Cuộc đời cơ cực của người lính VNCH Lê Văn Minh
Huỳnh Anh Tú (Danlambao)
- Công việc tuy bận rộn, nhưng thi thoảng tôi vẫn dành thời gian đến
thăm các bạn cựu tù chính trị năm xưa, cùng nhau hàn huyên tâm sự. Chúng
tôi, tuy hoàn cảnh khác nhau nhưng cùng chung một tấm lòng, một niềm
trăn trở với tương lai đất nước này. Nhiều người trong số ba mươi tám
anh em chúng tôi, đều lưu lạc xứ người, kẻ ở Cam Bốt, người ở Thái Lan.
Cuối cùng lại gặp nhau trong cảnh ngục tù.
Sau khi mãn án, chúng tôi lại sống tha phương trên chính mảnh đất quê
hương Việt Nam ruột thịt của mình. Không nơi ở, không nghề nghiệp, không
giấy tờ tùy thân, gia đình ly tán. Sức lực đã bị vắt kiệt trong thời
gian ở tù. Chẳng mấy ai dám gần gũi, giúp đỡ vì sợ mang vạ vào thân, sợ
mang tiếng giao du với “phản động”. Khó sống nhất là bị công an, chính
quyền o ép.
Và chúng tôi, không ai còn trẻ nữa.
Tôi muốn gửi đến bạn câu chuyện về một người tù: anh Lê Văn Minh. Anh
lớn tuổi nhất trong ba mươi tám anh em chúng tôi. Anh Minh cũng từng là
một người lính VNCH.
Lưu lạc và hồi hương
Anh Minh sinh ngày 9/3/1953 tại Campuchia. Anh có gương mặt khắc khổ, u
buồn và chẳng mấy khi thấy anh cười. Anh thấp lắm, chỉ cao chừng 1,5m.
Cả ông nội và ông ngoại anh ngày xưa đều từng tham gia phục vụ chính
quyền Pháp. Để tránh sự truy sát của Việt Minh, hai gia đình chạy trốn
sang đất Campuchia sống lưu vong.
Cũng trên mảnh đất này cha mẹ anh đã gặp nhau và kết duyên vợ chồng. Họ
sinh được ba người con. Anh Minh là người anh cả của hai cô em gái hiếu
thảo, xinh xắn.
Cuối năm 1969, vào thời điểm đất nước Campuchia xảy ra binh biến, cha mẹ
anh đã quyết định đưa gia đình trở về Việt Nam. Năm đó anh Minh mười
sáu tuổi.
Trong quá trình làm thủ tục nhập cư cho các thành viên gia đình tại Sài
Gòn, cha của anh rất lo lắng cho đứa con trai mình. Tuy đã mười sáu tuổi
nhưng vóc dáng anh Minh cứ còi cọc như một đứa trẻ. Chỉ còn hai năm nữa
là anh đến tuổi đăng lính, nên ông đã tìm người quen giúp “chỉnh sửa”
năm sinh thấp xuống ba năm so với tuổi thật. Ông hy vọng khi đăng lính,
con ông sẽ là một chàng trai mạnh khỏe, cứng cáp hơn.
Cuộc sống kinh tế gia đình thời gian đầu tại Sài Gòn vô vàn khó khăn. Là
con trai lớn trong nhà, anh phải ra sức làm ăn để phụ giúp cha mẹ, anh
tâm sự với tôi: “Thời gian đầu tôi làm đủ thứ công việc, từ phụ hồ
đến phụ thợ sửa xe gắn máy. Sau vài tháng, có người quen giới thiệu làm
“lơ xe” cho một chủ xe đò chạy tuyến đường Sài Gòn - Bắc Mỹ Thuận - Cần
Thơ”.
“Minh lơ xe” dần dà trở thành cái tên thân thuộc đối với các tài xế, lơ
xe và những người buôn bán trên tuyến đường này. Anh làm việc chăm chỉ,
có trách nhiệm. Với bản tính hiền lành, chân chất, nên anh được nhiều
người xung quanh yêu quí. Trên tuyến đường định mệnh này, tình cờ anh
làm quen với một cô gái Sài Gòn tên Nguyễn Thị Ẩn xinh đẹp, giỏi giang.
Rồi hai người nên vợ nên chồng.
Chị Nguyễn Thị Ẩn, vợ anh kể lại: “Hồi ấy tôi ở Sài Gòn và hay tới
lui Bắc Mỹ Thuận để buôn bán, thấy ảnh “ngộ ngộ” nhỏ xíu mà nhanh nhẹn.
Tôi thích chọc ghẹo ảnh lắm. Sau lần tìm hiểu mới biết, thì ra ảnh đã
bằng tuổi mình chứ đâu còn nhỏ như mình tưởng đâu. Từ đó về sau tôi yêu
ảnh hồi nào cũng không biết”.
Chị Nguyễn Thị Ẩn - Vợ anh Minh
Họ kết hôn vào ngày 26/10/1970. Chồng làm lơ xe, vợ bán bánh mì, cuộc sống tuy vất vả nhưng đầm ấm.
Gia đình chị Ẩn có năm anh chị em. Hai người anh trai đều đi lính VNCH,
thuộc Sư đoàn 7 bộ binh và đóng quân ở vùng 4. Cả hai người đều hy sinh
ngoài chiến trận. Chị Ẩn không nhớ chính xác hai người anh của mình
thuộc đơn vị nào và hy sinh ở đâu.
Chị Ẩn kể tiếp: “Năm 1968, người anh cùng mẹ khác cha của tôi hy
sinh. Năm đó anh ấy mới mười tám tuổi và mới ra trận lần đầu. Khi tôi
lấy chồng được hai năm, gia đình tiếp tục nhận một hung tin nữa. Người
anh trai ruột của tôi là Nguyễn Văn Na tử trận. Anh Na cũng giống như
anh Tùng, hy sinh ngay lần đầu ra trận. Anh Na hy sinh năm 1972, cũng ở
tuổi mười tám.”
Sự hy sinh của hai người anh trai ngay từ lần đầu ra trận ở tuổi mười
tám luôn ám ảnh và là nỗi lo sợ của chị Ẩn. Với tâm trạng ấy, chị tiễn
chồng lên đường đi chinh chiến.
Đời lính
Ngày 01/01/1974, Lê Văn Minh chính thức gia nhập lực lượng Địa Phương
Quân của quân lực VNCH. Sau ba tháng quân sự tại Trung tâm huấn luyện
Quang Trung, anh được bổ nhiệm về Tiểu khu Hậu Nghĩa. Sau đó được phân
bổ về chi khu Trảng Bàng.
Anh cho biết: “Lúc đó tôi là binh nhì, thuộc tiểu đoàn 337- Địa
Phương Quân, đại đội 2, trung đội 3, tiểu đội 1. Tôi vẫn còn nhớ tên của
các cấp chỉ huy trong đơn vị trước đây: Thiếu tá Phúc - Tiểu đoàn
trưởng, đại úy Diệp - Tiểu đoàn phó, trung úy Trình - đại đội trưởng,
thiếu úy Tú - đại đội phó, chuẩn úy Tín - Trung đội trưởng, trung sĩ Tro
- Tiểu đội trưởng”.
Nhắc đến Trung sĩ Tro - tiểu đội trưởng, nét mặt anh Minh trở nên biến
sắc và giọng nói trầm buồn hơn. Mặc dù Trung sĩ Tro đã tử trận cách đây
bốn mươi hai năm, nhưng hình ảnh kiêu hùng của Tiểu đội trưởng tiểu đội 1
trước lúc lâm chung đã khắc sâu vào tâm trí của Lê Văn Minh.
Chi khu Trảng Bàng gồm có bốn Đại đội. Đại đội 1 đóng quân tại Bố Heo,
Đại đội 2 đóng quân tại Đồng Ớt, Đại đội 3 đóng quân tại Suối Cao và Đại
đội 4 nằm ở trong Tiểu đoàn đóng quân ở Già Rầy.
Vào giữa năm 1974, tại Suối Cao, chi khu Trảng Bàng, Đại đội 3 bị quân Việt cộng ồ ạt tấn công và cô lập.
Nhận lệnh tiếp viện, Đại đội 1 cùng Đại đội 2 cấp tốc chuyển quân đến Suối Cao.
Cuộc giao tranh mỗi lúc trở nên khốc liệt hơn.
Anh Minh và anh Lành cùng Tiểu đội trưởng Tro luôn đi sát bên nhau. Ba
người đang tiến về phía trước quân Việt cộng, đột nhiên Tro ngã quỵ
xuống và thốt lên: “tao bị trúng đạn rồi”.
Minh và Lành quay qua thấy hai tay của Tro bấu chặt vào đùi trái của
mình. Không chậm trễ, Minh xé cái áo thun đang mặc, xiết chặt đùi phía
trên vết thương. Hai người xốc Tro dậy và dìu đi. Tro phản ứng, hét
lên:
- Tụi bây chạy trước đi, muốn chết cả ba hả!
- Tôi phải đưa anh ra khỏi đây. Tụi nó đông lắm, cũng sắp tới gần rồi. Anh Minh hối thúc.
- Anh cố lên, hãy cho chúng tôi làm tròn bổn phận. Anh Lành tiếp lời.
Anh Tro nhìn hai người bạn của mình không chớp mắt. Hai người bạn dìu
người bị thương đi. Được khoảng một trăm mét, bỗng người Tiểu đội trưởng
thét lên đau đớn. Cả Minh và Lành đều tưởng mình chạm vào vết thương
khiến Tro đau đớn, nên họ thận trọng hơn và vẫn đi tiếp.
Tro cưỡng lại, quát to bằng giọng ra lệnh:
- Tụi bây buông tao ra! Chạy đi, không còn kịp nữa đâu!
“Tôi nhìn lên cánh tay trái của Tro thấy máu từ bên trong áo rịn ra. Lúc đó mới biết là anh lại bị trúng đạn tiếp”. Anh Minh bùi ngùi, rồi kể tiếp: “Hai hàng nước mắt của Tro chảy xuống, gắng gượng ra lệnh cho chúng tôi: -Một lần nữa tao ra lệnh tụi bây đi khỏi đây mau!”.
Không biết lấy sức lực ở đâu, Tro chồm lên giựt lấy khẩu súng của anh
Minh rồi quay người nằm sấp xuống, một tay bóp cò bắn xối xả vào hướng
quân thù, hét lớn. “Tụi bây chạy mau, có tao yểm trợ”. Biết là không thể
cứu vãn tình thế, Minh và Lành đành chấp nhận “mệnh lệnh” của Tiểu đội
trưởng.
Chạy được vài trăm mét, hai người dừng lại ngoái đầu nhìn Tro. Và họ
chứng kiến cảnh người Tiểu đội trưởng bị những lưỡi lê của hai lính Việt
cộng đâm xuống tới tấp. Lành lấy khăn lau dòng nước mắt, ngậm ngùi nói
với Minh: “Anh ấy đi thật rồi”.
Cuộc giao tranh đã diễn ra nhiều ngày mà không thể bứt phá vòng vây của
địch. Vì lực lượng của quân cộng sản quá đông. Sau đó Chi đoàn Thiết
Giáp, Sư đoàn 25 cũng được điều đến tiếp viện. Cuối cùng cũng phá được
vòng vây.
Sau trận chiến, Minh và Lành trở lại nơi mà Tro đã hy sinh để thu xác.
Lê Văn Minh thảng thốt: “Thật không tưởng tượng nổi, phần mặt của Tro
bị biến dạng hoàn toàn do những mũi lê tàn ác gây ra. Nếu không phải
tôi và Lành chứng kiến cái chết của Tro ở đây thì khó mà nhận dạng”.
Sau trận chiến đó, Minh được đặc cách thăng lên cấp Hạ sĩ. Người lính Lê
Văn Minh đã dũng cảm chiến đấu đến ngày cuối cùng khi Sài Gòn thất
thủ.
Trại tù Tống Lê Chân
Ngày 10/5/1975, anh bị bắt đi “học tập cải tạo” nửa tháng tại địa
phương. Minh nghĩ rằng, mình chỉ là lính cấp thấp nên thời gian “cải
tạo” chỉ kéo dài từng ấy ngày là xong.
Một đêm đầu tháng 9/1977, một toán người đội nón cối ngang nhiên xông
vào nhà, bắt anh tống vào khám Chí Hòa. Chúng cho rằng anh thuộc thành
phần “ngụy dân, ngụy quyền ăn bám xã hội” nên phải bị lùa đi cả tạo.
Khoảng một tháng sau anh Minh bị áp giải về trại tù Tống Lê Chân, một
khu “rừng sâu nước độc” thuộc tỉnh Bình Long, nằm gần biên giới Việt Nam
- Campuchia. Trước 1975 từng là nơi đồn trú của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động
Quân, Quân Lực VNCH.
Khi nhắc đến trại tù Tống Lê Chân, người ta liên tưởng đến hàng ngàn
quân nhân cán chính thời VNCH đã bỏ mạng nơi đây. Mỹ từ “học tập cải
tạo” thực tế nó là hình thức “lao động khổ sai”, được chính quyền “mới”
áp dụng dành cho những người từng làm việc dưới chế độ VNCH.
Đốn cây, phá rừng, cuốc đất, tháo gỡ bom mìn là những “môn học” chính
được đưa vào trại này. “Học viên” phải chấp nhận một cách vô điều kiện.
Đời sống của “học viên” rất cơ cực, ăn không đủ no, áo không đủ ấm và
bệnh không thuốc men chữa trị.
Trại tù Tống Lê Chân còn được xem là nghĩa địa không mồ của người tù cải tạo sau 1975.
Anh Minh kể lại: “Tôi từng chôn xác nhiều anh em. Hầu hết trên người
của họ chỉ có mỗi bộ quần áo rách tả tơi, với da bọc xương. Có xác chết
vài ngày sau mới được phát hiện, bị kiến bu khoét mất cả đôi mắt. Chúng
tôi lấy chiếc chiếu bó lại cẩn thận rồi đem chôn đâu đó gần chỗ lao
động. Anh em, bạn bè âm thầm, lén lút đưa tiễn không dám ra mặt. Họ thì
thầm bằng những câu kinh theo tôn giáo của riêng của mình. Nếu cai ngục
phát hiện thì hậu quả khôn lường”.
Năm 1982, Lê Văn Minh trở về sau bốn năm tù cải tạo.
Trở lại cố hương
Sau khi trở về gia đình, anh bàn với vợ bán bớt cái giường làm vốn, buôn
bán mắt kính. Anh lặn lội khắp nơi, từ Sài Gòn đến miền Tây, từ Nam ra
Bắc để buôn bán. Có lần anh ra tận Hà Nội nhưng không may gặp phải đám
“Quản lý thị trường” bắt và thu hết toàn bộ số mắt kính của anh.
Năm 1984, anh quyết định sang Campuchia để làm ăn, hy vọng sẽ được khấm
khá hơn. Hàng năm, anh dành dụm tiền để về Việt Nam đôi ba lần thăm vợ
con.
Năm 1992, anh gia nhập tổ chức chính trị “Nhân Dân Hành Động” do Nguyễn
Sỹ Bình thành lập. Được hai năm sau, anh mất liên lạc với tổ chức này.
Không từ bỏ con đường đấu tranh cho tự do, anh đã tìm đến và gia nhập
một tổ chức chính trị khác: Chính phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do do Nguyễn
Hữu Chánh thành lập.
Năm 1997, anh được phân bổ về căn cứ 702.
Căn cứ 702 được thành lập vào 1997, vị trí nằm trên sườn núi, thuộc tỉnh Khlong Yai, Thái Lan, giáp biên giới với Campuchia.
Sau đợt pháo kích vào căn cứ, không rõ là của lực lượng nào, hơn 104
thành viên chạy di tản xuống chân núi. Sau đó bị cảnh sát Thái Lan bắt
giữ sáu mươi ngày rồi thả về Campuchia.
Trại giam Xuân Lộc
Ngày 28-04-1999, Lê Văn Minh bị bắt ở Campuchia rồi bị đưa về Việt Nam.
Anh bị cáo buộc tội danh “khủng bố chống chính quyền nhân dân” với bản
án mười năm tù giam.
Năm 2001, anh bị đưa về trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai. Sức khỏe của
Lê Văn Minh thực sự giảm sút trong suốt mười năm anh ở tù. Bệnh tim
mạch và cao huyết áp không ít lần đe dọa đến tính mạng của anh. Nhà
nghèo, nên một hoặc hai năm anh Minh mới được vợ thăm nuôi một lần.
Không ít lần vì thiếu thốn, đói ăn, không được điều trị khiến anh kiệt
sức, ngất xỉu. Nhưng sự cực khổ, thiếu thốn không chỉ là cảnh tù của Lê
Văn Minh, tất cả chúng tôi đều chung cảnh ngộ như anh.
Sau mười năm ra tù, anh mất hết tất cả. Chị Ẩn đã phải bán căn nhà mà
hai vợ chồng chắt chiu tạo dựng để nuôi con trong lúc anh ở tù. Hai đứa
con trai cũng đi biệt tích, không biết đang ở chốn nào. Bây giờ anh cũng
đã già, vợ thì mang bệnh nan y không biết sống chết ngày nào.
Anh Minh cùng vợ trong căn gác thuê
Hiện anh Minh đang thuê một gác sép nhỏ 2,5m x 3,5m để ở. Bản thân anh
đi làm bảo vệ, mỗi tháng chỉ được ba triệu. Chị Ẩn trước đây còn sức
khỏe vừa bán vé số vừa rửa chén mướn cho một quán ăn nhỏ. Nay chị không
còn sức khỏe nữa nên mỗi ngày chị cố gắng bán hết năm mươi tờ vé số để
mong có ăn ngày hai bữa và chi trả tiền thuê nhà.
"Cầu thang" lên xuống của căn gác
Toàn bộ tài sản của 2 vợ chồng
Mấy hôm trước đến chơi, anh lo lắng nói với tôi: “Tú ơi, chị Ẩn mầy yếu lắm rồi. Không biết khi bà ấy mất, tau đặt quan tài bả ở đâu nữa”.
Tôi không biết phải nói câu gì với anh. Số phận của ba mươi tám người chúng tôi, nghĩ đến mà rùng mình.
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2016/09/cuoc-oi-co-cuc-cua-nguoi-linh-vnch-le.html#mo
Kẻ thù lớn nhất của đời người là ĐẢNG CS.
Ngu dốt lớn nhất của đời người là NHỮNG TÊN "ĐI THEO ĐẢNG"
Thất bại lớn nhất của đời người là ĐỂ TỒN TẠI CHẾ ĐỘ CS.
Bi ai lớn nhất của đời người là CHƯA TIÊU DIỆT XONG ĐẢNG CS.
Sai lầm lớn nhất của đời người là CHƯA NHẬN RA TỘI BÁN NƯỚC CỦA CS.
Tội lỗi lớn nhất của đời người là ĐI THEO CS.
Đáng thương lớn nhất của đời người là LÀM DƯ LỢN VIÊN CHO CS.
Khâm phục lớn nhất của đời người là NHỮNG NGƯỜI ĐẤU TRANH VÌ TỰ DO.
Phá sản lớn nhất của đời người là HỦY HOẠI DÂN TỘC.
Tài sản lớn nhất của đời người là LÒNG CĂM THÙ CỘNG SẢN.
Món nợ lớn nhất của đời người là CHƯA TIÊU DIỆT XONG CS.
Lễ vật lớn nhất của đời người là TỰ DO DÂN CHỦ
Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là KHÔNG ĐẤU TRANH CHỐNG CS.
An ủi lớn nhất của đời người là THẤY CHẾ ĐỘ CS BỊ DIỆT VONG.
ý kiến
•
3 giờ trước
Ngu dốt lớn nhất của đời người là NHỮNG TÊN "ĐI THEO ĐẢNG"
Thất bại lớn nhất của đời người là ĐỂ TỒN TẠI CHẾ ĐỘ CS.
Bi ai lớn nhất của đời người là CHƯA TIÊU DIỆT XONG ĐẢNG CS.
Sai lầm lớn nhất của đời người là CHƯA NHẬN RA TỘI BÁN NƯỚC CỦA CS.
Tội lỗi lớn nhất của đời người là ĐI THEO CS.
Đáng thương lớn nhất của đời người là LÀM DƯ LỢN VIÊN CHO CS.
Khâm phục lớn nhất của đời người là NHỮNG NGƯỜI ĐẤU TRANH VÌ TỰ DO.
Phá sản lớn nhất của đời người là HỦY HOẠI DÂN TỘC.
Tài sản lớn nhất của đời người là LÒNG CĂM THÙ CỘNG SẢN.
Món nợ lớn nhất của đời người là CHƯA TIÊU DIỆT XONG CS.
Lễ vật lớn nhất của đời người là TỰ DO DÂN CHỦ
Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là KHÔNG ĐẤU TRANH CHỐNG CS.
An ủi lớn nhất của đời người là THẤY CHẾ ĐỘ CS BỊ DIỆT VONG.
Kẻ thù lớn nhất của đời người là
Ngu dốt lớn nhất của đời người là
Thất bại lớn nhất của đời người là
Bi ai lớn nhất của đời người là
Sai lầm lớn nhất của đời người là
Tội lỗi lớn nhất của đời người là
Đáng thương lớn nhất của đời người là
Khâm phục lớn nhất của đời người là
Phá sản lớn nhất của đời người là
Tài sản lớn nhất của đời người là
Món nợ lớn nhất của đời người là
Lễ vật lớn nhất của đời người là
Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là
An ủi lớn nhất của đời người là...
ý kiến
•
7 giờ trước
Ngu dốt lớn nhất của đời người là
Thất bại lớn nhất của đời người là
Bi ai lớn nhất của đời người là
Sai lầm lớn nhất của đời người là
Tội lỗi lớn nhất của đời người là
Đáng thương lớn nhất của đời người là
Khâm phục lớn nhất của đời người là
Phá sản lớn nhất của đời người là
Tài sản lớn nhất của đời người là
Món nợ lớn nhất của đời người là
Lễ vật lớn nhất của đời người là
Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là
An ủi lớn nhất của đời người là...
Thưa anh Lê Văn Minh, người lính VNCH. Cũng như triệu triệu người VN
hiện nay, anh đang sống cuộc đời cơ cực vì thuộc "bên thua cuộc". Khác
với những nước Đông Âu, người cs thua cuộc vẫn được đối xử tế, công bằng
và được chính quyền mới tạo nhiều cơ hội để tiến thân. Tôi nghĩ rằng,
tuy cơ cực nhưng lương tâm anh rất thanh thản vì đã một thời chiến đấu
cho tự do dân tộc. So với bọn cs, sau khi "đuổi Mỹ" thì quay ra bán nước
cho giặc Tàu thì rõ ràng anh được đồng bào biết ơn và kính trọng hơn
nhiều.
ý kiến
•
7 giờ trước
ý kiến
•
7 giờ trước
......
Xin cám ơn và cảm phục người lính VNCH Lê Văn Minh. Anh là một trong
hàng triệu nạn nhân của đảng cs bán nước. Dĩ nhiên, những người VNCH
cũng như những cựu chiến binh trong Quân Lực VNCH có bổn phận và trách
nhiệm giúp đỡ một chiến sĩ đã hi sinh cuộc đời mình cho nền tự do và độc
lập của Tổ quốc. Xin gửi đến anh chị lời cầu chúc an lành. Kính.
Xin cám ơn và cảm phục người lính VNCH Lê Văn Minh. Anh là một trong
hàng triệu nạn nhân của đảng cs bán nước. Dĩ nhiên, những người VNCH
cũng như những cựu chiến binh trong Quân Lực VNCH có bổn phận và trách
nhiệm giúp đỡ một chiến sĩ đã hi sinh cuộc đời mình cho nền tự do và độc
lập của Tổ quốc. Xin gửi đến anh chị lời cầu chúc an lành. Kính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét