng cụ khẳng định từ chối, mặt khác ráo
riết đưa ra lời thỉnh cầu liên tục trên nhiều số báo Dân ý và các cơ
quan truyền thông, báo chí. Lúc này lại thêm vài tờ báo Việt Gian đã bắt
đầu doạ
dẫm đánh phá CPQGVNLT từ trong trứng nước, nên càng không có vị nào dám
đứng ra nhận trọng nhiệm Thủ Tướng, sợ bị bôi nhọ và tiêu huỷ thanh
danh.
Ngày
17 tháng 01 năm 1991, Phong Trào VNTDC lại khẩn cấp triệu tập Đại Hội
để quý nhân sĩ trong cộng đồng đưa ra nhân tuyển Thủ
Tướng. Nhưng kết quả vẫn không có vị nào đề nghị, hay tự cam đảm đứng
ra nhận trọng nhiệm trước lịch sử. Trong các Đại Hội kế tiếp, toàn thể
tham dự viên nhất trí mời ông Đào Minh Quân Chủ Tịch
Ban Chấp Hành Trung Ương Phong Trào VNTDC đảm nhiệm vai trò Thủ Tướng
CPQGVNLT. Nhưng ông Đào Minh Quân vẫn từ chối với lý do chưa có hậu
thuẫn và chưa đủ uy tín. Công việc vẫn bị bế
tắc cho đến ngày 10 tháng 2 năm 1991, một phiên họp gồm đại diện ba thế
hệ Lão Niên, Trung Niên và Thanh Niên Việt Nam, phối hợp với Phong Trào
VNTDC, Tổ Chức Dân Sử Việt, Hội Lễ Nghĩa Liêm
Sỉ và Văn Phòng Thường Trực đồng nhất trí thỉnh cầu ông Đào Minh Quân
một lần nữa, vì đại cuộc mà hiến thân trong vai trò Thủ Tướng Chính Phủ.
Cuối cùng ông Đào Minh
Quân chấp nhận tạm thời giữ nhiệm vụ này cho đến khi phiếu đề nghị được
mở ra công khai trước đồng bào. Ông nhấn mạnh rằng: ‘Sẵn sàng trao lại
trọng nhiệm Thủ Tướng cho bất kỳ vị nào được đồng bào
tín nhiệm’.
Năm 1991, vào ngày 16 tháng 2 năm Dương Lịch, tức là ngày
mồng hai (2) Tết Tân Mùi, Đại lễ tuyên thệ nhận trọng nhiệm
Thủ Tướng đã được cử hành tại Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vùng Nam
Cali, Hoa Kỳ, đánh dấu một bước tiến lịch sử trong công
cuộc đấu tranh cứu nước của toàn dân, được ghi nhận là ngày tàn của chế
độ CSVN.
Ngày
20 tháng 2 năm 1991, Văn Phòng Thường trực tiến hành việc mở thùng
phiếu đề nghị của đồng bào gưỉ về như đã công bố. Trước sự giám sát của
đại diện Tổ Chức Dân Sử Việt, Hội Lễ Nghĩa Liêm
Sĩ, Văn Phòng Thường Trực và một số đồng bào, nhân sĩ tự nguyện làm
việc trong ban kiểm phiếu niêm phong được mở ra, ông Đào Minh Quân đã
nhận được sự ủng hộ gần như tuyệt đối của những đồng
đội, chiến hữu, nhân sĩ và đồng bào biết đến ông. Kết quả kiểm phiếu
chính thức cho thấy ông đã đạt được trên 65% tổng số phiếu đề nghị ủng
hộ và yêu cầu ông nhận trọng nhiệm Thủ Tướng.
Sau
khi kết quả phiếu đề nghị được chính thức công bố, Văn Phòng Thường
Trực của CPQGVNLT theo chỉ
thị của Thủ Tướng đã phổ biến nhiều công hàm đến Liên Hiệp Quốc và các
nước tự do, chính thức công bố sự hiện diện của CPQGVNLT, phủ nhận tư
cách đại diện nhân dân Việt nam của tà
phủ, tà quyền cộng sản Hà Nội trong danh xưng là ‘Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam’ công cụ của cộng đảng Việt Nam, tay sai của cộng sản
quốc tế, không xứng đáng là đại diện cho Tổ
Quốc và nhân dân Việt Nam.
Và cũng ngay sau đó, nhân danh CPQGVNLT thay mặt cho
những người Việt bị cộng sản cướp nước, Thủ
Tướng đã ký quyết định vô hiệu lực và không chịu trách nhiệm về nội
dung của tất cả những văn kiện, giao kèo hay hợp đồng liên
hệ đến tài sản tinh thần và vật chất của nhân dân Việt Nam, do tập đoàn
Việt cộng ký kết với bất kỳ cá nhân, tập thể hay bất cứ quốc gia nào,
sau khi CPQGVNLT được thành lập (ngày 16
tháng 2 năm 1991). Quyết định này được chính thức gửi
đến tất cả các nước trên thế giới, như một văn kiện đối chứng trong
tương lai, sau khi chế độ cộng sản tại Việt nam sụp đổ. Đồng thời, Thủ
Tướng đã
lập tức ban hành chính sách Đại Đức, Đại Ân Xá: ‘Việt cộng, bỏ cộng còn
Việt, Việt và Việt nhất định không thù hận chém giết nhau’. CPQGVNLT
đã nhanh chóng đáp ứng nguyện
vọng của đồng bào Việt Nam và họ đã tự đoàn ngũ hóa để
biểu tỏ sự đồng tình ủng hộ chủ trương: LẤY LẠI ĐẤT TỔ –
KHÔNG LÀM KHỔ DÂN, đương đầu với
giặc Tầu xâm lược.
PHẦN BA: Đề Cương Lâm Thời
Chương Thứ I: Tuyên Bố Cương Lĩnh
Việt Nam là một quốc gia có nền
văn hiến lâu đời, có đời sống tâm linh hữu thần, luôn tôn trọng
tín ngưỡng và tin tưởng tuyệt đối
vào quyền năng tối thượng của đấng Tối Cao. Nhân dân Việt Nam
rất thông minh, cần cù và đầy sức sáng tạo. Dân tộc Việt Nam
rất hiếu hòa
và luôn muốn sống hòa bình với tất cả mọi quốc gia khác trên
địa cầu và hoàn toàn có quyền bình đẳng, tự do mưu cầu hạnh
phúc và các quyền tự do căn bản đã minh định
trong Công Pháp Quốc Tế, như mọi người dân của các quốc gia văn
minh khác. Quyền tư hữu là quan trọng, không ai có quyền tước
đoạt với bất kỳ lý do gì. Căn cứ vào ý nguyện
của nhân dân và thực trạng của đất nước, CPQGVNLT quyết định
công bố:
Điều
1: Việt Nam sẽ là một Quốc Gia Tiên Phong xây dựng nền Tân Dân Chủ để
khai sáng Kỷ Nguyên Tân Dân cho nhân loại. Quyền lực tối thượng của dân
tộc Việt là Quốc Dân Việt. Quyền
lợi tối thượng của Dân Tộc Việt Nam và Tổ Quốc Việt Nam y cứ trên
nguyện vọng của nhân dân Việt nam, được bảo đảm và dung hoà với quyền
lợi của nhân loại.
Điều 2: Lãnh thổ Việt Nam là bất khả xâm phạm và bất khả phân. Tự bố trí dân sinh và cương thổ để
chuẩn bị cho thích hợp khi có một chính phủ cho toàn thế giới chính thức ra đời.
Điều
3: Nhân dân Việt Nam không phân biệt sắc tộc, giai cấp, trình độ và
thành phần đều được tôn trọng và bình đẳng trước pháp luật của Quốc gia
và Minh pháp của toàn thế
giới.
Điều
4: Nước Việt Nam là một đơn vị trong cộng đồng nhân loại. Tất cả những
ai là công
dân của quốc gia nào, nếu có liên hệ ruột thịt, máu mủ, văn hoá Việt
Nam, hoặc sinh đẻ trong lãnh thổ Việt Nam, đương nhiên là Quốc Dân Việt
Nam, được quyền tham dự nghĩa vụ và bổn phận
đối với quê hương, đất nước Việt Nam,theo quy định của Hiến Chính Việt
Nam, mà không cần phải từ bỏ quốc tịch hiện hữu của mình.
Điều 5: Văn hoá Việt phải được đề cao và phát triển, phù hợp với đà tiến hoá của nhân loại.
Chương Thứ II: Quyền hạn và bổn phận của Quốc Dân và công dân Việt Nam
Điều 1: Mọi Quốc Dân Việt Nam đều có quyền trở thành công dân Việt Nam theo thể thức ấn định bởi Hiến Pháp Việt Nam.
Điều
2: Mọi công dân và Quốc Dân Việt Nam hợp lệ, đang cư ngụ trên quê
hương, hay tại các quốc gia khác, dù các nước này
có quan hệ hay không có quan hệ ngoại giao với Chính Phủ Việt Nam.
Nhưng Nhân Quyền của những công dân và Quốc Dân này đều phải được bảo vệ
bằng luật pháp quốc tế một cách công
bằng và minh bạch. Không bị đối xử ngược đãi, bị bắt bớ, giam cầm trái
phép.
Điều
3:
Tất cả những quyền căn bản như: Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tự do
lập hội, tự do truyền giáo và hành giáo, tự do đình
công, tự do đi lại, tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do kinh doanh buôn bán
làm ăn, tự do bầucử và ứng cử đều được tuyệt đối bảo đảm trước pháp
luật. Nhưng không được vi phạm an ninh, quyền lợi của cá
nhân khác, hay trật tự công cộng trong khuôn khổ luật định.
Điều
4: Gia đình phải là
mái ấm hạnh phúc, gia cư của cá nhân phải được tuyệt đối tôn trọng.
Quyền tư hữu phải được bảo đảm cân xứng. Duy nhất chỉ có một vợ, một
chồng. Được tái giá hay tục huyền khi người phối ngẫu qua đời,
hay khi cả hai không bị áp lực tinh thần hay vật chất trong sự đồng ý
quyết định bãi hôn ước mà thôi. Vợ hay chồng đều bình đẳng trước pháp
luật (phần này được triển khai thêm trong bộ
luật Gia đình).
Điều
5: Làng là nền tảng của xã hội. Phải được tái bố trí theo
phong tục, kinh tế, nhân số và địa dư một cách bình hoà, hầu tự xung
túc, thịnh vượng phát triển và dư thừa đóng góp cho công quỹ quốc gia.
Được tái phân chia Tư Điền và
Công Điền cho hợp tình, hợp lý. Được tự trị, điều hành do Uỷ Ban An
Ninh Hành Chánh của Làng. Nhưng phải chu toàn các Nghĩa Vụ Quốc Gia do
Hiến Pháp ban hành. Định kỳ báo cáo,
nhận chỉ thị qua hệ thống Quận, Tỉnh trực thuộc (phần này được triển
khai thêm trong bộ luật Cơ Cấu Làng).
Điều 6: Mọi công dân Việt Nam theo hiến pháp quy định, được
hưởng quyền lợi bình đẳng trong các vấn đề học vấn, hành nghề, an cư lập
nghiệp. Phải tôn trọng luật pháp quốc gia, có bổn phận
thi hành các nghĩa vụ huấn luyện, thuế khoá được ấn định bởi Hiến Pháp
Việt Nam. Được quyền bầu cử khi trên 18 tuổi, và hưởng quyền ứng cử hay
tham gia công quyền khi trên 30 tuổi.
Điều
7: Tất cả những thân nhân, gia đình, vợ chồng hay con cái bất kể thuộc
thành phần nào trong xã hội,
kể cả trường hợp có liên hệ ruột thịt với cán bộ, đảng viên hay bộ đội
cộng sản, nhưng đã đăng kýhợp lệ và hoàn tất các thủ tục quy định để trở
thành công dân Việt Nam, đều được
hưởng sự tôn trọng, được cư xử bình đẳng và được bảo vệ một cách công
bằng, dân chủ trước pháp luật, được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như tất
cả mọi công dân Việt nam khác.
Điều
8: Tất cả các cán bộ, bộ đội và đảng viên cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ
cộng sản, đã
xác định lập trường quốc gia, dân tộc một cách dứt khoát và minh bạch,
đều được Đại Ân Xá, triệt đễ khoan hồng, được trởthành công dân Việt
Nam chính thức, được cư xử như mọi công
dân khác, được tái sử dụng tuỳ theo khả năng và trình độ.
Điều
9: Các cấp lãnh
đạo cộng sản từ cấp tỉnh, ty trở lên, các cán bộ, bộ đội, đảng viên
cộng sản có tội ác với nhân dân Việt Nam, sẽ được truy xử một cách công
bằng và nghiêm túc trước pháp
luật. Nhưng được bảo đảm rằng: Nếu từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, sẽ
trỡ thành người Việt Nam chân chính như mọi công dân khác, không
bị trả thù hay phân biệt đối xử. Người Việt và
người Việt không thù hận chém giết nhau. Được tóm gọn trong câu:
“VIỆT CỘNG: BỎ CỘNG CÒN VIỆT – VIỆT KHÔNG GIẾT VIỆT.
Điều
10: Các cấp lãnh đạo hành chánh từ cấp giám đốc trở lên các cấp chỉ huy
quân sự từ cấp chuẩn tướng trở lên
của chế độ miền Nam trước đây, đã đào nhiệm, đào ngũ trước ngày 30
tháng 4 năm 1975, cũng phải bị phán xét một cách minh bạch trước pháp
luật, ngoại trừ những vị đang tiếp tục tham gia đóng
góp vào sự nghiệp chống cộng sản của toàn dân Việt Nam. Riêng đối với
các cấp lãnh đạo hành chính từ cấp giám đốc trở lên, các cấp chỉ huy
quân sự từ cấp Đại tá trở
lên trong chế độ cộng sản đã tham nhũng, hối mại quyền thế, ăn cắp hoặc
dùng quyền hành cướp đoạt tài sản công hoặc tư, hà hiếp sát hại, cưỡng
bức dân chúng, sẽ phải bị trừng trị một cách
thích đáng trước pháp luật.
Điều
11: Tất cả thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ
Quốc Việt Nam, bất luận là thuộc thành phần hay chế độ khác biệt, đều
được truy cứu để an vị. Con cháu của những vị này, nếu không còn thân
nhân hay không muốn chung sống với thân
nhân, sẽ được chính phủ nuôi dưỡng tử tế. Riêng các chiến sĩ thuộc Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà đã oanh liệt hy sinh xương máu và tính mạng để
bảo vệ đồng bào và Lục–Không-Hải
phận Việt Nam mà chưa được truy cứu vinh danh trước Tổ Quốc Việt Nam,
CPQGVNLT xin kính cẩn ghi ơn và sẽ dựng đền ‘Tổ Quốc Ghi Công’ hàng năm
nhang khói. Tứ thân phụ mẫu và vợ con ruột thịt của những
vị này nếu còn sống, được ân hưởng tiêu chuẩn đãi ngộ của Quốc gia, con
cái được chăm sóc đến năm 21 tuổi.
Điều 12: Tất cả đồng bào Việt Nam đã
bị chết tức tửi trên đường vượt thoát tìm tự do, bằng đường biển hay
đường bộ, đều được truy cứu tưởng niệm và hương hồn được an vị. Thân
nhân của những người này, nếu còn những oan ức, ẩn tình trong cuộc
sống, hay bị bóc lột, lường gạt, trên đường vượt biên, nếu khiếu nại, sẽ
được xét xử chính đáng.
Điều
13: Tất cả các chiến sĩ, cán bộ thuộc nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà đã
bị cộng sản giam cầm trước đây, nếu
tham gia trong Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời và Quân Lực Quốc
Gia Việt Nam, thì thời gian trong tù được ân hưởng và bù trừ là thâm
niên công vụ. Nếu không tham
gia chính quyền hay quân đội và được chứng minh không vi phạm tội đào
ngũ, sẽ được lãnh hưu trí Cựu Chiến Binh.
Điều 14: Tất cả những nhà ái quốc bị
giam cầm hay bị sát hại vì chống đối hay bất hợp tác chế độ cộng sản, sẽ
được truy cứu để vinh danh. Gia đình thân nhân ruột thịt của
những vị này sẽ được hưởng tiêu chuẩn ưu đãi do Thượng Hội Đồng Quốc
Gia ấn định. Đặc biệt đối với những cô nhi, qủa phụ hay gia đình VNCH
đang bị VC lợi dụng hay lạm dụng, nếu hợp tác với CPQGVNLT đều được ân
huệ.
Điều
15: Sau 30 tháng 4 năm 1975 tất cả Việt gian tay sai cộng sản và các
thế lực ngoại
bang, có hành động đi ngược lại quyền lợi thiêng liêng, tối thượng của
dân tộc và nhân dân Việt Nam, sẽ bị truy xử nghiêm minh trước pháp luật.
Điều
16: Trong khi CPQGVNLT chưa chính thức trở về quốc nội, hương hồn của
Anh Linh Tử Sĩ hay oan hồn của những đồng bào tử nạn trên đường tìm
tự do sẽ được tạm thời an vị tại Thánh Miếu trong khu vực Tụ Nghĩa
Đường, khi CPQGVNLT chính thức hồi quốc, sẽ lập đài tưởng kính.
Điều 17: Tất cả mọi quyền lợi do việc
khai thác tài nguyên, dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam sẽ chia đều
cho nhân dân. Những ai có Quốc Công Bội Tinh được ưu tiên
truy lãnh trong đợt cấp phát đầu tiên.
Điều
18: Tất cả anh chị em đã hoặc đang
tham gia quân đội, bộ đội, công an CSVN nhưng không phạm kỷ luật,
không can tội tham nhũng, hối mại quyền thế hay tham nhũng của
công, đều được miễn
tố trở về đời sống bình thường như mọi công dân khác. Ai muốn
tiếp tục phục vụ, đều được cứu xét công minh theo khả năng để
tham gia trong CPQGVNLT hay Quân Lực Quốc
Gia Việt Nam một cách bình đẳng như mọi người khác.
Điều
19: Bất kỳ anh chị em quân
nhân, bộ đội hay công an CSVN tình nguyện hợp tác với CPQGVNLT,
đều được miễn tra cứu. Ai có công giúp CPQGVNLT bàn giao chính
quyền êm thấm, đều được cứu xét tưởng
thưởng xứng đáng. Nếu hợp tác với CPQGVNLT để chỉ điểm, thâu
hồi lại những tài nguyên, của cải, tài vật, tiền bạc phi pháp
do những tên cầm đầu trong các cơ quan công
quyền hay công ty quốc doanh, đã trộm cướp, ăn cắp, dấu diếm
và tẩu toán, đều được ân thưởng và được chia 5% trên tổng số
tiền bạc, của cải, tài vật
đã được CPQGVNLT thâu hồi.
Chương Thứ III: Chế Độ
Điều 1: Nguyện vọng của đa nhân dân Việt Nam và quyền lợi của Dân Tộc Việt Nam phải là nền tảng cho bất cứ một Hiến Chương,
Hiến Pháp, Minh Pháp, Luật Lệ nào được ban hành trong tương lai.
Điều
2: Chính
phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời chỉ là một cơ chế lâm thời, do tiêu biểu
ba thế hệ Việt Nam: Lão Niên-Trung Niên-Thanh Niên khai sinh. Chính phủ
này không thực sự đại diện chính thức
cho tất cả nhân dân Việt Nam. Chính phủ này sẽ giải tán sau khi hoàn
thành nhiệm vụ chiến lược nhằm giải thể tập đoàn cầm quyền cộng sản Việt
Nam, để trao lại cho nhân dân Việt Nam quyền làm
chủ đất nước, quyền quyết định vận mệnh tương lai của tổ quốc Việt Nam
và quyền bầu ra một Chính Phủ Quốc Gia chính thức.
Điều 3: Chỉ có đại diện toàn dân Việt Nam thông
qua Quốc Hội Lập Hiến và Quốc Hội Lập Pháp mới có quyền quyết định về
Chế Độ, cơ chế chính trị, Quốc Kỳ, Quốc ca, Quốc Sách
đối nội và đối ngoại chính thức của Việt Nam. Hiện nay, Cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ là Quốc Kỳ của Quốc Gia Việt Nam và Quốc Ca là bài Tiếng gọi Thanh
Niên.
Chương Thứ IV: Qui Định Lâm Thời
Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời vì hoàn
cảnh địa lý, nhân văn rất đa diện, lại được kết hợp trong tình hình
chính trị phức tạp của đất nước. Tuyệt đại đa số nhân
dân Việt Nam trong quốc nội không được tham dự sinh hoạt chính trị một
cách tự do, dân chủ và bình đẳng còn chịu sự áp chế, khủng bố của nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam. Một thiểu số đang lao
nô hay bị cưỡng bức lao động, hay phải bán thân làm thê thiếp cho ngoại
nhân, kể cả những người chỉ có 1 phần máu huyết Việt Nam, hay bao gồm
những người Việt đã nhập quốc tịch đệ Tam quốc gia hoặc
đang lưu vong trên khắp thế giớI, đều là con dân yêu qúi của Dân Tộc,
Chính phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời được cấp bách hình thành trong bối
cảnh này. Chính Phủ phải tự
túc nhân sự và tài chánh, không nhận sự chi viện của ngoại bang, nên
hoạt động rất khó khăn và hạn chế, nhưng thành tâm, cố gắng thực thi đại
đoàn kết các thành phần
quốc gia dân tộc chân chính, nhằm tiêu trừ chủ nghĩa cộng sản. Trong sự
hạn hẹp và giới hạn này, Chính phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời không thể
đề ra kế hoạch trường kỳ hậu cộng sản, dù đã
có chuẩn bị, chỉ tạm đưa ra một số cơ chế có tính chức năng và ấn định
những nguyên tắc căn bản để tạm thời điều hành, hy vọng trở thành nền
tảng để chu toàn mục đích và quyết tâm:
Lấy Lại Đất Tổ-Không Làm Khổ Dân. Cơ chế lâm thời này được xây dựng
từng bước dựa trên nguyên tắc đạo đức, trách nhiệm, kiên cường, vừa học
vừa làm, sẳn sàng được thay thế khi có
nhân sự thích hợp hơn.
Điều 1: Cơ Chế Tổ Chức
Khoản
A: Thượng Hội Đồng Quốc Gia: Thượng Hội Đồng Quốc Gia bao gồm bốn (4)
Hội Đồng và Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời. Thượng Hội
Đồng này bao
gồm:
Hội
Đồng Quốc Lão: Có chức năng của một Hội Đồng Kế Hoạch Quốc Gia, gồm
những công dân
Việt Nam trên 65 tuổi, có uy tín, đạo đức, kinh nghiệm về chính trị,
văn hoá, lãnh đạo hay đã từng là thành viên trong Hội Đồng Quốc Sĩ, Hội
Đồng Tôn Giáo, Hội Đồng Đại Biểu Quần
Chúng, nhưng đã về hưu. Hội đồng này có nhiệm vụ cố vấn cho Chính Phủ
Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời trong việc đề ra những kế hoạch đối nội, đối
ngoại và đường lối thích hợp để phục vụ đồng bào Việt
Nam.
Hội
Đồng Quốc Sĩ: Có chức năng của một Hội Đồng Chấp Hành, gồm những Quốc
Dân Việt Nam đã
và đang lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể, lực lượng nhằm cộng tác với
chính phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời, có trọng trách đóng góp ý kiến,
hợp tác với Chính Phủ,
thực thi các kế hoạch và đường lối phù hợp với nguyện vọng của nhân dân
Việt Nam do chính phủ ban hành.
Hội Đồng Đại Biểu Quần Chúng: Có chức
năng của một Hội Đồng Giám Sát, gồm Đại Diện các Quốc Dân Việt Nam
trong các ngành nghề hay thương trường để kiểm soát các
hoạt động của CPQGVNLT đồng thời đạo đạt tất cả những nguyện vọng chính
đáng của quần chúng để Chính Phủ nghiên cứu đáp ứng. Hội Đồng này còn
có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng Liên Đoàn Lao
Động Việt Nam.
Hội
Đồng Tôn Giáo: Hội đồng này hoàn toàn tự trị được giúp đỡ
về tinh thần và vật chất từ phía Chính phủ để chuyên tâm giúp đỡ phát
triển tôn giáo làm nền tảng đạo lý giáo dục quần chúng, nhất là thanh
thiếu niên. Hội
đồng này bao gồm các vị lãnh đạo hay đại diện cho các tôn giáo đã, đang
hay sẽ thành lập tại Việt Nam. Hội đồng này có chức năng đóng góp ý
kiến với chính phủ
trong tất cả các vấn đề Tín ngưỡng, Tôn Giáo, lễ lạc và các chương
trình Giáo Dục. Hội đồng này có chức năng điều hành và quản trị các
Trung Tâm Tu Luyện Nhân
Cách.
Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời:
Năm
1987, sau khi Hội Đồng Quốc Dân Nguyên Lão và Liên Đảng Cách Mạng Việt
Nam công bố triệu tập Quốc Dân
Đại Hội nhưng bất thành, ông Đào Minh Quân, Chủ Tịch Ban Thường Vụ Hội
Đồng Quốc Dân Nguyên Lão đã đứng ra thành lập Phong Trào Việt Nam Tân
Dân Chủ để hổ trợ phương thức giải thể
chế độ Cộng Sản tại Việt Nam bằng đường lối ôn hòa, tránh đổ máu bằng
cách vận động sưu tra lý lịch Hồ chí Minh, mà họ tin tưởng y là một gián
điệp Tầu Cộng đã giả mạo Nguyễn Sinh
Cung tức Nguyễn Ái Quốc. Đường lối này đã đánh bại âm mưu của CSVN khi
chúng nộp đơn tại Liên Hiệp Quốc (UNESCO) để xin tôn vinh Hồ Chí Minh là
danh nhân thế giới, nhân kỷ niệm
(giả) 100 năm ngày sinh nhật của y 19/05/1989. Nhân thắng lợi này,
Phong Trào đứng ra mời gọi một Đại Hội với danh xưng là ĐẠI HỘI DÂN CHỦ
ĐOầN KẾT ngày 21/10/1990. Đại Hội này đã được đồng bào
trong ba thế hệ Việt Nam gồm: Lảo Niên, Trung Niên và Thanh Niên đã
nhất trí thành lập một chính phủ với danh xưng là CHÍNH PHỦ QUỐC GIA
VIỆT NAM LÂM THỜI và đã chỉ định cụ Nguyễn
Trân trong vai trò Thủ Tướng. Thủ Tướng Nguyễn Trân đã ủy nhiệm ông Đào
Minh Quân xử lý Văn Phòng Thường trực. Sau khi cụ Nguyễn Trân lâm trọng
bệnh phải từ nhiệm, một số Nhân Sĩ
và đồng bào đã thỉnh cầu ông Đào Minh Quân đứng ra nhận trọng nhiệm Thủ
Tướng để thay thế. cụ Nguyễn Trân. Đại Lễ tuyên thệ trọng nhiệm Thủ
Tướng Ch1inh Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời đã chính
thức cử hành tại trung tâm người Việt tỵ nạn CS tại Quận Cam, Nam Cali
ngày 16/02/1991.
Nhiệm kỳ
Thủ Tướng được ấn định sẽ chấm dứt sau khi có Tổng Tuyển Cử thành công với Quốc Hội Lập Hiến đầu tiên của toàn dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trọng nhiệm Thủ Tướng
Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời sẽ bị ngưng chức tạm thời hay vĩnh
viễn, nếu bị Thượng Hội Đồng Quốc Gia Việt Nam hội đủ các bằng chứng xác
thực đã
vi phạm một trong bốn tội danh sau đây:
1. Phản quốc hoặc làm tay sai của ngoại bang.
2. Thiếu căn bản đạo đức của cá nhân.
3. Không đủ khả năng để lãnh đạo Nội Các.
4. Không có Lập Trường Dân Tộc.
Sự ngưng chức hay đình chỉ nhiệm vụ
Thủ Tướng phải hội đủ túc số trên 2/3 tổng số thành viên Thượng Hội Đồng
Quốc Gia và sau khi Thủ tướng được hưởng quyền công khai biện hộ trước
Thượng Hội Đồng Quốc Gia tối đa ba lần. Nếu lần thứ I không hội đủ túc
số 2/3 thành viên Thượng Hội Đồng Quốc Gia và lần thứ II vẫn chưa
được Thượng Hội Đồng Quốc Gia biểu quyết.
Nếu sau 3 lần không đạt được quyết định đồng thuận của Thượng
Hội Đồng Quốc Gia, thì sẽ Trưng Cầu Dân Ý với kết qủa do đa
số trên 50% quyết định.
Thủ
Tướng có nhiệm vụ lãnh đạo Nội Các để thi hành những kế hoạch và đường
lối đã
được thông qua bởi Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Thủ Tướng là đại diện Quốc
Gia để tham dự, ký kết các văn kiện với quốc tế, thay mặt Nội Các để
tham dự những phiên họp này có mục đích thảo luận và
quyết định về các chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Quốc
Gia Việt Nam Lâm Thời. Thủ Tướng là người ban hành các đạo luật sau khi
thông qua ý kiến thuận của đa số quá
bán trong Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Khoản B: Nội Các Chính Phủ Quốc Gia
Việt Nam Lâm Thời Nội các CPQGVNLT do Thủ tướng đứng đầu để lãnh đạo và
chỉ định các thành phần nội các bao gồm:
Thủ Tướng:
Thủ Tướng còn là Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia.
Hội Đồng Bộ Trưởng gồm tất cả các Tổng trưởng và Bộ trưởng đương nhiệm chức.
Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia gồm Thủ Tướng, Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Sĩ, Tư Lệnh
Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Quốc Gia
Việt Nam, Tổng Trưởng An Ninh Tình Báo, Tổng trưởng Kỹ Thuật Điện Tử,
Tổng trưởng Quốc
Phòng, Tổng Trưởng Nội Vụ và Tổng Giám Đốc Tình Báo Trung Ương.
Hội
Đồng Kinh Tế Quốc
Gia gồm Thủ Tướng, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu Quần Chúng, Tổng trưởng
Kinh Tế, Tổng trưởng tài chánh, Tổng trưởng kế hoạch, Tổng trưởng an
ninh tình báo và Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt
Nam.
Phó
Thủ Tướng: Tuỳ theo tình hình và nhu cầu thực tế, Thủ Tướng toàn quyền
bổ
nhiệm các Phó Thủ Tướng để phụ tá, sau khi thông qua ý kiến thuận của
Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Tuy nhiên vì nhu cầu xây dựng đất nước song
song với việc tiếp thu các tài nguyên qúa
quan trọng của thiên nhiên ưu đãi dân tộc Việt Nam như mỏ dầu khổng lồ
trong thềm lục địa Việt Nam, nên cần có ít nhất 2 Phó Thủ Tướng, để Đặc
Trách Phát Triển Dân Sinh, Bảo Vệ Môi
Trường và 1 Phó Thủ Tướng đặc trách Năng Lượng Thiên Nhiên như Dầu Khí
và năng lượng mặt trời (Solar)
Viện Chiêu Hiền: Do Thủ Tướng Chính Phủ Quốc
Việt Nam Lâm Thời quyết định thành lập với mục đích mời gọi những Hiền
Tài, những người Việt Nam bị cộng sản cướp nước, đã xác định lập
trường quốc gia dân tộc, còn tha thiết với tiền đồ của đất nước, muốn
đóng góp công sức, tài năng và tâm trí lực cho đại nghiệp dẹp cộng sản
và xây dựng quê hương của toàn
dân Việt Nam.
Viện
Nghiên Cứu Chính Trị: Do Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Việt Nam Lâm Thời
quyết định thành lập với nhiệm vụ phụ tá nghiên cứu chính trị Việt Nam
và thế giới. Làm việc trực tiếp với Thủ tướng CPQGVNLT. Viện Nghiên
Cứu Tội ác của CSVN: Dân tộc Việt
Nam bản tính lương thiện, hiền lành và có lòng khoan dung, độ
lượng. Nhưng do âm mưu thâm độc của ngoại bang đã tạo dựng ra
đảng CSVN để thi hành thủ đoạn gây chia rẽ hận thù, DÙNG
CỦI ĐẬU NẤU ĐẬU, dùng người Việt giết người Việt, tạo ra
thảm cảnh nồi da xáo thịt, địa ngục rần gian, là tội ác diệt
chủng chống nhân loại. Do đó, CPQGVNLT
quyết định thành lập viện Nghiên Cứu Tội Ác của CSVN để mai
sau con cháu thấu hiểu, luôn đoàn kết gắn bó, không chia rẽ, để
khỏi bị ngoại bang thống trị như
trước. Toàn dân phải có quyết tâm tránh cho nòi giống bị đồng
hóa. Ngày 30/04/1975 phải là ngày mất nước sau cùng trong Việt
Sử.
Hộp Thư Dân Ý:
Ý
Dân Là
Ý Trời. Do đó, Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời yêu cầu
thành lập hộp thư Dân Ý với mục đích thâu nhận tất cả những ý kiến phê
bình của đồng bào mọi
thành phần mọi giới, nhằm hoàn chỉnh cơ cấu và tôi luyện cán bộ để phục
vụ cho đồng bào một cách hiệu quả.
Các Tổng, Bộ Trưởng hay Uỷ Viên Chính Phủ:
Tuỳ
theo chức năng và
điều kiện thực tế, Thủ Tướng toàn quyền bổ nhiệm các Tổng Trưởng, Bộ,
Uỷ Viên Chính Phủ và cấp tướng lãnh sau khi được Thượng Hội Đồng Quốc
Gia thông qua. Bổn phận và chức năng phải được ấn định đúng
theo phương vị, không được chồng chéo, kiêm nhiệm Tổng hay Bộ Trưởng
nào khác, ngoài nhiệm vụ chính yếu đang đảm nhận. Vì tình thế và điều
kiện đặc biệt của đất nước, mà đa số
là dân chúng trong nước không được hưởng quyền tự do bầu cử và ứng cử
và phải chịu đựng sự cai trị độc tài, sắt máu của nhóm Cộng Sản đương
cầm quyền với chiêu bài “đảng cử - dân
bầu”. Còn đồng bào hải ngoại tuy là thiểu số. Nhưng đượchưởng những
điều kiện thuận lợi về ngoại giao, kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật
v.v...
Do đó, trong khi chờ đợi ý kiến của
đồng bào và nhân sĩđể kiện toàn cơ chế, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm
Thời tạm thời thành lập hai (Quốc Vụ Viện) và
sáu (6) Bộ trong số mười lăm (15) Bộ và sẽ bổ túc đầy đủ khi tình thế
đòi hỏi:
- Bộ
Tư Pháp
- Bộ Nội Vụ
- Bộ Tài Chánh
- Bộ Kiến Thiết và Xây Dựng
- Bộ Công-Nông-Lâm-Ngư Nghiệp
- Bộ An Sinh Xã Hội-Cựu Chiến Binh và Cô Nhi Tử Sĩ
- Bộ An Ninh
Tình Báo và Kỷ Thuật Điện Tử
- Bộ Kinh Tế
- Bộ Y Tế
- Bộ Ngoại Giao
- Bộ Giao Thông và Vận Tải
- Bộ Đầu Tư và Ngoại Thương
- Bộ Thông Tin và Quốc Dân Vụ
- Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên
- Bộ Năng Lượng Thiên Nhiên và Bảo Vệ Môi Trường
- Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc và Quốc Phòng
Sáu (6) bộ được
thành lập cấp tốc gồm:
Bộ Ngoại Giao Bộ Thông Tin & Quốc Dân Vụ Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn
Quốc và Quốc Phòng Bộ Tài Chánh Bộ Đầu Tư & Ngoại Thương Bộ An Ninh Tình Báo và Kỷ Thuật Điện Tử.
Và đồng thời lập hai Quốc Vụ Viện đặc trách Quốc Nội và Hải Ngoại sẽ do hai (2) Quốc Vụ Khanh do Thủ Tướng chỉ định.
Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc và Quốc Phòng:
Có chức năng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam,
là đầu não chính lược, chiến lược và chiến thuật của toàn bộ Quân Lực
Quốc Gia Việt Nam bao gồm Hải-Lục-Không Quân là
lực lượng chính yếu để bảo vệ lãnh thổ và nhândân Việt Nam. Đứng đầu bộ
tổng tư lệnh chiến lược toàn quốc là Tổng tư lệnh Quân Lực Quốc Gia
Việt Nam do Thủ Tướng bổ nhiệm hay kiêm nhiệm tùy
theo tình hình thực tế, để tạo sự năng động và hiệu quả. Việc bổ nhiệm
nay đảm nhiệm phải thông qua ý kiến chấp nhận của Thượng Hội Đồng Quốc
Gia.
Bộ Tổng Tư lệnh Chiến Lược Toàn Quốc
còn có nhiệm vụ dẫn đạo và điều động tất cả các Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật
địa phuơng. Trong trường hợp đất nước ban hành lệnh báo động vì
ngoại xâm, Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc sẽ được ủy quyền thành
Bộ Quốc Phòng để điều động các Bộ Tư Lệnh Biên Phòng, bao gồm trên
không, dưới nước và trong đất liền, cũng như các
khối phòng vệ chiến tranh điện tử và nguyên tử.
Các
Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Địa Phương: Đặt
dưới sự điều động của Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc được thành
lập gồm: Đại Biểu Chính Phủ tại khu vực, Chủ Tịch Uỷ Ban An Ninh Hành
Chánh địa phương, Chiến Đoàn hay Trung Đoàn Trưởng Nghĩa Dũng Quân
(tuỳ theo cấp số), Chủ Tịch khu bộ Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ và
Bí Thư Khu Bộ Việt Nam Tân Dân Chủ Đảng. Các Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật địa
phương có nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho dân chúng
trong khu vực trách nhiệm của mình, huấn luyện chính trị, quân sự địa
phương và thi hành các kế hoạch, chỉ thị của chính phủ và của Bộ Tổng Tư
Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc ban hành.
Ban Tham Mưu Liên Quân Hỗn Hợp: Trực thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc. Được thành lập để điều
động các cuộc thao diễn, tập trận hay hành quân phối hợp với các lực lượng bạn. Sẽ giải tán sau khi hoàn thành công tác.
Các Văn Phòng Đại Biểu Chính Phủ:
Được thành lập từng Vùng hay từng Làng, do các Đaị Biểu Chính Phủ điều
hành tuỳ theo tình hình và nhu cầu
tại địa phương.
Khoản C: Quân Lực Quốc Gia Việt Nam
Quân Lực Quốc Gia Việt Nam được hình thành với sứ mạng Bảo Quốc-An Dân. Quân Lực này không phục vụ cho bất cứ một cá
nhân nào bè nhóm nào. Được điều động bởi Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc và các Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật địa phương.
Chính Lược Lệnh do Thủ Tướng Đào Minh Quân đề ra để thành lập Quân Lực Việt Nam với nguyên tắc: Toàn Dân Vi Binh-Toàn Địa Vi Phòng.
Động thì
vi binh-Tịnh thì vi dân để tránh tiêu dùng ngân sách nặng nề về nội an,
quốc phòng và đồng thời phát huy thêm tiềm năng kiến tạo đất nước. Mọi
công dân Việt Nam không
bị bắt buộc hay khuyến khích gia nhập Quân Lực Quốc Gia Việt Nam. Tuy
nhiên, tất cả thanh niên và trung niên Việt Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi,
không phân biệt trình độ, khả năng, ngành nghề, đều
phải thi hành nghĩa vụ quân dịch tại nơi cư ngụ. Hằng tháng nếu đi học
hay làm ăn đều phải dành 3 ngày để được huấn luyện quân sự tại các trung
tâm được ấn định ngay tại địa phương của mình.
Không có trường hợp miễn chấp, kể cả các công viên chức trong chính
quyền, ngoại trừ đang tùng sự trong Nội Các CPQGVNLT hay thuộc quân số
Bộ Tổng Tư Lệnh Chiến Lược Toàn Quốc, hoặc vì
lý do sức khoẻ được quy định bởi Hội Đồng Y Tế có thẩm quyền.
Trường
hợp tang chay, phúng điếu sẽ
được tạm hoãn, nhưng phải bù trừ vào thời gian kế tiếp. Mọi sự huấn
luyện quân sự và an ninh chỉ nhằm vào mục đích: Khi đất nước có nguy
biến thì động viên ngay được một quân đội hùng
mạnh, sẵn sàng đánh bại giặc ngoại xâm. Nhưng trong thời bình thì đẩy
mạnh guồng máy sản xuất của quốc gia.
Lực lượng Dân Quân này được thiết lập theo danh xưng: Nghĩa Dũng Quân để bảo vệ tổ quốc Việt Nam, hỗ trợ Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời thực hiện và hoàn tất
tiến trình Cứu Quốc và Kiến Quốc trong quyết tâm: Lấy Laị Đất Tổ-Không Làm Khổ Dân.
Bảng
cấp số, trang bị của Quân Lực Quốc Gia Việt Nam tạm thời chiếu theo quy
định trong bản sơ thảo Hiến Pháp do Thủ Tướng CPQGVNLT ban hành ngày
6/9/1994.
Khoản D: Uỷ Ban An Ninh, Hành Chánh Các Cấp
Chính
Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời chỉ có một nguyện vọng và ý chí duy nhất
để: Lấy Lạị Đất Tổ-Không Làm Khổ Dân làm cứu cánh. Chủ trương và đường
lối của CPQGVNLT chỉ nhằm vào mục
đích đáp ứng nguyện vọng của đa số Quốc Dân, đồng bào Việt Nam. Phải
lấy dân làm gốc. Phát huy yếu tố Nhân Hoà làm căn bản để tạo Địa Lợi và
Thiên Thời. Triệt để thi hành
nguyên tắc Dân Chủ Đức Trị. Lấy đạo đức làm nền tảng, lấy quyết tâm
phục vụ nhân dân làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Dùng đơn vị Làng là
đơn vị căn bản là đơn vị then chốt của xã
hội.
Do
đó, các Uỷ Ban An Ninh Hành Chánh từ Làng, Xã, đến Trung Ương phải
thực sự cho dân nơi cư ngụ bầu ra, thể hiện đầy đủ tinh thần dân chủ,
có khả năng phục vụ quần chúng. Không chuyên quyền, hống hách, sách
nhiễu dân, luôn luôn nghiên cứu đáp
ứng đúng nhu cầu và nguyện vọng của người địa phương, phù hợp với chính
sách của quốc gia. Cơ chế hay cơ quan chính quyền này dù lâm thời, cũng
phải hội đủ các nhân sự có uy
tín và năng lực bao gồm các tiêu chuẩn sau đây:
1.
Chủ Tịch (các cấp): Được bầu
cử phổ thông kín theo tiêu chuẩn: - Phải là công dân Việt Nam trên ba
mươi (30) tuổi - Tổng cộng thời gian sinh sống hay cư ngụ tại địa phương
ít nhất là hai mươi (20) năm cho đến ngày ứng cử.
- Có uy tín và được cảm tình tại địa phương nơi cư ngụ - Tác phong và
đạo đức theo truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam
2. Bảy (7) uỷ viên cấp làng, xã: Được
chỉ định bởi Chủ Tịch theo tiêu chuẩn: - Phải là công dân Việt Nam trên
25 tuổi - Tốt nghiệp tiểu học - Đã am tường hay phải được
huấn luyện để sử dụng hệ thống điện toán theo tiêu chuẩn IBM - Không bị
khiếu nại về tác phong, đạo đức trong thời gian 30 ngày sau khi danh
sách niêm yết.
3.
Uỷ Viên An Ninh cấp Làng, Xã phải hội thêm điều kiện: - Phải tốt nghiệp
khoá đào tạo an ninh căn bản do Ban An Ninh Nội Chính cấp Trung Ương
tổ chức. - Ưu tiên các công dân Việt Nam đã tốt nghiệp các khoá huấn
luyện quân sự.
4. Uỷ Viên quân sự cấp làng, Xã phải hội thêm điều
kiện: - Phải tốt nghiệp khoá huấn luyện quân sự do Ban Quân Sự Quận hay
Tỉnh tổ chức. - Ưu tiên các công dân Việt
Nam đã tốt nghiệp các khoá huấn luyện quân sự trước 1975
5. Uỷ Viên Y Tế cấp Làng,
Xã phải được tốt nghiệp khoá Y Tế căn bản
6. Uỷ Viên Giáo Dục cấp làng, xã phải
được đào tạo hay có căn bản về giáo dục và huấn luyện, đồng thời phải hội thêm điều kiện tốt nghiệp tối thiểu Trung Học.
7. Uỷ Viên Hành Chánh cấp làng, xã
kiêm nhiệm phó Chủ Tịch, phải hội thêm điều kiện: - Tốt nghiệp khoá hành
chánh căn bản - Ưu tiên cho các
công dân Việt Nam đã được đào tạo trong các ngành hành chánh tài chánh
hay học viện quốc gia hành chánh trước năm 1975.
8. Uỷ Viên Xã Hội Cấp Làng, Xã phải là người cư ngụ tại địa phương liên tục trên 10 năm.
9. Uỷ Viên Kinh Tế cấp Làng, Xã phải hội thêm điều kiện tốt nghiệp khoá Chính Trị Kinh Doanh cấp Quận và Tỉnh. Ưu tiên các sinh
viên trường Chính Trị Kinh Doanh trước 1975.
10.
Riêng các Uỷ Viên cấp Quận và
Tỉnh phải hội đủ điều kiện như các Uỷ Viên cấp Làng, Xã. Tuy nhiên
trình độ học vấn tối thiểu phải tốt nghiệp Trung Học và được đào tạo
thêm các khoá huấn luyện Trung cấp về chuyên
môn và lãnh vực trách nhiệm.
11.
Các Uỷ viên cấp Vùng và Trung
Ương phải hội đủ các điều kiện như các Uỷ Viên cấp Quận và Tỉnh. Tuy
nhiên phải hội thêm điều kiện có văn hoá đại học và Lệnh bổ nhiệm do Thủ
Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời
ban hành.
Điều 2: Kế Hoạch
Khoản A. Thuế Khoá
1.
Đất nước Việt
Nam bị hoạ chiến tranh dai dẳng, nhân dân Việt Nam đại đa số là nhà
nông, nhưng lại bị trưng thâu thuế má quá nặng nề, nên đời sống cơ cực
lầm than. Do đó, CPQGVNLT đề nghị chỉ áp dụng
tối đa mười phần trăm (10%) trên tổng số thu hoạch lợi tức của nông dân
mà thôi.
2. Miễn
tất cả các sắc thuế khác trong vòng ba (3) năm, kể từ ngày văn bản này
được chính thức ban hành hay một (1) năm sau khi CPQGVNLT chính thức
công khai hoạt động tại quốc nội.
Khoản B. Tư Bản và Điền Trạch
1. Tài sản cá nhân: Tất cả những tư
liệu, tài sản, đất đai của cá nhân đã đăng ký hợp lệ với CPQGVNLT sẽ
trọn vẹn thuộc về sở hữu cá nhân đó. Các
tài sản bị cộng sản trưng thâu, tịch thâu sẽ được hoàn trả cho sở hữu
chủ có giấy tờ hợp lệ. Trong trường hợp tài sản bị cộng sản tịch thâu
hay cướp đoạt đem bán cho đệ tam nhân sẽ tuỳ trường hợp để
được cứu xét.
2.
Đất đai, ruộng vườn: Việt Nam là một nước nông nghiệp, nông dân phải
được đặc biệt giúp đỡ. Nếu đang trực tiếp khai khẩn, trồng trọt trên
miếng đất nào, điều được cấp phát bằng khoán sở hữu chủ để tiếp tục canh
tác. Riêng các khoản ruộng, vườn thuộc về phần hương hoả và
thừa tự sẽ được cứu xét một cách hợp tình, hợp lý.
3.
Nông Nghiệp: Nông dân
Việt Nam được hướng dẫn nghiên cứu cách trồng lúa bốn mùa, thay vì hai
mùa như hiện nay, được chính phủ phụ giúp phương tiện tiêu diệt nạn sâu
rầy, thêm phân bón, để gặt
hái thành công, bảo đảm không có nạn đói trên quê hương, mà còn thặng
dư để tồn trữ hay xuất cảng ra nước ngoài.
Khoản C: Tranh Tụng Quyền Sở Hữu Chủ
1.
Tất cả những tài sản, ruộng đất, nhà cửa bị cộng sản cướp đoạt hay
cưỡng bức chiếm đoạt của dân chúng sẽ phải được hoàn trả về cho các sở
hữu chủ có giấy tờ hay bằng chứng hợp lệ.
2. Những đất đai, ruộng vườn, nhà cửa và tài sản do tà quyền cộng sản Việt Nam sang đoạt của dân chúng, nhưng
đã bán cho đệ tam nhân, sẽ tuỳ trường hợp để giải quyết một cách công bằng theo quy định của hiến pháp mới.
3. Tất cả những tài sản cá nhân hay tập thể đã
trao đổi, mua bán hay hợp đồng với Việt Cộng sau ngày 16/2/1991 coi như
bất hợp lệ, sẽ được đấu giá sung vào công quỹ để xây
dựng đất nước.
Khoản D. Kinh Tế, Giao Thông Đê Điều
Muốn
cho dân giàu nước mạnh, phải biết tiến hành một cuộc cách mạng kinh tế,
chỉnh đốn hành chánh, khéo léo ngoại
giao và ổn định chính trị. Tuy nhiên đất nước Việt Nam hiện như người
bệnh nặng mới bình phục, nếu cho thuốc quá liều sẽ gây nguy hiểm. Do đó,
phải từng bước từng bước thực hiện các quy trình toàn
diện, nhưng linh động như: Canh tân phương thức sản xuất, tái bố trí
khu vực kinh tế, quân bình cán cân mậu dịch, quan hệ giao thương khôn
ngoan, cải biến chất lượng sản phẩm quốc nội. Sẽ được chi tiết
trong những tập tài liệu của Việt Nam Quốc Tế Thương Hội. Trước mắt
phải cố gắng thực hiện những phương cách tạm thời sau đây:
1. Nới rộng Quốc lộ số 1, ít nhất 10 cây số
phải có một trạm xăng và 50 cây số có nơi nghỉ ngơi. Thêm nhiều hương lộ
nối liền quốc lộ số 1 đến tận bờ biển, cao nguyên và
các thôn xóm xa xôi, tu bổ đường sắt xuyên Việt Nam Bắc, để việc di
chuyển, vận tải làm ăn buôn bán của dân chúng thêm dễ dàng, thuận lợi.
2.
Vét thêm kinh đào, dẫn thuỷ nhập điền để thêm tươi thắm đồng bằng Cửu
Long, là huyết mạch của chúng ta và
giúp việc di chuyển ghe thuyền dễ dàng, cũng cố đê điều miền Bắc để
ngừa lũ lụt. Trồng thêm cây rừng, đặt hệ thống ‘Hải Vệ’ dọc bờ biển bảo
vệ cá con, chiêu giữ cá lớn gần bờ, giúp ngư
phủ Việt Nam dù thiếu phương tiện, vẫn có thể cạnh tranh được với tàu
đánh cá nước ngoài, lại tránh nguy hiểm lưới cá ngoài khơi.
3. Dẫn điện đến Nông thôn, mỗi nhà phải có một máy vô tuyến truyền thanh hay truyền hình, một cầu tiêu và một điện thoại.
Khoản E: Văn Hoá, Giáo Dục và An Sinh
Thế
hệ cha anh đã hy sinh chịu đựng quá nhiều gian khổ, các thế hệ tương
lai của đất nước phải được thăng tiến và hạnh phúc. Những con
em Việt Nam trong tương lai phải đạt được tiêu chuẩn một thân thểcường
tráng, cao trên 6 feet, nặng trên 180 pounds, trong một khối óc minh
mẫn, có kiến thức dồi dào, lòng đạo đức chân chính,
có lễ nghĩa trung tín và tình yêu dân tộc thiết tha. Đây là niềm ước
vọng và là mục tiêu phải đạt được của CPQGVNLT và nhân dân Việt Nam.
1. Trước hết, nạn mù chữ phải bị tiêu diệt, mọi công dân trên 18 tuổi đều được khuyến khích và giúp
đỡ để hoàn tất trình độ Trung Học Phổ Thông.
2.
Các di tích văn hoá, lịch sử,
khoa học, nghệ thuật phải được bảo trì,. Chùa chiền, lăng tẫm, nhà thờ
phải được trùng tu. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, ca diễn, múa hát
dân tộc phải được giúp đỡ quảng cáo. Đặc
biệt bảo toàn các di tích thuyền nhân, bộ nhân tại các quốc gia láng
giềng và di tích bộ đội Việt Nam bị Tầu Cộng xâm lược sát hại trong âm
mưu chiếm đất và thống trị Việt
Nam.
3.
Thanh niên nam nữ là rường cột tương lai của nước nhà. Công việc chăm
lo, nuôi
dưỡng, huấn luyện và đào tạo học sinh, sinh viên Việt Nam phải được sự
hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền và phụ huynh, để giúp đỡ con em chúng
ta nên người hữu dụng, có đức độ, tài
trí và thể lực hoàn bị. Nếu du học nước ngoài, được bổ túc chương trình
Giáo dục bồi dưỡng truyền thống văn hoá và đạo đức dân tộc. Các học
sinh xuất sắc, nhưng không đủ tài
chánh tiếp tục học hành, sẽ được Chính phủ chiếu cố.
4.
Các chương trình y tế hoàn
toàn miễn phí. Thai nhi phải được bảo vệ và nuôi dưỡng lành mạnh. Sản
phụ được chăm sóc đầy đủ, hoàn toàn nghỉ ngơi trước và sau khi sinh.
Hoàn cảnh đơn chiếc hay túng thiếu, sẽ được
hưởng chương trình trợ cấp hộ sản. Những người có bệnh nan y, hay tật
nguyền bẩm sinh phải được chăm sóc đặc biệt. Nếu có nguyện vọng riêng
hợp tình, hợp lý. Chính phủ sẽ cố gắng giúp đỡ hoàn
thành.
5. Nhữnng cụ già trên 70 tuổi, không có thân nhân chăm sóc,
sẽ được hưởng chương trình trợ cấp an lão. Nếu sức khoẻ còn tốt, muốn phục vụ Tổ Quốc, sẽ được Hội Đồng Quốc Lão cứu xét.
6. Các Thương Phế Binh bất luận thuộc
thành phần Bắc hay Nam, cộng sản hay quốc gia, nếu đơn chiếc không có
thân nhân chăm sóc hay không đủ khả năng tự chăm sóc, đều
được chính phủ cho hưởng trợ cấp an sinh. Sau khi phục hồi, nếu ước
muốn làm việc sẽ được ưu tiên tham gia các chương trình huấn nghệ bổ
túc, với sự nâng đỡ hợp tác của các cơ quan thiện nguyện nội
địa hay ngoại quốc.
7.
Những nhà ái quốc, những chiến sĩ của dân tộc, của các tôn giáo,
từng bị tra tấn, đánh đập, tù đày, sức khoẻ tất nhiên suy giảm, dù có
tiếp tục phục vụ hay không đều được chính phủ ghi ơn và hưởng tiêu chuẩn
đãi ngộ.
8.
Đất nước bị hoạ chiến tranh dai dẳng, muốn trở nên phú cường, toàn dân
phải nhiệt tình đóng góp công
sức. Nhưng không vì thế mà bạc đãi những người thiếu khả năng, không có
khả năng, giảm khả năng làm việc, hay đến tuổi về hưu. Họ phải được bảo
đảm trong những chuỗi ngày còn lại, được hưởng sự an
tâm, thoải mái. Chế độ an sinh phải tế nhị, công bằng và nhân đạo.
CPQGVNLT kỳ vọng những chính phủ chuyển tiếp, hãy nghiên cứu thật kỹ
lưỡng chế độ an sinh cho dân chúng. Không nhất thiết
phải theo cách của Âu Mỹ, cần hợp với dân tình, hoàn cảnh nước ta trong
một câu đơn giản là “của cho không bằng cách cho“ vậy.
9.
CPQGVNLT rất mong ước hoàn thành cho mỗi gia đình một mái ấm. Dù ở
thành thị hay thôn quê, điện và điện thoại phải được đưa
đến tận nhà. Nước uống và cầu tiêu phải hợp vệ sinh. Nhà tù phải dần
được thay thế bằng trường học, chùa chiền, nhà thờ hay công viên. Những
kế hoạch, chương trình này được đề ra, nhưng
thành tựu hay không là do ý chí và lòng quyết tâm của chúng ta. Nhưng
chắc chắn đây là niềm ao ướcchân thành và sự cố gắng cải thiện của Chính
Phủ. Nếu mỗi
người dân cùng góp một cánh tay, một con tim, một khối óc, thì chúng ta
sẽ từng bước hoàn tất, khôi phục được sơn hà, đi lên phú cường, hạnh
phúc, vinh quang. Muốn được
vậy, người lãnh đạo phải thực sự có tài kinh bang tế thế, và quan trọng
hơn hết là tấm lòng đạo đức hy sinh, biết thương dân, yêu nước. Câu trả
lời sẽ do 80 triệu đồng bào Việt Nam quyết định
nay mai. Tương lai của đất nước phải do chính chúng ta quyết định, đừng
chờ đợi và cũng đừng trông đợi ở ngoại nhân. Nếu có sự hợp tác với nước
ngoài, chắc chắn phải dựa trên nguyên tắc: hai
bên đều có lợi nhuận. Tư cách pháp nhân dù là chủ hay thợ thuyền, đều
phải được tôn trọng và bình đẳng trước pháp luật.
Chương thứ V:
Phụ Khoản
Điều 1: Khiển Dụng, Lưu Dụng và Tín Dụng
Khoản A. Tham Gia Trong CPQGVNLT
1. Đất nước luôn cần hiền tài, với chính sách khoan
hồng nhân đạo: Việt Cộng, Nếu Bỏ Cộng còn Việt, Người Việt Với Người
Việt Không Thù Oán Chém Giết Lẫn Nhau và
chủ trương: Quyền Lợi Của Dân Tộc Việt Nam Là Tối Thượng. Do đó, mọi
công dân Việt Nam từ mười tám đến sáu mươi lăm tuổi, không phân biệt
sắc tộc, chính kiến, trình độ, đều có quyền tham
gia vào các chức vụ trong CPQGVNLT hay gia nhập QLQGVN và Ban An Ninh
Hành Chánh các cấp, từ làng, xã đến Trung Ương, theo quy định của Dự
Thảo Hiến Pháp này. Tuy nhiên phải xác
định lập trường quốc gia dân tộc một cách dứt khoát bằng cách ký đạp
mặt Hồ Chí Minh. Không có trường hợp ngoại lệ.
2. Tất cả công dân Việt Nam trên hạn
tuổi ấn định, nhưng còn muốn tham gia các cơ chế trong Chính Phủ, phải
được bộ Y Tế hay cơ quan Y Tế có thẩm quyền chuẩn y sức khoẻ.
3.
Trong giai đoạn sơ khởi, các cán bộ trong CPQGVNLT được tạm thời bổ
nhiệm theo nhu cầu. Nhưng sau khi bình
định được lãnh thổ, thành viên trong các Ban An Ninh Hành Chánh từ cấp
Làng, Xã cho đến Trung Ương được khuyến khích hoàn tất trình độ học vấn
và chuyên nghiệp đòi
hỏi theo chức năng.
Khoản B. Nghĩa Vụ Chung
1. ‘Quốc gia hưng vong-thất phu hữu
trách’, nhưng nếu chúng ta chưa thống nhất lãnh đạo, không tập trung sức
mạnh đoàn kết, hợp lực cùng Chính Phủ QGVNLT, mà
lại đấu tranh từng đoàn, nhóm riêng rẽ, thì con đường quang phục quê
hương sẽ còn xa. Mà càng chờ lâu thì Việt cộng càng nhượng bộ, ngoại
bang càng uy hiếp, cướp đoạt, khiến tài
nguyên của đất nước càng thất thoát nhiều. CPQGVNLT tha thiết mời gọi
tất cả quý vị nhân sĩ, hiền tài, các thanh niên nam nữ yêu nước, các
quân dân cán chính còn
tha thiết với tiền đồ đất nước, dẹp bỏ tỵ hiềm, cùng nhau tham gia hoàn
thành sứ mạng cứu quốc và xây dựng lại quê hương.
2. CPQGVNLT là Chính Phủ của dân.
Hình thành bằng tự giác và tự phát, dùng Đức Trị làm tâm điểm phát huy
cuộc cách mạng Tân Dân
Chủ, phục hưng Việt Đạo, quyết tâm Lấy Lại Đất Tổ-Không Làm Khổ Dân. Vì
muốn Độc Lập, Tự Chủ, nên phải tự túc tài chánh, chưa thể ấn định lương
bổng hay quy chế tài chánh cho các
viên chức trong Chính Phủ. Mọi thành viên tham gia đều vì lòng yêu nước
chân chính, vì sự tự nguyện dấn thân hy sinh cao độ, không đòi hỏi bất
kỳ một đặc ân hay quyền
lợi nào. Từ ngày thành lập, CPQGVNLT không hề quyên góp của dân chúng,
mọi chi phí điều hành do lòng tự hiến của Thủ Tướng và những thành viên
trong nội các.
Nay sự phát triển thêm quy mô, đã hình thành thêm nhiều cơ cấu, mức chi
dùng vượt hơn dự trù. Hy vọng ý thức tự giác trong quần chúng bộc phát,
thấy được tráchnhiệm
chung mà cùng nhau hiệp tâm, hiệp sức hoàn thành. Một đồng nhưng là một
tấm lòng. Ngày nào nghĩa vụ này càng được đông đảo Quốc Dân đồng bào
Việt Nam tham gia, ngày
đó chế độ cộng sản càng mau sụp đổ.
Chương Thứ VI:
Cước Chú
Toàn
văn bản này gồm 3 phần, là tập tài liệu căn bản của CPQGVNLT đã được
tóm tắt từ chính lược của Việt Nam Tân Dân Chủ, với mục đích và cứu cánh
duy nhất: Lấy Lại Đất Tổ-Không Làm
Khổ Dân. Được ân huệ của bề trên mạc khải, được sáng hoá bởi Tiền Nhân,
được điểm chỉ của những bậc trưởng lão Việt nam, qua chính kinh nghiệm
của bản thân, được đóng góp bởi quý
đồng nhiệm, quý nghĩa hữu và chiến hữu có cùng lý tưởng phục vụ dân tộc
Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một đề cương tóm tắt có tính khái quát
và sơ thảo
mà thôi. Rất mong được những bậc cao nhân và những nhà ái quốc Việt Nam
tiếp tâm sức bổ túc. Là con dân Hùng Việt, vì sự thỉnh nguyện của một
số quý vị trong ba thế hệ:
Lão Niên-Trung Niên và Thanh Niên Việt Nam mà phải tạm thời đứng ra
nhận vai trò lịch sử, tôi sẵn sàng trao lại trọng trách này cho bất cứ
vị nào có tài đức, có
lập trường quốc gia dân tộc chân chính, được đồng bào Việt Nam tín
nhiệm. Nhưng ngày nào mà tôi còn tại nhiệm thì nhất định cố gắng hoàn
tất Đề Cương này, luôn phấn
đấu và cố gắng để thực hiện năm lời thề trong Đại Lễ Tuyên Thệ nhận
trọng nhiệm Thủ Tướng ngày 16 tháng 02 năm 1991 tại Hoa Kỳ:
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc Việt nam
2. Đặt để quyền lợi cuả Tổ Quốc
và nhân dân Việt Nam trên hết
3. Luôn luôn chí công vô tư, Trung-Tín-Lễ-Nghĩa,
Cần Kiệm - Liêm Chính
4. Sẵn sàng hiến thân mạng và tâm trí cho đại cuộc
giải cứu dân tộc
5. Thực thi đại đoàn kết mọi thành phần quốc gia dân tộc chân chính,
không cộng sản, để cứu quốc an dân.
Mặc
dù các cơ chế và nội các trong CPQGVNLT
chưa hoàn bị, muốn tiếp nhận thêm ý dân làm căn bản cho mọi kế hoạch và
đường lối vừa tiến hành vừa bổ túc và kiện toàn mọi cơ chế. Quyết vượt
mọi trở ngại để cùng toàn dân
Việt Nam góp công đức trong công cuộc dẹp cộng cứu nước. Dân Tộc Việt
Nam, dù trong hay ngoài nước cũng là một. Vì tình hình rối ren và bất an
của đất nước mà phải thành
lập Chính Phủ tại hải ngoại. Tuy nhiên mục tiêu của chính phủ là phục
vụ cho toàn dân Việt Nam. Trọng điểm của CPQGVNLT là đồng bào trong quốc
nội và những con dân đang sống vất vưởng
nơi xứ người. Tuy nhiên vì lệ thuộc vào luật pháp và hoàn cảnh nơi đất
nước tạm dung và cũng vì liên lạc khó khăn, do đó Chính Phủ thỉnh cầu
đồng bào chấp nhận cho các
biện pháp linh động, để hoàn thành trách nhiệm bắt đầu trang sử mới
vinh quang của nòi giống Việt Nam.
Bản Sơ Thảo Hiến Ước Lâm Thời này chỉ là đề cương,
được cống hiến trong mục đích phục vụ cho đất nước và đồng bào. Dù chưa
thể hoàn bị, tạm thời công bố làm mấu chốt điều
hành. Nhưng vẫn tiếp tục ghi nhận mọi tâm, ý để bổ túc, xin gửi về địa
chỉ: Văn Phòng Thủ Tướng CPQGVNLT
PO Box 2807
Anaheim, CA 92814-0807, USA
Để
tránh cho đất nước thảm hoạ nội chiến, ngăn chặn phần nào sự hỗn loạn
của tình hình Việt Nam tới đây, CPQGVNLT thỉnh cầu toàn dân, toàn
quân Việt Nam, tạm thời trao trách nhiệm và ủng hộ mạnh mẽ, để Chính
Phủ hội đủ uy tín và tư thế đứng ra giải nhiệm đảng cầm quyền cộng sản
Việt Nam. CPQGVNLT sẽ có nhiều quan tâm tốt đến những người CS
nào có niềm tin vào Hiến Ước Lâm Thời nầy và không có hành vi đánh phá
hay ra lệnh đánh phá CPQGVNLT. Trong sự chuẩn bị ổn định tình hình đất
nước, yêu cầu
toàn thể Quốc Dân, đồng bào Việt Nam tại Quốc nội và hải ngoại, các hội
đoàn, tôn giáo, các tổ chức chính trị, các lực lượng đấu tranh, các
chính đảng trong và
ngoài nước vì sự an nguy của nhân dân Việt Nam, vì tiền đồ của dân tộc,
vì tương lai của đất nước một lần nữa, xin đóng góp ý kiến để hoàn
chỉnh bản Dự Thảo này.
Vâng
lệnh Tổ Quốc Việt Nam và nhân dân Việt Nam, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam
Lâm Thời một lần
nưã trân trọng, chí tình mời gọi tất cả quý vị hiền tài, nhân sĩ giàu
kinh nghiệm, có khả năng, đạo đức và các bạn Thanh Niên Nam Nữ Việt Nam
tình nguyện ra giúp
nước. Cá nhân tôi tuy chỉ là một quân nhân bình thường như những chiến
sĩ khác. Nhưng vì trách nhiệm và lòng yêu nước chí thành mà dấn thân.
Tôi
luôn cung kính và ước ao đón nhận được những điễm xuyết của qúi bậc
trưỡng thượng, qúi bằng hữu, qúi chiến hữu, qúi bậc trí giả và tất cả
Anh Chị Em đồng bào Việt Nam có tấm
lòng ái quốc chân chính để phục vụ Tổ Quốc và nhân dân. Nhân danh Thủ
Tướng Chính Phủ Quốc gia Việt Nam Lâm Thời, tôi đệ đạt toàn văn
bản HIẾN ƯỚC LÂM THỜI
này lênQuốc Dân đồng bào Việt Nam để giúp đỡ, nghiên cứu, điểm
xuyết, bổ xung trước khi chính thức ban hành.
Trân trọng cẩn trình.
Hoa Kỳ ngày 06/06/2009
Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời
Trung Úy QLVNCH Đào Minh Quân
(Ấn Ký)
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI Được thành lập với:
Mục Đích: Lấy Lại Đất Tổ
Cứu Cánh: Không Làm Khổ Dân
Chủ Trương:
Bỏ Cộng Còn Việt
Đường Lối: Việt Không Giết Việt
Tài Liệu, Thư từ, bài vở xin gửi về Địa chỉ:
P.O.Box 2807, Anaheim, CA. 92814
Tel:
(949) 954-2521 hay (760) 523-3011
Email: mail@chinhphuquocgia.com"
Nguồn: http://www.chinhphuquocgia.com/169176526
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét