Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
On January the 23rd, 1973,
President Nixon gave a speech to the nation on primetime television
announcing that the Paris Peace Accords had been initialed by the United
States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet Cong, and the Accords
would be signed on the 27th. What the United States and South Vietnam
received in those accords was victory. At the White House, it was called
“VV Day,” “Victory in Vietnam Day.” The U.S. backed up that victory
with a simple pledge within the Paris Peace Accords saying: should the
South require any military hardware to defend itself against any North
Vietnam aggression we would provide replacement aid to the South on a
piece-by-piece, one-to-one replacement, meaning a bullet for a bullet; a
helicopter for a helicopter, for all things lost – replacement. The
advance of communist tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It
happened this way: In August of the following year, 1974, President
Nixon resigned his office as a result of what became known as
“Watergate.” Three months after his resignation came the November
congressional elections and within them the Democrats won a landslide
victory for the new Congress and many of the members used their new
majority to de-fund the military aid the U.S. had promised, piece for
piece, breaking the commitment that we made to the South Vietnamese in
Paris to provide whatever military hardware the South Vietnamese needed
in case of aggression from the North. Put simply and accurately, a
majority of Democrats of the 94th Congress did not keep the word of the
United States.
On April the 10th of 1975,
President Gerald Ford appealed directly to those members of the congress
in an evening Joint Session, televised to the nation. In that speech he
literally begged the Congress to keep the word of the United States.
But as President Ford delivered his speech, many of the members of the
Congress walked out of the chamber. Many of them had an investment in
America’s failure in Vietnam. They had participated in demonstrations
against the war for many years. They wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam
surrendered and Re-education Camps were constructed, and the phenomenon
of the Boat People began. If the South Vietnamese had received the arms
that the United States promised them would the result have been
different? It already had been different. The North Vietnamese leaders
admitted that they were testing the new President, Gerald Ford, and they
took one village after another, then cities, then provinces and our
only response was to go back on our word. The U.S. did not re-supply the
South Vietnamese as we had promised. It was then that the North
Vietnamese knew they were on the road to South Vietnam’s capital city,
Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh City.
Former Arkansas Senator William
Fulbright, who had been the Chairman of the Senate Foreign Relations
Committee made a public statement about the surrender of South Vietnam.
He said this, “I am no more distressed than I would be about Arkansas
losing a football game to Texas.” The U.S. knew that North Vietnam would
violate the accords and so we planned for it. What we did not know was
that our own Congress would violate the accords. And violate them, of
all things, on behalf of the North Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn.”
Phần chuyển ngữ : Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào
cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN,
hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là quan điểm của riêng tôi. Đó là quan
điểm của kẻ thù của chúng ta, những viên chức của chính phủ Bắc Việt.
Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ
dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở
Hải Phòng, hải cảng chính của họ, và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc
Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại
bàn hội nghị, và chúng ta không ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973,
Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn toàn quốc trên truyền hình vào giờ
cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc
Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ được chính thức ký vào ngày 27. Những
gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được trong hiệp định đó là một thắng lợi.
Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó là ngày “VV Day – Victory in Vietnam
Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó
với một bảo đảm đơn giản bên trong Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền
Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc
Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế (replacement aid) cho
Miền Nam trên căn bản từng cái một và một đổi một (piece-by-piece,
one-to-one replacement), nghĩa là, một viên đạn đổi một viên đạn, một
trực thăng đổi một trực thăng, đối với tất cả những thứ bị mất. Bước
tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự
thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon
từ chức do hậu quả của vụ Watergate. Ba tháng sau khi ông từ chức là
những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười một và trong đó những thành viên
của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang trong Quốc Hội mới và nhiều thành
viên đã lợi dụng đa số mới của họ để chấm dứt tài trợ cho chương trình
viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một đổi một, bội ước lời cam kết của
chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào
mà Miền nam cần trong trường hợp bị Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn
giản và chính xác, đa số những đảng viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa
94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng
Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói chuyện với những thành viên Quốc Hội
đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc.
Trong bài diễn văn đó, ông tha thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa
của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành
viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư
vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình
phản chiến trong nhiều năm. Họ sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng
Tư, Miền Nam đã đầu hàng và những trại cải tạo được dựng lên, và hiện
tượng người vượt biển bắt đầu. Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ
đã hứa với họ thì kết quả đã khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng
minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc
nghiệm Tổng Thống mới Gerald Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng
khác, rồi đến những thành phố, tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng
ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa.
Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức được rằng họ đang trên đường tiến đến
Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên
Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương Viện, đã đưa ra một công bố chính thức
về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông nói, “I am no more distressed than I
would be about Arkansas losing a football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi
phạm hiệp định Paris và chúng ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà
chúng ta không biết là chính Quốc Hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định
đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra.
Tôi là Bruce Herschensohn.
** Sau khi Saigon thất thủ, hơn một
triệu người Miền nam bị đưa vào các trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn
người đã chết ở đó, do bị hành quyết không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và
suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và 1995, hai triệu người Việt đã trốn
chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng những chiếc thuyền thiếu trang bị để
đi tìm tự do. Ước tính có khoảng 200 ngàn người vượt biển nầy đã chết –
do bị chết chìm và bị hải tặc giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính
phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những
lý thuyết mà họ đã hy sinh bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để
theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong khi hơn 96% hệ thống truyền thông
nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc tế và Mỹ Cộng thì công việc truy
tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và phán xét trung thực về Chiến
Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì hầu hết các hảng thông tấn,
các trang mạng, đài truyền thanh truyền hình, những tờ báo hàng đầu đều
nói một thứ tiếng của Do Thái được chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục
vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng bị kiểm soát bởi một chính sách ngân
hàng trị và Do Thái trị, cùng gián tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại
trật tự được mệnh danh New World Order hayOne-government World –
thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do Thái
thống trị. Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do Thái
trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn
tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại học,
Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v…; và đâu có Do Thái ở đó
có Mỹ Cộng. Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị chúng
khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt cổ vì
sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi rậm. Hậu
quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một bầy trẻ
con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc. Hầu hết các
bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA, BBC, RFA,
RFI, v.v…, đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng, và Việt
Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào đó. Chín
mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất bùi tai
và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại dùng chứa
thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề
và căn cứ trên những tài liệu, dù là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ
bạch hóa về những cuộc đi đêm mà Washington đã tiến hành với Bắc Kinh
nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức
ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan
hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng,
v.v… thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa
đặt. Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo thiển
ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với Trung
Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì muốn có
được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi của Bắc
Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông qua Đảng
Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền. Cũng ở điểm nầy
người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc Tàu
tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực hiện
được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không tập
B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối đầu
hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng cả
chủ quyền cho Trung Cộng. Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần Đảo
Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước như
thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng chiến
tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là một thây
ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ mạng Thái
Thú cho Thiên Triều.
__________________*** ***_______________
Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975
để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước.
Đỗ Kim Thêm
06-05-2015
06-05-2015
Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là
ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam.
Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm
chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa
tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có
thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự
hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng
là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao
đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp
luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
***
Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.co.id/2016/09/cia-giu-bi-mat-bac-viet-au-hang-vo-ieu.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét