‘Hiểu thêm’ về thế hệ người lính VNCH
Những năm gần đây
bắt đầu xuất hiện những nhà nghiên cứu trẻ nước ngoài gốc Việt thành
danh với các công trình liên quan đến gốc rễ Việt Nam của họ.
Cựu sỹ quan dù quân lực VNCH và bộ sưu tập thời chiến Về cuộc đời Bộ trưởng VNCH Châu Kim Nhân
30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH
Chợ Lớn thời VNCH và thời nay
Tại Mỹ, nơi tập trung cộng đồng Việt kiều, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Việt nhận giải văn học Pulitzer năm 2015 cho tiểu thuyết The Sympathizer. Một người khác cũng ở Mỹ, Tiến sĩ Nguyễn Liên Hằng, được giải Stuart L. Bernath của Hội Sử gia Quan hệ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2013 nhờ cuốn Hanoi's War: An International History of the War for Peace in Vietnam.
Úc, với số người gốc Việt ước tính hơn 233.000 người, cũng chứng kiến sự xuất hiện của một số người lớn lên ở đây nhưng muốn viết về Việt Nam.
Một mảng được họ quan tâm là tiếng nói của thế hệ phi cộng sản trong chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Trải nghiệm từ cha mẹ
Cuốn sách gần đây, South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After (in năm 2016), là một nỗ lực như vậy của Tiến sĩ Nathalie Huynh Chau Nguyen, dạy tại Đại học Monash, Úc.Cuốn sách bắt đầu từ dự án nghiên cứu của tác giả về các cựu binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chủ yếu định cư ở Úc, gồm tổng cộng 54 cuộc phỏng vấn.
Những cựu binh được phỏng vấn, người già nhất sinh năm 1917 và trẻ nhất 1955, kể lại cuộc đời họ.
Như tác giả cho hay, quan niệm của chính bà về cuộc chiến chịu ảnh hưởng từ trải nghiệm của cha mẹ.
Bản thân cha của tác giả, Nguyễn Triệu Đan, là Đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Nhật Bản (1974-75). Người cha rời miền Bắc Việt Nam năm 1950, mang theo bộ gia phả chữ Hán do người ông soạn, tiếp tục truyền thống học tập của gia đình.
Lấy bằng tiến sĩ luật ở Pháp, ông Đan trở thành nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, tham dự phái đoàn VNCH tại Hội Nghị Paris dẵn tới Hiệp định 1973.
Sau ngày 30/4/1975, gia đình tị nạn ở Melbourne, Úc.
Bà Nathalie Nguyễn từng gợi ý để cha viết lại hồi ký, nhưng ông không làm vì cảm thấy chủ đề còn quá đau đớn khi nhắc lại.
Nhưng bà Nathalie Nguyễn, sau khi nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Oxford, vẫn băn khoăn khi giới viết sử hầu như bỏ qua trải nghiệm của người lính và thường dân miền Nam trong cuộc chiến kết thúc năm 1975.
Nữ quân nhân
Qua các câu chuyện cá nhân, cuốn South Vietnamese Soldiers như một lược sử về những người lính Việt Nam, bắt đầu từ thời tuổi trẻ đến khi họ tìm đường sang Úc.Tác giả nhắc lại rằng Nam Việt Nam mất hơn 254.000 người lính trong cuộc chiến, với số người bị thương khoảng hơn 783.000.
Một chương sách dành để nói về Đoàn Nữ Quân Nhân Quân lực VNCH, một đối tượng ít khi được nhắc tới.
Vào lúc kết cuộc năm 1975, có khoảng 6.000 phụ nữ phục vụ trong Đoàn Nữ Quân Nhân. Miền Nam sụp đổ là "vết sẹo" lớn nhất trong cuộc đời nhiều phụ nữ này.
Một người phụ nữ kể về giai đoạn hậu chiến là "thời gian tuyệt vọng". Bà chạy sang Campuchia mang theo con trai, ở đó suốt năm năm để có thể sang trại tị nạn ở Thái Lan rồi sang Úc năm 1990.
Sau này, cũng người phụ nữ này quay về Việt Nam mỗi năm để giúp đỡ những thương phế binh VNCH.
Con trai bà hỏi sao mẹ cứ về Việt Nam, và "hãy quên đi những kỷ niệm đau thương".
Nhưng bà nói: "Nỗi đau mới làm mình biết nhớ."
Úc công nhận cựu binh VNCH
Qua sách, người đọc biết thêm rằng từ 1980, Úc có chế độ công nhận cựu binh của các đồng minh qua việc cấp cho họ lương hưu. Chính sách ra đời từ nhu cầu đáp ứng cho các cựu binh thời Thế chiến Hai, nhưng cũng áp dụng cho các xung đột sau này như Chiến tranh Việt Nam.Với nhiều cựu binh VNCH, việc nộp đơn xin chính phủ Úc công nhận là cựu binh đồng minh không chỉ để có tiền hưu, mà quan trọng hơn, để tự hào rằng họ được công nhận trong danh dự.
Việc Úc công nhận cựu binh VNCH cũng giúp những người này có chỗ đứng trong lịch sử di dân và chiến tranh của Úc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng cựu binh Úc.
Một cựu binh chỉ ra rằng ngay tại Mỹ, không có mức độ công nhận cựu binh VNCH nhiều như tại Úc.
Cựu thiếu tá Thái Lan: 'Tôi chỉ là người lính đánh thuê'
John Kerry tìm về 'trận phục kích 1969'
Thomas Bass: 'Phạm Xuân Ẩn không đưa tin giả'
Trận Mậu Thân ở Sài Gòn qua lời đại tá dù VNCH
Chính sách của Úc đã cho những người lính VNCH có được diễn đàn, tạo cho họ cơ hội đóng góp và tham gia những dịp Úc kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam.
Những nghiên cứu tiếng Anh nổi bật về Việt Nam Cộng Hòa gần đây chủ yếu tập trung vào chính thể Tổng thống Ngô Đình Diệm (1955-63). Một phần lý do là sự mở cửa ngày càng cởi mở của các kho tư liệu về giai đoạn này ở Việt Nam.
Cuốn sách của bà Nathalie Huynh Chau Nguyen là một nỗ lực khác, và bà nói việc người ta cố "xóa sổ VNCH" khỏi cả lịch sử Việt Nam và ngành viết sử về chiến tranh đã là động lực cho nghiên cứu của bà.
Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-45666481
Hào Khí Việt Nam - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
https://youtu.be/1CkBMycJViE
Thiên Thần Mũ Đỏ - Trên Đầu Súng Ta Đi - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
https://youtu.be/ZnSLX6YiwQ
Cuộc rút lui chiến lược biến thành "thảm kịch đường số 7" - Tây Nguyên hoàn toàn thất thủ
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
Phía trước bị chặn, phía sau bị tiến công, các lực lượng VNCH tranh nhau rút chạy. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định tình hình và tổ chức kháng cự đều trở nên vô vọng.
LTS: Trong cuộc tổng
tiến công nổi dậy Mùa Xuân 1975, thắng lợi của Chiến dịch tiến công Huế -
Đà Nẵng có ý nghĩa chiến lược. Cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên,
nó đã làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, tạo ra những điều kiện rất
cơ bản, góp phần giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam một cách
nhanh chóng.
Xin trân trọng
giới thiệu với độc giả loạt bài của Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt (Nguyên
Trưởng ban KH-CN-MT Trường Sĩ quan Tăng Thiết giáp, nguyên chiến sĩ lái
xe tăng số 380 thuộc Đại đội 4, Lữ đoàn 203, cùng đơn vị với các xe tăng
390 và 843 húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa 30-04-1975) về những trận đánh
lịch sử đó.
Ngày
11.3.1975, ngay khi Ban Mê Thuột (BMT) thất thủ, đồng thời trước sức ép
của Quân giải phóng (QGP) tại các mặt trận khác dội về, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã đã triệu tập Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng
Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Trung tướng Đặng Văn Quang đến Phủ
đầu rồng để bàn về việc tái phối trí lại lực lượng.
Tại
cuộc họp này, dường như đã tiên đoán được những khó khăn to lớn mà Việt
Nam công hòa (VNCH) đang phải đương đầu, Nguyễn Văn Thiệu thông báo
quyết định:
"Với khả năng và lực
lượng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh
thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ
những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan
trọng".
Có lẽ cả Thiệu lẫn những người có mặt trong cuộc họp đã không ngờ được rằng lời tiên đoán đó lại diễn ra nhanh đến vậy!
Từ cuộc "rút lui chiến lược"
Ngày
14.3.1975, trước khả năng phản kích giành lại Buôn Mê Thuột (BMT) đã
gần như tan thành mây khói, TT Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên - Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH
và trung tướng Trần Văn Quang - Cố vấn an ninh quốc gia đã bay ra Cam
Ranh.
Tại đây họ đã nghe Thiếu tướng
Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân khu 2 kiêm Tư lệnh Quân đoàn 2 phúc trình về
tình hình chiến sự tại Quân khu 2.
Trong cuộc họp, Thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên những ngày trước đó.
Để
có thể khôi phục và giữ được cao nguyên, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm
máy bay cho Sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện
từ 1 đến 2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để
phản kích chiếm lại các vùng đã mất.
Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú. Ông ta tuyên bố:
"Không!
Không thể có quân tăng viện, không có quân bổ sung. Quân viện bị cúp,
đạn và tiền đều thiếu. Chúng ta đang bị tấn công mạnh ở khắp mọi nơi chứ
không riêng ở QK2.
Địch đánh
mạnh hơn năm 1968, hơn cả năm 1972. Kon Tum, Plây Cu người ít, kinh tế
không có, để bảo toàn lực lượng, lấy quân về giữ đồng bằng ven biển, ở
đấy điều kiện tiếp tế thuận lợi hơn".
Kết
luận lại, TT Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Phạm Văn Phú tổ chức rút quân về
đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng với yêu cầu cố gắng bảo toàn đến
mức cao nhất các lực lượng chủ lực của quân đoàn.
Về
hướng rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên lưu ý về những nguy hiểm khó
lường khi rút theo đường 19, ông ta nhắc lại thảm họa đã xảy ra đối với
Binh đoàn cơ động số 100 của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm
1954.
Sau khi thảo luận nhiều lần về
việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh đã quyết
định rút theo đường số 7 (ngày nay là QL 25) vì họ cho rằng, con đường
đó tuy xấu nhưng gây được bất ngờ cho đối phương.
Tới
16 giờ cùng ngày, tại bản doanh của Quân đoàn 2 tại Pleiku tướng Phú
triệu tập ngay Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang,
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất (mới được thăng) và Đại tá Lê Khắc Lý bàn việc
rút quân với mấy yêu cầu:
• Về kế hoạch chung:
Bảo đảm bí mật tuyệt đối, không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh; cấm
tiết lộ cho địa phương quân và các tiểu khu. Phải rút nhanh gọn, đem
theo vũ khí và một cơ số đạn đủ cho một trận chiến đấu. Rút theo kiểu
cuốn chiếu, ở xa rút trước, ở gần rút sau.
• Về điều phối:
Giao Chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy hành quân; Chuẩn tướng Cẩm đôn
đốc kiểm tra; Chuẩn tướng Sang điều điều động máy bay vận tải chở hàng
hóa quý hiếm, dọn sạch hai bên đường rút quân bằng máy bay oanh tạc;
Đại
tá Lý điều động công binh sửa đường, bắc cầu, giữ liên lạc với Bộ chỉ
huy tiền phương Quân khu II tại Nha Trang và Bộ Tổng tham mưu tại Sài
Gòn để xin tiếp ứng khi cần.
Theo
tính toán của các tướng lĩnh VNCH, các đơn vị Quân giải phóng đang tập
trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó
với cuộc phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm
ngày mới có thể điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn.
Còn
Sư đoàn 968 nếu có đuổi theo cũng phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và
sẽ bị Liên đoàn 25 Biệt động quân (BĐQ) cản hậu chặn đánh. Thời gian đó
đủ để phần lớn lực lượng Quân đoàn 2 VNCH về được Tuy Hòa.
Cũng
theo tính toán của họ, thì với số quân và phương tiện chiến tranh của
Quân đoàn rút được về đến đồng bằng ven biển sẽ đủ khả năng tái phối trí
để bảo vệ những phần đất còn lại của Quân khu 2.
Nhưng lại một lần nữa, những toan tính này sụp đổ.
Đến "thảm kịch đường số 7"
Mặc
dù Bộ tư lệnh Quân đoàn II QLVNCH cố gắng giữ bí mật tối đa cuộc rút
quân nhưng những hoạt động nhộn nhịp bất thường của không quân tại Plây
Cu trong ngày 14 tháng 3 đã gây nên những nghi ngờ trong gia đình các sĩ
quan cấp dưới, binh sĩ và cả dân chúng ở đây.
Sáng
sớm ngày 15 tháng 3, một đoàn xe quân sự lớn của các Liên đoàn 6 và 23
BĐQ từ Kon Tum di chuyển qua Pleiku xuống phía Nam càng làm cho tinh
thần của các công chức chính quyền, binh lính và cả dân chúng càng thêm
dao động.
Đến trưa ngày 15 thì mọi
mệnh lệnh để ổn định tình hình của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và đại tá Lê
Khắc Lý đều trở nên vô hiệu. Một số sĩ quan, công chức, binh lính đã bỏ
đơn vị và nhiệm sở để lo cho gia đình di tản.
Nhiều
vụ cướp bóc, tống tiền đã xảy ra. Ngay cả CIA cũng bắt đầu di tản người
Mỹ khỏi Pleiku vì theo họ đánh giá, thị xã này đã giống như một thùng
thuốc súng.
13 giờ chiều 15 tháng
3, cuộc di tản của Quân đoàn 2 VNCH chính thức bắt đầu trong sự cập rập,
vội vã. Thiết đoàn 19 và Liên đoàn 6 BĐQ mở đường từ Pleiku đi Phú Túc.
Tiếp đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, Lữ đoàn 2 Thiết
kỵ, các đơn vị bộ binh, hậu cần, kỹ thuật...
Trong
hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra đúng theo kế hoạch. Sáng 16 tháng 3,
khi đội thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự dài đến hơn 2.000 chiếc
đã đến Cheo Reo (bây giờ là TX Ayun Pa) an toàn và bắt đầu di chuyển
xuống Củng Sơn thì toán cuối của đoàn xe này mới ra khỏi thị xã Pleiku.
Tuy nhiên, có ba vấn đề mà các
tướng lĩnh QLVNCH không lường tính hết. Đó là: số lượng người, phương
tiện tham gia vào cuộc "rút lui chiến lược", chất lượng đường số 7 và
phản ứng của phía Quân giải phóng.
Khi
tin rút bỏ Cao Nguyên lan rộng, các sĩ quan, binh sĩ VNCH cùng các công
chức hệ thống chính quyền địa phương hai tỉnh Kon Tum, Pleiku đã lập
tức bỏ đơn vị, bỏ nhiệm sở để lo cho gia đình "di tản".
Vì
vậy, mỗi quân nhân phải kèm thêm vài người dân, trong đó có rất nhiều
người già, trẻ em đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng chiến đấu khi có
tình huống xảy ra.
Bên cạnh đó, số
phương tiện của dân sự đi theo đoàn quân "rút lui chiến lược" đó cũng
rất đông đảo. Theo ước tính của các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã có
khoảng hơn 2000 phương tiện giao thông dân sự đã tham gia vào cuộc rút
quân "vĩ đại" này và gây rất nhiều khó khăn cho quá trình điều phối hành
quân.
Về con đường số 7 vốn là
một con đường bỏ hoang từ lâu không được duy tu, bảo dưỡng. Vì vậy,
đường hẹp, chất lượng mặt đường xấu, đặc biệt các cây cầu trên con đường
này đều nhỏ, hẹp và có trọng tải nhỏ. Trong khi đó, năng lực của công
binh Quân đoàn 2 VNCH rất hạn chế.
Đối
với Quân giải phóng, kế hoạch rút quân của Quân đoàn 2 VNCH khỏi Tây
Nguyên là không quá bất ngờ. Khi vạch kế hoạch chiến dịch Tây Nguyên họ
đã tính đến khả năng này. Bất ngờ duy nhất mà Nguyễn Văn Thiệu và Phạm
Văn Phú tạo ra được là cuộc di tản này được tiến hành quá nhanh.
Đến
chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua Cheo
Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin quân VNCH bắt đầu rút
khỏi Pleiku và Kon Tum.
Quyết không
để Quân đoàn 2 VNCH bảo toàn được nguyên vẹn lực lượng về tới đồng bằng
ven biển, một kế hoạch chặn đánh và truy kích lập tức được hình thành.
Bộ
Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định sử dụng toàn bộ Sư đoàn BB 320,
Tiểu đoàn xe tăng 2 (Trung đoàn 273), Trung đoàn pháo binh 675, Trung
đoàn cao xạ 593 và hai Tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên vào trận đánh
này.
20 giờ tối 16. 3, Tiểu đoàn
9, Trung đoàn 64 (Sư đoàn BB 320) được lệnh hành quân cắt rừng suốt đêm
với nhiệm vụ lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo để chặn đứng
cuộc rút lui của đối phương. Theo sát họ là đội hình chính của Trung
đoàn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy động cùng các lực
lượng khác.
Sáng 17 tháng 3, tốp xe
tăng, thiết giáp đi đầu của Thiết đoàn 19 và Liên đoàn 6 Biệt động quân
VNCH đã chạm súng với Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 QGP tại đèo Tuna, cách
Cheo Reo 4 km về Đông và bị chặn lại ở đây. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ
lại tại Cheo Reo.
Từ chiều tối 17
đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử dụng Liên đoàn 7 BĐQ với sự yểm
hộ của không quân, pháo binh và thiết giáp liên tục công kích nhổ chốt,
vu hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy lùi.
Sáng
18 tháng 3, toàn bộ Trung đoàn 64 (Sư đoàn BB 320) đã triển khai xong
các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo Tuna. Trung đoàn 48 (thiếu) của
sư đoàn này và Trung đoàn 9 (Sư đoàn BB 968) đã bao vây Cheo Reo từ ba
mặt.
Trưa ngày 18, Chuẩn tướng Phạm
Văn Tất điều Liên đoàn 25 BĐQ đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt lên trước
cùng với Lữ đoàn 2 Thiết kỵ mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường.
Cũng
thời điểm đó, các đơn vị pháo binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích
các vị trí đóng quân tạm thời của VNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung
đoàn bộ binh Quân giải phóng bắt đầu tấn công.
Phía
trước bị chặn, phía sau bị tiến công, các lực lượng VNCH tranh đường
của nhau để chạy. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định lại tình hình
và tổ chức kháng cự của các chỉ huy VNCH trở nên vô vọng.
17
giờ chiều, chuẩn tướng Phạm Duy Tất nhận được lệnh phá bỏ tất cả các
chiến cụ nặng. Binh lính VNCH tháo khóa nòng pháo, kính ngắm bắn... trên
các khẩu pháo và xe tăng rồi bỏ lại để chạy thoát thân.
17
giờ 30, một chiếc HU-1A vượt qua làn đạn phòng không của Quân giải
phóng hạ cách xuống sân trường tiểu học Phú Bổn dể đưa tướng Tất và Đại
tá Hoàng Thọ Nhu (tỉnh trưởng Pleiku) về Nha Trang..
Đến 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3, các đơn vị QLVNCH bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng cự.
Kết
quả, chỉ một số ít binh lính VNCH về đến Tuy Hòa. Số còn lại ngoài một
số bị diệt có gần 17.000 người bị phía Quân giải phóng bắt làm tù binh,
trong đó có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng.
Số
vũ khí phương tiện bị phá hủy và bắt sống cũng cực kỳ lớn: 17.183 súng
các loại, trong đó có 79 khẩu pháo từ 105 mm trở lên; hơn 2.000 xe quân
sự, trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép; 44 máy bay bị bắn rơi, 110
chiếc khác bị thu và phá hủy.
Như
vậy, từ cuộc "rút lui chiến lược" đã biến thành "thảm kịch đường số 7" -
Tây Nguyên hoàn toàn thất thủ, báo hiệu sự sụp đổ không thể tránh khỏi
của chế độ VNCH một ngày không xa.
theo Thời đại
Nguồn: http://soha.vn/cuoc-rut-lui-chien-luoc-bien-thanh-tham-kich-duong-so-7-tay-nguyen-hoan-toan-that-thu-20170325105640668.htm
Chiến dịch di tản của người Mỹ khỏi Sài Gòn (Kỳ cuối): 'Chiến dịch Gió Lớn'
Trước
tình hình quân Giải phóng liên tục tấn công Sài Gòn, Tổng thống Gerald
Forrd hạ lệnh cho Bộ Quốc phòng Mỹ xây dựng kế hoạch “rút dần trong trật
tự” những quan chức Việt Nam Cộng hòa và thân quyến của họ. Cuộc rút
chạy vội vã đã trở thành bi kịch như một “hố đen” trong lịch sử nước Mỹ.
Từ
ngày 17/4, Gerald Forrd hạ lệnh lần lượt sơ tán khoảng 200.000 người,
bao gồm: Các quan chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa và gia quyến; "tay
chân", "vợ hờ" của các quan chức quân sự, dân sự Mỹ và những đứa trẻ có
huyết thống Mỹ. Tốp đầu tiên có thể được di tản bằng máy bay ở sân bay
Tân Sơn Nhất.
Tính đến trước ngày 28/4, máy bay Mỹ di tản được 50.493 người Mỹ và người tị nạn miền Nam Việt Nam (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam trong Chiến dịch Babylift). Các phi công Mỹ đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt các đợt di tản.
"Gió Lớn"
Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và phó cố vấn an ninh quốc gia Brent Scowcroft cắt ngang một cuộc họp tại Nhà Trắng, đưa cho Tổng thống Ford một bức điện, trên đó có viết: "Sân bay Tân Sơn Nhất đã bị Việt Công pháo kích, khiến 2 lính hải quân đánh bộ Mỹ tử vong". Bức điện nhấn mạnh, Sài Gòn có thể thất thủ trong một sớm một chiều, phi trường duy nhất của Mỹ tại Việt Nam đã không còn an toàn cho các cuộc không vận.
Washington lệnh tiến hành chiến dịch mang mật danh "Operation Frequent Wind" (Chiến dịch Gió Lớn) sử dụng máy bay trực thăng của hải quân đánh bộ Mỹ từ các tàu chiến ngoài khơi bờ biển Việt Nam, sơ tán những công dân Mỹ cuối cùng rời mảnh đất đau thương đối với người Mỹ.
Cụ thể, Mỹ huy động 50 chiếc tàu thuyền, trong đó có tàu đổ bộ chỉ huy LCC-19 USS "Blue Ridge", tàu sân bay CV-19 USS Hancock, hàng không mẫu hạm CV-41 USS Midway và tàu khu trục FF-1087 USS Kirk… để thực hiện chiến dịch "Operation Frequent Wind". Ngoài ra, kế hoạch này còn bao hàm một số hoạt động khác.
30 phút sau khi Tổng thống Ford nhận được bức điện, Đài phát thanh
Sài Gòn đột nhiên phát chương trình âm nhạc "Giáng sinh trắng" (White
Christmas) — mật hiệu quy ước cho tất cả công dân Mỹ và quan chức Việt
Nam Cộng hòa còn lưu lại Sài Gòn nhanh chóng đến các khu vực tập kết quy
định trước để di tản chuyến cuối cùng.
Cuộc di tản bắt đầu lúc 11 giờ 51 phút, nhưng không ai biết là giờ Washington hay giờ Sài Gòn. Đến trưa, không một máy bay lên thẳng quân sự nào bay đi Sài Gòn, Martin gọi trực tiếp cho Gayler đề nghị giải thích. Mười lăm phút sau, lính thủy của lực lượng can thiệp được lệnh bay.
Đến 12 giờ 30 phút, một phi đoàn gồm 36 máy bay lên thẳng đầu tiên rời cầu tàu USS Hancoch, có nhiều máy bay vũ trang hộ vệ. Một phút sau, những máy bay tiêm kích phản lực Phantom từ các căn cứ ở Thái Lan bay tới bầu trời Việt Nam yểm hộ thêm.
Một giờ rưỡi trôi qua kể từ lúc tổng thống bật đèn xanh cho chiến dịch "Gió lớn", Lầu Năm Góc ra lệnh cho tàu bè đậu cách bờ biển hơn 12 hải lý, bên trong là hải quân Nam Việt Nam, như thế bay tới Sài Gòn phải lâu thêm 40 phút.
Hỗn loạn
Ở sứ quán Sài Gòn, phần lớn mọi người không biết chiến dịch "Gió lớn" đã bắt đầu và gặp một số khó khăn. Bên ngoài ven tường sứ quán, lính thủy đứng gác, biết bao nhiêu cánh tay bám vào cửa ra vào. Hàng trăm người Việt Nam, trong đó có nhiều người giơ những mảnh giấy trắng lên vẫy, chắc là giấy thông hành — van nài xin vào sứ quán.
Bên trong, nhiều người may mắn hơn — phần lớn là bồi bếp — đến sứ quán từ sáng sớm với ông chủ. Ngoài sân chơi, gần một nghìn người Việt Nam đứng hết sức lộn xộn.
Đại sứ quán Mỹ trở nên hỗn loạn, toàn bộ nhân viên được huy động để đóng gói tài liệu, vật tư; lính hải quân đánh bộ rải trong sứ quán một "Cây nhiệt đới" lớn để giúp máy bay trực thăng hạ cánh thuận tiện, đứng trấn trên các bờ tường căng hàng rào thép gai để ngăn người Việt Nam trèo qua hàng rào 4m vào Đại sứ quán. Phía bên ngoài hàng vạn người tập trung trước Đại sứ quán hy vọng có thể kiếm được cơ hội lên máy bay ra nước ngoài.
Tình hình di tản càng căng thẳng hơn khi một nhân viên tình báo nắm được thông tin, đúng 18 giờ, giờ Sài Gòn, quân Bắc Việt Nam sẽ nã khoảng 20.000 phát đại bác 130 ly vào dinh tổng thống, giữa Sài Gòn. 20.000 trái đạn 130 ly, có nghĩa là không những dinh tổng thống tan thành tro bụi mà cả sứ quán Mỹ, sứ quán Pháp ở gần đấy nữa.
Ba giờ sáng, Lawreinee Eagleburger — cố vấn đặc biệt của Kissinger — báo cho Bộ trưởng Ngoại giao biết, máy bay lên thẳng bắt đầu đổ xuống Sài Gòn, "Gió lớn" hay phương án IV được thực hiện. 17 giờ 30 phút, tướng Smith báo cho hạm đội di tản biết còn khoảng 1.300 người nữa, trong đó có đơn vị an ninh hải quân gồm 840 người.
23 giờ 30 phút, đại tá Gray và một nhóm lính thủy phá hủy sở chỉ huy phái bộ quân sự, đặt nhiều mìn mạnh chung quanh hệ thống. Một lính thủy kể lại: "Vừa có lệnh, một tiếng nổ rung trời, ánh sáng bùng lên, không khí nóng ran, mọi cái tan tành! Mấy phút sau, đại tá Gray và lính thủy đặt bom nổ chậm và bom cháy vào các hầm nhà rồi chạy lên máy bay. Máy bay vừa cất cánh thì lửa đã bao phủ các ngôi nhà. Sức nóng rất cao, đến nỗi mái nhà vững như thép của đồn lũy chỉ huy Hoa Kỳ ở Việt Nam sụp đổ như tấm sắt tây".
Ở Nhà Trắng, Kissinger báo cáo với tổng thống Ford: Phái bộ quân sự đã hoàn thành việc di tản. Hơn 4.500 người đi bằng máy bay lên thẳng trong đó có 450 người Mỹ. Theo một báo cáo của hải quân vừa gửi về, một máy bay CH.53 rơi xuống biển, bên cạnh đằng lái một con tàu. Không có người tị nạn trên đó nhưng phi công và người phụ lái đều mất tích, có thể đã chết.
Cầu hàng không hoạt động gần 6 giờ, thời tiết quá xấu, chẳng thấy rõ mấy, lại thấm mệt nên viên phi công đã tính sai khoảng cách từ máy bay đến chỗ đỗ. Trước 12 giờ đêm, Kissinger gặp các nhà báo ở Bộ Ngoại giao và thông báo, cuộc di tản tiến hành tốt, tất cả người Mỹ đều đã rời Sài Gòn. Kissinger trở lại phòng tác chiến ở Nhà Trắng thì đã 0 giờ 45 phút, giờ Sài Gòn.
Trước ba giờ sáng, cầu hàng không ở sứ quán lại chặn lại. Sợ lính Mỹ quá mệt, Martin xin thêm sáu máy bay trực thăng lớn CH.53. Whitmire bất đắc dĩ phải đồng ý. Sáu chiếc mau chóng lần lượt bay đi trong 40 phút. Nhân viên thông tin liên lạc còn ở lại sứ quán, phá hủy những máy cuối cùng và lên lầu sáu, xếp hàng cùng với những người đang đứng đợi.
Chiến dịch cuối cùng
3 giờ 45 phút, Martin đi ra sân sứ quán, nhìn nhanh đám đông, ra hiệu cho đại tá Madison: "Những người Việt Nam còn lại sẽ đi bằng máy bay CH.53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi. Cầu hàng không trên mái nhà dành riêng cho người Mỹ".
Nhận được tin chiến dịch kết thúc, Colby — Giám đốc cục tình báo Trung ương CIA — viết: "Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ niềm tự hào và sự bằng lòng của mình đối với chi nhánh về công việc các đại diện nó đã làm. Hàng nghìn người Việt Nam được cứu sống và có tương lai nhờ sự nỗ lực của các ông.
Chính phủ ta, từ những báo cáo rõ rệt gửi về, đã rút ra điều bổ ích lớn. Một ngày kia, sẽ học tập một cách kính nể thái độ của các ông trong việc bảo vệ những mục tiêu và lý tưởng của đất nước. May mắn và rất cảm ơn".
"Chiến dịch Gió Lớn" được coi là chiến dịch cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Trong vòng 19 giờ đồng hồ, 81 máy bay trực thăng của hải quân đánh bộ Mỹ đã chở hơn 1.000 người Mỹ và gần 6.000 người Việt Nam ra các tàu sân bay ở ngoài khơi. 7 giờ 53 phút sáng ngày 30/4, chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh bay ra biển, chiến dịch chính thức chấm dứt.
Tại chiến dịch này, phía Mỹ có hai quân nhân tử vong là Hạ sĩ Charles McMahon và Chuẩn hạ sĩ Darwin Judge. Đây cũng là hai binh sĩ cuối cùng của Mỹ tử trận trong khi làm nhiệm vụ ở chiến trường Việt Nam…
Nguồn: baophapluat
https://vn.sputniknews.com/vietnam/201706133463158-chien-dich-di-tan-cua-nguoi-my-khoi-sai-gon-ky-cuoi-chien-dich-gio-lon/
Nguồn:http://viet-studies.net/kinhte/Polgar_DefeatedArmy_trans.html
Tính đến trước ngày 28/4, máy bay Mỹ di tản được 50.493 người Mỹ và người tị nạn miền Nam Việt Nam (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam trong Chiến dịch Babylift). Các phi công Mỹ đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt các đợt di tản.
"Gió Lớn"
Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và phó cố vấn an ninh quốc gia Brent Scowcroft cắt ngang một cuộc họp tại Nhà Trắng, đưa cho Tổng thống Ford một bức điện, trên đó có viết: "Sân bay Tân Sơn Nhất đã bị Việt Công pháo kích, khiến 2 lính hải quân đánh bộ Mỹ tử vong". Bức điện nhấn mạnh, Sài Gòn có thể thất thủ trong một sớm một chiều, phi trường duy nhất của Mỹ tại Việt Nam đã không còn an toàn cho các cuộc không vận.
Washington lệnh tiến hành chiến dịch mang mật danh "Operation Frequent Wind" (Chiến dịch Gió Lớn) sử dụng máy bay trực thăng của hải quân đánh bộ Mỹ từ các tàu chiến ngoài khơi bờ biển Việt Nam, sơ tán những công dân Mỹ cuối cùng rời mảnh đất đau thương đối với người Mỹ.
Cụ thể, Mỹ huy động 50 chiếc tàu thuyền, trong đó có tàu đổ bộ chỉ huy LCC-19 USS "Blue Ridge", tàu sân bay CV-19 USS Hancock, hàng không mẫu hạm CV-41 USS Midway và tàu khu trục FF-1087 USS Kirk… để thực hiện chiến dịch "Operation Frequent Wind". Ngoài ra, kế hoạch này còn bao hàm một số hoạt động khác.
©
Ảnh : thoidai
Tàu sân bay USS Midway mang theo nhiều F-5, A-37 từng thuộc biên chế Không lực Việt Nam Cộng Hòa về đảo Guam
Cuộc di tản bắt đầu lúc 11 giờ 51 phút, nhưng không ai biết là giờ Washington hay giờ Sài Gòn. Đến trưa, không một máy bay lên thẳng quân sự nào bay đi Sài Gòn, Martin gọi trực tiếp cho Gayler đề nghị giải thích. Mười lăm phút sau, lính thủy của lực lượng can thiệp được lệnh bay.
Đến 12 giờ 30 phút, một phi đoàn gồm 36 máy bay lên thẳng đầu tiên rời cầu tàu USS Hancoch, có nhiều máy bay vũ trang hộ vệ. Một phút sau, những máy bay tiêm kích phản lực Phantom từ các căn cứ ở Thái Lan bay tới bầu trời Việt Nam yểm hộ thêm.
Một giờ rưỡi trôi qua kể từ lúc tổng thống bật đèn xanh cho chiến dịch "Gió lớn", Lầu Năm Góc ra lệnh cho tàu bè đậu cách bờ biển hơn 12 hải lý, bên trong là hải quân Nam Việt Nam, như thế bay tới Sài Gòn phải lâu thêm 40 phút.
Hỗn loạn
Ở sứ quán Sài Gòn, phần lớn mọi người không biết chiến dịch "Gió lớn" đã bắt đầu và gặp một số khó khăn. Bên ngoài ven tường sứ quán, lính thủy đứng gác, biết bao nhiêu cánh tay bám vào cửa ra vào. Hàng trăm người Việt Nam, trong đó có nhiều người giơ những mảnh giấy trắng lên vẫy, chắc là giấy thông hành — van nài xin vào sứ quán.
Bên trong, nhiều người may mắn hơn — phần lớn là bồi bếp — đến sứ quán từ sáng sớm với ông chủ. Ngoài sân chơi, gần một nghìn người Việt Nam đứng hết sức lộn xộn.
Đại sứ quán Mỹ trở nên hỗn loạn, toàn bộ nhân viên được huy động để đóng gói tài liệu, vật tư; lính hải quân đánh bộ rải trong sứ quán một "Cây nhiệt đới" lớn để giúp máy bay trực thăng hạ cánh thuận tiện, đứng trấn trên các bờ tường căng hàng rào thép gai để ngăn người Việt Nam trèo qua hàng rào 4m vào Đại sứ quán. Phía bên ngoài hàng vạn người tập trung trước Đại sứ quán hy vọng có thể kiếm được cơ hội lên máy bay ra nước ngoài.
Tình hình di tản càng căng thẳng hơn khi một nhân viên tình báo nắm được thông tin, đúng 18 giờ, giờ Sài Gòn, quân Bắc Việt Nam sẽ nã khoảng 20.000 phát đại bác 130 ly vào dinh tổng thống, giữa Sài Gòn. 20.000 trái đạn 130 ly, có nghĩa là không những dinh tổng thống tan thành tro bụi mà cả sứ quán Mỹ, sứ quán Pháp ở gần đấy nữa.
Ba giờ sáng, Lawreinee Eagleburger — cố vấn đặc biệt của Kissinger — báo cho Bộ trưởng Ngoại giao biết, máy bay lên thẳng bắt đầu đổ xuống Sài Gòn, "Gió lớn" hay phương án IV được thực hiện. 17 giờ 30 phút, tướng Smith báo cho hạm đội di tản biết còn khoảng 1.300 người nữa, trong đó có đơn vị an ninh hải quân gồm 840 người.
23 giờ 30 phút, đại tá Gray và một nhóm lính thủy phá hủy sở chỉ huy phái bộ quân sự, đặt nhiều mìn mạnh chung quanh hệ thống. Một lính thủy kể lại: "Vừa có lệnh, một tiếng nổ rung trời, ánh sáng bùng lên, không khí nóng ran, mọi cái tan tành! Mấy phút sau, đại tá Gray và lính thủy đặt bom nổ chậm và bom cháy vào các hầm nhà rồi chạy lên máy bay. Máy bay vừa cất cánh thì lửa đã bao phủ các ngôi nhà. Sức nóng rất cao, đến nỗi mái nhà vững như thép của đồn lũy chỉ huy Hoa Kỳ ở Việt Nam sụp đổ như tấm sắt tây".
Ở Nhà Trắng, Kissinger báo cáo với tổng thống Ford: Phái bộ quân sự đã hoàn thành việc di tản. Hơn 4.500 người đi bằng máy bay lên thẳng trong đó có 450 người Mỹ. Theo một báo cáo của hải quân vừa gửi về, một máy bay CH.53 rơi xuống biển, bên cạnh đằng lái một con tàu. Không có người tị nạn trên đó nhưng phi công và người phụ lái đều mất tích, có thể đã chết.
Cầu hàng không hoạt động gần 6 giờ, thời tiết quá xấu, chẳng thấy rõ mấy, lại thấm mệt nên viên phi công đã tính sai khoảng cách từ máy bay đến chỗ đỗ. Trước 12 giờ đêm, Kissinger gặp các nhà báo ở Bộ Ngoại giao và thông báo, cuộc di tản tiến hành tốt, tất cả người Mỹ đều đã rời Sài Gòn. Kissinger trở lại phòng tác chiến ở Nhà Trắng thì đã 0 giờ 45 phút, giờ Sài Gòn.
Trước ba giờ sáng, cầu hàng không ở sứ quán lại chặn lại. Sợ lính Mỹ quá mệt, Martin xin thêm sáu máy bay trực thăng lớn CH.53. Whitmire bất đắc dĩ phải đồng ý. Sáu chiếc mau chóng lần lượt bay đi trong 40 phút. Nhân viên thông tin liên lạc còn ở lại sứ quán, phá hủy những máy cuối cùng và lên lầu sáu, xếp hàng cùng với những người đang đứng đợi.
Chiến dịch cuối cùng
3 giờ 45 phút, Martin đi ra sân sứ quán, nhìn nhanh đám đông, ra hiệu cho đại tá Madison: "Những người Việt Nam còn lại sẽ đi bằng máy bay CH.53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi. Cầu hàng không trên mái nhà dành riêng cho người Mỹ".
Nhận được tin chiến dịch kết thúc, Colby — Giám đốc cục tình báo Trung ương CIA — viết: "Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ niềm tự hào và sự bằng lòng của mình đối với chi nhánh về công việc các đại diện nó đã làm. Hàng nghìn người Việt Nam được cứu sống và có tương lai nhờ sự nỗ lực của các ông.
Chính phủ ta, từ những báo cáo rõ rệt gửi về, đã rút ra điều bổ ích lớn. Một ngày kia, sẽ học tập một cách kính nể thái độ của các ông trong việc bảo vệ những mục tiêu và lý tưởng của đất nước. May mắn và rất cảm ơn".
"Chiến dịch Gió Lớn" được coi là chiến dịch cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Trong vòng 19 giờ đồng hồ, 81 máy bay trực thăng của hải quân đánh bộ Mỹ đã chở hơn 1.000 người Mỹ và gần 6.000 người Việt Nam ra các tàu sân bay ở ngoài khơi. 7 giờ 53 phút sáng ngày 30/4, chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh bay ra biển, chiến dịch chính thức chấm dứt.
Tại chiến dịch này, phía Mỹ có hai quân nhân tử vong là Hạ sĩ Charles McMahon và Chuẩn hạ sĩ Darwin Judge. Đây cũng là hai binh sĩ cuối cùng của Mỹ tử trận trong khi làm nhiệm vụ ở chiến trường Việt Nam…
Nguồn: baophapluat
https://vn.sputniknews.com/vietnam/201706133463158-chien-dich-di-tan-cua-nguoi-my-khoi-sai-gon-ky-cuoi-chien-dich-gio-lon/
Chúng tôi là đoàn quân bại trận
Thomas Polgar
Bản dịch của Châu Quang đã đăng
3 kỳ trên Đàn Chim Việt (6, 8, 11/6/2018), gộp lại
đây cho dễ đọc
Thomas Polgar là trưởng nhiệm sở CIA cuối
cùng tại miền Nam Việt Nam trước khi chế độ VNCH sụp đổ. Trong
những đại sứ quán “nhạy cảm” của Hoa Kỳ, trưởng nhiệm sở CIA là
nhân vật quyền lực thứ nhì, sau đại sứ.
Polgar sinh năm 1922 tại Hungary trong một gia đình Do Thái,
gia đình ông chạy sang Mỹ để tránh Đức Quốc Xã. Ông nhập tịch Mỹ
lúc 22 tuổi và gia nhập CIA lúc 25 tuổi, sau khi tốt nghiệp cử
nhân. Trước khi đến Việt Nam, ông chỉ phục vụ tại các nhiệm sở ở
châu Âu và Nam Mỹ. Ông mất tại Florida năm 2014, thọ 92 tuổi.
|
Từ Buenos Aires đến Sài Gòn
Lý do tôi đến Sài Gòn là vì người được chỉ định làm trưởng nhiệm sở CIA
kế nhiệm cho Ted Shackley, đã ở Sài Gòn hơn ba năm, là anh chàng Joe
Smith.
Vào thời điểm đó, Smith đang là trưởng nhiệm sở ở Tokyo, một trong những
vị trí danh giá nhất của CIA, sau khi đã làm phó vùng đặc trách Viễn
Đông. Trưởng vùng đặc trách Viễn Đông bấy giờ do Bill Colby nắm. (Colby
cũng từng có nhiệm kỳ tại Việt Nam và sau này làm Giám Đốc CIA).
Smith là một lựa chọn rất hợp lý. Giấy tờ chọn lựa này đã được ký tên,
đóng dấu và trao tay. Smith sẽ tiếp nối công việc của Shakley.
Bất ngờ, cha của Smith qua đời. Tang gia bối rối, phải có người lo tang
lễ với đủ thứ công việc lỉnh kỉnh. Không có ai khác để gánh vác ngoài
Smith. Vì vậy, Smith xin nghỉ hưu để lo chuyện gia đình. Chuyện kế nhiệm
cho Shackley, dù đã được lập kế hoạch trong hai năm, coi như vứt đi.
Đáng lý ra, Smith là một lựa chọn rất hợp lý nếu nói về kinh nghiệm ở
châu Á, kinh nghiệm tại Viễn Đông.
Thật tình, nếu nói một cách chính xác thì tôi cũng không phải là một
bóng mờ. Tại thời điểm đó tôi đã quen giám đốc CIA Richard Helms khoảng
25 năm, tôi làm dưới quyền ông ở Berlin, tôi là trưởng nhiệm sở tại Đức,
một chỗ ưng ý dưới cặp mắt của cả cựu Giám đốc Alan Dulles lẫn đương kim
Giám đốc Helms. Tôi ăn lương cấp GS-17 (của hàng ngũ công chức liên
bang), một cấp khá cao.
Thực ra, có rất nhiều điểm tương đồng giữa loại hoạt động mà tôi đã gặp
khi làm trưởng ban sưu tra khu vực Nam Mỹ và tình huống mà chúng ta đang
đối mặt ở Việt Nam. Và có lẽ quan trọng nhất, tôi là phụ tá đặc biệt
trong bốn năm cho một anh trung tướng có tên là Lucien Truscott, là
người phụ trách nhiều công việc nhưng việc chính là điều phối công tác
tình báo. Trong tư cách đó, tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm làm việc với
giới nhà binh Hoa Kỳ. Công việc này nhiêu khê hơn câu chuyện không tặc.
(Trước đó, Polgar nổi tiếng qua chuyện giải quyết vụ cướp máy bay ở
Chilê bằng cách đích thân bước lên máy bay điều đình với bọn không tặc).
Tôi đang làm trưởng nhiệm sở ở Buenos Aires thì nghe tin mình đã được
chọn làm trưởng nhiệm sở ở Sài Gòn.
Tôi nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi nói tiếng Đức. Tôi nói tiếng Pháp (ngoài
tiếng Hungary). Chẳng có thứ tiếng châu Á nào. Đó là một bất lợi lớn
nhưng đó là tình trạng chung của CIA, bởi vì tôi nghĩ rằng trên bậc
lương cấp GS-12, tương đương với cấp thiếu tá quân đội, CIA bấy giờ
không ai biết tiếng Việt.
Những vụn vặt đầu tiên
Ngay khi tôi đến Sài Gòn, tôi đã cố gắng tiếp xúc với những người Việt
ngoài những người Việt mà tôi phải gặp trong công việc trách nhiệm hằng
ngày. Tôi đã cố gắng gặp những người như người đứng đầu luật sư đoàn,
người đứng đầu hãng hàng không, người đứng đầu một công ty dược phẩm,
bác sĩ, nha sĩ… để tôi có thể cảm nhận một chút về xã hội miền Nam. Đó
là một công việc khó khăn. Đôi khi tôi phải làm việc 11, 12, 14 tiếng
một ngày.
Sau này nhìn lại chắc là ngu ngốc, nhưng lúc đó tôi hoàn toàn tin tưởng
rằng chúng ta đã thực hiện những gì chúng ta cam kết ở Việt Nam. Tôi
nghĩ rằng chừng nào Nixon còn làm tổng thống, Bắc Việt sẽ cư xử một cách
chừng mực, cộng trừ đi một chút.
Tôi không bao giờ mong đợi sẽ có ngừng bắn hoàn toàn như chúng ta đã gặp
ở châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945 (sau Thế Chiến 2). Tôi chưa bao giờ
mong đợi như vậy. Chuyện đó cũng chẳng bao giờ xảy ra. Nhưng quả thực
chúng ta đã có một thời gian dài, cụ thể là trong suốt năm 1973 và nửa
đầu năm 1974, một thời kỳ mà chúng ta thường gọi là “ít máu lửa hơn”.
Nói cách khác, chúng ta đã có một tình huống không hẳn là ngưng bắn,
nhưng không có hoạt động quân sự lớn; và mức độ bạo lực, phá hoại, ám
sát, phục kích vân vân, nằm trong vòng mà chúng ta gọi là “giới hạn chấp
nhận được”. Đó là một mức độ bạo lực mà cả hai bên có thể chịu đựng vô
thời hạn, không tạo bất kỳ thay đổi tình hình chính trị nào.
Tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc hành xử theo đúng nghĩa vụ của họ ghi trong
Hiệp định Paris thì sẽ không có vấn đề gì. Ngay cả sự hiện diện của quân
đội Bắc Việt ở miền Nam cũng không phải là vấn đề. Quân đội mà họ được
phép để lại tại miền Nam vừa trải qua cuộc tổng tấn công vào dịp lễ Phục
sinh mùa xuân năm 1972 (VNCH gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa) và khi bạn nhìn thẳng
vào vấn đề, bạn sẽ thấy họ chẳng tạo được thắng lợi nào. Tóm lại, họ có
mặt ở đó, nhưng chẳng đi tới đâu. Ý tôi muốn nói là họ có một ít rừng,
họ có một ít núi, nhưng tại thời điểm đó chính phủ Nam Việt Nam kiểm
soát ít nhất 95% dân số, chính phủ này kiểm soát tất cả các khu vực sản
xuất kinh tế của đất nước. Vì thế cho nên chuyện có một số binh sĩ Bắc
Việt sống trên vùng cao nguyên chung với hổ và rắn cũng không làm ai bận
tâm. Ý tôi muốn nói chắc chắn là họ không có bất cứ một tí mơ tưởng nào
để lập một thủ đô tạm thời.
Vấn đề lúc bấy giờ là Việt Nam chỉ đơn giản là một phần của một vấn đề
toàn cầu mà Hoa Kỳ đang đối phó một cách liên tục. Việt Nam là một trò
ảo thuật mà Nixon muốn sử dụng trong mối quan hệ giữa ông ta với người
Nga và quan hệ giữa ông ta với Trung Quốc và quan hệ giữa ông ta với cử
tri Mỹ.
Đối với người Việt Nam, tất nhiên, vấn đề Việt Nam 100 phần trăm là sự
tồn tại của họ. Họ không thể nghĩ về bất cứ chuyện gì khác. Đây cũng
chính là vấn đề chúng ta gặp phải với người Cuba ngày nay. Chúng ta nghĩ
về Cuba có thể năm phút mỗi tháng, còn người Cuba nghĩ về mối quan hệ
của họ với Hoa Kỳ vào mọi lúc. Vì vậy, tôi không nghĩ rằng người Mỹ và
người Việt Nam có cách tiếp cận về kết thúc chiến tranh theo cùng quan
điểm, ngay cả gần giống quan điểm cũng chẳng có.
Nixon và Thiệu
Trọng tâm của Hiệp định Paris là cam kết của chúng ta rằng những tổn
thất mà người miền Nam gặp phải sau khi ngừng bắn sẽ được thay thế trên
cơ sở một đổi một. Chúng ta cũng có một lực lượng không quân lớn ở Thái
Lan với mục đích rõ ràng là sẽ hành động như một lực lượng trả đũa, nếu
cần.
Thật vậy, tôi đã có mặt ở San Clemente (Tòa Bạch Ốc miền Tây của Nixon ở
California) lúc Tổng thống Nixon nói với Tổng thống Thiệu vào tháng 4
năm 1973 rằng nếu Bắc Việt vi phạm trọng tâm của Hiệp định Paris, sự trả
đũa của chúng ta sẽ là ngay lập tức và tàn bạo. Tôi không có lý do gì để
nghi ngờ điều đó. Và người Bắc Việt cũng vậy.
Khi chúng tôi ở San Clemente năm 1973, nhân dịp Tổng thống Thiệu được
mời đến thăm Nixon, phía Hoa Kỳ có Chánh Văn Phòng của tổng thống (tương
đương với Bộ trưởng Phủ tổng thống của VNCH hoặc Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ của CSVN) và một vài người khác. Ngoài ra còn có Đại sứ Bunker
mang theo theo hai người, một trong hai người này là tôi. Đây là lần đầu
tiên tôi được giới thiệu với Erlichman (Cố Vấn Đối Nội của Tổng thống),
Haldeman (Chánh Văn Phòng), Ziegler (Phát Ngôn Viên) nói chung là cái
đám bậu xậu dễ chịu đó. Tôi không hề ngờ rằng tất cả cái đám này sẽ bị
sa thải trong một hai năm sau đó, và cuối cùng Nixon cũng từ chức. Tôi
không hiểu tại sao. Ý tôi muốn nói là họ đang ở trong đỉnh cao của sự
nghiệp.
Thế rồi sau đó, bước sang tuần đầu tiên của tháng Tư, tôi không hiểu tại
sao mọi thứ trở nên tồi tệ giống như đã xảy ra. Nixon vừa được tái đắc
cử với đa số phiếu lớn lao đây mà. Có hôm Kissinger nói với tôi khi
chúng tôi ăn sáng riêng với nhau, ông ta gọi Haldeman là “một tên tội
phạm”. Nhưng vì Kissinger hay lăng mạ người khác mà chẳng ai làm gì
được, nhất là khi lăng mạ người nào mà ông ta biết rõ. Kissinger có thể
gọi ai đó là một tên tội phạm chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, chẳng hạn
như người đó làm xáo trộn thứ tự chỗ ngồi trong một bữa ăn tối, vì thế,
tôi không để ý những chuyện như vậy.
Trước khi đi Việt Nam vào năm 1972, tôi đến gặp Bộ trưởng Quốc phòng và
nói, “Thưa bộ trưởng, ông biết tôi đến gặp ông vì tôi đang ở một thời
điểm rất quan trọng trong sự nghiệp của tôi. Tôi mới chạm tuổi 50, tôi
đủ điều kiện để nghỉ hưu, tôi có ba đứa con phải lo cho xong đại học.
Tôi không thể đưa gia đình đến Việt Nam. Ông thấy tình hình ở đó sẽ diễn
biến ra sao? ” “Ồ,” bộ trưởng nói, “anh sẽ không gặp vấn đề gì cả.” Ông
nói tiếp: “Việt Nam sẽ giống như Đức. Chúng ta sẽ để lại ở đó một lực
lượng trong 40 năm.”
Lúc đó là tháng Giêng năm 1972. Chắc chắn, chúng ta sẽ giảm số quân ở
đó, nhưng quân đội Mỹ chắc chắn vào thời điểm đó hoạt động với giả định
rằng sẽ để lại một lực lượng từ 60 đến 100 nghìn người. Giống như Hàn
Quốc hay giống như Đức.
Và trên thực tế Việt Nam là nơi duy nhất mà quân đội Mỹ rút ra sau khi
vào. Ở Hàn Quốc, chúng ta ở lại. Ở Đức, chúng ta ở lại.
Chiến tranh và truyền thông
Chưa bao giờ công chúng Mỹ hiểu được bản chất của cuộc chiến ở Việt Nam.
Bản chất đó chắc chắn không bao giờ được các phương tiện truyền thông Mỹ
làm rõ.
Ở Việt Nam tôi thấy có sự khác biệt rất rõ ràng của từng phóng viên báo
chí. Và tôi thấy những gì họ định làm.
Bob Shaplen là một người bạn tốt của tôi. Và những gì anh cố gắng làm
bên Việt Nam thì ở bên Mỹ đã bị các biên tập viên của anh đảo ngược. Tôi
có dịp xem một số bản nháp đã được những nhà báo từ Sài Gòn gửi đi và
rồi tôi đã nhận thấy sự khác biệt giữa những gì họ đã viết và những gì
đã được in ra. Riêng Shaplen, theo tôi, đã cố gắng tìm sự cân bằng. Có
lần anh ấy nói với tôi trong khi vẫn còn làm cho tờ The New Yorker, rằng
trong suốt một năm tờ báo không hề in một bài nào của anh. Các biên tập
viên giải thích với anh rằng các bài của anh có lợi cho miền Nam Việt
Nam nên không thể in. Đó là khoảng 1973-1974. Tôi biết anh ta và tờ The
New Yorker sau đó đã chia tay.
Một số nhà báo khác có trải nghiệm khá cay đắng hơn. Điều tương tự cũng
xảy ra với một phóng viên của tạp chí Time, anh này cảm thấy rằng một số
khía cạnh của tình hình miền Nam Việt Nam không được in ra ở Mỹ. Có lần
tờ Time chỉ thị cho người của họ viết một câu chuyện về vấn đề đào ngũ
của quân đội miền Nam Việt Nam. Chắc chắn là quân đội miền Nam Việt Nam
có vấn đề đào ngũ. Phóng viên đến gặp tôi để được giúp đỡ. Tôi nói,
“Vâng, tôi sẽ cung cấp cho bạn các sự kiện. Nhưng tôi còn làm hơn thế
nữa. Tôi cũng sẽ cung cấp cho bạn những sự kiện mà chúng tôi biết về vấn
đề đào ngũ trong quân đội Bắc Việt”. Anh ta nói, “Ồ, thật tuyệt vời.”
Vậy mà, khi câu chuyện xuất hiện, Time chỉ nói về phần đào ngũ của quân
đội miền Nam Việt Nam.
Phía bên truyền hình thậm chí còn tệ hơn theo cái nghĩa là bạn kể cho họ
cả nửa giờ nhưng họ chỉ sử dụng trong một phút rưỡi.
Vì vậy, trong số những nhà báo ở Việt Nam, có người tốt và có người xấu.
Tuy nhiên, khi nói đến người không trung thực thì phải kể Frances
Fitzgerald. Tôi quen cha cô ấy rất thân. Cha cô trước đây là sếp của tôi
nên cô ấy và tôi có gặp nhau vài lần. Cô ấy đáng chú ý nếu nói về mặt
phụ nữ. Nhưng về mặt nhà báo, cô là một người khác, nếu tin tức nào
không phù hợp, cô sẽ không đăng.
Tản mạn về chiến tranh và con
người
Ý kiến cá nhân của tôi đã chuyển biến trong thời gian tôi can dự ở Việt
Nam, đó là chúng ta phải đặt mình vào vị trí của một bác sĩ đối mặt với
một bệnh nhân có nhiều chỗ ngứa và nhiều vết thương trên cơ thể, và nếu
bạn chỉ điều trị hết chỗ ngứa này đến chỗ ngứa khác, từng vết thương này
sang vết thương khác, bạn sẽ không giải quyết được vấn đề nguyên nhân
nào đã gây ra. Và thực tế là vấn đề ở miền Nam Việt Nam là bộ máy chiến
tranh nằm ở Hà Nội, nhưng chúng ta chưa bao giờ giải quyết vấn đề bộ máy
chiến tranh ở Hà Nội.
Để tôi kể cho bạn một chuyện. Vào ngày 3 hoặc 4 tây tháng 5 năm 1972,
lực lượng Nam Việt Nam chiếm Quảng Trị, vốn là thị xã duy nhất lọt vào
tay miền Bắc trong cuộc tổng tấn công Phục Sinh năm 1972.
Quân miền Nam đã tái chiếm và ngày hôm sau tôi dự buổi tiếp tân tại Đại
sứ quán Nhật Bản mừng sinh nhật Nhật Hoàng. Một trong những vị khách mời
là người trước đây là Trưởng đoàn Ba Lan trong ICC (Ủy ban Kiểm soát
Đình chiến Việt Nam theo Hiệp định Genève 1954) — xin đừng nhầm với ICCS
(Ủy ban Quốc tế về Kiểm soát và Giám sát Đình chiến Việt Nam theo Hiệp
định Paris 1973) sau này. Anh chàng Ba Lan này hóa ra là một người hoạt
động tình báo rất giàu kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về tình hình thế
giới. Anh cũng từng là giám đốc của hãng hàng không Ba Lan.
Dịp này, tôi nói, “Anh nghĩ thế nào về Quảng Trị?” Anh ta trả lời, “Thực
tình, tin này ấn tượng nhưng không ăn thua gì.” Tôi nói, “Sao anh lại
nói vậy?” Anh trả lời, “Nó không ăn thua gì vì miền Nam Việt Nam sẽ thua
trận tại Washington.” Anh ta nói câu đó vào tháng 5 năm 1972.
Thật dễ để biết ý định của Bắc Việt vì Bắc Việt không giữ bí mật ý định
của họ. Họ tiếp tục cho cán bộ của mình học tập đến tận chi tiết đáng
kinh ngạc về những gì họ định làm. Và nó hơi giống Hitler với cuốn Mein
Kampf (tự thuật của Hitler nói về tư tưởng chính trị và kế hoạch tương
lai cho nước Đức). Họ cứ tiếp tục nói gì họ sẽ làm nhưng chúng ta vẫn
tiếp tục không tin. Và đơn giản là chính sách quốc gia của chúng ta
không đáp ứng với tin tức tình báo mà chúng ta thu thập.
Lấy ví dụ, chúng tôi bắt đầu nhận được báo cáo của Hà Nội vào mùa thu
năm 1974 nói rằng giờ thì Nixon không còn làm tổng thống nữa, cuộc chơi
đã đổi khác, cho nên cần phải làm vài trắc nghiệm trong lĩnh vực quân
sự.
Tôi xem tin này rất quan trọng. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1974, tôi còn
nhớ, khi chúng tôi nhận được kế hoạch cho năm 1975 của họ, tôi đã lái xe
đến Biên Hòa để nói chuyện với trưởng nhóm cấp cơ sở của tôi trong khu
vực bắt được tài liệu đặc biệt này. Chúng tôi đi đến kết luận rằng ngôn
từ trong tài liệu này rất giống với chỉ thị 90 của COSVN (Trung ương cục
miền Nam, Cục R), là loại chỉ thị đã từng xuất hiện một vài tháng, trước
khi có cuộc tổng tấn công năm 1972.
Một ngày nọ, tôi có dịp hỏi Kissinger những gì ông nghĩ về ngành tình
báo của chúng ta. Không nói riêng Việt Nam, mà nói chung. Ông ta vẫn
nhận được hàng núi thông tin tình báo trên toàn thế giới của CIA vào
thời điểm đó. Ông nghĩ gì về giá trị của nó? Ông ta suy nghĩ một lúc rồi
nói, “À, khi nó hỗ trợ chính sách của tôi, nó rất hữu ích.” Tôi nghĩ
bụng, trọng tâm của vấn đề chính là đây đây. Đó là chính sách của Mỹ
không được xây dựng để đáp lại những gì mà thông tin tình báo cho thấy.
Chúng ta xây dựng chính sách trước, rồi sau đó chúng ta cố gắng tìm ra
thông tin tình báo để hỗ trợ chính sách.
Ba cơ quan chính thu thập thông tin tình báo tại Việt Nam là Tình báo
của Tùy viên Quốc phòng (DAO-DIA), Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) và
CIA. Trong thực tế có rất ít mâu thuẫn giữa ba nơi. Không có những
chuyện trái cẳng ngỗng giữa những tin được thu thập. Chưa bao giờ xảy ra
tình huống mà DAO-DIA nói điều gì đó hoàn toàn khác với mọi người. Chúng
tôi phối hợp rất chặt chẽ với (Đại tá) Bill LeGro, giám đốc tình báo cho
DAO trong suốt thời gian sau Hiệp định Paris. Chẳng có vấn đề nào cả.
Vấn đề là chính sách của Mỹ dựa trên giả thuyết rằng Chiến tranh Việt
Nam đã kết thúc. Các lực lượng quân sự của Mỹ đã bị loại và cho dù có
bất cứ chuyện gì xảy ra, Tổng thống Ford cũng không dám mạo hiểm đánh
mất cơ hội đắc cử tổng thống của ông bằng cách đưa lực lượng Mỹ trở lại
Việt Nam. (Nhưng cuối cùng Ford cũng thất bại trước Jimmy Carter.)
Ngay từ năm 1974, chúng ta đã không cung cấp đồ tiếp liệu kịp thời cho
Nam Việt Nam. Chúng ta đã không làm đúng với nghĩa vụ của mình. Bấy giờ
tôi đã báo cáo rằng bất cứ khi nào người miền Nam mất niềm tin vào sự
ủng hộ của Mỹ, họ sẽ sụp đổ. Tôi còn nhấn mạnh rằng niềm tin – hay là
tinh thần – quan trọng hơn là mức viện trợ tiếp liệu thực sự.
Người Việt Nam có thể nhận ra một vài điều xảy ra lúc đó. Ý tôi là một
cú đấm khủng khiếp đối với Việt Nam, mà tôi nghĩ hầu hết mọi người sẽ
không nghĩ đến, đó là cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973 khi quá
nhiều những món trước đây định giao cho Việt Nam lại được chuyển cho
Israel. Và chuyện như vậy đã làm hỏng toàn bộ quy trình lập kế hoạch của
Bộ Quốc phòng.
Năm điều đã xảy ra vào năm 1973 mà Việt Nam chẳng liên quan gì nhưng đã
gây ảnh hưởng rất nặng nề. Đầu tiên là Chiến tranh Ả rập-Israel đã lái
sự chú ý và các nguồn cung cấp quân cụ quan trọng của Bộ Quốc phòng sang
hướng khác ngoài Việt Nam. Lệnh cấm vận dầu hỏa sau đó và giá dầu thô
tăng cao đã gây ra tác động mạnh nhất cho nền kinh tế Nam Việt Nam. Áp
lực mới nổi lên của nước ngoài dẫn đến phản ứng tâm lý mạnh mẽ của người
Mỹ chống lại chuyện chính phủ tiếp tục thực hiện những cam kết tốn kém ở
nước ngoài. Vụ quân đội Chile đảo chính lật đổ Tổng thống Salvador
Allende đã làm phe tự do và phe cánh tả bực bội thêm, sự thất vọng của
họ được trút lên đầu miền Nam Việt Nam. Quốc hội ngày càng phẫn nộ với
những tiết lộ liên quan đến Watergate cho nên đã trừng phạt Nixon bất kỳ
chỗ nào có thể, trong đó có các lĩnh vực liên quan đến Việt Nam.
Tôi nghĩ ông Thiệu biết rất rõ rằng nếu không có Mỹ, ông ta không thể
sống sót. Tôi quen rất thân Hoàng Đức Nhã, cháu ông. Nhã đặc biệt ở chỗ
là người duy nhất trong đám cận thần của tổng thống học ở Hoa Kỳ về. Và
Nhã hiểu chuyện đó rõ hơn nữa.
Là người đã trải qua bốn năm đại học ở Mỹ, anh ta hiểu rõ tính chất trồi
sụt bất thường của tình hình chính trị Mỹ, những chuyện thăng trầm do
những áp lực thuần túy trong nội bộ nước Mỹ gây ra, các áp lực này không
liên quan gì tới yếu tố nước ngoài nhưng lại tác động đến quan hệ đối
ngoại. Vì vậy, Nhã biết nhiều hơn những người khác đang nắm quyền lực ở
Việt Nam về cách vận hành của Quốc hội Mỹ. Xét cho cùng, làm thế nào mà
một người như Thiệu hiểu rõ cách vận hành của Quốc hội Mỹ khi ông làm
việc với quốc hội Việt Nam, một quốc hội luôn luôn biết vâng lời?
Khi Phước Long mất vào đầu năm 1975, điều đó không quan trọng về mặt
quân sự, nhưng rất quan trọng về mặt biểu tượng. Đó là biểu tượng của
việc Mỹ từ chối thực hiện “sự trả đũa ồ ạt và tàn bạo” mà Nixon đã hứa
với Thiệu. Miền Bắc đang trắc nghiệm để thăm dò tình hình và tình hình
thì ngày càng trở nên thuận lợi hơn, cho nên họ tiếp tục ngày càng lấn
sâu hơn
Các nhà lập pháp
Sau đó là phái đoàn Quốc hội đến. Tôi nghĩ cách hành xử của (hai dân
biểu) Fraser và Abzug trong phái đoàn không thể chấp nhận được. Abzug
bước vào phòng họp sau khi đến và hỏi, “Ai trong các bạn là Polgar?” Sau
khi tôi tự xác nhận, bà nói, “À, tôi đã được cảnh báo là phải cẩn thận
khi gặp ông.”
Bấy giờ có một sinh viên miền Nam đang ngồi tù, cuộc tranh đấu của anh
ấy gây tí tiếng vang ở Hoa Kỳ. Bà Abzug đòi phỏng vấn anh ta, dù trước
đó bà đã hô hoán rằng anh ta đã chết, chính quyền miền Nam đã giết anh
ta.
Tôi trả lời: “Không, người miền Nam Việt Nam không làm chuyện đó. Họ có
thể tìm ra bất cứ ai đang ngồi tù.” Bà nói: “Nếu thế thì tìm người này.”
Chúng tôi đã tìm ra anh ta đang ở tù mãi tận Tuy Hòa thuộc Quân đoàn 3.
(Polgar nhầm, Tuy Hòa thuộc QĐ 2, có lẽ do gõ nhầm khi chuyển văn nói
thành văn viết?) Chỗ đó hơi xa, không thể đi bằng xe mà phải dùng trực
thăng. Bà nói thời gian duy nhất còn lại mà bà có thể gặp anh sinh viên
là sáng Chủ nhật, một bất tiện cho mọi người, nhưng cũng không sao.
Chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục ra vào nhà tù. Cho tới khi
mọi thứ xong xuôi đâu vào đấy, bà ta lại bảo, “À này, tôi không còn quan
tâm đến chuyện này nữa”. Rút cục, bà chẳng bao giờ đi gặp anh ta.
Dân biểu Millicent Fenwick cũng có mặt trong phái đoàn và mặc dù không
có cảm tình với chiến tranh Việt Nam, bà vẫn giả vờ gật gù lẳng nghe các
buổi thuyết trình, nhưng Abzug thì quá quắt, Frazer cũng vậy.
Lấy ví dụ, khi Tổng thống Thiệu mời phái đoàn dùng cơm tối, hai người đó
không xuất hiện. Họ chẳng thông báo hủy hoặc cho biết bằng cách này cách
khác, nhất định không ló mặt. Họ đã có mặt tại buổi tiếp đón của thủ
tướng, diễn ra trước bữa cơm tối của tổng thống. Đêm đầu tiên họ tới Sài
Gòn, Đại sứ mời cơm tối cả đoàn. Mọi người đều tới ngoài Abzug. Bữa đó
tôi rất thất vọng vì tôi đã thu xếp để ngồi cạnh bà!
Ban Mê Thuộc và kế tiếp
Theo tôi, không ai nghĩ rằng cuộc tấn công Ban Mê Thuộc sẽ xảy ra vào
ngày 5 tháng 3, nhưng người nào có đầu óc tỉnh táo cũng nghĩ Bắc Việt sẽ
mở một cuộc tấn công lớn ở Cao nguyên (bây giờ gọi là Tây nguyên).
Chúng tôi có trong tay sơ đồ trên giấy tờ của cuộc tấn công, mô tả cách
họ cắt những đường lộ, chuyện đó đã xảy ra, cách họ di chuyển những đơn
vị cấp sư đoàn, chuyện đó đã xảy ra, nhưng cuối cùng thì Washington
không tin. Lý do Washington không tin là bởi vì — mà thôi, tôi không
tiện nói ra những nguồn và phương pháp mà tôi không được phép tiết lộ —
nhưng đại khái nói chung là tình báo ở Washington không chấp nhận những
ước tính xuất phát từ Việt Nam do cả hai bộ phận DAO và CIA thu thập,
rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn vào năm 1975. Họ nhất định không tin.
Có nhiều người cho chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra tại Cao nguyên.
Tất cả đều đồng ý sẽ có tấn công lớn. Chúng tôi có nhiều nguồn tin nói
rằng cuộc tấn công sẽ khởi sự ở Cao nguyên. Nhưng Washington vẫn không
tin.
Phía Nam Việt Nam cũng không tự mình nghĩ ra một chiến lược nào khác,
ngoài chuyện đưa một trung đoàn ra chỗ này, một trung đoàn ra chỗ nọ để
bảo vệ. Còn trung đoàn được tăng cường cho Ban Mê Thuộc thì không đủ sức
để đối phó với tình hình. Quá xui cho họ.
Các lực lượng này thì tốt cho nhiệm vụ duy trì an ninh cho địa phương và
là một lực lượng trừ bị tốt khi ta ở thế tiến công. Nhưng nếu nói một
cách khá chính xác thì những lực lượng này không được huấn luyện hoặc
trang bị để chống lại các đơn vị chính quy có xe bọc thép yểm trợ.
Sau khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú ở Cam
Ranh và ra lệnh rút quân ở Cao nguyên. Tôi nhớ cuộc họp diễn ra vào ngày
thứ Sáu.
Phú cho thi hành lệnh vào thứ Bảy. Tôi nhận được tin này vào sáng thứ
Bảy. Tôi đi tìm Charles Timmes (Thiếu tướng, một trong những phụ tá cao
cấp của Polgar) đang ở JGS – Bộ Tổng tham mưu VNCH, và nói với ông, “Tôi
chẳng biết cái quái gì đang xảy ra.”
Tôi yêu cầu một phụ tá cao cấp khác đi gặp tướng Đặng Văn Quang, cố vấn
an ninh quốc gia của Thiệu để hỏi xem chuyện gì đang xảy ra ở Quân đoàn
2. Quang trả lời, “Ông biết đó, tình hình không tốt. Có vẻ như chúng tôi
không thể mở lại các đường giao thông, chúng tôi lo ngại trước tình
hình, chúng tôi phải chuyển quân loanh quanh, nhưng chẳng có chuyện gì
xảy ra ở Quân đoàn 2.”
Dường như Quang không biết gì về chuyện Phú đang lui quân.
Timmes không tìm ra tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, và nói
chung, không khí hôm thứ Bảy đó giống như mọi thứ Bảy khác. Nhưng Timmes
có gặp tướng Trần Đình Thọ, trưởng phòng hành quân (Phòng 3) để hỏi về
tình hình tại Quân đoàn 2. Tướng Thọ nói, “Không có gì xảy ra ngoài
những chuyện các ông đã biết”.
Bộ Tổng tham mưu dường như cũng chẳng biết Phú đang lui quân. Tôi tìm
người của tôi ở Pleiku. Một người đang lang thang đâu không biết, một
người đang khám răng. Tôi bèn gọi cho Moncrieff Spear, Tổng lãnh sự ở
Quân đoàn 2, và nói, “Tốt hơn hết là anh nên đưa nhân viên của anh ra
khỏi Pleiku.” Ông ta trả lời, “Anh điên rồi.” Ông ta đang ngồi ở Nha
Trang. Tôi nói, “Không, tôi có lý do để tin rằng chuyện đó xảy ra.” Ông
ta nói, “Bộ anh ra lệnh cho tôi di tản khỏi Plieiku hả?” Tôi trả lời,
“Anh biết là tôi không có quyền đó, nhưng tôi có thể kết luận rằng di
tản là một hành động khôn ngoan.”
Điểm tôi muốn nêu ra ở đây là những gì mà tướng Phú đã làm váo sáng hôm
đó, cho dù trước đây ông ta có những công trạng gì đi nữa, là một hành
động hoàn toàn thiếu phối hợp.
Thậm chí tướng Phú cũng không nói cho Tổng Lãnh Sự biết, một chuyện mà
lẽ ra ông ấy có nghĩa vụ phải làm, bởi vì Tổng Lãnh Sự là đại diện chính
của Mỹ tại Quân đoàn 2.
Tướng Quang cũng không biết. Ý tôi là nếu sáng đó có chuyện gì quan
trọng xảy ra thì Quang cũng tỏ ra bận rộn, nhưng không, ông ấy vẫn tỏ ra
bình thường như một sáng thứ Bảy bình yên. Còn tướng Thọ, trưởng phòng
hành quân cũng không biết.
Theo suy luận của tôi, Phú đã khởi động một chuỗi hành động do hiểu lầm
ý định của Tổng thống Thiệu, và Phú không biết tí gì rằng thực hiện một
cuộc rút lui như vậy trong thực tế rất là khó khăn biết chừng nào. Sự
thực là không hề có cái gọi là di tản tốt đẹp. Mỗi lần di tản trước sau
gì cũng trở thành một thảm họa lớn lao.
Thế rồi Bắc Việt nắm bắt được cuộc di tản của Phú. Xe tăng miền Bắc xoay
xở đến được một con đường ven quốc lộ ở Phú Bổn và chờ sẵn đoàn quân rút
lui. Thế là cuộc tàn sát xảy ra.
Trước khi có cuộc họp ở Cam Ranh, tôi đã chính thức thông báo cho
Washington biết rằng cuộc chiến đã chấm dứt. Tôi còn nhớ đã nói chuyện
này với một trong những người tôi hay tiếp xúc, tôi xin miễn nêu tên,
một người mà tôi vẫn tin cậy. Ông ta nói với tôi miền Nam không thể chịu
đựng trước sự kiện mất Ban Mê Thuộc và kế tiếp sẽ mất Cao nguyên, mà ông
nghĩ là hậu quả không tránh khỏi của chuyện mất Ban Mê Thuộc. Ông ta
thuộc hàng tướng lãnh.
Tại thời điểm đó, không có chuyện gì xảy ra tại Quân đoàn 1.
Thế rồi tai họa đổ xuống. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân lục chiến
lẫn Nhảy dù khỏi Quân đoàn 1. Quyết định này phá hoại bất kỳ kế hoạch
kháng cự nào mà tướng Ngô Quang Trưởng có được. Và rồi sư đoàn Thủy quân
lục chiến thua trận và không còn dùng được nữa bởi vì lúc đầu họ nhận
lệnh rút nhưng sau đó lại có lệnh quay đầu lại, trở lại chỗ cũ, một động
tác quân sự bất khả thi. Trong thực tế, sư đoàn Thủy quân lục chiến mất
đi một số quân cụ một phần vì không thể nào thu hồi quân cụ giữa dòng
người tỵ nạn đang chảy siết.
Dĩ nhiên, đến nước này thì Thiệu chơi vơi trên đại dương và đi tìm ống
thở. Nhưng cho dù ông ấy có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng tạo khác
biệt. Trò chơi đã chấm dứt.
Tôi tin chắc rằng ngay khi mà người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp
bỏ chạy, mọi thứ sẽ sụp đổ. Tôi hoàn toàn đồng ý với Đại sứ Martin ở
điểm đó.
Martin rời Việt Nam cùng với phái đoàn Quốc hội vừa đến Việt Nam vì họ
có sẵn máy bay, ông ấy có thể quá giang miễn phí. Ông tin rằng mình có
thể vận động với một số dân biểu, muốn trở về Mỹ để điều trần trước Quốc
hội.
Theo tôi biết thì trong thời gian Martin ở Washington, người ta phát
hiện ông mắc một loại bệnh cần phải mổ, do đó, chuyến về Việt Nam bị dời
lại. Khi biết người ta không muốn làm ồn ào về chuyện ông phải mổ, ông
trở về quê nhà ở North Carolina. Ngay cả Bộ Ngoại giao cũng không tìm ra
ông, hơn nữa, ông thuộc loại người thích giữ bí mật. Martin trở lại Việt
Nam vào cuối tháng 3, trước khi mất Đà Nẵng và tai nạn máy bay C5A.
Trẻ mồ côi và máy bay rơi
Khi người ta gửi các trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam trên chiếc C5A thì đó
là một đề nghị thuần túy đánh động tâm lý quần chúng.
Bác sĩ Phan Quang Đán, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng y tế cảm thấy cần
phải làm một cái gì đó cho đám trẻ mồ côi. Đại sứ Martin và vài cố vấn
cảm thấy nếu đưa số trẻ này đến Mỹ theo số lượng lớn sẽ đánh động dư
luận quần chúng, một câu chuyện đầy ắp tình người.
Cùng lúc đó, văn phòng tùy viên quốc phòng DAO có nhiều nữ nhân viên
trong tư thế sẵn sàng di tản, nhưng do thủ tục hành chính, họ chưa khởi
hành được vì chính phủ Mỹ chưa phát lệnh di tản chính thức.
Ai phải chi cho tiền máy bay đưa họ ra khỏi Việt Nam? Chính phủ Mỹ đúng
không? Nếu vậy thì tôi nghĩ ta có thể cho các nữ nhân viên này đi chiếc
máy bay quân sự đang trống bụng sau khi bốc hàng hóa xuống, và chỉ đinh
họ là những người tháp tùng các trẻ mồ côi, luôn tiện giải quyết luôn
chuyện tiền bạc phải kết toán như thế nào.
Có nhiều người vì nhiều lý do khác nhau đã lạm dụng số chỗ ngồi trên
chiếc máy bay to lớn này. Vợ tôi cũng ra khỏi Việt Nam với tư cách tháp
tùng trẻ mồ côi, nhưng bà ấy đi với Cathay Pacific, một hãng hàng không
dân sự, cùng ngày với chiếc C5A rơi.
Lúc bấy giờ CIA chúng tôi có hai bác sĩ, khi máy bay rơi, họ phụ đưa các
trẻ vào bệnh viện Seventh Day Adventist ở Sài Gòn (bệnh viện do một giáo
phái Tin Lành điều hành). Một trong hai bác sĩ của tôi đầu óc còn tỉnh
táo, có mang theo máy ảnh, chụp được rất nhiều ảnh trông rất tang
thương.
Tôi cho đại sứ xem ảnh, ông ta suy nghĩ thật lâu để xem có nên công bố
số ảnh này hay không. Cuối cùng, ông kết luận rằng những hình ảnh khủng
khiếp này, tất cả đều rõ ràng, màu sắc sinh động cho thấy những cơ thể
méo mó của phụ nữ và trẻ con, thay vì khơi động lòng thương xót của quần
chúng, sẽ tạo ra kết quả ngược lại, làm quần chúng mất tinh thần. Đó
chính xác là những gì đã xảy ra tại DAO bấy giờ. Các ảnh này không được
phổ biến.
Đằng sau hậu trường
Vài ngày trước khi Thiệu từ chức, một sĩ quan Hungary cao cấp trong Ủy
ban ICCS gặp tôi và nói, “Này này, anh phải thực tế, anh phải biết là
các anh đã thua rồi.” Tôi trả lời, “OK, tôi thú nhận chúng tôi đã thua.”
Rồi ông nói, “Thua trận bắt buộc dẫn đến hậu quả chính trị.” Tôi nói,
“Tôi đồng ý với anh.” Ông nói, “Hậu quả chính trị hiển nhiên sẽ là cay
đắng, nhưng cái phe mà tôi đại diện cũng không muốn…” — ông ta bỏ lửng
phe mà ông đại diện là phe nào — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần
thiết. Có thể làm cái gì đó để không thay đổi kết quả chiến tranh, vì
chiến tranh đã chấm dứt, mà là để tạo một kết thúc lẽ ra không nên dẫn
đến…” — một lần nữa ông nhắc lại — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần
thiết.”
Tôi mới hỏi: “Anh có ý kiến gì không?” “Thật ra thì,” ông nói, “anh biết
đoàn (Hungary) chúng tôi ở Tân Sân Nhất hay nói chuyện với các đồng
nghiệp Bắc Việt. Chúng tôi cũng có người ở Hà Nội. Chúng tôi đoán có thể
làm một cái gì đó dựa theo những đường nét sau đây. Thiệu phải từ chức.
Hoa Kỳ phải hứa không can thiệp công chuyện của Nam Việt Nam ngoài
chuyện duy trì một đại sứ quán bình thường. Phía Nam Việt Nam thì phải
có một chính quyền gồm những người mà Bắc Việt có thể chấp nhận. Đó là
những nét chính.”
Tôi nói, “Vâng, thế thì cám ơn anh. Dĩ nhiên tôi sẽ báo cáo những gì
chúng ta vừa trao đổi. Tôi sẽ bàn với đại sứ để sau đó chuyển về
Washington, và rồi sẽ nói lại với anh sau. Trong khi chờ đợi câu trả lời
từ Washington, anh làm ơn nói chuyện lại với các bạn anh để tìm hiểu một
số người nào mà họ xem là có thể chấp nhận được trong chính phủ hộ tôi
được không?”
Vài ngày sau đó, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp ông bạn Hungary và nói,
“Thấy chưa, tôi đã thực hiện điểm đầu tiên của anh. Chúng tôi vẫn chưa
có câu trả lời dứt khoát (từ Washington). Anh có đề nghị nào về những
cái tên chưa?” Ông trả lời, “À, có chứ, nhưng tôi không rành tiếng Việt
lắm, cho nên tôi đã ghi ra.” Ông móc cuốn sổ tay ra và đọc cho tôi một
số tên, tất cả đều quen thuộc với tôi.
Xong tôi nói, “Tốt lắm, tất nhiên tôi sẽ tiếp tục báo cáo rồi sẽ cho anh
biết sau.” Nhưng ông ta nói, “Các đồng nghiệp của tôi muốn nói thêm như
thế này nữa, họ nói với tôi rằng khi họ nói các anh phải quyết định
nhanh nhanh thì điều đó có nghĩa là trong vòng vài ngày, không phải vài
tuần.”
Tôi xin dừng lại ở đây để nói thêm rằng ông đại sứ rất siêu lòng về giải
pháp này. Ông nghĩ rằng đây là chuyện mà chúng ta có thể làm được. Nhưng
chúng tôi gặp phải phản ứng rất tiêu cực của Kissinger. Kissinger chẳng
muốn điều đình gì cả.
Thế rồi chúng tôi gặp lại nhau ngày 26 hoặc 27 gì đó. Lần này, ông nói,
“Thôi, tôi nghĩ bây giờ đã quá trễ.” Nói cách khác, khoảnh khắc mà họ
xem là thuận lợi để có một thỏa hiệp nào đó đã vuột khỏi tầm tay.
Lý do tôi kể ra chuyện này là vì tôi muốn nói những lời mạnh mẽ nhất có
thể được, rằng chúng ta chưa hề có một thỏa hiệp nào và chúng ta chưa hề
làm những gì mà phía bên kia muốn chúng ta làm, còn chuyện Thiệu từ chức
là hoàn toàn vì những lý do khác, nhưng tôi cứ làm bộ với họ rằng chúng
ta có can dự vào chuyện này.
Họ muốn tránh làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết, nhưng cuộc thu
xếp không thành theo cái nghĩa là người Hungary không còn cảm thấy họ có
thể đóng góp một cái gì đó để mang lại giải pháp.
Thiệu từ chức
Ngày Thiệu từ chức là thứ Hai, 21 tháng Tư. Ông đại sứ không nói với
Thiệu về chuyện từ chức, nhưng tính đến ngày 19 tháng Tư, khi đại sứ nói
chuyện với tổng thống, rõ ràng là Thiệu đã mất tin tưởng với tất cả mọi
người, và cũng rõ ràng là mọi người đều thấy Thiệu là trở ngại cho bất
kỳ một thu xếp nào, bất kỳ một ngưng bắn dễ chịu nào, nói tóm lại là nếu
còn Thiệu thì chẳng làm được bất kỳ chuyện gì.
Một hôm, ông đại sứ gọi tôi vào văn phòng, cho biết ông vừa đi gặp Tổng
thống Hương và Hương cho biết không thoải mái khi Thiệu vẫn còn ở Việt
Nam. Hương nghĩ rằng sự có mặt của Thiệu làm loãng đi quyền lực của
Hương và Hương coi như bị tê liệt, bao lâu mà Thiệu vẫn còn đó. Hương
khẩn thiết quay sang Đại sứ Martin bởi vì chỉ có Hoa Kỳ mới ở vào vị trí
có thể làm gì đó để giải quyết chuyện này. Hương còn nói đưa Thiệu ra
khỏi Việt Nam cần phải làm trong vòng tuyệt đối bí mật.
Thật vậy, Đại sứ Martin, một khi nghe đến tuyệt đối bí mật, nếu suy luận
một cách hợp lý, thì ông bèn nghĩ ngay đến CIA. Ông kể câu chuyện của
Hương và hỏi tôi: “Liệu anh có làm được không?”
Tôi trả lời, “Vâng, tôi làm được, thưa Đại sứ, nhưng với một số điều
kiện. Ông cứ để yên mình tôi làm. Ông giao nhiệm vụ cho tôi thì cứ để
tôi làm, đừng làm theo kiểu một nhóm, ông chịu không?” Hôm đó phải là
ngày 24.
Mọi chuyện xảy ra dồn dập sau ngày đó. Tôi biết chỗ để tìm ra chiếc máy
bay thích hợp. Tôi sử dụng Tướng Timmes làm đầu mối liên lạc chính (với
chỗ có máy bay).
Bấy giờ Thiệu đang ở căn biệt thự bên trong bộ Tổng tham mưu. Các tướng
lãnh Việt Nam đều có biệt thư trong khu vực gần Tân Sơn Nhất này.
Chúng tôi đồng ý với một kế hoạch hành động. Có một vài chuyện cần phải
lo lắng. Lo lắng về công luận. Lo lắng phe quân đội bất tuân kỷ luật có
thể xen vào, một số sĩ quan trung cấp muốn lấy tiếng trong lịch sử (như
đã từng xảy ra đảo chánh và dội bom). Lo lắng về các trạm kiểm soát của
cảnh sát trên đường vào Tân Sơn Nhất, các trạm này đã có sẵn, chẳng liên
quan gì đến chuyện Thiệu ra đi.
Vì thế, chúng tôi phải bịa ra một câu chuyện, giả vờ đi dự một buổi liên
hoan ở Bộ Tổng tham mưu. Chúng tôi dùng các xe màu đen bốn cửa thông
thường của Mỹ, trong đó có xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, vừa đủ
để chở từ 10 đến 12 người, cọng thêm các tài xế, cọng thêm Timmes, cọng
thêm tôi, cọng thêm hành lý.
Chúng tôi dặn mỗi người chỉ được mang một kiện hành lý và hẹn gặp nhau
tại biệt thự của Thủ tướng, là tướng Khiêm. Lý do chọn nhà của Khiêm thứ
nhất nhà này rộng nhất, thứ hai ít gây chú ý hơn nhà của Thiệu.
Chúng tôi cũng đồng ý sẽ bay tới Đài Loan, nơi Thiệu có ông anh làm đại
sứ, ông này sẽ thu xếp với nhà chức trách Đài Loan để cho mọi người nhập
cảnh. Hơn nữa, Thủ tướng Khiêm trước đây đã từng làm đại sứ ở đó nên ông
cũng có những quen biết riêng.
Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng chịu ảnh hưởng bởi khả năng của
chiếc DC-6. Đài Loan là điểm xa nhất mà loại máy bay này đến được mà
không cần tiếp nhiên liệu.
Về phía tài xế thì tôi chọn những người mà tôi nghĩ là hay nhất, đáng
tin cậy nhất, và có tinh thần cao nhất. Dĩ nhiên, tôi không muốn dùng
tài xế người Việt trong trường hợp này.
Một trong những tài xế là Frank Snepp (ngạch Phân tích gia CIA, sau 75
viết cuôn Decent Interval, cũng thuật lại những ngày cuối cùng mất miền
Nam.) Timmes ngồi ghế hành khách vì cấp bậc anh ta không cho phép anh
lái xe và ngạch trật của tôi cũng vậy.
Tiếp theo là tìm một cấp đại tá cảnh sát Việt Nam được biệt phái từ quân
đội sang, tôi muốn có “một người nào có quyền ra lệnh” để lỡ gặp những
người canh gác có thắc mắc, hỏi han làm khó.
Thật ra tôi nghĩ chắc chẳng có ai làm khó khi thấy bốn chiếc xe Mỹ do
bốn người Mỹ lái, họ sẽ nhận ra xe của đại sứ Mỹ đi họp.
Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì nhưng tôi vẫn muốn có ông đại tá quân
đội biệt phái sang cảnh sát để phòng hờ trường hợp có quá đông người
trên các xe.
Chúng tôi không rõ Thiệu sẽ mang theo người nào. Chúng tôi biết đích
thân Thiệu sẽ đi, Khiêm cũng vậy, nhưng không biết số người còn lại gồm
những ai.
Do đó, chúng tôi mang theo một số giấy tờ đã ký sẵn nhưng tên thì để
trống, để Timmes sẽ điền vào bằng tay. Chúng tôi sẽ đưa những giấy tờ
này cho trưởng phi cơ và dặn, “Khi nào bạn đến Đài Loan, chúng tôi sẽ
thông báo cho giới chức quân sự Mỹ, bạn phải xin nói chuyện với giới
chức quân sự Mỹ cao cấp nhất ở đó, và trao cho người đó bao thư này,
trong đó có tất cả giấy tờ về hành khách.”
Cùng khi ấy, một chiếc xe khác đưa ông đại sứ đến thẳng máy bay vì ông
muốn từ giã Thiệu. Trước đó, tôi nói với ông, “Tôi không muốn ông đi
cùng xe với tôi loanh quanh khắp thành phố, như vậy sẽ tạo thêm rủi ro.”
Chúng tôi đổi xe với nhau, ông ấy dùng xe tôi, tôi dùng xe ông.
Mọi việc diễn ra đúng y bon như đồng hồ Thụy Sĩ, giống như mọi chuyện
thường xảy ra khi chúng tôi làm một mình. Chúng tôi đưa mọi người đến
máy bay an toàn, đưa họ cùng hành lý lên máy bay, và máy bay cất cánh.
Tôi đi cùng xe với Thủ tướng. Nếu tôi không lầm, tướng Timmes đi với
Thiệu. Không khí rất êm ả, không nghe tiếng khóc. Bà con họ đã đi hết
rồi.
Thật ra tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên bởi vì trong số tất cả những
người thân cận với Thiệu, người duy nhất mà ông muốn mang theo lên máy
bay là cựu Thủ tướng Khiêm. Cái này hơi buồn cười bởi vì trong những năm
trước đó, các quán cà phê ở Sài Gòn đồn rằng có sự kèn cựa giữa Thiệu và
Khiêm, người này sẽ đẩy người kia đi, đại loại như vậy. Thật vậy, tôi
không hề muốn kể công bởi vì thực sự tôi có quan hệ tốt với Thủ tướng,
tôi luôn luôn đánh giá ông là người trung thành với Thiệu.
Đêm hôm đó có tất cả 14 người đi trên phi cơ, toàn là đàn ông.
Bữa đó tôi lo lo, lỡ có chuyện gì không vui xảy ra nếu có người biết
được Thiệu có mặt trong đoàn xe. Nhưng tôi lại nghĩ thế nào dân Việt Nam
cũng phân biệt được giữa một đoàn xe trông có vẻ quan trọng của tòa đại
sứ Mỹ khác với cách di chuyển thường lệ của Thiệu trong thành phố bằng
chiếc Mercedes cũ.
Lúc đó trời tối và tôi nghĩ khó có chuyện xen vào công việc của bốn
chiếc xe Mỹ. Chiếc dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice bọc thép của đại
sứ, trong xe có tôi, có ông đại tá cảnh sát bên cạnh. Vấn đề lớn nhất
của tôi là rủi cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ và chiếu đèn sáng vào bên
trong thì họ sẽ nhận ra Thiệu và Khiêm.
Nhưng trong thực tế, khi bốn chiếc xe trông có vẻ quan trọng tiến gần
sát trạm kiểm soát của cảnh sát, mọi người đứng nghiêm và chào tay; và
đó là điều tôi mong đợi.
Thực ra, kinh nghiêm về thứ tâm lý này tôi đã học được sau lần đưa một
nhân vật quan trọng đào thoát khỏi Đông Berlin trên một chiếc xe loại
lớn như vậy, chúng tôi tính toán rằng khi lính gác Soviet thấy một chiếc
xe loại này, họ sẽ chào tay. Và họ chào thật.
Số vàng để lại
Đêm hôm đó, Thiệu không mang theo một tí vàng nào. Chuyện đó (người ta
nói Thiệu mang vàng đi) là chuyện ba láp. Đương nhiên là ông không mang.
Không một ai có đầu óc tỉnh táo mà lại bỏ vàng trong va li kêu leng keng
như vậy, trời ạ. Tôi quen một người Việt mang vàng đi và tôi biết số
vàng này được nén chặt và bọc lại trong lớp quần áo có giây thun hoặc
băng keo cột lại. Chẳng ai muốn thứ này kêu lục cục trong túi hành lý.
Sự thực là kho dự trữ vàng của miền Nam nằm yên tại chỗ và vẫn còn đó
khi đạo quân miền Bắc vào. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam quản lý số vàng
đó, được định giá từ 18 đến 20 triệu đô la. Cái giá đó là tính theo giá
một ounce vàng là 35 đô la. Nhưng khi Nixon đánh tụt giá đồng đô la vào
năm 1971 thì 75 đô la mới mua được một ounce. Như vậy ta có thể nói số
vàng dự trữ tại thời điểm tháng Tư 75 là gấp ba hoặc bốn lần con số nói
khi trước.
Thời kỳ đó, uy tín về giao dịch tài chính quốc tế của Nam Việt Nam hầu
như là con số không, (rất khó vay mượn ai) giữa lúc Quốc hội Mỹ rề rà
trong chuyện viện trợ, nếu không muốn nói là bác bỏ cho xong.
Như thường lệ, mỗi khi cần có ý kiến táo bạo, thì Đại sứ Martin có ngay.
Ông đề nghị Nam Việt Nam gửi số vàng này cho cơ quan Dự Trữ Liên bang
Hoa Kỳ (FED-tương đương Ngân hàng Trung ương Mỹ) dùng đó làm thế chấp để
mua chịu vũ khí. Thiệu chấp nhận ý kiến này.
Khi đó, hãng máy bay chở hàng Basel Air, công ty con của hãng hàng không
Thụy Sĩ Swiss Air, tình cờ có một máy bay ở Sài Gòn. Chính phủ Việt Nam
nói với Basel Air, “Chúng tôi định gửi số vàng này sang cơ quan Dự Trữ
Liên bang Hoa Kỳ, các bạn có thể chở theo kiểu hàng hóa thương mại thông
thường được không?” Phía Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi nói không. Lý
do là bảo hiểm, họ nói họ không có cách chi mua được bảo hiểm để có thể
chở 70 triệu đô la vàng ra khỏi Sài Gòn.
Chính phủ Việt Nam bèn quay sang Không quân Mỹ. Câu chuyện được mang ra
bàn ở Hội đồng An ninh Quốc gia. Không quân Mỹ dễ dàng chở một tấn rưỡi
vàng này đi chỗ khác, nhưng không thể mua bảo hiểm khi chở trên một máy
bay quân sự, chấm hết.
Cục than nóng này mới chuyền sang tay các luật gia của Bộ Ngoại giao.
Suốt thời gian đó, số vàng nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sài Gòn. Làm
sao mua bảo hiểm cho chuyến hàng nếu dùng máy bay quân sự? Đề tài này
giúp các vị luật gia của Bộ Ngoại giao có việc làm trong suốt mấy ngày.
Trong khi đó, Thiệu từ chức, miền Nam có nhóm lãnh đạo mới. Ông Hương
hôm trước nói gửi đi, hôm sau lại nói không gửi. Cuối cùng ông nghe theo
Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, bạn của Denny Ellerman (tiến sĩ, tùy
viên kinh tế tại tòa đại sứ). Hảo kết luận rằng cách hay nhất là để số
vàng lại bởi vì tình hình bây giờ khác với tình hình lúc Martin đề nghị;
hơn nữa, nếu có nhận thêm được viện trợ quân sự của Mỹ nhờ số vàng này
thì số viện trợ đó cũng không đến kịp lúc để giúp giải quyết vấn đề, và
uy tín của miền Nam sẽ khá hơn nếu giữ số vàng lại trong nước.
Rút cục số vàng vẫn nằm lại Sài Gòn, Thiệu không mang đi chút nào và
trong hành lý ông ta cũng không có vàng. (Các nhà sử học sau này có
nhiệm vụ “làm rõ” xem số vàng đó cuối cùng rơi vào tay ai, đã được chia
chác như thế nào giữa những người trong “bên thắng cuộc”).
Đêm giã từ
Trời tối đen như mực khi chúng tôi ra đến thân máy bay. Chiếc phi cơ chỉ
bật những đèn nhỏ. Các chiếc xe của chúng tôi cũng bật đèn nhỏ để tiến
đến phi cơ chứ không bật đèn lớn. Đó là một chiếc cánh quạt DC-6, loại
cánh quạt cuối cùng của Mỹ. Máy bay đã từng được sử dụng cho những dịp
vui chơi, tôi đã từng đi trên đó cho nên tôi biết nó hiện hữu.
Khi Đại sứ Ellsworth Bunker (trước Martin, báo chí Việt Nam đặt cho biệt
danh Ông Già Tủ Lạnh) làm đám cưới với bà Carol Lace, đại sứ ở Nepal,
thì Bunker lúc đó ở lớp tuổi 70; trong một dịp gặp Tổng thống Johnson,
Bunker than, “Thưa tổng thống, tôi sắp gặp một vấn đề. Tôi không muốn bỏ
chức đại sứ ở Sài Gòn, còn Carol thuộc ngạch FSO (ngoại giao chuyên
nghiệp) được bổ nhiệm làm đại sứ, một chuyện rất hiếm cho phụ nữ, Carol
không muốn bỏ qua cơ hội này. Tổng thống có kế gì giúp chúng tôi không?”
Tổng thống Johnson trả lời, “Lạy Chúa tôi, nếu một người ở độ tuổi ông
vẫn còn muốn gần gủi thường xuyên với một bà vợ mới thì tôi sẽ tìm cho
ông một chiếc máy bay.” Thế là Johnson moi ở đâu ra chiếc máy bay này và
giao cho Bunker, và Bunker dùng nó để bay đi Katmandu.
Có lần ông bảo tôi đi theo. Máy bay rất đẹp, bên trong trang trí đầy đủ,
nhưng bay rất chậm, cánh quạt mà. Chiếc đó là của Không quân và khi hai
vợ chồng đại sứ không còn ở Nepal nữa, máy bay đưa về đậu tại Thái Lan
để các quan lớn Không quân dùng.
Tôi nhớ đến nó và bảo, “Đúng là chiếc mà chúng ta sẽ dùng vì nếu dùng
máy bay phản lực sẽ tạo nhiều hỗn loạn.”
Buổi tiếp tân quan trọng cuối cùng mà tôi đến dự là cái đêm hôm đó. Nó
được tổ chức tại tư thất của đại sứ Ba Lan, nhân tiện để ra mắt tân
trưởng phòng Chính trị của đại sứ quán Ba Lan cho giới ngoại giao có mặt
ở Sài Gòn. Mọi người đều đến, tất cả đại sứ còn ở lại Sài Gòn đều có
mặt.
Người trưởng phòng mới nhận nhiệm sở nói rằng ông ta nóng lòng muốn gặp
tôi, dĩ nhiên là tình hình bây giờ đã khác trước. Ông ta muốn biết quan
điểm của tôi về tình hình, chúng tôi hẹn nhau ăn trưa một tuần nữa, tức
là ngày 1 tháng 5. Ông ta nói trước tiên ông phải giải quyết vài chuyện
và một tuần nữa sẽ ăn trưa với tôi. Câu chuyện dừng lại ở đó, dù tôi vẫn
hoàn toàn mong đợi đến ngày 1 tháng 5 có dịp gặp người bạn đồng nghiệp
Ba Lan, ngoài những chuyện khác.
Đại sứ Martin không thích đi dự mấy cái màn tiếp tân này, nhưng tối hôm
đó, trước tình trạng thành phố lên cơn sốt và nhiều chuyện khác, ông
nói, “Tôi cũng sẽ đi dự buổi tiếp tân, nhưng chúng ta sẽ đi riêng,” do
đó, chúng tôi đổi xe với nhau ở phi trường.
Trước khi dự tiếp tân, tôi ghé văn phòng để gửi một công điện (về
Washington) — tôi viết ra trước và đọc qua máy vô tuyến, sau khi nói mật
mã mà tôi và nhân viên của tôi ở đầu kia đã thỏa thuận. Đại khái đó là
cái ngày mà tôi tiễn Thiệu ra khỏi Việt Nam.
Ngày ra đi
Vào cái ngày tôi rời Sài Gòn, tôi rất chán đời đến độ gần như muốn ngã
quỵ.
Màn cuối của vở kịch mở ra vào thứ Hai. Dương Văn Minh lên nhậm chức đêm
hôm đó, và ngay khi ông dứt bài diễn văn nhậm chức, Sài Gòn đổ trận mưa
to. Nước mưa tuôn xối xả. Hơi sớm vì chúng tôi chưa bước vào mùa mưa.
Thế rồi xảy ra vụ máy bay cải tiến (máy bay A-37 trước đây dùng để huấn
luyện, sau được thêm vài bộ phận để biến thành máy bay tác chiến.) Như
các bạn biết đấy, đó là những máy bay Mỹ có gắn thêm hai bình xăng phụ
50 ga-lông, lái bởi các phi công do Bắc Việt không chế, họ bỏ bom xuống
Tân Sơn Nhất (nhóm Nguyễn Thành Trung.) Lúc đó, chúng tôi vẫn còn ở
trong văn phòng, dù khi ấy vào khoảng 7 giờ. Chúng tôi vẫn còn ở văn
phòng vì thứ nhất, giờ đó ở Sài Gòn chẳng có nhiều chuyện phải làm, thứ
hai vì giờ giấc 12 tiếng khác nhau giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, buổi tối ở
Sài Gòn là buổi sáng ở Washington. Do đó, chúng tôi muốn gửi tối đa các
thông tin cho Washington trước khi bên đó người ta bắt đầu làm việc.
Trở lại chuyện chúng tôi đang ở văn phòng thì nghe tiếng nổ, tôi bèn
chui xuống gầm bàn, tôi còn nhớ rõ cái bàn mà tôi chui xuống là ở trong
phòng của trưởng ban báo cáo. Nhân viên trong ban có nhiệm vụ soạn các
báo cáo tình báo trước khi chuyển đi bằng máy điện báo. Chúng tôi rất
hãnh diện về các báo cáo này bởi vì mặc dù trong tình hình dầu sôi lửa
bỏng, chúng tôi vẫn biên tập, chỉnh sửa báo cáo rất chính xác theo tiếng
Anh, giống như dân làm báo giỏi.
Nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều báo cáo viên cũng chui xuống gầm bàn như
tôi, và một hình ảnh mà tôi không bao giờ quên, đó là có một nữ báo cáo
viên xinh xắn, dù ở dưới gầm bàn, cũng cố với tay lấy chiếc máy đánh chữ
xuồng để gõ tiếp, nội dung như sau, “Nơi nhận: Washington. Nơi gửi: Sài
Gòn. Báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Nhiều tiếng nổ không rõ
xuất xứ rung chuyển khu trung tâm thành phố. Mặc dù vẫn còn nổ chung
quanh chúng tôi, không ai biết chuyện gì xảy ra.”
Chẳng mấy lúc, mọi chuyện đã rõ, chúng tôi xem đó là cách trả lời của
Bắc Việt cho bài diễn văn nhậm chức của Minh.
Ông ta nói sẽ tiếp tục chiến đấu và nói toàn những chuyện ngu xuẩn mà
trước đó một tháng ông không hề nói. Theo tôi, đây là cách minh họa thực
tế của Peter Principle (Nguyên lý Peter, nguyên lý này cho rằng một
người có thể xuất chúng trong một ngành nghề nào đó, có thể leo tên tột
đình, nhưng nếu cứ tưởng người đó giỏi, đưa sang làm ngành nghề khác
cũng xuất sắc thì người đó làm hỏng bét. Ý muốn nói Minh tốt về quân sự
nhưng dốt về chính trị.) Người leo lên đỉnh cao của sự bất tài.
Dù có vụ bỏ bom, mọi chuyện ở Sài Gòn vẫn chạy tốt vào thời điểm đó. Quả
là một nghịch lý theo cái nghĩa từ suốt tuần qua, mọi việc đều chạy đều.
Điện lực tốt, điện thoại tốt, nguồn cung cấp thực phẩm cũng OK, có lẽ
ngoại trừ thiếu một chút xà-lách.
Tối đó tôi đi ngủ trễ nhưng độ bốn rưỡi lại thức giấc bởi những tiếng nổ
nữa. Nghe như tiếng đạn đại bác đang tới. Tôi gọi cho nhân viên trực của
tôi ở tòa đại sứ. Ta cần phân biệt nhân viên trực tại đó. Có nhân viên
trực của tòa đại sứ ngoài lính gác của Thủy quân lục chiến, và có nhân
viên trực của CIA. Theo truyền thống, nhất là tại Sài Gòn, CIA chúng tôi
có hai nhân viên trực lúc nào cũng phải có mặt ở tòa đại sứ. Không chỉ
khi nào cần mới có mặt, mà luôn luôn ở bên trong tòa nhà.
Tôi nghĩ hợp lý nhất là gọi người trực của tôi. Tôi hỏi, “Cho tôi biết
những gì anh biết.” Anh trả lời không biết gì nhiều vào lúc này, chỉ
biết là có pháo kích vào Tân Sơn Nhất. Một Thủy quân lục chiến đã lên
trên sân thượng và từ đó báo cáo thấy nhiều đốm cháy, anh ta đã hỏi bạn
đồng ngũ ở DAO (nằm gần Tân Sơn Nhất) nhưng trời vẫn còn tối, họ chẳng
biết gì dứt khoát. Nhưng điểm đầu tiên được biết là có thiệt hại đáng kể
và có hai Thủy quân lục chiến chết.
Tôi nói, “Thôi được, tôi thấy có vẻ khá nặng đấy. Cũng may là có anh
trực ở đây.” Hóa ra anh ta trưởng ban tài vụ của tôi. Tôi bèn ra lệnh,
“Hãy làm sẵn các bao thư khởi hành.”
Bao thư khởi hành là những phong bì trong đó có để sẵn những dặn dò hoặc
một số điện thoại của tòa đại sứ hay cơ quan khác của Mỹ ở Đông Á. Mỗi
bao thư còn có nhét 1.500 đô la Mỹ và một số loại tiền nước khác mà
chúng tôi có trong tay. Mục đích phát cho nhân viên các bao thư này để
khi họ ra được bên ngoài và bị mất liên lạc, họ cũng có thể tự xoay sở
đến được nơi nào đó an toàn.
“Anh bắt đầu chuẩn bị bao thư là vừa,” tôi nói, và cho anh biết tôi sẽ
tới tòa đại sứ.
Tôi là người đầu tiên tới nơi. Bấy giờ Thủy quân lục chiến đã có thêm
thông tin từ DAO. Dựa vào đó, tôi nghĩ cần huy động mọi người. Tôi gọi
ông đại sứ và nói, “Tôi rất có lỗi đã gọi ông vào lúc sáng sớm như thế
này — có lẽ ông chỉ mới ngủ được hơn ba tiếng — tôi rất có lỗi đã gọi
ông nhưng tôi nghĩ ông phải đến.” Ông trả lời sẽ đến.
Tòa đại sứ có thủ tục là nếu ai gọi cho mình thì mình phải gọi tiếp cho
bốn người khác và cứ thế mà tiếp tục. Chúng tôi cho áp dụng thủ tục này.
Đại sứ trông rất hốc hác sáng sớm hôm đó. Hốc hác theo nghĩa đen hẳn
hòi. Ông ta bị viêm phế quản khá nặng, và đến khi đưa ông ra được chiến
hạm, bác sĩ cho biết ông bị viêm phổi. Giọng ông khàn khàn, nói năng rất
khó. Ông có thể thì thầm, nhưng cũng khó nghe. Nhưng ông tỉnh táo 100
phần trăm, có điều là nói không được.
Khi Kissinger gọi, ông khó làm Kissinger hiểu được, nhất là đường dây
điện thoại cũng không tốt, vì thế ông cứ thì thầm để tôi lập lại cho
Kissinger. Nhưng ông cũng không nghe rõ những gì Kissinger nói.
Ngày hôm đó bắt đầu như vậy, và tình trạng này kéo dài suốt ngày.
Thế rồi ông đại sứ đòi ra Tân Sân Nhứt, bởi vì cái tính của ông là như
vậy. Dù ông có vài ông tướng Không quân ở đó, nhưng khi họ báo cáo với
ông là máy bay có thể đáp, ông vẫn không tin. Ông muốn thấy tận mắt.
Trời đã sáng tỏ, các phi công của Hạm đội 7 đã sẵn sàng, các trực thăng
đã bơm đầy xăng, mọi thứ đã lên dàn phóng.
Rồi buổi sáng hôm đó, khoảng 8 giờ 30 hoặc sớm hơn một chút, chúng tôi
nhận lệnh sẽ không di tản. Lệnh bảo chỉ giảm số nhân viên tòa đại sứ, sẽ
giữ lại tòa đại sứ ở Sài Gòn với số nhân viên là 180 người, trong đó có
50 người của CIA, nhưng nhóm 50 người đó phải phụ trách công tác thông
tin liên lạc cho tòa đại sứ. Còn các trưởng phòng khác trong tòa đại sứ
— từ kinh tế, có 8 người, chính trị, có 16 người, y tế, tài chính, hành
chính — sẽ nhận lệnh từ Washington, có thể là lệnh của Kissinger, thông
qua đại sứ.
Tôi chưa hề nhìn thấy lệnh này trên giấy tờ mà chỉ qua lời của Đại sứ
vào buổi sáng hôm ấy.
50 người của CIA phải lo vấn đề thông tin liên lạc của tòa đại sứ. Tôi
trở về văn phòng, triệu tập các phụ tá cao cấp.
Vào lúc này, nhân viên CIA của tôi có tại hàng khoảng trên 200 một chút.
Tôi nói, “Các bạn, chúng ta giảm xuống còn 50 người nhưng phải phụ trách
công chuyện thông tin liên lạc cho tòa đại sứ nhiều hơn trước. Bây giờ
thử tính xem 50 người đó là ai. Người đầu tiên là tôi.”
Chuyện này không đơn giản vì không giống như bên Hải quân, nhân viên CIA
không thể đổi vai cho nhau. Mỗi người có một chuyên ngành riêng. Người
thì báo cáo, người thì hoạt động bên ngoài, người thì phân tích, tôi
cũng cần người biết nhiều ngôn ngữ.
Cần phải giữ những người nói được tiếng Việt. Cần phải giữ vài người
biết tiếng Ba Lan để giao thiệp với họ trong ủy ban ICCS. Không có vấn
đề với tiếng Hungary vì không có ai ngoài tôi ra biết tiếng này. Tôi mất
vài tiếng đồng hồ vòng quanh giải quyết chuyện này.
Tôi cũng phải xem người nào sắp mãn nhiệm kỳ, bởi vì nếu ngày mãn nhiệm
là đầu tháng 5 thì không lý do gì giữ họ lại. Hoặc ngay khi họ có chương
trình trở về Mỹ vào tháng 7, tôi cũng không giữ. Tôi cũng xét đến hoàn
cảnh gia đình của họ, vì biết đâu chúng tôi sẽ rơi vào tình huống xấu,
giống như hồi 1954 ở Hà Nội, chúng tôi có lãnh sự quán ở đó, nhưng mất
liên lạc với họ, dù họ không bị giữ làm con tin. Họ coi như bị giam lỏng
bên trong lãnh sự quán nhưng chẳng có ai bận tâm giải cứu họ.
Lệnh tòa đại sứ ở lại cũng được chuyển cho hạm đội đang ở ngoài khơi. Tư
lệnh bấy giờ là Đô đốc Noel Geyler. Ông ta đâu phải là dân chính trị
chuyên nghiệp, vì thế, ông nói, “Thôi thì bây giờ tòa đại sứ ở lại,
chúng ta có thể cho phi công đi ngủ trở lại.” Xăng được hút ra khỏi máy
bay vì đó là quy định của tàu khi có máy bay đậu. Thế là máy bay được
đem bỏ trở lại dưới hầm tàu.
Bấy giờ là 9 giờ sáng hoặc trễ hơn một tí. Cuối cùng có lệnh lúc 11 giờ
30 là tất cả chúng tôi phải di tản.
Tôi không rõ lệnh này đến ông đô đốc lúc mấy giờ, nhưng Đại sứ Martin
nhận được lúc 11 giờ 30. Brent Scowcroft (cố vấn An ninh Quốc gia) chắc
đã thông báo cho Bộ Quốc phòng, nhưng giờ đó bên Mỹ là buổi tối, có lẽ
người nhận thông báo không có mặt để thi hành.
Tôi không biết khi nào thì ông đô đốc nhận được lệnh, nhưng sau đó, khi
tôi gặp ông trên tàu, tôi hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông trả lời,
“Chẳng có chuyện gì. Ngay khi nhận lệnh di tản, tôi đã ra lệnh bơm xăng
các máy bay, tôi dựng đầu các phi công dậy, nhưng rồi lại có lệnh phải
đưa một lực lượng Thủy quân lục chiến đến giữ an ninh cho cuộc di tản.
Anh biết đấy, số binh sĩ này đâu có đủ trên chiếc tàu có trực thăng,
chúng tôi phải đi thu góp Thủy quân lục chiến từ các chiến hạm xung
quanh, tập trung họ lại trên chiếc tàu có trực thăng. Tất cả như vậy
phải mất thời gian.”
Giờ đây, nếu có ai hỏi tôi có ngạc nhiên về những gì xảy ra hay không,
tôi sẽ trả lời tôi chẳng có gì ngạc nhiên. Tôi vẫn luôn nghi ngờ về năng
lực của quân đội Mỹ có thể phản ứng thật mau lẹ trong trường hợp có
chuyện khẩn cấp xảy ra. Quân đội Mỹ có lối tổ chức rất quan liêu. Lẽ ra
trước đó 24 tiếng, khi biết tình hình Sài Gòn đang xảy ra như vậy, người
ta phải thu xếp để các Thủy quân lục chiến ở gần các trực thăng, thay vì
phân tán đi các tàu khác nằm trên biển mênh mông.
Náo loạn, bát nháo
Thế rồi một chuyện có thể không tiên liệu trước đã xảy ra. Một khi tin
tức được loan truyền khắp Sài Gòn rằng người Mỹ sẽ ra đi, người ta đùng
đùng đổ về những con đường chung quanh tòa đại sứ, giao thông tắc nghẽn
trong khu vực. Ở những khu vực khác còn đi được, chung quanh tòa đại sứ
thì không hề. Do đó, kế hoạch dùng từng đoàn xe buýt xuất phát từ tòa
đại sứ chở người di tản ra DAO coi như rất khó thực hiện, bởi vì chỉ cần
hé cổng vửa đủ cho xe buýt lọt ra, cả tòa đại sứ sẽ bị tràn ngập.
Trước buổi sáng hôm ấy nhiều ngày, chúng tôi đã bắt đầu hủy hồ sơ, tài
liệu, hủy một cách có hệ thống.
CIA chúng tôi có quy luật hay, đó là bất cứ tài liệu gì có ở thực địa
cũng phải có một bản sao nằm ở Mỹ. Mỗi khi có nhiệm sở CIA nào mất một
tài liệu gì đó, thì chỉ là chuyện nhỏ. Do đó, chúng tôi có thể hủy tất
cả. Thật vậy, trong những giờ còn lại mà chúng tôi ở đó, chúng tôi đã rà
soát tất cả các tài liệu để có thể hủy một cách có phương pháp, những
tài liệu nào mà có thể gợi ý rằng người Việt này nọ đã từng giao thiệp
gần gũi với chúng tôi. Tôi có một anh bạn vẽ bức tranh tặng tôi và có ký
tên trên đó, những loại như vậy cũng chắc chắn bị hủy. Người Việt Nam có
thói quen tặng những tấm lắc kỷ niệm khi chúng tôi đến thăm họ. Những
tấm ấy cũng dứt khoát phải hủy.
Về cây me trong sân tòa đại sứ hay được nhiều người nói đến, trong tất
cả các buổi họp tại tòa đại sứ mà tôi có dự, tôi chẳng bao giờ nghe bàn
về chuyện chặt hạ nó. Nhưng tôi vẫn giữ nhiều cảm xúc về nó bởi vì nhờ
có nó mới đánh giá được đẳng cấp trong tòa đại sứ.
Xung quanh tàng cây me có một khoảng trống để đậu xe. Nếu xe anh đậu
ngoài bóng mát của cây, xe anh bên trong sẽ nóng như lò lửa. Xe của đại
sứ được đậu trong bóng mát, nếu xe anh cũng đậu trong bóng mát thì chứng
tỏ anh cũng thuộc cấp cao.
Đương nhiên tôi vẫn nhớ đến cây me đó vì nó có một chức năng giá trị.
Nhưng nếu nói một cách nghiêm chỉnh, có liên quan đến di tản, tôi chưa
hề nghe ai nói gì về cây me đó. Nhưng cũng dĩ nhiên là nếu cần đáp một
chiếc trực thăng xuống bãi đậu xe của tòa đại sứ, chặt hạ một cái cây
cản đường cũng hợp lý thôi, khỏi cần mang ra bàn cãi. (Câu chuyện cây me
cũng được nhắc tới trong một bộ phim tài liệu về những ngày cuối cùng
của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.)
Một khi ông đại sứ đã rời khỏi Việt Nam, vào sáng hôm sau, tôi không có
lý do gì để ở lại đó, và nhân viên của tôi cũng không thể ra đi nếu tôi
còn ở lại. Người phó của tôi nhất định không đi, bao lâu mà tôi còn đó.
Rút cục tôi quyết định gửi người đi theo thứ tự không cần thiết ở một
mức độ nào đó.
Khi tôi nói không cần thiết không có nghĩa là tôi hạ thấp giá trị người
đó mà vì công việc của người đó đã chấm dứt so với công việc của người
khác. Thực ra, tại thời điểm đó, tôi có thể gửi hầu hết các báo cáo viên
về Mỹ vì họ chẳng còn gì để báo cáo. Tôi cũng có thể gửi những người
chịu trách nhiệm tại các Quân đoàn 1, 2 và 3. Họ chẳng còn gì để chịu
trách nhiệm. Nhưng tôi có thể giữ những người trách nhiệm ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long (Quân đoàn 4) vì tôi chưa nắm vững tình hình ở đó.
Tôi có thể gửi nhân viên hành chính. Tôi không cần nhân viên phòng nhân
sự nữa. Đó là cách tôi giải quyết xem ai đi và khi nào đi. Mọi chuyện
diễn ra trôi chảy. Chúng tôi chả bao giờ lo xảy ra chuyện tòa đại sứ bị
đánh chiếm, hoàn toàn không.
Có lẽ vấn đề lớn cuối cùng mà tôi và nhân viên tôi lo lắng là làm thế
nào đưa một số người Việt vào bên trong tòa đại sứ.
Bấy giờ, tòa đại sứ bị bao vây, theo nghĩa đen, bởi cả chục ngàn người,
đông đến độ muốn tiến gần đến cổng cũng đã là khó. Nhưng chúng tôi vẫn
còn một số người bên ngoài mà chúng tôi hết sức muốn đưa vào bên trong
để di tản, ví dụ trưởng phòng thông tin tình báo, tư lệnh phó cảnh sát,
trong thực tế là một vị trí cảnh sát lo về chính trị. Chúng tôi còn phải
lo cho vợ và các con của một trung tướng tâm lý chiến, chúng tôi có Bộ
trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, chúng tôi có trưởng ban nghi lễ và gia
đình, tất cả còn bên ngoài tòa đại sứ. Làm thế nào giúp họ di tản bây
giờ?
Tôi liên lạc được với họ. Tướng Đôn xoay sở leo lên được một trực thăng
đáp xuống sân thượng một khu chung cư mà lẽ ra không được đáp, đây cũng
là một câu chuyện riêng biệt. Lúc bấy giờ tôi hỏi xem có ai tình nguyện
đi sau cùng hay không, có hai anh chàng khá lực lưỡng và quyết chí đưa
tay lên, và nhờ họ ra đứng gần hàng rào mà chúng tôi cũng nhấc bổng lên
được vào bên trong một số người mà chúng tôi muốn đưa đi.
Thấy có vài sĩ quan quân đội trong đám đông, chúng tôi đặt điều kiện với
họ nếu giúp tìm ra được trong đám đông những người mà chúng tôi muốn đưa
đi thì chúng tôi sẽ đưa họ đi theo, và họ đã làm được.
Suốt ngày hôm đó chúng tôi cũng điều đình với
một số nhân viên cảnh sát. Nếu họ trà trộn bà con họ vào nhóm chúng tôi
và đưa được cả đám lên xe buýt hoặc lên máy bay thì họ và bà con của họ
cũng được đi luôn. Các cuộc thu xếp có vẻ rất thành công. Dàn xếp với
cảnh sát thì thân thiện hơn vì chúng tôi quen và tin họ, và họ cũng tin
chúng tôi. Có điều hơi buồn cười là cái hôm cuối cùng đó, các đoàn xe
của chúng tôi được hộ tống bởi một số xe mô-tô của phủ tổng thống, và họ
đã hộ tống được nhiều người đến các địa điểm tập họp khác nhau.
Trong sân của tòa đại sứ, chúng tôi cho các xe hơi đậu quay mũi xe vào
giữa sân, để máy nổ và bật đèn lên hết cho đến khi hết xăng hoặc hết
bình điện.
Rồi chúng tôi có lệnh phải ra đi, cuối cùng người ta nói với ông đại sứ,
“Ông phải có mặt trên chiếc này.” Lúc đầu thì người ta nói máy bay sẽ
đáp xuống bãi đậu xe, chúng tôi bèn chạy xuống tầng dưới. Sau đó họ nói
kế hoạch đã thay đổi và cho biết, “Không, máy bay sẽ đáp trên nóc.”
Tôi không thuộc thành phần có liên hệ gia đình với người Việt. Tôi không
có nhiều cảm xúc với đất nước này giống như một số đồng nghiệp của tôi,
họ yêu Việt Nam thực sự. Nhưng sau cùng, nhìn thấy cái kết, tôi nghĩ
chúng ta đã làm một việc tệ hại cho người dân ở đó, lẽ ra họ đã có cuộc
sống khá hơn nếu ngay từ đầu chúng ta đừng bao giờ đến đó.
Trời khá tối khi chúng tôi lên đường. Hướng Tân Sân Nhứt tôi thấy có vài
đám cháy, nhưng nói chung, thành phố có hình ảnh ban đêm quen thuộc bình
thường. Đèn đường vẫn sáng, đèn giao thông vẫn chạy. Quả là kỳ quái, có
vẻ bất thường với một đất nước đang sống những ngày cuối cùng. Tôi không
muốn nói chỉ có một đêm, mà tất cả những đêm trong mấy tuần cuối cùng
tại Sài Gòn. Có vẻ như không đúng với thực tế bởi vì mọi thứ đều có vẻ
bình thường. Không giống cuộc vây hãm dài ngày ở Warsaw (quân đội Ba Lan
chống quân xâm lăng Đức Quốc Xã từ 1 tháng 9 đến 1 tháng 10 năm 1939 mới
đầu hàng.) Chỉ mới một ngày trước khi thành phố sụp đổ, ta vẫn có thể đi
ăn nhà hàng, thưởng thức món ăn ngon và rượu vang ngon.
Không ai bắn theo máy bay chúng tôi trên đường ra. Đó là một câu chuyện
khác. Người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Không giống như người Hồi giáo
Shia, người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Họ không bao giờ muốn gây ra
chuyện gì có thể tạo một cái cớ để người Mỹ can thiệp trở lại. Nếu họ
giết đại sứ thì có thể là đi quá đà, ngay cả Quốc hội cũng sẽ nổi giận.
Cách tiếp đón chúng tôi trên chiến hạm Blue Ridge cho thấy cách hành xử
tồi tệ nhất của dân nhà binh. Tôi nghĩ người duy nhất không bị soát
người là ông đại sứ. Họ soát người và đồ đạc chúng tôi mang theo. Vào
thời bình, ngạch trật của tôi cao hơn viên đô đốc chỉ huy chiếc tàu này.
Dù vậy, chẳng có ai phản đối. Chúng tôi mệt mỏi. Chúng tôi khá dễ bảo.
Chúng tôi là đoàn quân bại trận.
Người dịch: Châu QuangNguồn:http://viet-studies.net/kinhte/Polgar_DefeatedArmy_trans.html
Đời bi kịch của một vị tướng VNCH
Trung tướng
Đặng Văn Quang, nguyên cố vấn quân sự và an ninh quốc gia của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời tại Hoa Kỳ, khép lại cuộc đời một vị
tướng miền Nam phản ánh của bi kịch chính trường Sài Gòn và quan hệ giữa
Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng hòa
Ông rời Việt Nam trong
những ngày cuối tháng 4-1975, đến trại tị nạn ở bang Arkansas. Sau đó
tướng Quang vội vã rời đây vì e ngại nỗi uất hận của đồng hương bột phát
sẽ không an toàn cho bản thân ông, vì có một số lời đồn đại không tốt
từ thời chiến.Ông sang Canada thăm con và khi trở lại Hoa Kỳ thì chính phủ Mỹ không cho nhập cảnh mà không nêu lý do. Canada cũng không muốn sự có mặt của tướng Quang trên đất nước họ vì những cáo buộc liên hệ đến ông và muốn trả ông về Việt Nam.
Sự việc đã làm xôn xao dư luận người Việt hải ngoại trong thời gian đầu định cư ở nước ngoài.
Ra đi vất vả
Theo cựu trưởng phân tích gia của CIA Frank Snepp viết trong tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977, ngày 29-4 tướng Quang đến trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong lúc đông người đang chen lấn mong được di tản.
Từ trong sân toà đại sứ, giám đốc CIA tại Việt Nam Tom Polgar nhận ra tiếng tướng Quang gọi và ra lệnh cho lính thủy quân lục chiến mở cổng cho vào. Vào bên trong, tướng Quang tiếp tục tìm cách cầu cứu vì đã bỏ lại người con và cháu bên ngoài.
Theo Snepp, lúc này tướng Quang chẳng còn là người quan trọng đối với Hoa Kỳ vì ông đã “phản bội người Mỹ” khi không báo cho CIA biết về kế hoạch bỏ cao nguyên của Tổng thống Thiệu. Chiều hôm đó tướng Quang được di tản ra khỏi Việt Nam bằng trực thăng.
Trong Decent Interval còn ghi chi tiết là trước đó vài hôm tướng Nguyễn Cao Kỳ đã muốn bắt giam tướng Quang khi các tướng có mặt tại Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông đã lẩn thoát được.
Những bất đồng giữa tướng Kỳ và Tổng thống Thiệu trong thời gian nắm quyền lãnh đạo miền Nam, trong khi tướng Quang lại được ông Thiệu tín cẩn, đã gây nhiều hiềm khích giữa tướng Kỳ và tướng Quang với nhiều đồn đoán. Có dư luận cho rằng do phe tướng Kỳ đưa ra, về tham nhũng, buôn bán bạch phiến dính tới tướng Quang mà người dân miền Nam có một thời gian được nghe biết.
Tuy nhiên những ghi nhận trong các tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977 và CIA and the Generals của Thomas L. Ahern, Jr. xuất bản năm 2009 đưa ra những tài liệu được giải mật cho thấy tướng Quang không liên hệ đến các cáo buộc buôn bạch phiến.
Vì tướng Quang được ông Thiệu tin cẩn và ông còn là người liên lạc giữa Dinh Độc lập với CIA nên cơ quan tình báo Mỹ đã có những điều tra riêng về nhân cách và biết rõ ông không liên quan đến bạch phiến như những tin đồn hay thông tin được nhà báo Mỹ Alfred W. McCoy viết trong tác phẩm The Politics of Heroin in Southeast Asia xuất bản vào đầu thập niên 1970.
Nhiều thông tin trong sách này đã được các nhóm chống đối chính quyền của ông Thiệu, điển hình như phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, dịch và phát tán tại Việt Nam trong những năm sau khi Hiệp định Paris được kí kết vào tháng 1-1973.
Tổng thống Thiệu lúc đó cho rằng các phong trào chống chính phủ của các tôn giáo Phật giáo, Công giáo là có người Mỹ đứng sau giật dây.
Theo Frank Snepp, tướng Quang là người giao tiếp giữa Dinh Độc lập và Đại sứ quán Mỹ. Ông đã có rất nhiều cuộc gặp với giám đốc cũng như nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn để trao đổi tin tức, phân tích tình hình chính trị, quân sự và chính sách của lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà với người Mỹ. Snepp nhận xét tướng Quang có nếp sống với chuẩn mực đạo đức cao, sòng phẳng về tiền bạc.
Vì thế câu chuyện tướng Đặng Văn Quang sau khi rời Việt Nam không được chính phủ Mỹ cho định cư, còn Canada đòi trục xuất đã làm xôn xao dư luận một thời.
Sống tạm dung ở Canada tướng Quang đã làm đủ mọi việc để kiếm sống
Phục hồi danh tiếng
Năm 1988, một sĩ quan Lực lượng Đặc biệt của Mỹ, cựu Trung tá Dan Marvin từng phục vụ tại Quân đoàn IV khi tướng Quang là tư lệnh, biết được việc chính phủ Hoa Kỳ không cho phép ông vào Mỹ nên đã vận động để trả lại sự thực và đòi công đạo cho một vị tướng Việt Nam Cộng hoà bị quá nhiều tai tiếng.
Marvin coi tướng Quang là người đã cứu mạng ông trong một tranh chấp lúc chiến tranh khi ông làm cố vấn tại làng Hoà hảo An Phú trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện này được Dan Marvin ghi trong tác phẩm Expandable Elite xuất bản năm 2003.
Tác giả đưa ra giả thuyết chính phủ Mỹ không cho tướng Quang nhập cư vì ông đã không tán đồng kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm ám sát Thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bốt vào năm 1966.
Dan Marvin đã kiến nghị đến các dân cử, ban ngành liên hệ và cả với Tổng thống George H.W. Bush (Cha). Cựu giám đốc CIA tại Sài Gòn Tom Polgar, người đã có rất nhiều dịp gặp gỡ, tham khảo với tướng Quang khi còn làm việc trong một bản tường trình ủng hộ cho ông được vào Hoa Kỳ.
Ông Polgar đưa ra nhận xét là tướng Quang và gia đình lúc ở Việt Nam đã không có một cuộc sống giầu sang, phú quý và những cáo buộc liên quan đến chuyện ông buôn bán bạch phiến là không có cơ sở vì theo những điều tra riêng của CIA thời đó, trước khi tổ chức này tin và liên lạc với ông, tướng Quang không có dính líu gì đến bạch phiến.
Sau đó chính quyền Canada hủy bỏ những cáo buộc liên quan đến tướng Quang và chính phủ Mỹ đồng ý cho ông định cư.
Đến Mỹ vào tháng 9-1989, hai ông bà có lúc sống ở Atlanta, khi ở nam California. Ông tiếp tục làm những việc lao động và vợ là bà Đỗ Thị Năm cũng làm bánh bán để kiếm sống.
Sau này vì tuổi già sức yếu, hai ông bà được sự giúp đỡ của cựu Thiếu tá Trần Văn Ngà, nguyên Trưởng ban Thông tin Báo chí Quân đoàn IV, đưa về sống trong một chung cư dành cho người già ở Sacramento, thủ phủ của bang California.
Mùa hè năm ngoái tôi có dịp đến thăm tướng Quang nhân cùng đi với đoàn quay phim của Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) đang thực hiện phỏng vấn 500 người để lưu lại trong thư viện Đại học Texas ở Austin. Tướng Quang đã yếu và trí nhớ kém nhiều vì tuổi già.
Hỏi ông về những biến cố trong đời có điều ông nhớ, có điều không. Tôi có hỏi ông trong đời ông mang ơn ai nhất, tướng Quang nói đó là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đối với những người đã gây phiền lụy, tướng Quang nói ông tha thứ hết.
Cựu Trung tướng Đặng Văn Quang sinh ngày 21-6-1929 tại Sóc Trăng.
Ông là một vị tướng trẻ nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà, từng giữ chức tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, tư lệnh Quân đoàn IV Vùng IV Chiến thuật. Chức vụ sau cùng của ông là phụ tá đặc biệt về quân sự và an ninh quốc gia cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ông qua đời hôm 15-7 tại Sacramento, California, hưởng thọ 82 tuổi, để lại vợ, 7 người con và 9 cháu nội ngoại.
Tang lễ cựu Trung tướng Đặng Văn Quang đã được cử hành theo nghi thức công giáo tại nhà thờ Các Thánh Tử đạo Việt Nam ở Sacramento, California vào chiều ngày 20-7-2011 và nghi thức hoả táng diễn ra vào trưa ngày hôm sau.
Tác giả Bùi Văn Phú hiện dạy đại học cộng đồng và sống tại vùng Vịnh San Francisco.
Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2011/07/110721_general_dang_van_quang
40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (II)
Nguyễn Văn Lục
Vậy
mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm
Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng
thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là
‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt
vọng.
(Tiếp theo phần I)Chúng tôi muốn Thiệu phải từ chức
“Ông ta đã bán miền Nam cho cộng sản. Thiệu đã không cho biết trước có cuộc rút quân này. Chúng tôi đã bốn lần thoát chết.”
Một người phụ nữ khác đã nói như thế. Một vị sĩ quan cho biết trong ba
ngày đầu, những nạn nhân bị cộng quân phục kích còn được chôn cất hẳn
hoi, nhưng sau đó thì những người bị giết hoặc bị thương bị đẩy sang lề
đường và cứ thế đôi khi xe cộ cán qua người họ. Khi mà đoàn người bị ứ
đọng bởi xe cộ, kẹt cứng trên một đoạn đường dài hơn 10 dặm, bị pháo
kích của cộng quân, bị mìn, bị xô đẩy, chen chúc đến không nhúc nhích
được thì bùng phát ra các vụ cướp bóc, hôi của cũa những người lính.
Xe cộ, tủ lạnh, tivi, quạt máy, giường
ngủ, dàn máy hát và đồ đạc tùy thân lúc này trở thành miếng mồi ngon cho
sự cướp bóc? Anh hùng hay hèn nhát? Nào ai có thể nói được trong hoàn
cảnh những người chạy loạn khốn khổ và cay đắng ấy?
Cầu cống chưa sửa kịp tạo ra sự dồn cục, tắc nghẽn như thể chui vào trong một cái rọ cho cộng quân đuổi theo, pháo kích.
Nó còn khốn khổ, tồi tệ hơn hoàn cảnh
của liên quân Anh Pháp ở Dunkerque. Cái cảnh ấy không bao giờ có thể
quên được. Và cứ thế các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột rơi vào tay
cộng quân.
Miền Nam đã để mất vào tay cộng sản 11.000 dặm vuông và con số hơn một triệu dân.
Mặc dầu vậy, hàng ngàn xe cộ, xe gắn máy
cũng đã tới được Tuy Hòa. Đến Tuy Hòa, phần lớn đàn bà, trẻ con như lạc
mất thần. Họ lặng lẽ lau nước mắt.
Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn
Trong khi đó, cũng theo tin AP, nơi xứ
người, Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn quyết tâm xiết chặt các
thành phần đối lập. Trước đó đã có cuộc trưng cầu dân ý đưa đến kết quả
dễ dàng one-man rule vào tháng hai vừa qua. Hoàn cảnh Việt Nam và Hàn
Quốc có nhiều điểm giống nhau. Nhưng số phận hai nước lại rẽ theo những
hướng khác nhau, một nước mỗi ngày một phát triển, một nước thì lận đận
với chiến tranh và rồi mỗi ngày một thêm tụt hậu.
Câu hỏi thắc mắc của tôi là ta và Nam
Hàn cùng một hoàn cảnh, vậy mà ông Thiệu không sang Đại Hàn một chuyến
học hỏi người ta nhỉ?
Ngày Đà Nẵng mất cũng là ngày Lon Nol của Cao Mên chuồn mất.
Vào đúng ngày Đà Nẵng mất. Thủ tướng Lon
Nol dẫn đầu một phái đoàn viếng thăm thiện chí Indonesia và Hoa Kỳ.
Trước khi đến Indonesia, Lon Nol quá cảnh ở phi trường Thái Lan Utapao,
nhưng bốn ngày sau, ông biến mất. Và kể từ ngày đó, ông không bao giờ
quay trở vể nữa. Ông Lon Nol xem ra cũng quá khôn ngoan, giống lãnh đạo
của ta không kém gì!
Việc ra đi của tướng Lon Nol cũng báo
hiệu cho biết con bài tẩy của Kissinger cách đây hơn 4 năm cũng chấm dứt
theo. Kissinger là người đầu tư vào lá bài Lon nol. Vậy mà sau đó
Kissinger phủi tay.
Ngày 25 tháng Ba. Âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Nguồn tin của hãng Reuters trích lại một
bài báo đăng trên báo ở Nhật, tờ Mainichi cho hay Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu vừa thoát một cách an lành vụ ám sát ông vào ngày chủ nhật vừa
qua.
Trong ngày thứ hai, người ta cũng nghe
được dư luận về vụ ám sát ông Thiệu là do âm mưu của một sĩ quan cao cấp
tìm cách tấn công ông Thiệu. Nhưng các cận vệ của ông Thiệu đã phòng
ngừa và ngăn cản được vụ tấn công. Và ngay lập tức, viên sĩ quan ấy bị
bắt giữ.
Nguyên do của vụ mưu sát ông Thiệu liên quan đến việc ông quyết định cho rút khỏi Tây Nguyên vừa qua.
Có thể nói, trong thời gian này, ông
Nguyễn Văn Thiệu là một người cô độc. Nhiều tin đồn đảo chánh đòi lật
đổ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được coi là mối nguy hiểm nhất, vốn là một địch
thủ, tìm cách móc nối với tướng Lê Minh Đảo, tướng Cao Văn Viên để có
thể có thêm vây cánh.
Nhưng kết quả là cả tướng Lê Minh Đảo cũng như Cao Văn Viên đều không muốn tham dự.
South Viet generals, Plots are all in vain
Phóng viên Mark Gayn có viết một bài diễn tả đủ cái tình trạng miền Nam lúc bấy giờ nhan đề: South Viet generals, Plots are all in vain.
Theo Mark Gayn, ít lắm cũng có hai nhóm tính lật đổ ông Nguyễn Văn Thiệu.
Thứ nhất, nhóm cựu tướng Dương Văn Minh
mà dưới mắt người Mỹ được coi như hết thời. Ngoài thú chơi lan còn đánh
Tennis mà người Mỹ đánh giá ông rất thấp. Một thứ Hamlet của chính trị
Viêt Nam, tính tình không dứt khoát đi đến chỗ bất lực chẳng giải quyết
được gì. Lúc nào cũng là thứ bung xung. Bề ngoài đóng vai trò trung lập.
Chỉ không ngờ con bài tẩy ấy nay lại có chỗ để dùng như một con chiên
tế thần mà người Mỹ gọi là a Bluff professionnal soldier, nửa mùa
theo Tây. Ra vào nhà Dương Văn Minh, có một số đối lập, bất mãn với
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Minh che chở như trường hợp cựu dân
biểu đối lập Dương Văn Ba. Ông này ăn ở ngay trong dinh Hoa Lan và trốn
lính. Cộng thêm vào đó là một vài tướng lãnh còn mong muốn Minh trở lại
nắm chính quyền và có cơ may thương thảo hòa bình với cộng sản. Nhưng
Minh là người rất ngại Nguyễn Văn Thiệu. Minh có mời Trần Thiện Khiêm
lại nhà nói chuyện và thú nhận có liên lạc với phía Mặt trận. Minh cũng
khoe là qua tướng Đôn vừa về từ Paris, có liên lạc với Jacques Chirac và
Pháp đã công khai cho rằng Minh là người có thể có vai trò hòa giải.
Đại sứ Pháp Jean-Marie Merrillon đã đến gặp Minh để tiếp xúc.
Người thứ hai là thủ tướng Trần Thiện
Khiêm, một người khá nhất trong đám tướng lãnh, một tay chuyên nghiệp
trong những âm mưu và khuynh đảo và cũng có thể là người có khả năng
nhất để điều hành chính phủ. Vừa qua, nhân danh ông Thiệu, ông Khiêm là
người thay đổi ba tướng quân đoàn, 20 đại tá và 200 cấp tá. Ông biết
dùng người, ngay cả loại trừ người này, người kia, rồi cài đặt vào vị
trí khác khiền ai cũng mắc một món nợ với ông. Tuy nhiên, tình hình quá
khẩn trương và thay đổi gấp rút nên việc sắp đặt các chức vụ chỉ huy
chưa đem lại kết quả gì khi cộng quân sắp sửa vào đến cửa ngõ trong nhà.
Mọi cố gắng thay đổi đề trở nên vô ích. (Xem phần di tản của ông Thiệu
để thấy Ông Thiệu và Khiêm là cặp bài trùng)
Lần đầu tiên, Đà Nẵng bị pháo kích. Ở
phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ giúp cho cộng quân rảnh
tay. Nói thất thủ là không đúng, cộng quân chưa tới nơi thì quân dân
cán chính đã tự rút lui có chiến thuật, mạnh ai người nấy bỏ chạy.
Hết Quảng Ngãi, Chu Lai đến Nha Trang và
cứ thế tháo chạy. Cảnh tượng đó bắt nguồn từ cuộc rút quân ngày 16
tháng 3 tại Pleiku, Kontum và như vết dầu loang. Chưa đánh đã bỏ chạy.
Thực sự sau trận tấn công dễ dàng vào
Ban Mê Thuột ngày 10-3 mở đầu cho chiến dịch, cộng quân chưa hề có trận
đụng độ chính thức nào với quân đội miền Nam Việt Nam.
Đó là nỗi nhục chung cho quân đội miền Nam.
Ngày 27 tháng ba. Mất Bình Định
Tỉnh Bình Định đã rơi vào tay cộng quân.
Trong khi đó ở Sài Gòn, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh bắt một số khoảng
hơn 10 người được coi là có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Danh sách 10 người này là những ai hiện nay chưa được biết chính xác.
Nguyên thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo phủ nhận ông không có dính dáng
trong những âm mưu tính lật đổ này. Ông cũng kêu gọi thành lập một chính
phủ mới ‘được dân chúng và quân đội tin tưởng’. Tuy nhiên ông nói với
các thông tín viên báo chí là ông mong muốn có sự thay đổi bằng những
phương tiện hòa bình.
Ngày 27 tháng 3. Quảng Trị mất
Người ta còn nhớ trước đây, cộng quân đã
chiếm Quảng Trị vào năm 1972. Trận đánh kéo dài đến tám tháng. Và quân
đội VNCH phải mất 2 tháng để chiếm lại Cổ Thành với trợ giúp của gần
5000 chuyến bay B-52 và và gần một triệu viên đạn pháo. Cuộc chiến đấu
tái chiếm Quảng Trị là một quyết tâm của quân đội VNCH, đổ ra nhiều
xương máu.
Trong cuộc tái chiếm của Quảng Trị,
người ta cho là trận đánh kinh hoàng nhất. Số thương vong cả hai bên,
nhất là phía cộng quân thiệt hại không đếm xuể. Xác người không kịp
chôn. Họ đã vùi thây ở đây như một thứ mồ chôn tập thể mà Hà Nội đã đẩy
họ vào. B-52 là hung thần của họ.
Vậy mà nay đến lượt quân đội miền Nam phải bỏ chạy.
Nay thì nhiều đoàn người dân chúng hốt
hoảng bỏ chạy. Thừa Thiên có mật độ dân số là 750.000 ngàn người, trong
đó thành phố Huế với 200.000. Huế với những cảnh sôi nổi, biểu tình
xuống đường trước đây, nay Huế chỉ còn là cảnh vườn không nhà trống.
Thông tín viên AP đã phải gọi Huế là vùng no-man’s land. Thành phố Huế
vắng hoe. Người ra đi thì đã đi rồi. Người ở lại thì đành chấp nhận cho
số phận buông xuôi. Người ta ước lượng con số hơn nửa triệu người đã bỏ
chạy.
10 giờ đêm 28 tháng ba
Có lệnh bỏ Đà Nẵng. Tướng Truởng đã họp
các sĩ quan tham mưu và thông báo cho họ tin triệt thoái khỏi Đà Nẵng.
Triệt thoái như thế nào, phương cách làm sao? Từ tướng Trưởng trở xuống,
không một ai có lòng dạ nào lo cho cuộc triệt thoái có trật tự, có lớp
lang. Ai đi trước, ai đi sau ngăn chặn cộng sản. Kinh nghiệm triệt thoái
Cao Nguyên đáng lẽ là một kinh nghiệm đắt giá.
Vậy mà bài học Tây nguyên đã không rút
tỉa được kinh nghiệm gì cho cuộc triệt thoái này. Cuối cuối cùng đây là
cuộc bỏ chạy thê thảm thứ hai sau Ban Mê Thuột.
Trách nhiệm này chắc hẳn tướng Trưởng phải chịu một phần!
Cách đây 2 tuần lễ, tại đường số 7, đó là một Dunkerque Việt Nam.
Ngày hôm nay, cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng là một nỗi kinh hoàng mà
trách nhiệm phần lớn nằm trong tay quân đội, tướng lãnh, sĩ quan cao
cấp.Ngày 29 tháng Ba. Đà Nẵng những ngày hấp hối. Miracle Flight from Hell
Đà Nẵng sau này trở thành tiêu biểu cho cuộc tháo chạy của quân đội và dân chúng miền Nam lánh nạn cộng sản. Một sự tháo chạy trong hoảng loạng, chà đạp, xô đẩy ngay cả giết chóc để kiếm một chỗ trên máy bay hay trên các tàu thủy.
Thảm cảnh ấy chỉ sau này ở hải ngoại Cao Xuân Huy mới viết “Tháng ba gẫy súng”. Đó là một địa ngục trần gian mà những chuyến bay rời khỏi Đà Nẵng những ngày cuối cùng được phóng viên Paul Vogle là nhân chứng diễn tả lại.
Câu chuyện về ông Edward Daly
Cũng trong cái tinh thần hy sinh và
trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s
cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng thêm 17 lần để
cứu vớt những người tỵ nạn mặc sự ngăn cản và chấm dứt hợp đồng của tòa
đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn sau 3 chuyến di tản.
Tất cả chi phí chuyến bay cũng như trách
nhiệm là do tự ý Daly quyết định với hy vọng vớt thêm người tỵ nạn. Ông
là chủ công ty World Airways từ năm 1950.
Cái gương can đảm của Daly thật đáng để kể lại.
Phóng viên của hãng UPI, Paul Vogle là một trong những người đi
chuyến bay chót từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông cho là một phép lạ chuyến
bay có thể cất cánh và an toàn ra khỏi không phận Đà Nẵng vào ngày thứ
bẩy. Nhiều người đã giành giật lên máy bay và sẵn sàng giết người khác
để giành một chỗ trên chuyến bay.
Ông Daly đã bắn một loạt đạn lên trời
nhằm cảnh cáo. Nhưng xem ra tất cả đều vô hiệu. Theo Paul Vogle, những
người lính VNCH đã xả hàng tràng đạn M16 để ngăn cản những người dân tỵ
nạn đổ xô lên máy bay. Trong khi đó cộng quân tiếp tục pháo kích vào phi
trường càng làm cho dân chúng hoảng sợ. Paul Vogle đã trông thấy một
người lính của quân đội miền Nam đã đạp vào mặt một người đàn bà lớn
tuổi để dành chỗ lên máy bay. Người đàn bà lộn nhào xuống ở phi đạo và
một tay vẫn cố bám vào phi cơ đã sắp sửa lăn bánh. Một binh sĩ dùng súng
đã bắn một tràng súng liên thanh. Trên máy bay, chỉ có các binh sĩ
trong quân phục của họ. Phần đông họ thuộc Đại đội Hắc Báo, Sư đoàn 1 Bộ
binh (1st Division’s Black Panther Unit). Sàn máy bay đầy những vết
máu. Có hai thường dân duy nhất là đàn bà và một đứa trẻ trong chuyến
bay phản lực 727. Có vài người bám vào khoang bánh phi cơ và may mắn như
một phép lạ nếu họ còn sống sót. Một số người khác không có may mắn như
thế khi phi cơ đã lượn ra xa và họ rớt xuống biển. Khi đến phi trường
Tân Sơn Nhất, người ta còn thấy thây một người lính với khẩu M16 còn
dính vào vai, thây người còn dính lủng lẳng vào bộ bánh hạ cánh của
chiếc phi cơ.
Theo Frank Snepp sau này cho biết, khi
chiếc máy bay World Airways 727 vừa đáp xuống phi đạo thì xe chở quân
đội cộng hòa tiến lại gần máy bay và binh lính ào xuống. Khoảng 5000 dân
chúng đứng sau một hàng rào nôn nóng chờ đợi đã chạy ào về phía máy
bay.
Viên phi công vội cho rồ máy và vội vã cất cánh kéo theo một số người còn đang bám dính vào máy bay.(7)
Theo Nhiếp ảnh gia Liên Hương của hãng
UPI đã có mặt trong chuyến bay thứ nhì từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, nhiếp ảnh
gia đã nhìn thấy một số người bám vào chiếc phản lực thứ nhất khi nó
cất cánh và một người đã bị rớt xuống biển.
Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu
trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà
lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ
chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình
trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.
Còn hàng trăm ngàn binh sĩ và thường dân
kẹt lại ở Đà Nẵng trong tình trạng rối loạn và vô trật tự. Mất Đà Nẵng,
coi như một thiệt hại lớn lao nhất kể từ năm 1946. Một triệu rưởi ngưởi
bị vây hãm ba phía. Và trông ra biển là một lối thoát tuyệt vọng. Có 8
chuyến bay định hạ cánh xuống Đà Nẵng để cứu vớt một số dân tỵ nạn.
Nhưng đành bỏ cuộc. Cũng chỉ còn chút may mắn là khoảng từ 35 ngàn đến
50.000 ngàn người đã chạy thoát bằng đường biển,
Đà Nẵng ngày 31-3. Babies fall overboard in scramble for ships
Vào ngày 29, tướng Trưởng còn ở Đà Nẵng.
Nhưng thay vì ở trên bờ thì ông đã leo lên một chiếc canoe tuần tra để
ra tầu lớn. Nơi đây, ông còn nán lại thêm hai ngày nữa để chứng kiến
cảnh hấp hối của Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn.
Sau này, nhiều sĩ quan đã phê bình ông
vì ông đã không ở lại Đà Nẵng cho đến ngày chót để giữ tinh thần binh
đội của mình.Thảm cảnh giành giật lên máy bay chỉ là một sự thu nhỏ thảm
kịch tháo chạy. Tại bãi biễn Đà Nẵng, hàng ngàn con người chờ đợi, lội
bì bõm với hy vọng ra được tàu thủy bị sóng vùi lấp, hoặc chen chúc nhau
trên các sà lan cả mấy ngày nhịn đó, nhịn khát.
Trên chiếc tàu buôn dân sự chở hàng khô
SS Pionner Contender(7a), theo lời một nhân chứng thuật lại, một số binh
sĩ đã nhốt các chỉ huy chiến hạm này vào một cabin, rồi thay nhau hãm
hiếp các phụ nữ, sát hại cũng như trấn lột nữ trang, tiền bạc gây hoảng
sợ trong số dân chúng ở trên tầu.
Đây là tình trạng phẫn nộ của một số binh sĩ về sự sụp đổ cay đắng đang diễn ra. Anh hùng hay hèn nhát?
Những thủy thủ người Mỹ trên tầu cho hay
có ít nhất 25 người đã bị giết chết khi tranh giành lên tầu. Những
người lính thủy quân lục chiến này cho rằng, họ đã giết những người đó
vì tình nghi họ là Việt Cộng. SS Pioneer Contender là chiếc tầu cuối
cùng rời bến cảng Đà Nẵng. Riêng phóng viên Peter O’Loughlin đã nhìn
thấy khoảng 15 xác chết và hàng trăm xác chết khác trên những chiếc xà
lan khác.
Theo một nguồn tin khác của AP, trên
những chiếc xà lan chất đống hàng mấy ngàn người vừa binh sĩ, vừa thường
dân với trẻ con sống chen chúc nhau từ 4 ngày nay không có nước uống.
Họ trở thành như điên loạn và đôi khi nhảy xuống biển tự vận. Lính thủy
người Mỹ trên tầu SS Pioneer Contender làm thành hành rào người để đỡ
những đàn bà trẻ em lên tàu. Phải mất tám giờ đồng hồ để đưa họ lên tàu.
Nhiều người bám vào dây neo của tàu để
trèo lên. Chiếc SS Pionner Contender thứ nhất đã vớt được 5000 người và
đã nhổ neo. Chiếc SS Pioneer Contender đã có thể áp sát tàu vào sà lan
giúp cho người ta có thể lên tàu dễ dàng hơn. Khi chiếc Contender, nhổ
neo thì không còn sà lan nào khác và tàu trực chỉ phía Nam, rất có thể
là sẽ ghé Cam Ranh. Trên tàu thiếu nước uống, chỉ còn vài thùng nước
uống không đủ phân phát cho mọi người. Thủy thủ đoàn đã phải biến Cabin
trên tàu thành một nhà thương, vì có người đàn bà hạ sinh một đứa trẻ.
bác sĩ cho biết đứa trẻ ở trong tình trạng nguy kịch.
Tàu trực chỉ hướng Nam và người ta còn nhìn thấy xa xa trên bãi biển
như một đống rác với xe gắn máy, valise, dày giép, quần áo vứt hỗn độn
cũng như xác một đứa trẻ nằm chết trên bãi. Người ta còn nhớ cảnh tượng
hãi hùng khi một vài đứa trẻ bị rớt xuống biển và mẹ chúng nhảy xuống
theo với một cố gắng vô ích cuối cùng mong cứu được con của họ.
Đó là bài tường thuật của phóng viên AP,
tại Đà Nẵng, vào ngày 31 tháng ba với nhan đề: Babies fall overboard in
scramble for ships.
Chẳng hiểu những ông Thiệu, ông Khiêm,
ông Trần Văn Đôn, ông Dương Văn Minh có cơ hội được xem những thảm cảnh
này trên truyền hình hay không?
Phần tôi, sau này có dịp nghĩ rằng các
các cấp lãnh đạo miền Nam và các vị chỉ huy từ cấp đại tá trở lên đang
có trách nhiệm ở vùng một đã không làm hết bổn phận của một quân nhân.
Hầu hết đã dùng những phương tiện dành cho họ và rút khỏi miền Trung bỏ
lại đằng sau các sĩ quan cấp thấp như thiếu tá, đại úy và binh lính của
họ.
Vì thế, đã có nhiều thành phố buông
xuôi, bỏ chạy mà cộng quân đã không phải tốn một phát súng nào. Chẳng
hạn như tại Quảng Trị, Bình Định, Tuy Hòa.
Người ta có cảm tưởng mạnh ai tìm phương
tiện tháo thân và bất kể số phận dân chúng ra sao. Ông Thị trưởng Đà
Nẳng đã tỏ ra bất lực và buông xuôi. Một trong những nhân viên CIA làm
việc tại Đà Nẵng Francis Gasped đã hét lên khi không cách nào liên lạc
được với vị thị trưởng, “Get me the Mayor.”
Đã có bao nhiêu ông thị trưởng trốn trách nhiệm vào giờ phút thứ 25 như thế?
Và khi đã gặp được viên thị trưởng thì Gaspel nói, “Hãy giúp chúng tôi một tay ở đây. Họ dù sao cũng là dân của các ông.”(8)
Người ta ít để ý và ghi nhận là ngoài
khơi bãi biển Đà Nẵng có chiếc tầu thủy dành riêng cho nhóm CIA để quan
sát tình hình. Tên chiếc tầu là Oseola có nhiệm vụ quan sát, nếu cần
tiếp trợ theo khả năng của họ.
Trên bong tầu Oseola, người ta có thể
quan sát cảnh chen chúc nhau lên chiếc Pioneer Contender, cảnh những xà
lan tới tấp đưa người lên chiếc SS Pioneer Contender đã quá tải. Xa xa
là chiếc HQ-5 của Hải quân, một tầu tuần duyên.
Vài giờ sau, vào lúc nửa đêm, trên chiếc
Oseola, người ta có nhận thấy đèn pha trên chiếc SS Pioneer Contender
trực chỉ hướng Nam về phía Cam Ranh.
Sứ mệnh một con tàu coi như đã hoàn tất. Phần còn lại, để cho số phận quyết định!
Có một điều như một tấm gương cho các
tướng lãnh, sĩ quan cao cấp soi gương là người ở lại cuối cùng trước khi
rời Đà Nẵng lại là một người Mỹ. Mặc dầu có lệnh của trùm mật vụ Polgar
yêu cầu ông phải di tản ngay khỏi Đà Nẵng bằng máy bay. Ông Philip
Custer [bí danh của Trưởng Cơ sở CIA tại Đà Nẵng – có thể là Thomas J.
Flores] coi như tai điếc vẫn tiếp tục ở lại, coi như không nhận được
lệnh. Ông ở lại với hy vọng là cứu vớt được nhiều người khác lên tầu
thủy, thêm được tin tức.
Nhưng đối với Polgar thì việc trì hoãn di tản là tự chuốc lấy một sự liều lĩnh không cần thiết.
Cũng trong cái tinh thần hy sinh và
trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s
cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng để cứu vớt
thêm những người tỵ nạn mặc dầu sự ngăn cản của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài
Gòn.
Nhưng nếu tất cả cấp chỉ huy của chúng ta làm công việc như ông Custer hay ông Daly ở trên thì sự thể sẽ như thế nào?
Vào lúc này, tại tòa đại sứ Hoa Kỳ loan
báo sẽ có những chuyến bay đặc biệt chở sang Sài gòn các phương tiện
thuốc men và cả đồ viện trợ quân sự nữa.
Quyết định của sinh viên ở Canada
Trước tình hình miền Nam trở thành một
sự tuyệt vọng. Anh em sinh viên bên này đã tụ họp lại và đi đến quyết
định lên gặp đại diện chính quyền Canada bảo lãnh cho gia đình sang tỵ
nạn bên Canda. Hạ tuần tháng 3, 1975 sinh viên Việt Nam đã đến văn phòng
Bộ trưởng Bộ Lao động và Di trú Robert Andras yêu cầu chính phủ Canada
đưa thân nhân của họ rời khỏi Việt Nam. Mặc dù chỉ có một số nhỏ, sinh
viên Việt Nam (khoảng 1500 người ở Ontario và Quebec) khi tình hình xấu
đi, trụ sở chính của Bộ Bộ Lao động và Di trú tại Ottawa đã tràn ngập
với hàng ngàn đơn xin bảo lãnh cho thân nhân và gia đình ở Việt Nam.
Các toán công tác của Bộ Lao động và Di
trú ở châu Á-Thái Bình Dương không kịp đối phó, và toàn bộ đội ngũ ngoại
giao đoàn đã chuyển sang gởi thư và chiếu khán nhập cảnh. Đơn xin bảo
lãnh được cứu xét cấp tốc, và telex danh sách người được bảo lãnh được
gửi đến đại sứ quán Canada tại Sài Gòn ở tốc độ nhanh nhất. Nhân viên
ngoại giao đã làm việc từ 14 đến 16 giờ một ngày. Hai nhân viên đã ngủ
tại Trung tâm Thông tin liên lạc của Bộ Ngoại giao để bảo đảm bảo các
tin nhắn vào và ra đã được chuyển kịp thời. Và tất cả các trung tâm di
trú ở Canada đã mở cửa một ngày cuối tuần để nhận đơn bảo lãnh.
Cố gắng của nhân viên Bộ Di trú ở Canada
đã đem lại kết quả: mỗi buổi sáng tháng Tư, tòa đại sứ Canada tại Sài
Gòn đã nhận được những tờ telex dài từ 7 đến 10 thước với tên và địa
chỉ, thường không đầy đủ, của thân nhân của sinh viên và người Việt tại
Canada.(9)
Chỉ trong tháng Tư 1975, văn phòng visa
Canada ở Hồng Kông đã gửi thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh đến 3.500 gia
đình (khoảng 15.000 người) ở Việt Nam được người thân ở Canada bảo
lãnh.(9a)
Nay nhìn lại, người ta thắc mắc không biết có bao nhiêu sinh viên phản chiến ở Canada nộp đơn xin đoàn tụ gia đình?
Câu trả lời có thể là từ một người dại
diệm nhóm sinh viên thiên tả trong tổ chức UGCV (Union générale des
Vietnamiens au Canada. Hội Việt kiều Yêu Nước Tại Canada) – ông Thục
Bình nói như sau:
Chúng tôi chào đón cuộc chinh phục toàn Đông Dương của người cộng sản. Ông nói tiếp:
“Cuộc chiến thắng vào tháng tư 1975 đã làm rung chuyển huyền thoại sức mạnh siêu cường của nước Mỹ. Nó đem đến sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Nhờ đó, nó đem lại sự chiến thắng của các lực lượng tiến bộ của lào và Cambodia, sự chấm dứt chế độ thộc địa của Bồ Đào Nha tại Angola, Guinea-Bissau và Mozambique và sự sụp đổ của các nhóm độc tài cựa tả tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha.”(10)
Phần chính quyền Canada như Bộ trưởng Di
trú Robert Andras nhấn mạnh trong buổi họp nội các rằng: “Canada có
truyền thống nhân đạo ‘humanitarian considerations ought to be regarded as paramount’ (Sự cứu xét về mặt nhân đạo phải được coi là điều tối quan trọng).”
Cứu trợ nhân đạo cũng là để đáp ứng lời
kêu gọi của Mỹ muốn các nước đồng minh cùng nhau hợp tác trong một
chương trình đa phương nhằm định cư những người Việt.
Chẳng những chính phủ Canada chấp nhận
cho các sinh viên đang du học tại đây, các người có quyền công dân hay
thường trú, khoảng 1500 người được bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang.
Chính quyền còn thỏa thuận nhận khoảng 2000 người không có thân nhân bảo
lãnh ở các trại tỵ nạn và 1000 người khác Đông Nam Á.(11)
Chúng tôi nghĩ rằng, việc bảo trợ những
người Việt Nam tỵ nạn đến Canada ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975 là một
việc làm nhân đạo. Nếu có ưu tiên nào, lúc đó, thì ưu tiên duy nhất là
có thân nhân hiện ở Canada. Cũng vì tính cách nhân đạo đó, sau này chính
phủ Canada đã cho nhập cảnh Canada đủ mọi thành phần, có học cũng như
không có học, biết tiếng Pháp cũng như không biết tiếng Pháp. Tài liệu “Indochinese Designated Class Regulations”,
S.O.R./78- 931 nêu rõ nhiều chi tiết về tiến trình bảo lãnh/nhập cư vào
Canada của người tị nạn Việt, Miên, Lào đã bỏ nước ra đi sau ngày 30
tháng Tư 1975.
Một số thành phần thuộc giới có ăn học ở
Việt Nam, được bảo lãnh vào Québec chủ quan cho rằng, Québec thường dễ
chấp nhận những người có bằng cấp và nói được tiếng Pháp! Đó là một lối
suy nghĩ chủ quan không đúng chỗ. Hiện nay di dân người Việt ở Canada đã
lên đến con số 250.000 người, vậy thì ai là người có học và ai là người
nói tiếng Pháp trong số đó?
Trong tập hồ sơ kỷ niệm 40 năm di cư của
Hội Sử học Di Dân Canada (The Indochinese Movement: Fortieth
Anniversary), ông Bộ trưởng Di trú Robert Andras đã nêu bật tính cách
‘phi chính trị’ trong việc tiếp nhận người tỵ nạn. Vì thế, Canada cùng
lúc cho nhập những người Việt Nam tránh nạn cộng sản cũng như cho nhập
những người dân Chí Lợi thuộc cánh tả của Tổng thống Allende bị chính
quyền độc tài quân phiệt Pinochet săn đuổi và truy lùng.
Ngày mồng một, tháng Tư, 1975 | Cong will talk, if Thieu out
Trước một nguy cơ miền Nam sụp đổ không
tránh được, cộng sản Hà Nội càng tỏ ra quyết liệt. Tin của thông tín
viên AP, từ Nhật Bản cho hay, cộng sản Hà Nội tuyên bố miền Nam Việt Nam
đang ở một khúc quanh mới (New turning point) về một chiến thắng áp đảo
và tràn ngập về quân sự.
Nhưng Hà Nội chỉ chịu nói chuyện với một
chính quyền mới trong đó không có Nguyễn Văn Thiệu và phe đảng của ông
ta. Và rằng trở ngại cuối cùng để đưa đến một cuộc đàm phán chính là
Nguyễn Văn Thiệu. và Người Mỹ thì vẫn ngoan cố không chịu chấm dứt sự
can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến tranh.
Kissinger thất bại trong cuộc đàm phán Do Thái-Ai Cập
Những cố gắng ngoại giao trong những
ngày gần đây xem ra đã tan ra mây khói. Chính sách ngoại giao con thoi
(Shuttle diplomacy) của Kissinger đã chấm dứt bằng sự thất bại vì không
đưa được Do Thái-Ai Cập xích lại gần nhau để bàn thảo về tương lai giữa
hai nước về việc giải trừ binh bị. Mặc dù gặp thất bại, Kissinger vẫn
không ngừng gặp gỡ đôi bên. Ông vẫn hy vọng hai bên đạt được một thỏa
hiệp!
Refugees plight hopeless
Hoàn cảnh của hơn một triệu người hiện
nay còn bị kẹt lại Đà Nẵng coi như hết hy vọng. Ít lắm trong số đó có
khoảng 120.000 người tỵ nạn có hy vọng được vớt ngoài biển. Đạn trọng
pháo của cộng quân vẫn tiếp tục nã vào Đà Nẵng.
Hiện nay có khoảng 20 tầu biển đang đậu
ngoài khơi hải phận quốc tế để cố gắng tìm cách đưa những người tỵ nạn
còn bị kẹt trong đất liền. Nhưng xem ra khó có hy vọng làm được điều gì.
Làm thế nào người tỵ nạn có phương tiện để ra gặp tầu biển đậu ngoài
khơi? Xem ra mọi chuyện đã quá trễ và hết hy vọng? Họ phải có những tầu
đổ bộ (Landing ship transport) chở ra tàu lớn.
Chính quyền miền Nam đã nhờ Mỹ can thiệp
với Hà Nội để cho những người tỵ nạn ở Đà Nẵng được ra đi thong thả. Hà
Nội trả lời là không thể nào có cuộc ngưng bắn đi kèm với việc để những
ngươi tỵ nạn ấy ra đi! Chấm hết.
Ngày 2 tháng tư, 1975
Theo tin của đài Hà Nội, một chính quyền
mới nay đang có trách nhiệm ổn định lại trật tự ở Huế. Một số viên chức
cao cấp như cảnh sát và nhân viên chính phủ bị kẹt ở lại được biết đã
bị đem ra xử bắn ngay tức khắc.
Và như một màn kịch cùng ngày, tướng Thiệu ra lệnh tướng Trưởng phải tái thiết lập Quân đoàn 1 dể phản công lấy lại toàn vùng.
Tường Trưởng nghe được lệnh này chắc phải vừa cười, vừa khóc.
Đã ít nhất hai lần, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra những lệnh trái ngược nhau liên quan đến Quân khu I.
Cuộc triệt thoái khỏi vùng I đã phải trả
giá đắt. Với 3 triệu dân chỉ có hơn 70 chục ngàn thoát chạy khỏi vùng I
mà phần lớn thoát chạy bằng đường biển.
Nay đến lượt thành phố Nha Trang phải di
tản. Hôm nay là ngày thứ ba, 2 tháng Tư. Thành phố nhốn nháo với dân tỵ
nạn và họ tìm cách chạy ra khỏi thành phố bằng đủ phương tiện. Phần
đông họ dùng đường bộ để chạy ra Cam Ranh, cách Nha Trang 40 dặm về phía
Nam.
Trong số những người tỵ nạn, một số
không nhỏ chạy về từ Cao Nguyên và một số chạy vào từ Đà Nẵng mới được
vài ngày nay lại một lần nữa chạy khỏi Nha Trang.
Tuy nhiên các chức sắc trong thành phố
cũng như những người có tiền của, có phương tiện do kinh nghiệm từ Đà
Nẵng, họ đã tìm cách đi vào Sài gòn trước khi tình trạng rối loạn ở Nha
Trang xảy ra. Tuy vậy, những cảnh tượng hỗn loạn xảy ra ở Đà Nẵng nay
tái diễn ở đây ở mức độ nhỏ hơn. Nhà tù được mở cửa tạo thêm sự hỗn loạn
với nạn cướp hóc vốn đã có sẵn.
Chương trình Orphan Airlift bị bãi bỏ
Theo tin của hãng AP từ Sài Gòn đánh đi
cho hay dự định cho 500 trẻ em mồ côi được phép đi sang Mỹ dã bị bãi bõ.
Chương trình này do tổ chức có tên là Friend of all Children được 4 bác
sĩ và 17 nữ trợ tá gồm các quốc tịch như Mỹ, Úc và Anh trợ giúp.
Theo dự định, các trẻ em sẽ được chở đi trên các chuyến bay World Airways DC8 Cargo jet đến Chicago, ghé qua Tokyo và Hawaii.
Sau đó chẳng bao lâu lại có lệnh cho phép các trẻ em mồ côi được phép ra đi.
Ngày 3 tháng tư, 1975
Người dân Đà Nẵng lo trốn chạy cộng sản
như thế, nhưng theo phóng viên John Burns của tờ The Globe and Mail cho
hay, tại Bắc Kinh, tờ People’s Daily (Nhân dân nhật báo), trích dẫn một
nguồn tin của báo chí cộng sản Hà Nội viết hàng trăm ngàn thường dân
‘Who had been forced to retreat with the ennemy from Danang, firmly
frustrasted the vicious ennemy scheme and return to city, where they
gave the liberation armed forces a rousing welcome’. (Bị áp lực rút theo
bọn kẻ thù xấu xa, đã quay trở về thành phố Huế và hoan hô chúc mừng
quân đội giải phóng).
Bài báo còn cho biết thêm, chính ‘ngụy quyền’ miền Nam đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê chứ không phải người cộng sản.
Bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford
Theo tin hãng AP, tại Los Angeles, bà
Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford, bà rất lấy làm xúc động khi thấy
hoàn cảnh một số trẻ em Việt Nam và bà mong muốn nhận chúng làm con
nuôi. Bà Ford đã nói trong một buổi họp báo trong lúc đang đi nghỉ hè
tại Palm Springs, bà nói bà ủng hộ chương trình cứu một số trẻ em của
Tổng thống Ford, Orphans Airlifts. Bà nói thêm, “Tôi thấy rằng những trẻ
em cũng là những đứa trẻ và chúng cũng cần có những cơ hội lớn lên như
các con em của chúng ta.”
Where is Thi My Kieu?
Cũng theo tin AP, tại Pompano beach,
Florida, trong một căn phòng mới được trang hoàng dán giấy mầu hồng và
mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng. Vợ chồng luật sư Ed Oddo đã sốt ruột
trông chờ đứa trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi được sang Hoa Kỳ. Đó
là bé gái Kiều Thị Mỹ.
Vào hôm thứ tư, ông Ed Oddo nói, “It’s
frustrating. We’ve waited so long. You Know, We’ve got her picture.
We’ve planned and dreamed, like a family would for any new baby.”
Phần bà vợ ông Oddo, Christine, 25 tuổi
hy vọng rằng đứa con nuôi ba tháng rưỡi tuổi sẽ đến đây cùng với cùng
với các trẻ mồ côi khác trong chuyến bay sắp tới.
Ông nói thêm, chúng tôi đã làm tất cả những điều có thể làm để hy vọng Thi My Kieu có thể đến đây.
Tin tiếp tục ngày 3-4 | Horror of war behind for 52 Viet orphans
Theo tin của hãng UPI, tại San
Francisco, 52 trẻ em Việt Nam mồ côi hiện đã đặt chân đến đất Mỹ tuổi từ
3 tháng đến 8 tuổi vào tối thứ tư tại phi trường Oakland International
Airport trên chuyến bay World Airways cargo jet.
Các trẻ em dã để lại đằng sau hình ảnh
một cuộc chiến tranh ghê sợ mà các em chưa nhận thức hết được. Một cuộc
sống mới đang mở ra.
Chắc chúng còn mệt sau 16 giờ 53 phút
bay từ Việt Nam sang đây. Sau đó chúng được chở bằng xe buýt đến Tổng
hành dinh của quân đoàn thứ sáu để khám bệnh và làm thủ tục nhận con
nuôi.
Sở dĩ chúng có thể đến được đây trong
ngày hôm nay là do lòng can đảm và tận tụy của Đại úy Ken Healy đã bất
chấp lệnh từ Sài Gòn do trạm không lưu ngăn chặn không cho cất cánh bằng
những chiếc phi cơ DC8. Đại úy William Keating cũng có mặt trong chuyến
bay cắt nghĩa thêm: we were instructed to hold our position by ground
control. We ignore that. We taxied down the runway and took off’.
Các trẻ em mồ côi này đã vượt được đoạn đường dài 6.993 dặm từ Sài gòn đến San Francisco.
Họ còn chuẩn bị một căn phòng cạnh cây
cầu Golden Gate để cho các em mới tới vui chơi. Cứ hai em thì có một tấm
nệm và căn phòng được trang hoàng đẹp mắt. Cứ mỗi một em thì do một
người lớn chăm sóc mọi thứ.
Ngày 4 tháng Tư, 1975: Vietnamese cabinet ousted!
Theo nguồn tin UPI, Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đã tuyên bố ngày hôm nay chấp nhận chính phủ của ông sẽ từ
chức và được thay thế bằng ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ viện. Vẫn có
dư luận đồn thổi trong dân chúng là ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh.
Ông Kỳ phủ nhận tin này.
Sự thay đổi này chỉ là một sự chút trách
nhiệm cho người khác. Nó không phải là giải pháp giải quyết của tình
thế. Trong những ngày gần đây, Ông Thiệu đẩy trách nhiệm rút khỏi Tây
Nguyên cho tướng Phú, trách nhiệm rút Huế Đà Nẵng cho tướng Trưởng. Tất
cả chỉ là những màn chạy tội.
Miền Nam chắc sẽ mất vào tay cộng sản vì
Mỹ bỏ viện trợ. Quân đội miền Nam VNCH đã từng chiến đấu ròng rã trong
suốt 21 năm không lẽ thua trong vài tuần?
Ngay cả trường hợp miền Nam bị thua và rơi vào tay cộng quân, chúng ta vẫn có thể chọn lựa cho mình một cách thua khác.
Không phải cách thua nhục nhã như thế này!
Tướng Weyand, một đặc sứ của Tổng thống
Ford gửi sang Việt Nam xem xét tình hình Việt Nam vẫn có thể tuyên bố
như sau, “The North Vietnamese army… can be defeated.”
Chiến dịch ‘Operation Babylift’
Trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam
sắp sửa đi đến chỗ kết thúc. Một trong những người tích cực nhất trong
việc di tản một số người Việt ra khỏi đất nước họ là ông Bộ trưởng bộ di
trú Canada, ông, Robert Andras. Ông đã cho đặt thêm một emergency desk
ngay trong văn phòng làm việc của ông để giải quyết vấn đề người tỵ nạn
Đông Dương.
Việc làm ấy nằm trong cái tinh thần mà
Peter Duschinsky, trong CIHS Bulletin, nhân dịp kỷ niệm 40 Năm sau 1975
với nhan dề bài viết The Human Side of the fall of Saigon.(12)
Cuộc chiến ấy nhiều mặt là một bi kịch chiến tranh, nhưng cũng là một thảm họa của nhân loại xét vế mặt con người.
Và sự cứu vớt người tỵ nạn ra khỏi cuộc
chiến ấy, mặc dầu chỉ là như muối bỏ biển, cũng vẫn mang tính con người.
Trong đó người ta nghĩ đến hàng triệu số phận trẻ em mồ côi của miền
Nam mà con số may mắn được cứu vớt chỉ khoảng vài ngàn trẻ em.
Tuy nhiên, ngay chuyến bay đầu tiên, chiến dịch ấy đã tự nó mang một thảm họa vô cùng thảm khốc.
Ngày 4 tháng Tư. Thảm hoạ trên không
Hôm này có thể nói cũng là ngày tang
thương cho số phận một số trẻ mồ côi trên chiếc máy bay khổng lồ của
quân đội Mỹ, chiếc C-5A Galaxy đã cất cánh sau một thời gian ngắn với
305 trẻ em mồ côi để đi Mỹ. Tất cả những em ngồi ở phần đuôi máy bay thì
không có hy vọng sống sót. Ít nhất có 178 trẻ em và người lớn bị chết.
Cánh cửa phi cơ nổ tung do một số ổ khóa cửa hỏng gây ra, cánh cửa ở
phần đuôi máy bay (cargo door) bị bung ra, phi cơ mất cao độ và viên phi
công cố gắng quay trở về Tân Sơn Nhất, nhưng đã không thành công.
Trường hợp này cũng giống như trường hợp chiếc DC 10 cũng đã nổ tung ra khi gần tới Paris năm 1974 làm chết 345 người.
Theo nguồn tin của AP thì tòa đại sứ Hoa
Kỳ cho rằng có khoảng 100 em mồ côi còn sống sót cộng với 10 đến 15
người lớn. Số người sống sót bao gồm cả viên phi công. Trực thăng đã đến
hiện trường và chở 63 em còn sống sót đến nhà thương Seventh-day
Adventish hospital.(13)
Các em còn sống, mắt mở to ngơ ngác, không khóc và im lặng. They did not speak. They did not cry. Người ta đã chứng kiến và viết lại cái cảnh tượng đó như thế.
Việc phi cơ chở trẻ em mồ côi bị rớt trở thành một thảm kịch của những ngày tàn cuộc chiến.(14)
Ông Phan Quang Đán là một trong số những
người phản đối chương trình này. Và theo tin của UPI vào ngày 7 tháng
tư, chương trình mới lại được chính phủ Sài Gòn cho tiếp tục trở lại.
Trong khi đó thực sự đã có chuyến bay chở trẻ em côi đến Mỹ và đến
Canada.
Tại thủ đô Ottawa, ông bộ trưởng di trú
Robert Andras cho hay có 300 gia đình ở tỉnh bang Ontario và 100 gia
đình ở Nova Scotia bày tỏ ý muốn nhận các trẻ mồ côi đến từ Việt Nam chỉ
sau ít giờ sau khi nhận được thông báo.
Hiện nay thì có hai chuyến bay sẽ đến
Sài Gòn và mỗi chuyến bay sẽ chuyên chở 250 em mồ côi. Chính phủ Liên
bang đã chấp thuận một quỹ là 76.000 đô la cho việc chuyên chở này.
Một vị ân nhân ẩn danh là một phụ nữ cho biết, “Tất cả điều chúng tôi mong muốn hiện nay là giúp các trẻ em mồ côi đó ra khỏi Việt Nam.” Cũng sẽ có 30 người tình nguyện đáp máy bay đi Sài Gòn để giúp đưa các trẻ mồ côi trong chuyến đi này.
Ngày 4 tháng tư, ông bà Tổng thống Ford có chương trình đón tiếp các trẻ em mồ côi trong chuyến bay đầu tiên đến Mỹ.
Đây là chuyến bay đầu tiên đến Mỹ nếu
không kể chuyến bị rớt trước đó. Chuyến bay này chở 243 em mồ côi sang
Mỹ. Chuyến bay sẽ dừng lại ở căn cứ không quân Clark Air Force bên Phi
luật Tân, sau đó tiếp tục bay sang California. Chính ở nơi đây, ông bà
Ford sẽ đón tiếp các em mồ côi.
Nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một màn
kịch dở. Tổng thống Ford đã từng quay lưng trong việc không hỗ trợ Việt
Nam trong cơn nguy khốn. Việc đón tiếp này vì thế có thể đặt dấu hỏi?
Cũng chính vì thế mà có những nhà báo
như W.A.Wilson viết bài với nhan đề, “Trẻ em Việt Nam không nên bị bốc
ra khỏi quê hương xử sở của chúng”. (Vietnamse children should not be
taken from homeland).
Việc đưa các trẻ em sang Mỹ cho thấy sự ích kỷ và tính toán của họ.
Trên đây chỉ là một quan điểm nhìn của một số người không nhất thiết được mọi người đồng ý.
Ngày 7 tháng Tư
Hôm nay đã là mồng 7 tháng Tư, coi như
vừa đúng một tháng sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột. Có
dư luận cho rằng tướng Phú bị cộng sản lừa. Chúng làm nghi binh như thể
đánh Pleiku và tướng Phú tin chắc như thế nên đã nhất định để nguyên sư
đoàn 23 bộ binh đóng chung quanh Pleiku. Sau này, nhiều vị chỉ huy tại
chỗ đã trách tướng Phú, trong đó có đại tướng Cao Văn Viên.
Nhưng quyết định rút quân của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu là một quyết định sinh tử, như vận mệnh cho số phận
quân dân vùng II chiến thuật. Quyết định tái phối trí, rút quân là một
quyết định xem ra quá trễ. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất
bại quân sự. Trong số 20 ngàn quân rút lui vào ngày 16-3, đến ngày kéo
về được đến Tuy Hòa chỉ còn sót lại có 5.000 người. Số còn lại hoặc bị
giết hoặc rã ngũ trên đường rút lui.
Cộng sản tiếp tục đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ mới để có thể thương thuyết với họ.
Chính quyền Sài Gòn ra lệnh ai gây rối sẽ bị xử bắn tại chỗ và lệnh giới nghiêm được nới rộng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.
Chuyến bay đẩu tiên trở 61 các em mồ côi
người Việt Nam và Cambodia đến Vancouver, Canada theo nguồn tin CP là
ngày 7 tháng tư, 1975.
Vì thế, sau này trong CIHS Bulletin, tại
Canada, số ra kỷ niệm tháng Tư 1975 đã cho rằng việc mất Sài Gòn để lại
ba dấu ấn nổi bật và ấn tượng nhất:
- Thứ nhất là cảnh trốn chạy khỏi Đà Nẵng trên các bãi biển.
- Thứ hai là quang cảnh chiếc C-5A, 6 ngày sau đó bị rớt với 135 trẻ mồ côi bị tử nạn.
- Thứ ba là cảnh những người chạy vào tòa đại sứ Mỹ, đứng trên nóc nhà khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nơi đây và bỏ rơi họ.
Đó là những sad endings!
Cũng ngày 7 tháng tư, 1975
Theo nguồn tin UPI, có khoảng 60 trái
đạn pháo kích vào khu ngoại ô Sài Gòn, như vùng Nhà Bè, cách Sài Gòn 6
dậm. Điều đó cho thấy cộng quân đã tiến sát quanh Thủ Đô Sài Gòn, chỉ
còn cách 8 dặm. Đây là những trái đạn pháo mở màn cho một cuộc tấn công
sắp tới.
Hôm nay cũng là ngày chính quyền Cambodia thương thảo chấp nhận một cuộc đầu hàng vô điều kiện.
Năm năm trước, vào tháng Ba, năm 1970,
tướng Lon Nol đã làm đảo chánh. Ông bỏ chính sách trung lập và tuyên bố
sẽ chống trả lại Việt Nam cộng sản. Kissinger và Nixon nhảy vào, dùng
B-52 bỏ bom quân đội cộng sản Bắc Việt. Trong vòng 5 năm, người Mỹ đã
rót vào Cambodia 2 tỉ đô la.
Và một lần nữa, Người Mỹ bỏ cuộc để mặc cho số phận Cambodia rơi vào tay bọn Khmer đỏ và nạn diệt chủng đã xảy ra ngay sau đó.
Ngày 8 tháng tư, 1975
Theo tin AP, một phản lực cơ của quân
đội VNCH đã dội bom và bắn rocket xuống dinh Độc Lập. Nhưng Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã tránh thoát và không bị thương.
Tổng thống Thiệu đã lên vô tuyến truyền hình và nói rằng, có một số cá nhân muốn ám hại ông với ý đồ muốn thay đổi chính phủ.
Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân
đã lên tiếng là quân đội vẫn trung thành với Tổng thống Thiệu. Và đây
chỉ là một hành vi của một cá nhân.
Tướng Kỳ lên tiếng và cho rằng ông không dính líu gì đến việc này. Nhưng yêu cầu ông Thiệu từ chức.
Ông Thiệu đã lên truyền hình và tuyên bố, “Tôi quyết định tiếp tục lãnh đạo xứ sở này.”
Cái câu nói nổi tiếng của Tổng thống Thiệu, “Đừng
nghe những gì cộng sản nói mà hãy xem những gì cộng sản làm cũng có thể
ứng vào trưởng hợp của chính ông Nguyễn Văn Thiệu.”
Sau này thì người ta được biết chiếc
phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập do Nguyễn Thành Trung lái từ Đà Nẵng.
Sau đó Trung lái máy bay ở cao độ thấp, đáp xuống một phi đạo dài khoảng
915 m do Việt Cộng lập ở Phước Long, cách Sài Gòn 200 km về hướng Bắc.
Cuộc ném bom đã làm cho hai người chết và vài người bị thương.
Sài Gòn, ngày 8 tháng Tư, năm 1975: Tiếng súng tại mặt trận An Lộc bắt đầu
Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu quân đội VNCH có giữ được phòng tuyến này không?
Chiếm được Xuân Lộc, đó là mục tiêu
chiến lược của cộng quân. Nhưng họ cũng mong rằng qua thương lượng,
political means, qua một cuộc đầu hàng có giàn xếp với một chế độ không
phải Thiệu. Nguyễn Thị Bình, ở Paris, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ
Lâm thời Miền Nam mong muốn đạt được mục tiêu, nếu có thể, mà không
phải dùng đến những phương tiện quân sự. Nói với phóng viên tờ Le Monde,
bà Bình mô tả hoàn cảnh ở miền Nam hiện nay là không thể đảo ngược được
tình thế. Nhưng việc xử dụng quân lực hay sức mạnh quân sự hay không là
tùy thuộc vào phía đối phương.
Ngày 9 tháng Tư: Secret US-Viet pact claimed. Tiết lộ những trao đổi thư từ bí mật giữa Mỹ và Việt Nam
Trong giai đoạn trước khi ký Hòa đàm Ba
Lê, Tổng thống Nixon đã thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào
bản Hiệp Định với những lời hứa hẹn bảo đảm sẽ can thiệp vào Việt Nam.
Nói chung có tất cả 27 lá thư trao đổi của Tổng thống Nixon gửi cho ông
Thiệu. Sau đó tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã gửi cho ông Tổng trưởng Quốc
Phòng là James R. Schlesinger một số trong những lá thư đó. Ông này bèn
thông báo cho nghị sĩ Henry Jackson biết và ông Jackson đã tìm cách đăt
vấn đề với tòa Bạch Ốc.
Cuộc họp báo của ông thượng ngị sĩ được
diễn ra ngay từ 30 tháng Tư. Trong đó ông cho rằng Kissinger đã che dấu
những lá thư này đến ngay Tổng thống Gérald Ford cũng như bộ trưởng Quốc
Phòng Schlesinger cũng không hề biết.
Thượng nghĩ sĩ Henry Jackson nói tiếp:
Đây là lần đầu tiên, Tổng thống Ford biết được những lá thư mật trao đổi
giữa Nixon và ông Thiệu. Phía Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói
còn giữ đuợc tất cả 27 thư trong khi phía Mỹ không biết tại sao chỉ còn
giữ được có 10 bức thư.(15)
Theo bản tin của AP tại Hoa Thịnh Đốn,
thượng nghị sĩ Hackson chính phủ Hoa Kỳ có bổn phận tinh thần tôn trọng
những thỏa thuận ngầm này. Về phần dân chúng hoa Kỳ, họ có quyền được
biết về những thỏa thuận giữa hai bên mà đáng lẽ họ phải được thông báo
đầy đủ.
Nếu cứ đúng như những nội dung mà Nixon
đã cam kết với ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ ‘react vigorously’, can thiệp một
cách mạnh mẽ nếu Bắc Việt xâm lăng miền Nam bằng quân sự.
Và nếu tôn trọng những lời cam kết như trên thì Quốc Hội Hoa Kỳ phải chuẩn chi viện trợ khẩn cấp mà Tổng thống Ford đòi hỏi.
Thế nhưng, theo tin của AP, Tổng thống Ford đã nói chuyện với các lãnh tụ Thượng viện Hoa kỳ rằng: “Ông không tìm bất cứ thấy bằng chứng gọi là bí mật trong những thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.”
Nói trắng ra Tổng thống Ford muốn phủi tay không muốn bằng bất cứ giá nào can thiệp vào Việt Nam nữa.
Rockefeller, Phó tổng thống, theo thông
tấn UPI tại New Orleans trong một lởi tuyên bố: U.S. must decide, ông
cho rằng nay là lúc Hoa Kỳ phải quyết định nay là lúc chúng ta phải đứng
một bên, bởi vì chúng ta đã đảm nhận vai trò trách nhiệm thế giới trong
mấy thập niên rồi. và hãy để cho Liên Xô nắm trách nhiệm trọng tài thế
giới.
Cũng ngày 9 tháng Tư
Người ta nói đến một cuộc thanh trừng ở Nam Việt Nam nếu cộng sản Hà Nội nắm chính quyền.
Theo các tài liệu báo chí từ Nga thì nếu
nắm được chính quyền miền Nam, họ sẽ thực thi chính sách 10 điểm. Tờ
Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Liên Xô nói tới:
Việc gấp rút để đưa cuộc sống người dân
trở lại bình thường và thanh trừng những thành phần tay sai ngụy quyền.
Trước hết thanh lọc hết các tổ chức hành chánh, lực lượng quân đội và
các tổ chức bù nhìn của chế độ. Và trong một thời gian ngắn nhất thiết
lập các cơ chế chính quyền cách mạng ở mọi tầng lớp dân chúng.
Tất cả tùy thuộc vào hai chữ thanh trừng (Liquidation).
Nhiều người Việt Nam chắc đã không quên
khi chiếm được miền Bắc, cộng sản đã áp đặt chính sách cải cách ruộng
đất (Land reform) và chính sách tập thể hóa (Collectivization) nhằm loại
bỏ các chủ đất. Theo tác giả Bernard Fall, các đợt thanh trừng này đã
giết hại 50.000 nông dân và bắt 100.000 người bị tù đầy.
Tất cả chúng ta chờ xem mức độ thanh trừng sẽ được diễn ra như thế nào?
Ngày 11 tháng Tư, sinh viên Việt Nam du hoc tại Montreal biểu tình
Có một nhóm khoảng 50 sinh viên Việt Nam
cầm các biểu ngữ đi diễn hành ở trước tiền đình Quốc Hội Canada. Và họ
kêu gọi có một chính quyền mạnh hơn chính quyền hiện nay để có thể đương
đầu với sự tấn công của cộng sản Hà Nội vào miền Nam.
Lê [Nguyên] Khanh, một trong những phát
ngôn viên của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Montreal cho hay hầu hết những
người tham dự cuộc biểu tình này đều là giới sinh viên Việt Nam du học
mong muốn có một chính quyền mới đủ mạnh để đương đầu với sự xâm lăng
của cộng sản Hà Nội.
Nhân dịp này, anh Lê [Nguyên] Khanh cũng
cám ơn chính phủ Canda cũng như dân chúng Canada đã giúp đỡ một cách
nhân đạo cho miền Nam Việt Nam như thực phẩm, thuốc men.
Trong các biểu ngữ, người ta đọc được một biểu ngữ với hàng chữ, “Stop Red”.
Cũng theo phát ngôn viên của tổ chức
sinh viên ở Montréal, họ không thấy thích thú gì việc quảng cáo tuyên
truyền cho Operation Babylifts. Nhưng anh nói thêm, nếu những trẻ con
này tìm được những cha mẹ nuôi tốt thì cũng tốt cho các trẻ em.(16)
12 tháng tư, 1975
So chính quyền ở Pnom Penh và chính
quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ phút này thì xem ra các
lãnh đạo nước láng giềng tỏ ra cương quyết ở tại chỗ để đương đầu với
cộng sản.
Tướng Sak Suthsakhan, tướng chỉ huy quân độin Cambodia tuyên bố: việc chống đối lại quân Khmer rouge vẫn được tiếp tục.
Mặc dầu quân đội Khmer rouge hiện nay,
có khoảng 10 ngàn người, đã đến làng Samrong chỉ còn cách phi trường
Phnom Penh có một dặm. Có khoảng 1000 quân lính chính phủ hiện đang trấn
đóng dọc theo đường xe lửa, song song với đường số 3 dẫn đến phi
trường.
Dân chúng bằng đủ phương tiện đang ùn ùn kéo về thành phố. Cảnh sát đã bất lực không ngăn cản được dòng người kéo vào thành phố.
Thủ tướng Long Boret vẫn còn có thể nói,
“We will never surrender.” Nhưng rõ ràng là chẳng bao lâu nữa, quân
phiến loạn sẽ tràn ngập thủ đô.
Long Boret cùng với bảy nhân vật chính
trị và quân sự nhận lãnh trách nhiệm sau khi đại tướng Suthskhan đã bỏ
ra đi vào ngày thứ bảy.
Người Mỹ đã mở chiến dịch di tản ‘Eagle
Pull’ và đã chở được 270 người Mỹ và người Cao Mên ra đi một cách êm ả.
Người ta cũng đã không nghe một tiếng súng cũng như không một ai bị
thương trong cuộc di tản này!
Phúc trình cuối cùng của Mỹ cho hay hoàn
cảnh quân sự chung quanh thủ đô hầu như tuyệt vọng và xấu đi từng giờ.
Và việc mất Phnom Penh là điều không còn gỉ để nói nữa.
Adieu Phnom Penh! Con đường dẫn đến Sài Gòn nay đã được mở rộng thêm!
Ngày 12 tháng tư. Việc chuyên chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ. Vàng đó là của chung giữa Việt Nam Và Cam Bốt?
Theo tin UPI từ Nữu Ước cho hay chính
quyền VNCH đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục hãng Hàng Không
Swiss Charter Airline để chuyên chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn sang Thụy
Sỹ.
Hãng Balair, đại diện cho hãng hàng
không Thụy Sỹ từ chối việc chở 16 tấn vàng vì quá nặng và vấn đề cân
bằng cho phi cơ. Theo tin từ Time cho rằng việc chuyên chở vàng này có
dính dáng đến một hai nhân vật cao cấp như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
và tổng thống Cam Bốt Lon Nol.
Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.”
Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.”
Phải chăng số vàng đó có một phần là tài sản của Cambodia?
Tài liệu cho thấy số vàng 16 tấn không
phải là của Viêt Nam mà có phần của Cao Mên. Phần là bao nhiêu thì không
rõ. Thực sự chưa có tài liệu để nói rõ thêm về việc này.
Điều rõ ràng nhất là số vàng ấy sau này trở ra Bắc, rồi từ Bắc trở sang Liên Xô trả nợ.
Trẻ em mồ côi giả?
Trong số 56 trẻ em mồ côi đến Toronto để
giao cho các cha mẹ nuôi, người ta phát hiện ra bé gái Phan Lợi không
phải trẻ em mồ côi mà là con gái của một nhân viên làm việc cho lãnh sự
Mỹ.
Bà Helen Allen, một phát ngôn viên của
bộ di trú cho biết họ sẽ phân loại và hỏi xem đứa bé cảm nghĩ gì và điều
gì đã thực sự xảy ra.
Người thông dịch viên ở San Fran
Francisco tuần vừa qua cũng cho biết nhiều cha mẹ việt Nam lo sợ cho
tương lai con cái họ nên đã tìm mọi cách để chúng có thể ra đi nước
ngoài.
Điều này sau này xảy ra những vụ kiện pháp lý gay go. Cha mẹ ruột đứa trẻ tìm đủ mọi cách để đòi lại con mình.
Thật là không biết phải nói thế nào. Ai là kẻ được con và mất con?
Phần các trẻ em mồ côi khác thì được các cha mẹ nuôi đón tiếp với nước mắt và nỗi vui mừng.
Theo tin của AP, San Francisco, bà Jane
Barton, thông dịch viên cho hay, bà có nói chuyện với 4 trẻ em và ba em
cho biết họ là con của một đại tá và người thứ tư là cháu của vị đại tá
ấy. Rõ ràng là có sự giàn xếp để cho cái một số người có tiền của, các
viên chức cao cấp muốn cho con em của họ được đi ra ngoại quốc một cách
an toàn.
(Còn tiếp)
© 2015 DCVOnlineNếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
(7) Frank Snepp, Ibid, trang 247
(7a) SS Pioneer Contender là tàu buôn dân sự chở hàng khô dài 333 bộ. Thuyền trưởng là Edward Flink do hải quân Mỹ (MSC) thuê làm theo khế ước. Con tàu bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam trong tháng Ba, năm 1975, cung cấp dịch vụ vận chuyển phi quân sự và giao thông nội bộ cho quân đội VNCH và dân Việt Nam đang di tản, và những người lính Nam Việt có vũ trang. Điển hình của sự tàn ác của quân đội miền Nam Việt với những kẻ bi tình nghi là cảm tình viên của Cộng quân Bắc Việt, là những vụ xử án, ám sát, và giết người khủng khiếp trên con tàu. Rời Đà Nẵng là lúc tồi tệ nhất. Không có mặt của an ninh hàng hải trên tàu lúc đó. (Nguồn: Personal Account – PFC Matthew Phair, Hq. Co., 9th Marines/Detachment Victor)
(8) Frank Snepp, Ibid, trang 241
(9) Peter Duschinsky, “The Human Side of the Fall of Saigon”, CIHS Bulletin, Issue #73, April 2015, Canadian Immigration Historical Society. Trang 2-3
(9a) Employment and Immigration Canada, “The Indochinese Refugees: the Canadian Response, 1979 and 1980” (1981, Department of Supply and Services)
(10) Gilbert Gendron, B.A, “The Viet cong Front in Quebec”, trang 9-10
(11) Peter Duschinsky, Ibid, trang 2.
(12) Peter Duschinsky, Ibid, trang 1-5.
(13) Trong một cuốn sách Giá Tự Do mới xuất bản và được giải thưởng Văn Học, do Hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải thưởng Văn Học 2014, không biết dựa trên tài liệu nào, tác giả Lâm Vĩnh Bình đã viết rằng: ‘Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên đã gặp một tai nạn thảm khốc khi chiếc phi cơ trở 300 người gồm trẻ em và người lớn đi theo để săn sóc, vừa cất cánh phi trường Tân Sơn Nhất đã rơi vì phi cơ quá tải, 136 người đã tử nạn. Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do, trang 2.
(14) Xem thêm Simon Parry, “Vẫn không nguồn cội” do Trà Mi dịch, DCVOnline.net, 13 -04-2015 đã trích lời các nhân chứng còn sống sót, cho hay có 313 người trên máy bay. Phi công lái máy bay là Dennis ‘Bud’ đả can đảm cứu được 175 người sống sót. Simon Parry, Still rootless: the child refugees of Vietnam war’s chaotic final days, Red Door News Hong Kong, April 2015.
(15) Nguyễn Tiến Hưng, “Khi đồng minh tháo chạy”, trang 460-461.
(16) CP, “Vietnamese thank Canadians”, The Brandon Sun – Brandon, Manitoba – Apr 12 1975
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét