Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

VUI BUỒN ĐỜI LÍNH- P7

Nguyễn Tấn Tài – Trường Hận

Nước mắt vào Hạ 72 – trường hận”. Đó là vết xâm trên tay của tôi tại miền Bắc.
Tuổi lính của tôi không nhiều, chưa bằng cái lẻ của người khác; ba tháng quân trường cộng với bốn tháng hành quân thì chỉ mới được bảy tháng – từ ngày vô trường cho tới ngày bị bắt tù binh. Tôi viết ra đây là những gì tôi được nghe và thấy. Tất cả đều là sự thật không thêm, không bớt, và với cái nhìn của một binh nhì mà thôi.
Tôi tên Nguyễn Tấn Tài. Sinh ngày 27, tháng 4, năm 1955. Số quân 75/103522, KBC 3341. Vì nhỏ tuổi nên tôi được lọt vào “mắt xanh” của Thiếu Úy Văn. Anh rất thương tôi, anh hứa với tôi là chuyến hành quân này về, có dịp anh sẽ giới thiệu cô em vợ cũng xinh lắm cho tôi. Anh còn nói khi nào về phép mà muốn đi chơi nữa, thì cứ nói cho anh biết, anh sẽ cho đi. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Tư Kiên – Tiểu Đoàn 11 BĐQ Tại Căn Cứ Charlie


Liên Đoàn 2 BĐQ (sau đổi tên thành LĐ23/BĐQ) gồm 3 TĐ, theo lẽ thì có số thứ tự là 21, 22, và 23. Nhưng do TĐ11 tham dự cuộc Biến Loạn Miền Trung năm 1966 nên được thuyên chuyển từ Đà Nẵng lên Pleiku và hoán đổi với TĐ 21. Do vậy LĐ 2 gồm TĐ 11, 22 và 23. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đóng ở Biển
Hồ Pleiku, trên một khu đất khá bằng phẳng gần Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II với 2 Tiểu Đoàn 22 và 23, riêng TĐ 11 thì đóng biệt lập trên phần đất cao hơn và nằm đối diện với Liên đoàn qua Tỉnh Lộ.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Tường Lam – Ngồi Lại Trên Cầu


Trong toàn cõi miền Nam Việt Nam, qua trên một phần tư thế kỷ chiến tranh lửa đạn ngút ngàn, đa số chiếc cầu bắc ngang một dòng sông, dù nhỏ lớn đều có một tiểu sử đau thương, đẫm máu bởi những trận đánh trên cầu, thậm chí còn bị phi cơ không tập.
Cầu Mây Tức nằm giữa ranh giới giữa hai tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, giữa huyện Vũng Liêm và Càng Long. Theo ngôn ngữ người Miên: ‘’Mây’’ là đục, ‘’Tức’’ là nước, cầu Mây Tức là Cầu Nước Đục.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Văn Lan – Thằng Dũng


Tiếng Trung sĩ Khâm oang oang từng lời một trong máy:
– Mày còn nhớ thằng Dũng không?
– Có phải thằng Dũng vác đại liên em sáu mươi (M60) ở Trung đội 2 không?
Giọng trong máy có vẻ ngập ngừng như đang suy nghĩ:
– Nó mang em bảy chín chớ hề. (súng phóng lựu M79).
Tôi cố gắng moi trí nhớ:
– Có phải lúc nào nó cũng mang lựu đạn đầy mình không?
Giọng trong máy cười lớn:
– Đúng nó rồi đó. Chắc hồi ở Trung đội 2 nó mang đại liên nhưng khi qua bên tau thì nó mang bảy chín.
– Nó sao rồi? Tôi bèn hỏi.
– Nó chết rồi.
– Chết hồi nào? Hồi ở Thường Đức hở?
– Không, nó chết sau nầy.
– Sao chết vậy?
– Tội nghiệp lắm. Nhà nó nghèo quá, hai vợ chồng nó chèo ghe ra sông trong mùa nước lũ để lượm củi bán. Cả cái xóm nó, ai cũng nghèo rớt mồng tơi mà đâu có ai dám chèo ra vớt củi. Dị mà hai vợ chồng nó đi ra rồi thuyền nó bị lật rồi hai vợ chồng nó bị nước cuốn mất…
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Trần Ngọc Nguyên Vũ – Dòng Sông Tĩnh Lặng


Xin thắp một nén nhang lòng tưởng niệm cố Trung Tá Phi Công Lê Bá Định. Để nhớ lại một thời đã qua… Một đời đã qua!
Trần Ngọc Nguyên Vũ
*****
“Tịch tịch Lăng Gìa nguyệt”Không không độ hải chu”
Thiền Sư Huệ Sinh
*****
Người khách lữ hành miệt mài đi trên con đường cái quan của đất nước, bắt đầu từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Vượt qua biết bao nhiêu những dòng sông lịch sử, từ Bạch Đằng Giang, Hồng Hà, tới sông Gianh, sông Bến Hải. Qua dòng Thạch Hãn, vượt đỉnh Trường Sơn ngược nguồn lên cao nguyên lần theo những dòng sông PoKor, Dakbla huyền hoặc. Rồi xuôi Nam tụ về 9 dòng Cửu Long Giang cuồn cuộn đổ ra trùng khơi biển cả. Ở mỗi nơi, khách đều dừng chân ngậm ngùi chiêm ngưỡng những dấu tích bi tráng của một thời. Nhưng cảnh vật còn đây mà Anh Hùng Hào Kiệt ngày xưa nào đâu thấy… Chỉ thấy sóng nước đang gầm lên khúc độc hành…
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Kính mời nghe Đơn Vị Cũ Chiến Trường Xưa

ĐVCCTX – Phạm Tín An Ninh: Chim bay về biển (audio)

ĐVCCTX – Phan Nhật Nam: Em tôi (audio)

Đơn Vị Cũ Chiến Trường Xưa – Vương Mộng Long: Nốt Thăng Trầm(audio).Phần 1

ĐVCCTX – Vương Mộng Long: Nốt Thăng Trầm (audio). Phần 2

Posted in Đơn Vị Cũ, Chiến Trường Xưa(audio) | Leave a comment

Trần Quốc Cảnh – Trận Chiến PLEI ME

Lời Giới Thiệu:
Đã hơn 39 năm qua, Quân Sử của VNCH cũng như của Hoa Kỳ đều nói, viết và đưa lên phim ảnh Hollywood về trận đánh lịch sử ở thung lũng Ia-Drang, trên Cao nguyên Trung phần vào tháng 11, năm 1965. Nhưng chưa một ai nói và viết chi tiết chiến thuật “Công Đồn Đả Viện” của quân Cộng Sản Bắc Việt, trong trận phục kích đoàn quân tiếp viện của ta, gồm Trung đoàn 3 Thiết Giáp (sau đổi là Thiết đoàn 8 Kỵ Binh) và tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân, làm mũi nhọn đi giải vây cho tiền đồn Plei Me đang bị vây hãm, cách thành phố Plei Ku khoảng 40 Km về hướng Nam.
Khi đó, quân ta đang rơi vào một cái bẫy sập to lớn hơn, do hơn một Trung đoàn (+) quân chính quy CSBV đang giăng ra để chờ đón con mồi từ từ bước vào vùng tử địa trên Tỉnh Lộ 6C, nối liền từ Plei Ku đến Plei Me.
Posted in Hồi ký chiến trường | 3 Comments

Tiểu Cần Nguyễn Thế Thụy – Tháng Ba Buồn… Hiu !

                                                            
http://hung-viet.org/blog1/Thời gian 35 năm, từ 3/75 tới 3/2010, là một nửa đời người nếu tôi chỉ xin được sống bình an đến 70 tuổi thôi là đủ rồi, vậy mà hằng năm cứ đến tháng 3 là lòng tôi lại nao nao buồn bã, bao hình ảnh của chiến trận năm xưa, vào hạ tuần tháng 3/75, lại hiện về khiến tôi giảm tuổi thọ! Cuộc chiến “không chiến*” ấy chỉ xẩy ra trong vòng một tuần lễ trên một đoạn đường không xa, từ cửa Thuận An, Huế đến bờ biển Non Nước Đà Nẵng mà có quá nhiều đổi thay, quá nhiều điều khó hiểu luôn dày vò tâm can khiến tôi lại ngậm ngùi nghĩ về Tháng Ba Buồn Hiu! (* Tôi gọi cuộc chiến “không chiến” không có nghĩa là máy bay ta và địch đấm đá nhau trên trời mà là quân ta ở dưới đất chưa có đánh nhau thực sự với địch mà đã phải rút theo lệnh, theo lệnh vào ngõ cụt khiến quân ta bị đẩy vào cửa tử! Tôi còn nhớ như in những ngày buồn thảm ấy, như mới xẩy ra ngày hôm qua mà thôi!
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Lê Đình An – Dòng Sông Oan Nghiệt

http://hung-viet.org
Xin ghi lại vài dòng tưởng nhớ đến các bạn Hải Quân và những quân nhân tại địa phương đã vị quốc vong thân vĩnh viễn nằm yên nơi dòng sông này.
Lời ngỏ: Trong thời chiến tranh, bổn phận thanh niên đều phải vào quân đội để góp sức mình bảo vệ quốc gia làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, và tùy theo ý thích đầu quân vào các binh chủng Hải, Lục và Không Quân. Nhưng ai ai cũng có ý nghĩ vào binh chủng Hải Quân là hào hoa phong nhã. Ngoài ra còn mang chữ THỌ trên lưng?
– Xin mạn phép mời quí vị theo dõi bài viết này để hiểu rõ hơn về nét kiêu hùng của binh chủng Hải Quân.
(Kính tặng HQ Đại úy Lê Hữu Dõng – Chỉ huy Trưởng đoàn chiến đỉnh công tác.)
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Trần Ngọc Toàn – Chuyến bay cuối cùng


http://hung-viet.org/blog1/
Tình hình trong phi trường Đà Nẵng càng lúc càng tồi tệ, từ vùng núi phía tây, quân cộng sản Bắc Việt đã nã pháo 130 ly vào phi đạo khiến các chuyến bay vận tải chuyển người về Nam phải ngưng lại. Hành khách chen lấn đổ xô lên những chuyến bay C-130 đến nỗi trưởng phi cơ phải ra lệnh vừa đóng nắp bửng vừa di chuyển ra phi đạo. Có những người bị bị kẹt trong buồng bánh phi cơ về tới Sài Gòn mới biết .
Trong tình thế đó, phi công chính của chiếc trực thăng vận tải Chinook CH-47A đã quyết định cất cánh rời phi trường Đà Nẵng với hơn 60 hành khách gồm hầu hết là thân nhân gia đình quân nhân tạm lánh nạn qua phi trường Non Nước bên vịnh Tiên Sa sát biển còn ổn định dưới sự trấn đóng của quân phòng ngự TQLC. Phi hành đoàn gồm phi công chính Đại úy Phạm-Văn-Kiến, phi công phụ Trung úy Nguyễn-Đình-Hương, hoa tiêu Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và hai xạ thủ đại liên. Tờ mờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hành Quân cùa Sư Đoàn TQLC bắt đầu xuống tàu Hải quân HQ .402 vừa ủi dọn bãi đón quân tại Non Nước.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Phạm Phong Dinh – Biệt Hải trên vùng biển bão tố


Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Nguyễn Trãi – Bàn Tay…

                                                                   
http://hung-viet.org
 Con đường Quốc lộ 14, từ Pleiku đi Kontum còn tương đối an ninh cho những chuyến xe đò và nhứt là xe nhà binh chạy ngược xuôi chở quân, đồ tiếp tế nhiên liệu, lương thưc cho những cánh quân, những đơn vị trú đóng vùng Kontum, Tân Cảnh, Benhet vào ban ngày vào những năm 1970-1971. Từ KonTum, nối dài cho đến Tân Cảnh, QL14 vẫn còn là đường tráng nhựa rất tốt, nhưng từ Tân Cảnh đi về hướng Căn Cứ Ben Het chỉ là con đường rải đá gồ ghề, dằng xốc.
Đơn vị của tôi nằm ngay trên con đường dằng xốc này, nhưng vì địa thế hiểm trở chật hẹp nên con đường đã xẻ đôi căn cứ ra làm hai, có nghĩa là con đường chạy ngang chính giữa căn cứ. Đây là Căn Cứ Hoả Lực Dakto.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Nguyễn Nhật Cường – Nguyễn Nhật Cường

Buổi chiều Sài gòn, một ngày cuối tháng 3 năm 75, sau chuyến công tác miền Trung dài dằng dặc, tôi rủ Tăng, thằng em trai, đi đánh bi da ở bờ sông Khánh Hội, bên cầu Calmette. Vừa về tới nhà, thì thấy con nhà Cần đã đứng chờ trước cửa. Cần, cao ốm với cái lưng tôm quen thuộc, thằng bạn trên chiến hạm, ở cùng phòng, đi cùng ca, cùng làm những chuyện nhảm nhí của những thằng sĩ quan trẻ trong thời loạn lạc. Với vẻ mặt nghiêm trọng ít thấy, Cần bảo Hạm Trưởng cho gọi tất cả nhân viên vào tàu chuẩn bị đi công tác Đà Nẵng ngay trong đêm. Thông báo xong, Cần vác xe Honda chạy vội về nhà vớ mấy món đồ cá nhân cần thiết vì đã bị ở lại tàu từ ngày hôm trước trong nhiệm vụ sĩ quan trực. Tuy hơi bỡ ngỡ nhưng không ngạc nhiên lắm vì đã quen với những chuyện bất ngờ của đời nhà binh, tôi hỏi Tăng có muốn đi theo tàu ra ngoài Trung chơi cho biết. Cậu em tôi đồng ý ngay vì đang nghỉ giữa niên khoá của trường ĐH Khoa Học, thế là hai anh em tôi vào nhà sửa soạn hành trang lên đường.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Ngàn Trùng Xa Cách

Tôn-Nữ Mai-Tâm
(Phu Nhân Mũ Nâu Hồ-Khắc-Đàm)

Vài dòng tiểu sử:
Tác giả Mai Tâm– Sinh ra trên xứ Huế, Công-Huyền Tôn-Nữ Mai-Tâm được nuôi dưỡng và lớn lên trong ngôi trường Đồng Khánh. Năm 1965, bà theo học Khoa Chính Trị Kinh Doanh, thuộc Viện Đại Học Đà- Lạt, và tốt nghiệp Cử Nhân. Lập gia đình với ông Hồ Khắc Đàm, sĩ quan QLVNCH.
– Trong biến cố đau thương của đất nước năm 1975, bà cùng chồng và 4 con di tản qua Mỹ, và hiện có được 7 cháu nội ngoại. Bà tốt nghiệp Cao Học Mục Vụ (Master of Art in Ministry) tại Union University of California vào năm 2009. Hiện nay, ngoài việc vui với gia đình và phục vụ Chúa, bà viết văn ghi lại ký ức nhẹ nhàng để nhớ lại quãng đường mà Thiên Chúa đã cho bà đi qua cùng với người thân ruột thịt và bằng hữu.
– Văn của bà mang đậm nét yêu thương, vì trên cõi đời này con người chỉ tìm kiếm có 3 điều, đó là: đức tin, sự trông cậy, và tình yêu thương, mà điều quan trọng hơn cả là tình yêu thương…

Mậu Thân Đợt Một
Kính dâng hương hồn những người đã nằm xuống…Tặng những ai đã từng cứu trợ xứ Huế…
…Tết Mậu Thân 1968…
Mậu Thân năm nay được mẹ cho phép về Huế ăn Tết với gia đình,Uyển Nhi lòng hớn hở vui mừng, vì năm ngoái nàng đã phải ở lại Đà Lạt trong cái Tết rất cô đơn, buồn tẻ ở cư xá. Có lẻ vì đi học xa, nhớ nhà, nên lòng nàng vừa hồi hộp, vừa nao nức chờ đợi những ngày sắp đến. Uyển Nhi mua một ít cà rốt, su hào, ít trà artichoque, ít mứt mận, mứt dâu tây, là những sản phẩm của Đà Lạt, đem về Huế cho mẹ. Uyển Nhi thương mẹ đơn chiếc ở vậy nuôi anh em của nàng, vì ba chết lúc Uyển Nhi chỉ mới hơn một tuổi. Theo dự định, nàng sẽ ở lại Huế một tuần. Uyển Nhi đã trở về Huế trong bầu trời lạnh, mưa phùn lất phất.
Posted in Hồi ký từ địa ngụcTản Mạn | 1 Comment

Hùng Biên – Mẹ Tôi, Người Vợ Lính VNCH

Trong mỗi chúng ta ai cũng có một người mẹ, để được yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ. Sự hy sinh cao quý của mẹ cho chồng con đã được vinh danh nhiều qua thi ca Việt Nam. Nhưng sự hy sinh của các bà mẹ, những người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thì không có bút mực nào viết ra hết. Là một người con có mẹ là vợ lính VNCH, tôi đã trải qua nhiều kinh nghiệm về sự hy sinh của mẹ tôi và nhìn thấy sự hy sinh của các bà mẹ, của các bạn đồng cảnh. Với lòng thương yêu và trân quý sự hy sinh của mẹ, tôi đã ôm ấp trong lòng một bài viết về mẹ từ lâu. Sau khi ba tôi mất, nhìn thấy nỗi cô đơn và thương nhớ của mẹ đã thôi thúc tôi phải viết bài về mẹ.
Posted in Tản Mạn | 2 Comments

Thanh Huyền – Cố Đại úy Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Trần Minh Quan


Lời tựa: Tác giả là em gái của Cố Đại úy Không Quân Trần Minh Quan, viết lại bài này để tưởng nhớ đến ngày ra đi vĩnh viễn của anh mình. Lúc đó tác giả còn quá nhỏ, cho nên có những chuyện không nhớ hết. Nếu tình cờ có vị nào ngày xưa đã từng biết về anh Quan, xin giúp đỡ tác giả để sửa chữa bổ sung thêm thì thật là vạn hạnh, tác giả và gia đình xin được muôn vàn cảm tạ.
*********
Kim Lớn và Kim Nhỏ ngồi trước bàn học, bao mấy cuốn vở học trò lại để chuẩn bị cho ngày tựu trường vào ngày mai. Bây giờ là Chủ nhật 30 tháng 9 năm 1973. Chiến cuộc đang ở vào thời kỳ sôi động, nhất là sau Hiệp Định Paris, Mỹ đã rút quân về nước, đưa chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh vào Việt Nam. Khoảng 8 giờ tối hôm qua, anh Quan cùng các anh Pilots trong Phi Đoàn 231 của anh đi xe hơi từ Biên Hòa ghé nhà thăm Cậu và 2 cô em gái. Gia đình anh Quan gọi ba bằng Cậu. Khi các anh ra về, cả nhà ra cửa ngó trông theo, anh Quan mở ngọn đèn trong xe và đưa tay ra vẫy cho Cậu và 2 đứa em nhìn thấy anh.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Vĩnh Chánh – Một Thoáng Thiên Thu

MỘT THOÁNG THIÊN THU
Xin Vinh Danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người.       V. Chánh
           
Chỉ vài tháng sau lần thăm nuôi duy nhất kể từ ngày bước chân vào trại cải tạo, và ngay sau Tết 1977, nhiều nhóm tù ở trong trại Xuân Lộc chúng tôi được sàng lọc, phân loại, rồi bất ngờ bị chở đi giữa đêm khuya. Riêng nhóm chúng tôi khoảng chưa đến 40 người được tập trung cũng vào nửa đêm, đưa lên một xe bịt bùng chở đến một khu rừng hoang dã rộng lớn.
Posted in Hồi ký từ địa ngục | 3 Comments

Requiescat in pace – Xin Cho Linh Hồn Này Được Yên Nghỉ Nghìn Thu

                                         

Tác giả 
Để tưởng nhớ đến các chiến sĩ đã hy sinh trong Chiến Trường Việt Nam và mến tặng các BS. Quân Y của Quân Lực VNCH, đặc biệt các đàn anh trong Tiểu Đoàn Quân Y Nhảy Dù và các y sĩ tiền tuyến từng sát cánh với các đơn vị tác chiến.

Một cuối tuần đầu thu, có một cuộc hội ngộ nhỏ QYND diễn ra ở quán cà phê Mưa Rừng trong buổi sáng mát lạnh tại Little Saigon. Với sự hiện diện của niên trưởng Trần Tấn Phát, quý đại ca Phạm Gia Cổn, Mai Minh Chí, Nguyễn Mậu Trinh đi cùng anh vợ là Bửu Khải, tức họa sĩ Nguyên Khai và người bạn Nguyễn Đình Cường.
Ngồi bên nhau, BS. Cổn tình cờ đọc cho tôi nghe vài câu thơ của BS. Trần Đức Tường. Tò mò kích thích, về nhà lục soạn kho bài cũ trong tháng 8, 2010 của web svqy.org, tôi tìm thấy bài thơ “Tiễn Anh” do y sĩ Thiếu Tá Trần Đức Tường, Tiểu Đoàn Trưởng TĐQY của Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH, là “Đích Thân” của tôi trong thời gian tôi phục vụ TĐQYND, sáng tác khi lần đầu tiên tham dự cuộc hành quân với đơn vị tác chiến trong chức vụ y sĩ trưởng TĐ3ND. Bài thơ đã được phổ nhạc bởi Y Sĩ Đại Úy Phạm Gia Cổn, nguyên y sĩ trưởng TĐ1ND, là đơn vị tác chiến lẫy lừng mà tôi đến nhậm chức hai năm sau.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Điệp Mỹ Linh – Người trở lại Pleime


Trong khi nhích dần theo toán quân nhân nơi cửa hông của chiếc phi cơ C-130, Sinh nhìn bâng quơ. Thấy những áng mây chờn vờn trên đồi núi chập chùng, Sinh mơ tưởng đến khuôn mặt xinh đẹp của Quyên-Di. Sinh nhớ lại những ngày chàng chờ Quyên-Di trước cổng đại học Huế. Chờ nhau chỉ để được đi xa xa phía sau, ngắm vành nón em nghiêng nghiêng, nhìn mái tóc em mềm mại trên nền áo trắng ngần. Sinh cũng không quên được những lần hẹn nhau đi xi-nê, chỉ để được ngồi cách nhau 5, 6 cái ghế rồi thỉnh thoảng “hai đứa” liết nhau, cười. Chỉ có rứa thôi mà hạnh phúc vô biên. Chỉ có rứa thôi mà tình yêu gắn bó. Chỉ có rứa thôi mà anh nhớ em điên cuồng!
Posted in Văn Nghệ Kaki | 4 Comments

Giang Văn Nhân – Người Lính Tiên Phong

                                                                
Trời tờ mờ sáng, các cánh quân đóng cập hai bờ kinh xáng cụt bắt đầu xuất phát. Bên bờ Đông, toán tiền sát của đại đội 4 đang dò dẫm từng bước. Binh Nhất Nguyễn Văn Điểm khinh binh đi đầu, đạn nằm sẵn trong nòng, khoá an toàn đã mở, anh cẩn thận quan sát cảnh vật, vài căn nhà lợp lá dừa dọc theo kinh, nhìn con đường đi có vẻ khác lạ, không có vết tích của một sinh hoạt bình thường. Điểm thận trọng dùng thủ hiệu liên lạc với tiểu đội thuộc trung đội 1 của Chuẩn Úy Đinh Viết Thắng đang nối bước theo sau. Điểm dừng lại, ngồi thụp xuống, phía trước mặt anh là con mương nhỏ, bề ngang cũng tròn trèm 4 thước tây, một thân cây dừa nằm bắc ngang qua, bên trái rải rác những bụi dừa nước, xa xa có căn nhà lá, im lìm như vô chủ.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Nguyễn Thị Thảo An – Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hòa


Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Posted in Tản Mạn | 2 Comments

Đào Vũ Anh Hùng – Viết cho ngày Quân Lực 19-6

Hàng năm, chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6. Ngày Quân Lực năm nay đánh dấu 38 năm kể từ biến cố bi thảm 30 tháng 4, 1975, ngày miền Nam thân yêu của chúng ta rơi vào tay cộng sản. Ba mươi bẩy năm trôi qua trong đau hận không nguôi của tâm trạng…
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Posted in Tản Mạn | Leave a comment

Triệu Vũ – Vài Kỷ Niệm Về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Và Tướng Lê Nguyên Vỹ

http://hung-viet.org                       
Ðầu tháng 9-1965, sau khi tốt nghiệp khóa 19 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, tôi về Bình Dương trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Ðây là một trong những đại đơn vị kỳ cựu của Quân lực VNCH, bao gồm các đơn vị thiểu số miền Bắc – mà đa số thuộc sắc dân Nùng thuộc vùng tự trị Móng Cáy của Ðại tá Woòng A Sáng. Di cư vào Nam, được mang tên Sư Ðoàn 3 Dã Chiến, sau đổi thành Sư đoàn 5 Bộ Binh, trấn giữ vùng đông bắc thủ đô Saigon và được coi như đơn vị tín cẩn nhất của chế độ.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Huỳnh Thừa Dũng – Những cái chết thầm lặng!

Một buổi trua cuối tuần, quanh quẩn trong khu Eden, khu chợ khang trang của nguời Việt vùng Northern Virginia, vào giờ cao điểm tìm một chỗ đậu xe không phải là dễ dàng, cứ chạy vòng quanh từ những con đường mang tên các tướng lãnh Việt Nam, những người đã tuẫn tiết, đã tự kết liễu đời mình sau khi lệnh đầu hàng đuợc phát ra từ người lãnh đạo tối cao của Việt Nam Cộng Hòa. Nào Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, nào Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, nào Ðại tá Hồ ngọc Cẩn… Tôi không bỏ qua cơ hội nói một chút Tiểu sử của các Tướng lãnh anh hùng nầy cho các con tôi, những đứa trẻ sinh truởng tại đất nuớc nầy chỉ biết lõm bõm về lịch sử Việt Nam, và hầu như không có chút hiểu biết gì về Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa.
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Orchid Thanh Lê – Đi Tìm Tên Một Người “Vô Danh”

Orchid Thanh Lê sinh trưởng tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997. Hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California. Bài viết của cô kể về một câu chuyện mang tính nhân bản theo phương châm làm việc của Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mất Tích Trong Chiến Tranh, đó là “You Are Not Forgotten” tạm dịch “Chúng Tôi Không Quên Các Anh”. Người viết bài do nhân duyên đã tìm được tên của một binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử thương trong một phi vụ hỗn hợp với quân nhân Hoa Kỳ vào thời chiến. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014, đã phát hành khắp nơi.
Posted in Tản Mạn | Leave a comment

Nguyễn Văn Phước – Vui Buồn Đời Lính Tạch-Tè

Em là lính về Tiểu Đoàn Truyền Tin đầu năm 1972, em cố gắng lắm cũng viết được cuộc đời làm Hỏa Đầu Quân là vui lắm rồi, ở trong Tiểu đoàn, anh Tiểu Cần là đàn anh và biết nhiều hơn em, trên vai anh Tiểu Cần mang lon Thượng Sĩ đó. Em kể vắn tắt đời em trong Quân ngũ cho anh nghe nè.
Posted in Hồi ký chiến trường | 3 Comments

Lâm Chương – Viễn Thám

Bảy thằng Viễn Thám chúng tôi được trực thăng vận vào vùng hành quân. Theo kế hoạch, giữa trưa sẽ nhảy xuống khu rừng giáp ranh đồn điền cao su Choup, thuộc lãnh thổ Kampuchia. Nhưng mấy thằng phi công ôn dịch cứ bay tít ở trên cao, và lượn tới lượn lui mãi. Chắc nó muốn ăn đạn phòng không? Nó không biết phía dưới có hàng vạn quân Bắc Việt đang giương mắt ngó lên sao? Bay lượn cái kiểu trêu người này, chẳng khác nào báo cho địch biết rằng, tao sắp thả mấy thằng Viễn Thám xuống đây, hãy chuẩn bị bắt nó. Nhưng làm sao nói với thằng phi công? Lỗ tai nó đã bịt kín lại bằng cái máy nghe. Gió tạt mạnh và tiếng cánh quạt phần phật làm át đi mọi tiếng nói.
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Trung Hậu – Trời mưa Thượng Đức trời mưa. Quân đi Đại Lộc trời mưa cũng đành

Trời mưa Thượng Đức trời mưa
Quân đi Đại Lộc trời mưa cũng đành
áo đường xa thương lính…lính thương quê…vì đời mà đi” – nhạc Trúc Phương
Từ phi trường Đà Nẵng đoàn GMC xuôi hướng tây nam nhắm về Hòa Vang, Đại Nghĩa.
Hắn chen ra phía sau xe chong mắt nhìn về thành phố. Năm cây số sau lưng là nơi hắn lớn lên, xóm cũ, con đường Yên Bái, ngôi trường Phan Chu Trinh. Phía bên phải là ngã ba Cây Lang, nhà bác Liếu ở hẻm tê tề. Ra chút nữa là đường đi Huế, hôm nay Hải Vân mây nhiều như muôn thuở. Nhà ba mạ hắn ở bên kia đèo. Thời gian này là tháng bảy, 74, có ai biết hôm nay đơn vị hắn đi vôThượng Đức.
Posted in Hồi ký chiến trường | 12 Comments

Nguyễn Nhật Cường – Tháng Tư, Cả Một Đời Người Trước…

Buổi chiều Sài gòn, một ngày cuối tháng 3 năm 75, sau chuyến công tác miền Trung dài dằng dặc, tôi rủ Tăng, thằng em trai, đi đánh bi da ở bờ sông Khánh Hội, bên cầu Calmette. Vừa về tới nhà, thì thấy con nhà Cần đã đứng chờ trước cửa. Cần, cao ốm với cái lưng tôm quen thuộc, thằng bạn trên chiến hạm, ở cùng phòng, đi cùng ca, cùng làm những chuyện nhảm nhí của những thằng sĩ quan trẻ trong thời loạn lạc. Với vẻ mặt nghiêm trọng ít thấy, Cần bảo Hạm Trưởng cho gọi tất cả nhân viên vào tàu chuẩn bị đi công tác Đà Nẵng ngay trong đêm. Thông báo xong, Cần vác xe Honda chạy vội về nhà vớ mấy món đồ cá nhân cần thiết vì đã bị ở lại tàu từ ngày hôm trước trong nhiệm vụ sĩ quan trực. Tuy hơi bỡ ngỡ nhưng không ngạc nhiên lắm vì đã quen với những chuyện bất ngờ của đời nhà binh, tôi hỏi Tăng có muốn đi theo tàu ra ngoài Trung chơi cho biết. Cậu em tôi đồng ý ngay vì đang nghỉ giữa niên khoá của trường ĐH Khoa Học, thế là hai anh em tôi vào nhà sửa soạn hành trang lên đường.
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Tiểu Tử – Người Bán Liêm Sỉ

Xin gọi ông ta là ông X, để tránh phiền phức. Thời buổi bây giờ, con người dễ bị chụp mũ bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai. Ở trên chụp xuống là nhà cầm quyền – hạng này đông lắm và rất… vững tay nghề vì đã từng hành nghề này cả mấy chục năm. Ở dưới chụp lên là kẻ tiểu nhơn – hạng này thường thấy xuất hiện khi có biến cố hay khi thấy chánh quyền đa nghi như Tào Tháo; hạng này hành động theo thời cơ nên tay nghề lắm khi còn vụng; họ không đông nhưng rất nguy hiểm bởi vì họ giống như mọi người nên khó mà nhận diện! Ở ngang với mình mà chụp mũ mình là mấy đứa mà mình thường gọi là bạn hay chiến hữu hay đồng chí – hạng… mắc dịch này mới bắt tay ôm hôn mình thấm thiết đó, vậy mà hôm sau đã “trở cờ xé lẻ” bởi vì cái đít của họ đòi cái ghế và cái mặt của họ muốn được… bự bằng cái nia; hạng này không cần tay nghề khéo nên cách chụp mũ thiếu… tế nhị! Nói chung, hạng chụp mũ nào cũng chỉ chụp người có tên tuổi đàng hoàng chớ chẳng ai chụp mũ một kẻ vô danh. Cho nên, gọi nhân vật trong chuyện sau đây là ông X để ổng trở thành kẻ vô danh, khỏi bị chụp mũ!

Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Tư Kiên – Tiểu Đoàn 11 BĐQ Tại Căn Cứ Charlie

Liên Đoàn 2 BĐQ (sau đổi tên thành LĐ23/BĐQ) gồm 3 TĐ, theo lẽ thì có số thứ tự là 21, 22, và 23. Nhưng do TĐ11 tham dự cuộc Biến Loạn Miền Trung năm 1966 nên được thuyên chuyển từ Đà Nẵng lên Pleiku và hoán đổi với TĐ 21. Do vậy LĐ 2 gồm TĐ 11, 22 và 23. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đóng ở Biển Hồ Pleiku, trên một khu đất khá bằng phẳng gần Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II với 2 Tiểu Đoàn 22 và 23, riêng TĐ 11 thì đóng biệt lập trên phần đất cao hơn và nằm đối diện với Liên đoàn qua Tỉnh Lộ.

Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Phạm Tín An Ninh – Chim Bay Về Biển

Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của nhưng người Nha Trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Tôn-Nữ Mai-Tâm – Tình Yêu Trên Đỉnh Thông Reo

Kỷ niệm thời SV ở ĐHX Trương Vĩnh Ky, Đà Lạt…
Tôn-Nữ Mai-Tâm            
(Phu Nhân Mũ Nâu Hồ Khắc Đàm)
Đã hơn tuần nay, Hoàng Mai không nhận được thư nào của người yêu cả, thay vì hầu như mỗi hai ngày anh nhận được một lá thư xanh. Anh nóng lòng không biết có điều gì bất an xảy ra cho Uyển Nhi không? Có phải vì quá bận học mà nàng
bị đau chăng?

Posted in Tản Mạn | Leave a comment

Trần Ngọc Nguyên Vũ – Khóc Người Pleiku

Anh Phan Đắc Huề khóa 63A, chỉ số Hoa-Tiêu KT. Anh từng phục vụ ở các đơn vị như PĐ Phi-Long 518, PĐ Phượng-Hoàng 514 ở Biên-Hòa, và đơn vị tác chiến cuối cùng của anh là Phi-Đoàn Thái-Dương 530 đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh trên PleiKu. Không hiểu do cái «Duyên» nào đưa anh đến với chiếc phi cơ AD6, chứ trông anh người ta chỉ tưởng đến một «Ông giáo» đạo mạo hiền lành chứ không thể nào lại là một người lính chiến được…

Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Vương Mộng Long – Sao Hôm Sao Mai

“Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/BĐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh…. vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ…”
Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam. Trong hai ngày 14&15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82/BĐQ/QLVNCH bị hai Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn dông mùa hè.
Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình. Tôi biết rõ Sư đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 /Điện-Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu”. Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.
Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Đoàn 82/ Biệt Động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (k16VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.
Niên trưởng Thông hỏi: – Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị: – Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại Tá Thông đồng ý ngay: – Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách Cơ Bình (TĐPhó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại Đội 1/82. Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.
Tôi chọn “vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm-Vương đã gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu…
Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi:
– Thiếu tá! Có tiếng xe!
– Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi:
– Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,
– Dạ không. Em không nghe gì cả! …
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu,
– Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông Thiếu Tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
– Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…
Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.
Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh: – Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ…
Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…ì…Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm:
– Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ Tiểu Đoàn.
– Tôi là người quen của Trung Tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.
– Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng-Sản à?
– Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
– À ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711. Ngày kế tiếp…
Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên. “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở. “K’rọc! …K’rọc! …” “Hừm! …Hừm!. .” Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá! Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng. Tiếng “K’rọc! …K’rọc! …” -”Hừm! …Hừm! …” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa. “K’rọc! …K’rọc! …” -”Hừm! …Hừm! …” Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!…Hừm!..” Còn tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o…” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Chợt rừng chiều xào xạc… “Oách! Oách! Oách! …Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” Hướng tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn rã, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…” Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore. “Lộp cộp! …Lộp cộp! …Lộp cộp! …” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc giòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.
Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc: “K’rạch!” Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mìn không nổ! Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời. “Hí!… Hí!… Hí!… í!.. .í!… í!…” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường. “Oành!” quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá gãy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!…” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.
Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt. Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Đại Đội 3/82 của Thiếu úy Phạm Đại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng Bắc.
Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm. Chú Chi càm ràm:
– Chắc thằng “cội” này có bùa!…
Ít lâu sau… Trung Đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình-Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại về hướng nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu Tá Nguyễn ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.
Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Đoàn 64/SĐ320 CSBV hướng Bắc, Trung Đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đã chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông Tiểu Đoàn Phó TĐ81/BĐQ là Thiếu Tá Trần văn Ngọc (k18 VB).
Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung Đoàn 48 SĐ 320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng 7 năm 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh Lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TĐ82 BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dã ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82 BĐQ đã khiến Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.
Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung Đoàn 48 SĐ 320 đến Trung Đoàn 64 SĐ 320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương của Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm.
Sáng ngày 2 tháng 9 năm 1974 chiến dịch vây hãm Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung Đoàn 48 SĐ 320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.
Tới đầu năm 1975, Trung Đoàn 48 Sư Đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu Đoàn 82 BĐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. Vì thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ 320 Điện-Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa…
 oOo
 Sàigòn, ngày 7 tháng 5 năm 1975.
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sàigòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ.
Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi:
– Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.
– Phải! Các ông cần gì?
– Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời:
– Tôi đây!
– À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
– Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói:
– Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?
– Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời:
– Anh Long có nhận ra tôi không?
– Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.
– Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
– À…
– Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút.Thế nào, có được không?
-Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.
Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng -Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao:
– Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình…
Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320 Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình-Định, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư năm 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TĐ82 BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7 và 8 năm 1974) ông ta la lớn:
– Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!
Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán dương,
– Lì thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn- Ma -Thuột tháng Ba năm 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn II Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá.
Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.
Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc:
– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn:
– Vì chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm. Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.
Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm:
– Tôi còn ở Sàigòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.
– Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố với theo:
– Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông.Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
– Anh nói đúng.Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có ”Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng. Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.
 oOo
 Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải. Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.
Từ tháng Giêng năm 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lý Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (K19VB) và Lê Văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín.
Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không-Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ.
Tôi đạp xe một vòng quanh Sàigòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (K21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.
Hà-Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc:
– Tìm nhà trọ phải không?
– Phải… – Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
– Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn… tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn:
– Bên kia đường… theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá:
– Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:
– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán!
Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ…
– Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? Ông chủ nhà gợi chuyện.
– Hải-Dương.
– Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
– Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…
– Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
– Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
– Có thường ghé Sàigòn không?
– Chuyến nào mà chẳng ghé…
– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
– Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học… –
Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về “hiu”…
– Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
– Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau…chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn…
– Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng…học sinh nghe theo răm rắp…
– Rồi sau đó…
– Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi:
– Tìm cái gì đấy hở?…
– Phố Hàng Bài…
– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười hì hì:
– Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:
– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
– Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài:
– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca-Sĩ Nhân-Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu: “Anh ở đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
 oOo
 Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng!…leng keng!…” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi …
– Chè đỗ đen đi chú em…
– Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:
– Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:
– Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
– Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức “đánh”…xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở:
– Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
– Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá…
– Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu…Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó duỗi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má!
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích:
– Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!
Người phu xe già thở dài:
– Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như…một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi:
– Xích lô! Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:
– Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
– Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5 năm 1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.
Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở: “Bây giờ, thân tớ ví như…một vì sao rụng”.
 oOo
 Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy (1946) bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác…hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại:
– Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay…Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay.
Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đã giết bố tôi… Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt, “Bố ơi! Bố ơi!…Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!…”
Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàigòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.
Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…
VƯƠNG MỘNG LONG
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Nguyễn thế Giác – Trinh Sát 40 Trấn Nhậm Thành Phố Bồng Sơn

Tôi, Nguyễn Thế Giác, nguyên là Đại Đội Trưởng Đại Đội Trinh Sát Trung Đoàn 40 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh, đã từng hãnh diện nhận lãnh Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với nhành Dương Liễu. Về sau được Thượng Cấp cất nhắc đi làm Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 47, do Đại Tá Lê Cầu chỉ huy đơn vị.
Xin ghi vài nét tiêu biểu về người anh cả của gia đình 47, một trong bốn Trung Đoàn của Sư Đoàn Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà.
Ông xuất thân khoá 18, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tốt nghiệp, trình diện đơn vị, làm Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, chưa đầy một năm làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. Ngày tháng dần qua, khả năng lãnh đạo chỉ huy thể hiện, vừa nhu cầu chiến trường, ông được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2. Cuối cùng là Trung Đoàn Trưởng, cũng Trung Đoàn này, suốt một thời gian dài, ngược xuôi cao nguyên duyên hải, hoàn thành sứ mệnh người trai thời quốc biến.
Tuổi trẻ nhiều ước vọng, như lời thề trong Quân Trường ngày nào, vào đêm cử hành lễ Truy Điệu:… Tôi không thích an lạc và dễ dàng, chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm! Có lẽ vì vậy, nên cả đời trai tung hoành bốn cõi, cung kiếm ngang trời, dìu dắt đơn vị trên khắp chiến trường miền Trung, cho đến thời điểm đau thương nhất của vận nước. Cuối cùng, đơn vị được lệnh di tản chiến thuật, để bảo toàn lực lượng, trước tình hình địch đè nặng trên phần lãnh thổ Quân Khu.
Ông đưa “con cái”về Thủ đô tái phối trí, tiếp tục đánh một trận ở Long An để đời, cuối mùa đau thương và hào hùng trong pho Quân Sử. Việc hiếm thấy một Sĩ Quan trưởng thành giữa lửa khói, mà lưu luyến cùng một đơn vị lâu đến như thế, là điều hết sức ngạc nhiên.  Nếu không muốn nói là binh sĩ thương ông, cũng như mến mộ tài đức chẳng kém. Do đó, khoá 18 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, ông là Sĩ Quan được thăng cấp Đại Tá sớm nhất. Cũng vì phục vụ cho lý tưởng Tự Do và hy sinh liên tục cả một chiều dài tuổi trẻ, nung nấu và hoà mình với định mệnh của dân tộc, Sư Đoàn 22 đã cho ông một hoài bão lớn lao của đời trai luyến lưu với mệnh nước: Sư Đoàn mẹ với hai sông ba núi. Rượt địch thù ra khỏi dải biên cương.
Trong chiến sử vừa qua, thiết tưởng cũng đã ghi rõ công trạng từng mỗi đơn vị. Những chiến tích hiển hách ấy, không ngoài mục đích cho thế hệ tương lai thấy được nỗi quan hoài và hy sinh cao cả của cha ông, đã giữ nước bằng máu, nước mắt, trộn lẫn thành ý chí kiêu hùng:
Ba dãy núi đen hai dòng sông trắng Máu, mồ hôi thắm mặn dải quê hương. Vượt Trường Sơn và ngụp lặn đại dương. Đem khí thế đằng đằng đằng vùng hoả tuyến. Đeo nặng trên vai người hùng của biển. Vào cao nguyên đời mãnh hổ tung hoành. Trên đỉnh Tam Biên trùng điệp rừng xanh. Tô Quân Sử khắp vùng II chiến tích.
Nhân đọc truyện ngắn của Trường Sơn Lê Xuân Nhị, làm ray rứt nhớ đến chiến trường xưa, những địa danh vang bóng một thời, nhiều đêm nằm chờ hoả châu soi sáng, dưới cơn mưa rừng vuốt mặt không kịp; cái lạnh cao nguyên miền Trung có thua gì Khe Sanh, Lao Bảo hoặc miền Thượng Du Bắc Việt, nhưng vẫn mò mẫm cố tìm cho được thằng em còn kẹt dưới giao thông hào; đất đỏ cao nguyên trơn trợt có khác nào leo lên cột mỡ, sau đợt tấn công thí mạng cùi, giành giật ngọn đồi chiến lược; cả tháng gạo sấy cá tuna, có bữa thịnh soạn nhất được hai con heo nút lưỡi nấu canh lá vang (hai con heo nút lưỡi là thịt bằm xay đóng hộp); đêm trói người trên lưng võng ny lông và chiếc mền dù; đôi bút đờ sô dính liền với bàn chân, có khi hết chiến dịch hành quân, cựa mình ngửi mùi da ướt đẫm mồ hôi, xông lên thum thủm như chuột chết; nằm thèm thành phố muốn khùng, ước mơ đủ thứ, làm nuốt nước miếng ừng ực, để tiết tâm linh thay vì tiết hoá học ve vuốt cơ thể, cho qua cơn khủng hoảng, của một con người tri thức bình thường. Nhà văn Quân Đội của chúng tôi là một phi công hũ hèm, có lẽ vì bất đắc dĩ, sinh bất đắc chí chăng? Ông Quan Một say túy lúy bất kể trời đất, (khi lính đã… chơi rừng tàn núi lở) từ miền đất thấp vọng lên nỗi nhớ. Con ngựa chứng ấy, tưởng chừng đã thả lỏng yên cương, đến giờ này tuổi đời coi như đứng trên thềm dốc chiều, nhìn hoàng hôn mờ mờ trong đôi mắt phân kỳ, qua dòng Mississippi lững lờ trôi, bên quán rượu vùng French Square của New Orleans, Louisiania, trong võng mô luôn thấp thoáng niềm tự hào. Nhất là lòng nhiệt thành và quả cảm với Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa thân yêu, cũng như bạn bè cùng mầu cờ sắc áo tưởng chừng vô bờ bến.
Thời gian lưu vong gần bốn thập niên, nợ áo cơm đã làm nhầu nát mảnh chinh y, thế mà “giặc lái” nhà ta vẫn còn ấp ủ niềm tin một Quân Lực sống lại. Đặc biệt chẳng thể nào quên Tổ Quốc Không Gian, một phù hiệu mà anh ôm ấp và trân qúy như vàng mười chén mỏng của gia phả lưu truyền cho cháu con phải gìn giữ. Lời nói của anh là những tạc đạn mà anh bấm nút thoát ra, thét gào vào không gian lửa khói, từ thân tàu ngày nào, đâm thẳng vào trái tim thiếu dòng máu đỏ. Anh, một chiến sĩ bất đắc dĩ làm nhà văn chuyên nghiệp, đã cống hiến độc giả trên diễn đàn Văn Hữu, vào dịp 30 tháng 4 thường năm, từ ngày đứt phim, mang thân phận lưu đày, ăn nhờ ở đậu trên phần đất tạm dung, chờ ngày hồi hương trong danh dự.
Nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị, xem ra không khác một phóng viên chiến trường, da diết yêu nghề, đã dùng ngòi bút thay vì ống kính, vẽ lên một hoạt cảnh trung thực trên hành lang cao nguyên ngày đó, càng đọc càng thấm thía vào xương tủy. Riêng tôi cảm động đến ứa nước mắt, nghĩ về cuộc đời lên công xuống tấn, suốt mùa binh lửa của mình, những ngày lăn lóc trên chiến trường miền Trung, vào chiến dịch mà tôi nhớ không lầm, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc lời hiệu triệu cùng quốc dân đồng bào, ông dõng dạc trên làn sóng: “… Tất cả quân dân cán chính miền Nam, từ giờ phút này phải vùng lên tái chiếm lãnh thổ đã mất! Không để một tấc đất nào lọt vào tay giặc!” Từ những lời chí tình với Tổ Quốc Việt Nam, mới có những cụm từ cuồn cuộn chảy, như dòng máu nóng sôi sục về tim, nào:  Bình Long An Lộc Anh Dũng, Trị Thiên Kiêu Hùng, Kontum Tân Cảnh Sừng Sững, Benhet Dalkto Vùng Dậy…
Lâu quá không được rửa mắt một thể loại phóng sự chiến trường, sau ngót bốn mươi năm ngậm ngùi thương tiếc. Giếng nước mắt trong tôi đã khô cạn từ bao nhiêu năm qua, bỗng dưng cái thằng ma gà (xin lỗi, tiếng “ma ga”ụ là một ngôn từ vô thưởng vô phạt, anh em Quân Đội thường dùng, thật mộc mạc dễ thương, của người lính tác chiến thứ thiệt. Kính xin quý vị hãy để tâm hồn sống lại thời đó, sẽ nghe trong âm vang xao xác: Lính mà em! Chứ không phải tác giả kém văn phong đâu! Những mong được tha thứ và bớt đi lòng cố chấp, để cho bài viết này có phần sống động, như một thiên hồi ký chiến trường ngày nào, của đặc phái viên báo chí từ bốn vùng Chiến Thuật tường trình, trên đài phát thanh Quân Đội một thuở) làm mắt tôi lại rưng rưng….
 oOo
 Ngày ấy, cố Đại Tá Lê Đức Đạt, khao khao giọng thổ, lời nói đặc cứng như khối thép, đã được trui rèn trong lò luyện kim Quân Đội, con người dong dỏng cao, đầu lúc nào cũng đội bê rê nồi mầu đen, được biết ông xuất thân từ binh chủng Thiết Kỵ, một đơn vị đã từng làm mưa làm gió trên đầu địch. Dĩ nhiên, đời Kỵ Binh cho ông rất nhiều kỷ niệm của một thời gắn bó và trưởng thành, trong cuộc sống Quân Ngũ, dưới hai nền Đệ Nhất cùng Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà.
Nhớ lại… ngày đó, mỗi lần nghe thưa pháo (122 và 130 ly như ăn cơm bữa, do bọn tiểu yêu sơn pháo yến tiệc hằng ngày, ở mặt trận Tam Biên), Ông lò dò bước ra khỏi Trung Tâm Hành Quân (TOC), đi một mạch đến sân cờ, thăm hỏi và động viên tinh thần con cái. Vẫn bổn cũ soạn lại, cũng đá đít tôi với vẻ mặt hăm hở, trên đôi môi mấp máy, khô ran, chắc chắn tấm lòng vị Tư Lệnh Tiền Phương đầy trìu mến, mới thể hiện bằng lời nói ngọt ngào như thế, trong lúc chiến trường Tam Biên không ngừng sôi động, những đồn bót do Biệt Động Quân vùng II trấn nhậm, đã không còn hiệu năng, lực lượng cơ động của Quân Khu tứ bề thọ địch, vô hiệu hoá những cuộc hành quân, mà trước đây mình thường chủ động chiến trường. Cả dải hành lang biên giới bấy giờ bị xé nát với hơn cấp số bốn Công Trường địch, cộng thêm cơ giới quần thảo xa luân chiến suốt ngày đêm.
Đơn vị Trinh Sát thuộc về  chú Mãnh Hổ (danh xưng và huy hiệu của hung thần đầu lâu xương chéo chúng tôi ngày ấy) ngồi dài người, chờ táp pi với lũ cô hồn các đẳng bất cứ lúc nào, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng đi nhặt lá rơi (cứu hộ phi công của những chiếc trực thăng lâm nạn), chiều lại thả những toán Viễn Thám dọc đường mòn ông già mắc dịch, để rình mò xem bọn lau nhau kéo pháo, giấu quân và không quên những đoàn môtô-lô-va như loài cua đinh sứt càng, gẫy gọng, khập khễnh qua đèo vượt suối nhằm cung ứng tiếp tế, tiếp liệu cho bọn sinh Bắc tử Nam, lũ người ruồi gieo máu lửa, không khỏi bội thực, bởi những bát B52 lồng khung ô-ca-rê, như làm cỏ mọi sinh vật trong vùng, hoặc từng đợt pháo binh bắn ra-phan long trời lở đất, do những người lính vô hình (viễn thám) điều chỉnh khá chính xác, đưa những viên đạn không có lỗ tai vào yết hầu, làm á khẩu bọn sao vàng, sao đỏ; vừa vượt Đồng Hới vào bổ sung quân số trên lãnh thổ miền Nam, những mong giải phóng phần đất Tự Do và ra sức trồng cây vô sản, hà hơi mầu máu đỏ, cho ngầy ngật dải đất thân yêu, ngõ hầu mở rộng Tổ Quốc Không Biên Giới, gầy giấc mơ trồng người, nắm tay nhau về cõi Đại Đồng nhảy sol đố mì.
Ngày, chúng tôi quần quật, tối lại tất bật phòng thủ kho đạn, một kho đạn dược lớn nhất, thiết lập tại cao nguyên, cung ứng cả chiến trường miềnTrung. Không một đêm nào mà được yên giấc, nhiều lúc nhận lệnh đột kích thần sầu quỷ khốc, vào sào huyệt của bầu đoàn thê tử thằng Sư Đoàn 3 Sao Vàng hoặc những đơn vị vừa nhận lệnh xâm nhập từ Bắc Bộ Phủ, còn ngơ ngác dao động tinh thần, phần chưa nắm vững địa thế, bị tấn công bất ngờ, Trinh Sát dễ dàng hốt cốt, như thọc tay vào túi lấy tiền.
Đánh đêm là nghề của chàng! Với quan niệm thật chính xác, trong bóng tối, kẻ nào thấy trước được, là kẻ ấy có nhiều ưu thế chiến thắng. Chúng tôi tâm niệm: Mỗi lần nổ súng, ít ra phải có một cây thịt đổ! Từ đó, làm chủ chiến trường chốc lát là đủ rồi, chụp giựt Chiến Lợi Phẩm, ba chân bốn cẳng biến mất trong khoảnh khắc, giữa rừng núi trùng trùng điệp điệp, riết rồi trở thành thiện nghệ, không hổ danh Trinh Sát 40 là đệ nhất sát thủ.
Toàn bộ gia đình Trinh Sát chúng tôi, ngày lại ngày ứng chiến tại sân cờ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, Hậu Cứ Trung Đoàn 42, nhận lãnh những công tác đặc biệt, lắm lúc đi bảy về ba, mèo tha ma giựt dọc đường, đố ai biết cơ cực dường nào, cho những đứa con bà Phước, ăn không no, ngủ không yên, đứng ngồi như con lật đật, đang dõi mắt tìm xem hành tung bọn mũ tai bèo, dép râu, ruột tượng… lén lút giữa rừng già biên giới. Nhất là tin tình báo cho biết T54 ù ù cạc cạc xâm nhập, là giật nẩy lên, còn nghe đâu đã bò về phía Đông Tân Cảnh, xuyên qua quận Dakto, thọc vào cạnh sườn của đám Biệt Kích Mỹ, (lính không Quân số) chuẩn bị làm một cú rendez-vous bất ngờ, ngay lòng quân đội trú phòng, với chú tâm tuyên truyền, đến những thằng báo chí thiên tả, làm đình đám xì căng đan cho xôm tụ trên mặt trận thương thuyết tại hội đàm Ba Lê.
Ông thần Lê Xuân Nhị hũ hèm của tôi, đã vô tình khơi nguồn tri bỉ tri kỷ trở lại, trong tâm tư thầm kín, làm cho mớ tuổi ở ngoài thất thập cổ lai hy của lão già thương phế binh này, với cấp độ tàn phế vĩnh viễn, phải thút thít khóc, hành động giấu đi những cảm động tuyệt vời, nhưng không tránh khỏi mặt nhăn như khỉ ăn gừng, đôi khi ấm ức nghẹn lời, mũi dãi lòng thòng như đứa con nít lên năm lên mười, đang vòi vĩnh một điều gì mà chưa được thoả mãn, khi người lớn vẫn còn cố chấp.
Cuối cùng, cũng biết hổ ngươi nên gục mặt, âm thầm khóc giữa lòng hai bàn tay gân guốc, vì nhặt được từng mớ kỷ niệm, trong vùng ký ức hẩm hiu, của những ngày giày xô áo trận, cơm vắt muối vừng, lội mút mùa lệ thủy, thiếu điều bá thở. Sức người có hạn, đơn vị chủ lực mà dãi nắng dầm mưa lâu ngày, trông hình hài thảm não hết sức, nhiều lúc âm thầm trong rừng già, không khác nào hoạt cảnh: … đường trường xa con chó nó tha con mèo! Cứ thế, hết bổ dọc đồng bằng duyên hải, chiều về lại cao nguyên, hát trong lòng Trường Sơn thâm u, nghe chim kêu vượn hú, buồn muốn chết người, chờ những cuộc thư hùng trống mái với bất cứ đơn vị nào, vô phước gặp phải, dẫu rửa chân lên bàn thờ, cũng không lấy gì làm ân hận.
Tôi khóc thật đó thằng anh em chí cốt! Khóc vì thương tiếc đến một Quân Lực bị bức tử, đau thương cho thế hệ trẻ của chúng mình, trót sinh ra dưới vòm trời ảm đạm, bị biết bao lũ đàn anh chẳng ra gì cầm cân nẩy mực, nhất hô bá ứng, đoạt cờ chạy hiệu cho những tên đế quốc đầu sỏ, rồi vỗ ngực tự hào thành quả đảo chánh. Làm cách mạng trời ơi đất hỡi như thế, mà cũng ta đây chánh khách thượng thừa, rồi bí mật nhận tiền thí vua, giết cả một đời trai cùng trang lứa ấp ủ mộng bình sinh, chẳng hề thương tiếc, để đến bây giờ phải hoá kiếp con ma vong quốc nô, xem đi xem lại trước sau gì, cũng khó lòng tránh khỏi hệ lụy đau buồn, khi tuổi già xồng xộc đến, sẽ gởi nắm xương tàn vào một thời gian không xa, trên quê hương con cháu chú Sam. Nhớ những ngày ấy, tuy đã xa lắc xa lơ.
Buổi chiều, nắng xế xuống thật chậm, ngổn ngang những cụm khói trôi lang thang, sau cơn trải thảm của B52 trong thung lũng mật khu An Lão, nhằm chận đứng ý đồ thâm độc của Hà Nội, bằng mọi cách đưa đại đơn vị về thôn tính Bắc Bình Định, làm vùng trái độn giữa hai Quân Khu, để tính chuyện chia chác cho bọn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một lần nữa chú chó sói trong bài thơ ngụ ngôn của đại văn hào La Fontaine đã hiện nguyên hình và trước sau gì Việt Nam Cộng Hòa cũng mang thân phận chú cừu non khóc hận, dưới móng vuốt những con cáo già Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi vẫn có thói quen thường lệ, sau bữa cơm, cặp gắp điếu thuốc đi vòng doanh trại, nghe ngóng và đo lường tinh thần anh em, sau biến cố Tiểu Đoàn 3 do Trung Tá Trần Nghĩa Châu (khoá 19) thất trận ở Núi Chéo Hoài Ân, vào lúc tiến, thoái lưỡng nan. Cuối cùng ông chỉ còn nhắm mắt quyết định chiến trường theo ý mình, dù không mấy sáng sủa. Thế là nhất chín nhì bù, đưa quân vượt sông Kim Sơn, một phần binh sĩ an toàn về lại Thiết Đính, từ đó sáp nhập Hậu Cứ Trung Đoàn, nhưng tổn thất không thể nào quên được, khi địch trói tay, mà mình cũng khánh kiệt quân viện, vào thời điểm hiệp định Ba Lê ảnh hưởng không ít đến sự nhỏ giọt viện trợ Mỹ từ Quốc Hội Hoa Kỳ.
Tôi mơ màng, nhưng mắt đăm chiêu nhìn lên hướng núi, dãy hoành sơn phía Tây là tấu khúc hẹn hò của bọn Chính Quy Bắc Việt, lăm le cắt đứt Quốc Lộ I. Nhiều chiến lược gia, cũng như các nhà quân sự lỗi lạc của cả hai miền đều quan niệm, con rắn đen trên bản đồ, chạy dài từ Nam chí Bắc là xương sống Việt Nam, nên ra sức nuốt trửng. Trái lại, bên ta dồn tất cả nỗ lực, vừa tái thiết trùng tu, quan niệm giao thông không trở ngại, là yếu tố tất thắng, còn dành thời gian móc lại lưới an ninh, tình báo, cho những thị trấn địa đầu, để người dân vững lòng và có cơ hội an cư lạc nghiệp.
Tôi ngồi chồm hổm trên tháp canh, do Lữ Đoàn 173 Dù của Hoa Kỳ để lại, cạnh giao thông hào khá kiên cố, điều chỉnh chiếc ống dòm đến thẳng vị trí mình muốn, cố tình xem có gì khác biệt của dáng núi; một khi đại đơn vị địch có mặt trong vùng, nhất là sẽ không tránh khỏi chim chóc từng đàn rủ nhau đi tìm nơi trú ngụ. Những đột biến kia xuất hiện, cũng đủ nói lên một vài yếu tố khả nghi. Quả thật loài chim mất ngủ, vỗ cánh gọi đàn, nghe vang cả một góc núi, phần dân làng ngược xuôi, dù không ai nói với ai điều gì, nhưng trên vẻ mặt ngơ ngác, vì sự sống còn của gia đình, tự nhiên chẳng giấu được vài nét hối hả. Có lẽ, họ cũng quan niệm giản dị, một khi tai bay vạ gió giữa hai lằn đạn vô tình, không khỏi sẽ lụy đến thân nhân mình là cầm chắc trong tay.
Thứ tình báo nhân dân, đã cho ta một vài khái niệm cả quyết, để có đủ dữ kiện địch đang cố tâm bao vây lực lượng trú phòng, trong một thời gian không xa, họ sẽ huy động tấn công trực diện, nên ưu tư lúc nào cũng trĩu nặng, trong tâm hồn nóng như lửa đốt, trước thảm hoạ mất, còn không là ảo tưởng dễ quên.
Tôi trầm ngâm trước mọi giả thuyết về địch tình, mở ngọn zippo đốt điếu thuốc, kéo nhọn miệng liên tiếp, nuốt chất nicotin cho đã buồng tim lá phổi, suy nghĩ chín chắn; nhưng chưa hết điếu bastos xanh, âm thoại viên chạy đến mừng mặt bằng nụ cười đầy vẻ âu lo, dè dặt: – Trình Đại Bàng, gia đình mình đã có công ăn việc làm rồi, chứ không còn ngồi chơi xơi nước nữa. Đừng sợ thất nghiệp trong thời buổi này, ông thầy ơi! Ai đâu có để cho gia đình mình ở hậu phương, mà lãnh lương uống rượu, buồn tay buồn chân lâu đến thế, mà mình cũng không sợ lụt ngón nghề sao? Lâu lâu phải thử lửa mới biết tuổi vàng chớ! Tôi rời đôi mắt trước ống kính, đang chằm bẳm phát hiện giữa trục tung và hoành độ, nhìn thằng em từ đầu đến chân, giọng ôn tồn: – Biết rồi chú em, ăn cơm Chúa phải múa tối ngày, thế thôi! Chú mày sợ làm vũ công hả? Hãy về quê chăn dê đi cho khỏi bận tâm! Tôi cười ngất, không quên hỏi tiếp, để thấy được phần nào nhiệm vụ, trước khi đọc công điện chính thức và nhận lãnh phóng đồ hành quân từ Ban 3 Trung Đoàn tống đạt: – Nội dung điện văn kỳ này có châm lắm không, thằng ông nội? Thằng nhãi con tay cầm gọn lỏn ống liên hợp, mang máy PRC 25 đến gần, miệng lầm bầm trình thưa dậm dạ: – Lương thực 5 ngày. Cơm nước trước 6 giờ chờ lệnh xuất phát. Ban Quân Xa cung cấp phương tiện, thay vì 5 con lạc đà như thường lệ, nay họ cho mình 15 con, chẳng biết có đơn vị nào tháp tùng cùng mình chăng nữa. Điểm đến không xa lắm! Thành phố Bồng Sơn tha hồ cho Đại Bàng nhìn các em gái trắng da dài tóc, lắm cô trường Trung Học Tăng Bạt Hổ dễ thương đéo chịu được, rồi tụi em cũng được uống cà phê nóng, đánh bi da… lỗ có người hầu kẻ hạ, bù lại những ngày nhốt kín cuộc đời, trong bốn vách núi Trường Sơn, lạnh tanh mùi vị. Thằng nhỏ thở phào, mắt láo liên, lại nói tiếp có vẻ phân bua: – Đến chu kỳ tiếp tế, mà được Thượng Cấp lo lắng chu đáo như thế này, là đỡ khổ cho gia đình mình lắm. Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu, như tìm thấy lối chơi ú tim, do Thượng Cấp xếp đặt, mà mình đọc được trong âm thầm, buột miệng: – À ra thế, mình chậm tiêu đáng trách. Ngụy trang và che giấu là hai yếu tố quan trọng của một quân nhân tác chiến. Che mắt lũ nằm vùng trong thành phố, là ngón nghề của mấy chàng Viễn Thám nhà mình ấy mà! Nói tóm lại, dân Bồng Sơn Tam Quan nửa nạc nửa mỡ không thiếu gì, cũng ê càng lắm! Sáng ăn cơm Quốc Gia, tối thờ ma Cộng Sản, rồi nào giao liên, chị nuôi, mẹ chiến sĩ tha hồ cõng gạo nuôi quân, đã vậy còn báo cáo về những diễn tiến của ta không còn manh giáp. Tôi chẳng chút chần chừ ra lệnh: – Lát nữa, bảo các Thẩm Quyền chia từng đơn vị nhỏ, ngồi đều trên mười lăm con tuấn mã, bảo tài xế kéo bạt bịt bùng, đến điểm ấn định, miệng bằng tay tay bằng miệng, cứ việc nhảy xuống hòa tan vào làng mạc, đừng để dân chúng dòm ngó. Tôi thả mắt nhìn chòng chọc vào đối tượng, làm thằng nhỏ cứng người, nó tưởng có lầm lỡ điều gì, trong vấn đề bảo mật. Tôi đọc được ý tưởng thằng em, vui vẻ ra dấu bằng cái phả tay, tạo chút yên chí cho chú Truyền Tin lành nghề, nhất là vào những ngày dầu sôi lửa bỏng: – Biết chưa thằng cốt đột? Mặt mày có vẻ thông minh, nhưng sao chậm hiểu thế! Cứ việc thi hành như công điện dẫn chiếu, rồi sẽ thấy hiệu quả. Đừng ấm ớ hội tề gì nữa cả, làm tớ phải mắc công giải nghĩa. Hắn ù chạy qua các barrack, miệng ỏm tỏi như gọi đò giữa bến vắng, nghe muốn inh tai nhức óc, nhằm báo động cho từng Thẩm Quyền, để mỗi gia đình tự lo liệu, nhất là nhận báo cáo khả năng tham chiến: – Thường Vụ! Ông già mắc dịch trốn tiệt nơi nào, lo đi “bắt cái nước” chưa về là chắc, đừng trách mai này đơn vị xui xẻo tận mạt. Thượng Sĩ Thường Vụ lù lù từ trong hành lang đi ra, lon bia trên tay, vẻ bất bình khi chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác đang mặn nồng tình Chiến Hữu, lại nghe ba lô chuẩn bị lên vai, lão già người miền Trung, hút Cẩm Lệ luôn miệng, cầm cây ba toong đằng hắng: – Có gì mà rối lên hả thằng chết bầm? Đánh tới đánh lui như chuyện dài nhân dân tự vệ, riết rồi cũng giống như những ngày qua. Mày cứ việc thông báo cho các Thẩm Quyền Bạch Mã, Mãnh Hổ và Thần Ưng, trước là cầm chân con cái, ứng chiến tại chỗ, rồi sau hạ hồi phân giải, tuần tự mà làm theo kế hoạch. Những chiếc GMC mầu ô liu ra khỏi doanh trại, tiến về cánh đồng Hoài Tân, chạy qua trường Tiểu Học nằm lẻ loi trên Quốc Lộ I, rồi len lỏi vào rừng dừa bạt ngàn. Làng Trung Lương hoàng hôn đến sớm hơn những vùng ngoại ô khác, chỉ vì dừa cao chi chít, những mái nhà tranh sẫm mầu, hạn chế ánh sáng phần nào. Tôi không ngớt lo lắng cho đơn vị, vừa ngán địch phục kích dọc đường, vừa sợ dân điềm chỉ, cầu mong những chiếc quân xa làm nhiệm vụ, an toàn đến sân vận động, là hoàn thành cuộc di quân, vào phần đất của ông Quận Trưởng, quận Hoài Nhơn. Dĩ nhiên, ông cũng được thông báo, sẽ có một đơn vị vào tiếp tay, nhưng tôi vẫn chưa liên lạc hàng ngang được, chờ ổn định con cái trước đã. Nhất là ban 3 hành quân của Chi Khu, đang bấn loạn tinh thần, trước tình hình địch trong mấy ngày qua. Nhưng thiết tưởng, có kẻ lãnh đạn, chịu đòn, thay vì con cái ông, mà còn em chả… em chả… gì nữa.
Thành phố Bồng Sơn không còn rộn rịp như từng đêm thao thức, dưới những ngọn đèn neon chớp nháy, đón lính ăn khuya nghe nhạc, nhậu nhẹt lai rai, âm hưởng chiến tranh đang bao trùm lên từng gương mặt, của người dân đủ mọi ngành nghề, hớt hơ hớt hãi như đỉa phải vôi.
Đứa con đầu của Trinh Sát vào đội hình tấn công, chạm súng ngay, lối bắn ào ạt như thế, đã cho tôi có khái niệm chiến trường đi đến hồi quyết liệt, lập tức giục mấy thằng con còn lại bọc cạnh sườn, tiến lên như vũ bão, vừa yểm trợ quân bạn, vừa uy hiếp tinh thần địch vào lúc đầu. Kinh nghiệm đã cho ta bài học xương máu, trên mọi chiến trường, hình thái nào cũng tương tự như thế, không để chúng trở tay, trong lúc tao ngộ chiến. Tiếng súng tạm yên, trả lại màn đêm nặng nề, qua báo cáo sơ khởi, thằng Bạch Mã giọng hí hửng: – Trình Đại Bàng, bên mình không hề hấn gì, may quá, trời ỉa trên đầu trên cổ, không đứa nào đi phép dài hạn, cũng không đứa nào ngồi, nằm! Đứa con tuyến đầu làm phép rửa tội tám thằng, nhặt được 5 cây củi, một Cộng Đồng, hình như ngựa trời phòng không thì phải, chẳng hiểu mình chạm trán với cấp số gì đây hả ông thầy? Toàn bộ còn lại chúng nhỏm đít rời vùng, kéo về hướng Thiết Đính, chẳng biết mưu đồ kế tiếp, nhưng dù gì mình cũng phải lập tuyến phòng thủ khoảnh khắc, e bị cường tập trong chốc lát, một khi chúng điều nghiên trận mạc, cũng như biết rõ quân số ta, chừng đó bất kể lưới lửa. Y như dự đoán, chừng mười phút sau, chúng lại đâm đầu làm lũ thiêu thân thấy ánh đèn, xin được nạp mạng một lần nữa, như lời thề sinh Bắc tử Nam, là hoàn thành chúc thư phủi tay của họ Hồ.
Ngồi lắc lư trên chiếc nón sắt, mở đèn mắt mèo, của chiếc pin quéo nhà binh, nhìn tấm bản đồ, nghĩ đến hình thái trận mạc, vừa ước tính địch phản công, vừa lo sợ những đứa con của ông Quận bảo vệ vòng đai, giật mình bắn sảng. Địch, bạn là hai mối lo không kém, vì chưa liên lạc được với Địa Phương Quân, Liên Đội 214 phòng thủ quận đường, thêm những đứa con rải rác trong vùng, đang bằng mọi cách tìm về Thị Trấn Bồng Sơn, may ra không bị cô lập và an toàn hơn các làng hẻo lánh, khi chúng mất liên lạc với các cấp chỉ huy trực tiếp.
Địch đổi hướng tiến, kỳ này chúng đi dọc con đường đất đỏ, nhằm đưa quân vào sân vận động, phía Tây thành phố, nhưng đã lọt vào dự định của ta, thằng Thần Ưng gồm những tay sát thủ lẫy lừng của đơn vị,  mượn danh Cha Xứ xức dầu không còn một mén, nhặt được 4 cây củi nhỏ. Hiện giờ chúng khựng lại, co giò chạy về hướng nhà cô mụ Xuân, mình không dám đuổi theo, sợ quá đà, còn e bị điệu hổ ly sơn nữa. Vả lại, gia đình Trinh Sát “mình ên” chứ còn ai nương tựa, chừng đó nếu phải trúng mánh của chúng, dở khóc dở cười, biết lấy ai gỡ ra nùi tóc rối. Địch chưa chịu dứt bỏ ý định phiêu lưu mạo hiểm, thọc một cánh quân khác vô chùa, nhằm đẩy đặc công và hộ tống phòng không vào phố, nhằm kiểm soát không lưu của ta, nhưng Bồng Sơn là quê hương thứ hai, cho nên hầu hết Trinh Sát biết rành về địa thế, ngõ ngách nào cũng quen nhẵn, muốn giữ thành phố ấy, làm sao bỏ quên đoạn đường sinh tử, dẫn vào trái tim thị trấn. Mấy đứa con của Mãnh Hổ âm thầm theo dõi sát nút, chợt thấy những tấm bia thịt lù lù, không khác chuối dâng cho cưởng, đợi đến gần tí nữa, lập tức bấm mìn claymore, tiếng nổ nghe nhức nhối, rung động cả góc làng Trung Lương. Đặc biệt không có phát súng nào pha trộn, đúng như dự định đã từng giao hẹn, một khi chúng biển người, làm chuyện điên rồ thí quân như cỏ rác, mưu cầu hoàn thành công tác giành dân chiếm đất, thì mình chơi loại giết người vô hình, để khỏi bị phát giác, mười chọi một không chột sẽ què! Khôn ngoan là ở chỗ đó.
Chưa thấy thằng em báo cáo gì hết, tôi một phen lên ruột, chỉ sợ chúng lấy thịt đè người, qua mặt những tay súng coi trời bằng vung, trong lòng nóng như thiêu đốt, gọi chú Truyền Tin nhảy qua tần số đặc biệt trong trường hợp bất trắc. Quả thật, máy PRC25 của đứa con bị giao thoa, lũ ma đầu chen vào phá bỉnh, làm mình báo cáo điều gì, cũng e tai vách mạch rừng, muốn bảo mật trên con đường mòn hành hiệp, đành im hơi lặng tiếng, rồi rủ nhau đi qua tần số khác. Thế là an toàn, chẳng còn bị nhiễu âm và chọc ghẹo, nghe chướng tai gai mắt. Tôi không quên ra lệnh cho một đứa con nhỏ trực chỉ bờ sông Lại Giang, tạt ngang chùa Sư Nữ, chẳng để chúng lợi dụng cửa thiền làm bức bình phong, chừng đó tiến, thối lưỡng nan.
Tiên đoán không sai, chúng đưa đội quân khá hùng hậu, mong hốt cốt bọn Ngụy cứng đầu, còn nỗ lực chính đột nhập phía sau Quận. Thế là điểm và diện đã lộ, nhưng đứa con thằng Mãnh Hổ nhanh chân hơn, đến đó tự hồi nào, ngồi chờ sung rụng từ lâu, chuẩn bị đâu vào đó, lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi, như ngày tập bắn ở quân trường. Không gì sướng hơn bằng mình làm chủ chiến trường, cứ thế đập củ sả trên đầu những con chó điên, chẳng mảy may thương tiếc, nhưng chúng cũng say men trận mạc, gồng mình ào ạt tấn công một lần nữa, hành động một mãnh thú trước khi giãy chết. Nhưng Trinh Sát là những con gà nòi đá độ, đã ra quân trên mọi trường đá, dễ gì chào thua những anh chàng nhà quê, miệt vườn! Trung Sĩ Thọ cho cây đại lên bắn đỏ nòng, những con thiêu thân chầu bác chưa kịp ngáp, còn biết bao thằng bị thương nằm rên la, xin được cứu mạng, tội nghiệp có thằng miệng còn nhai búng cơm chưa kịp nuốt.
Giờ này không còn nói đến “củi đuốc” nữa, chết chóc bao nhiêu kệ bố chúng, cũng chẳng cần đếm xác làm gì cho bận tâm, miễn sao mình bình quân hơn thắng trận, còn bọn nuôi mộng giải phóng thì “phỏng giái” thế thôi! Chịu khó ở đó mà than với khóc. Chính gia đình chúng ta cũng bấn xúc xích, nếu phải bị “mèo cào, kiến cắn” trong giờ phút này, vấn nạn tản thương không còn ưu tiên như thường lệ. Biết thế nào Bồng Sơn không chóng thì chầy cũng bị tràn ngập, một Thị Trấn rộng lớn như vậy, Địa Phương Quân đã rã ngũ, ông Quận Trưởng những tưởng con cái ông, giữ vững được những ngọn đồi chiến lược bên kia sông Lại Giang, là ấm lòng chiến sĩ, một khi quan niệm trung tâm quyền lực của Chi Khu vẫn còn hiện diện, thế cho nên chết oan bằng một trái B40, khi ông muốn đích thân quan sát ngọn cầu huyết mạch Bồng Sơn còn, mất.
Địa Phương Quân như rắn đã không còn đầu, nhưng gia đình tôi vẫn chưa hề nao núng, còn nước còn tát. Tôi quyết định lập tuyến phỏng thủ mới, kéo toàn bộ về giữ vững thành phố Bồng Sơn, chọn những cao ốc vừa có thể quan sát, vừa ghìm súng bắn sẻ, một mặt cho Trung Úy Thắng dẫn cả Trung Đội thiện chiến mở đường máu, vượt qua trường Trung Học Tăng Bạt Hổ, bắt tay với Đại Úy Trần Ngọc Anh của Tiểu Đoàn 4 từ Trung Đoàn viện binh. Súng nổ rộ ngay trạm y tế, Trung Úy Nguyễn Chính Thắng, một con hùm xám của Trinh Sát 40 im hơi lặng tiếng. Tôi réo muốn tắt hơi trên làn sóng điện, không tránh khỏi bùi ngùi khi nghĩ đến mất Thắng, đứa em xuất thân từ lò Thiếu Sinh Quân, buồn vui với định mệnh, sống vô gia cư, chết vô địa táng, cả đời dính liền với đơn vị, sau những ngày hành quân, 3 đồng 4 điếu Rubi, đàn ca bên ly rượu, làm cái bang bốn túi mút mùa, thậm chí lương tháng cũng bán cho mụ chủ câu lạc bộ Trung Đoàn, làm tên lao công đào binh đúng nghĩa, chẳng bao giờ thấy phát ngân viên hỏi thăm sức khoẻ. Mặt trời lưng chừng, một sự im lặng rợn người, hoá ra bầu đoàn thê tử của thằng Sao Vàng âm thầm di quân sát phố, chờ đánh cú chót rửa mặt đêm qua, chứ dễ gì rút lui, khi miếng mồi Bồng Sơn đã làm mờ mắt bọn Chính Quy, đói khát lâu ngày và mơ một giấc mơ giải phóng.
Tôi ngồi trên sân thượng của nhà thuốc Tây, liên lạc trực tiếp với Mặt Trời Phó, tôi cả quyết như hai với là bốn, sẽ ra sức giữ Bồng Sơn ít ra tối đêm nay, nếu có tiếp tế đạn dược đầy đủ, lương thực chả cần vì nhà dân để lại trong lúc lánh nạn, mình trưng dụng cho qua lúc ngặt nghèo, chắc không đến nỗi nào dị nghị thổ phỉ.
Chiếc trực thăng C&C quần đi quần lại ở độ cao an toàn, có vẻ tiếc rẻ thằng đàn em một thời ấm lạnh trên mọi chiến trường có nhau. Trung Tá Đinh Văn Mễ cũng khoá 16 Võ Bị, ông anh cả của đơn vị cũ, lần đầu nghe tiếng uất ức của kẻ bị trói tay vì một sai lầm của người Đơn Vị Trưởng, đã hoành xe bắt pháo cách sao, mà đem đứa con ruột của mình, đi làm con ghẻ cho người ta, trong lúc gia đình đại tang, hậu cứ Trung Đoàn toàn ngành nghề và đui què mẻ sứt, không có ai làm kẻ mối giềng, muốn trở tay cũng chẳng còn kịp. Khi chiến trường đã hứa hẹn một mất một còn, muốn tử thủ cũng cần đến những quân nhân có máu mặt, kinh nghiệm xương máu, cũng chưa chắc đã giữ vững trên tuyến phòng thủ, khi thế địch bẻ bắp, chẻ tre.
Chiếc trực thăng lại một lần nữa, mở vòng bay rộng hơn, có lẽ cũng thương cảm một Triệu Tử Long giữa vòng vây chăng? Tôi nghẹn ngào không vì hèn nhát, mà giận thiếu điều mửa máu: tại sao đem một đơn vị thiện nghệ, giao cho ông Quận chưa biết điều quân ra sao, vì hai hệ thống khác nhau. Vẫn hiểu ông là Sĩ Quan Hiện Dịch đó, nhưng chỉ huy diện địa khác với lối đánh của Chủ Lực Quân. Vả lại, lính dưới trướng của ông, mà ông chưa giữ được, thì làm sao điều động một đơn vị, nằm ngoài tầm tay thưởng phạt, nhất là trong lúc bình diện chiến trường ung thối từ hạ tầng cơ sở, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân không còn Sĩ Quan chỉ huy vào giờ cuối.
Tôi cố bám trên những nhà lầu đánh nhau bằng thủ thuật bắn tỉa với lũ đặc công đã lọt vào yếu điểm, tác chiến trong thành phố muốn chảy máu con mắt, mới giành giật được con đường, góc nhà, cửa tiệm. Giờ này tôi chỉ còn đơn vị trừ, những tay làm bàn hảo hán, đã theo Trung Úy Thắng mở một sinh lộ cho đơn vị, chưa biết âm hao. Đánh nhau tới nửa đêm, Trinh Sát đã không còn đạn dược, lựu đạn chẳng có một trái, làm sao giết tập thể khi chúng biển người, đạn cộng đồng không còn một dây, cây Đại Liên M 60 đành thả xuống giếng, M72 phải giựt chốt an toàn vất đi, vì chiến trường chưa có xe tăng xuất hiện, mà mang theo kềnh càng, làm sao thoát thân. Ý nghĩ tìm cái sống trong cõi chết nhọc nhằn thật đó, nhưng không còn cách nào hơn. Thôi thì anh hùng trả thù mười năm sau chưa muộn, thua keo này bày keo khác. Cúi đầu hổ thẹn chỉ vì không giữ được thành phố, để cùng người dân thị trấn Bồng Sơn tay bắt mặt mừng, sau những thời gian thành phố này đứng lên ngồi xuống… không biết bao nhiêu lần.
Phần Trinh Sát 40 đã gây điêu đứng cho một đơn vị lớn của Bộ Đội miền Bắc là đủ rồi, trong khi mình chưa hề hấn gì. Vấn đề Trung Úy Thắng sa cơ, chỉ là ước đoán năm mươi, năm mươi!
Trung Sĩ Ẩn tổ sư của ngành Viễn Thám, leo núi, tuột dây, rành rẽ sáu câu, nghề của chàng như ăn cơm bữa làm sao quên được, lom khom tránh đôi mắt của loài cú vọ, mò đến rỉ tai: – Ông Thầy ơi, ra lệnh con cái tuột xuống lầu, ra bờ sông Lại Giang chuồn êm, trong khi chúng mờ mắt hôi của. Em là người chấp nhận hy sinh, làm con vật tế thần, rủi như chúng dàn quân ở dưới chờ sẵn, cũng đành chịu chứ biết sao hơn, có thế mới đóng vai Lê Lai liều mình cứu chúa, mở một sinh lộ cho đơn vị đang bị giam hãm hình hài giữa vòng vây sinh tử.
Tôi suy đi… nghĩ lại làm nhiều lần, tiếc quá, những gì có mà bỏ đi thì dễ, nhưng tái chiếm, phải trả một giá bằng xương máu anh em mắc mỏ lắm. Nhưng làm sao đây? Nghĩ lại viện binh thì đào đâu ra để có, còn đánh nhau mà súng không một viên đạn trên nòng, có khác nào cục tật mang vào thân, trước sau gì cũng bẩm ông con ở bụi này, chừng đó nhục nhã lắm. Chết đâu không chết, chết lỗ chân trâu, mới đau như hoạn! Cuối cùng, tôi cũng phải quyết định, chọn giải pháp chuồn êm là thượng sách, dĩ đào vi qúy!
Thế là toàn bộ còn lại an toàn, tuột xuống từ những cao ốc, phút chốc đội hình con kiến, âm thầm lội trên con sông Lại Giang, làm “lính thủy đánh bộ”, nhưng tính nào tật nấy, vẫn nhoẻn miệng cười, dù gian nan hãy còn bủa vây trăm nẻo, một khi chúng phát giác, cũng sẽ là những thây ma trôi sông lạc chợ, âm thầm theo vận nước.
Dòng phù sa lặng lờ trôi, thây người nổi lềnh bềnh, chúng tôi phải rúc vào xác chết, có mấy thằng em ngoi đầu giữa đám lục bình từ hai nguồn Kim Sơn và An Lão đổ ra sông Lại, cứ thế bập phà lội dọc đến Hoài Hương, dừng lại, leo lên bờ, nhẹ bước giữa cánh đồng Núi Kho, lối về Chợ Bộng. Vừa đi vừa cảnh giác bọn chủ lực địa phương thừa nước đục thả câu. Có lúc ngồi xuống nghe động tĩnh, ngoái nhìn những ngọn đuốc của đoàn người a dua, đã được bọn nằm vùng huy động lực lượng dân công từ làng xã về Bồng Sơn hôi của, mừng chiến thắng.
Tôi bật cười nho nhỏ, chiến thắng mà không bắt được một thằng Trinh Sát nào cả, làm sao nghiền xương đốt xác chúng? Hoá ra mấy ngày hôm nay đánh với lũ âm binh, thần thông biến hoá sao!
Bốn ngày không có chút gì trong bụng, nhưng đoàn tụ với gia đình mẹ là niềm vui lớn, dù chưa qua đại nạn: Trinh Sát của mình vẫn còn đây. Lẹ làng hơn cả trở bàn tay. Nhớ đêm giành giật đồi Đệ Đức. Pháo rót ra phang tối mặt mày.
 Nguyễn thế Giác


Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Phan Nhật Nam – Hồi Ký Dấu Binh Lửa (4)

NGƯỜI CHỈ HUY VỀ GIÀ

 Có thể nói sếp cũ của tôi là một ông già, già nhất trong những người giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến. Ông đi lính từ một thuở thật xa, lâu lắm, cách đây hơn hai mươi năm lúc quân đội chỉ độc các loại commando, Lê-Dương, Nhẩy Dù thuộc địa… Đánh nhau bằng súng mút-cờ-tông từng phát một hay những cây FM đầu bạc bắn gật gù như ông già ho lao. Lúc chiến tranh còn nằm tít trên biên giới Lào – Việt – Trung, trận đánh toàn một cách xung phong ầm ầm, ào ào để giữ những làng, thị trấn mang tên lạ hoắc như Bản Hiu-Siu, Mường Phen, Thất Khê… Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Phan Nhật Nam – Hồi Ký Dấu Binh Lửa (3)

NHỮNG TÀN PHÁ THOẢ THUÊ
 Chúng tôi đến Huế từ tháng Chín,trời còn nóng như đang mùa hè. Đóng quân ở thôn Nguyệt Biều, bên cạnh sông Hương trông sang chùa Linh Mụ. Bao nhiêu lâu tôi không về lại Huế, từ một tuổi nhỏ bỏ đi xa nay trở về như khách lạ. Làng thật đẹp, cây im mát, con đường đất nhỏ dẫn xuống một bờ sông nước trong ngăn ngắt, tôi căng chiếc võng ngủ dưới tàn cây, đêm xanh xao ánh trăng, cô gái da trắng mát tự nhiên chao đôi thùng trên giòng nước long lanh… Bên kia sông, chùa Linh Mụ đổ hồi chuông, âm thanh trôi chảy trên sóng nước. Và sâu đêm khuya im lặng, sóng vỗ thật nhỏ, khẽ đập vào bờ lách tách như tiếng sông đang thở… Tôi tưởng ra một thiên nhiên đang nở dài im lặng. Trong những đêm khuya đẹp đẽ này, tôi thường mượn một chiếc thuyền, chỉ đủ cho một người ngồi bơi lang thang trên dòng sông để hiểu tại sao người Huế tạo ra những điệu hò buồn bã một hơi thở tàn… Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Phan Nhật Nam – Hồi Ký Dấu Binh Lửa (2)

DƯỚI CHÂN ĐÈO MANG
 Vừa chạm phải mặt đất, chiếc phi cơ đã hãm ngay đà lại, thân tàu rung mạnh dữ dội như chiếc tàu thủy bị sóng dồi. Núi đồi hai bên chạy ngược qua cửa phi cơ loáng thoáng. Phi trường thuộc hạng B, từ lâu chỉ được xử dụng cho các loại phi cơ cỡ C.47 nay vì tình trạng nghiêm trọng cần tăng viện một số binh sĩ tổng trừ bị, chiếc C.123 phải đáp xuống trong điều kiện kém an toàn. Ra được khỏi phi cơ, tôi thở phào khoan khoái như vừa thoát một đại nạn, mặt đất yên tĩnh dưới chân. Đất vẫn mầu nhiệm cho người sau nguy biến. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 4 Comments

Phan Nhật Nam – Hồi Ký Dấu Binh Lửa (1)

LỜI MỞ ĐẦU
Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được… Nhưng viết thế nào để có thể gọi là ” hách”? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Nguyễn Ngọc Ấn – Những ngày đầu mới ra đơn vị ở Kampuchia

Những ngày cuối năm 1971, nhớ hôm ra trường chọn đơn vị, khi tới phiên tôi, tôi đứng lên và hô lớn: Liên đoàn 5 BĐQ, đàn anh Y sĩ đại tá Nguyễn Minh Châu đã cười nhẹ và hỏi tôi (sau nầy tôi nghĩ chắc anh Châu có ý can gián tôi đừng ra chỗ nguy hiểm?): Em có biết LĐ5BĐQ đang ở đâu không? Tôi trả lời: Dạ, không biết. Anh nói: LĐ5BĐQ hiện đang hành quân bên Kampuchia đó, em có còn quyết định ra LĐ5 không? Tôi trả lời: Dạ, hể đơn vị ở đâu cũng vậy thôi. Các bạn cùng khóa tôi cười ồn ào: Thằng nầy nó muốn xuất ngoại khỏi giấy thông hành đó anh… Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 3 Comments

Mđ Tường Vy – Những Ngày Trong Quân Ngũ – Giã Từ vũ Khí

TRONG CĂN CỨ, HOÀNG- HOA- THÁM.
Tháng ba, những ngày cuối xuân; trời trong và gió nhẹ, không khí mát mẻ, chan hòa nắng ấm. Cây cối đâm chồi, nẩy lộc, đơm bông, kết trái. Những doanh trại nằm ẩn mình sau các hàng cây ngô đồng, trồng hai bên đường, chạy dọc, ngang trong căn cứ, bao phủ một màu lá non, xanh tươi, bát ngát , làm nổi bậc ngọn Cờ vàng ba sọc đỏ vương cao trên kỳ đài, bay phất phới trước bộ tư lệnh Sư đoàn.
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Nguyễn Thanh Khiết – Câu chuyện cuối năm

Thương phế binh VNCH với vết hoại tử.
N.V.Tiếp, TĐ 2 “trâu điên” của TQLC đã leo lên xe đò về Thủ Đức từ chiều hôm qua, anh gọi tôi bằng máy của Thế Minh và hẹn sáng mai, ngày 23 sẽ cùng nhau đưa ông Táo tại An Điền. Nhận tin làm tôi xót xa, anh mà đi từ Vũng Tàu về đến đó thì làm sao chịu nỗi với đám ruột già đã được thay bằng cao su sau ca phẩu thuật từ năm 1971 để cứu cái mạng, sau khi lãnh mấy mảnh phá của sơn pháo tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam sơn 719. Trời ! ông tướng lại đòi đèo Minh (cụt) vác hai cái nạng gỗ cặp theo bên hông xe, chạy 50 cây số tới Rạch Bắp. Biết sao hơn, chúng tôi chẳng còn phương tiện nào khác để di chuyển tới An Điền, ngoài mấy chiếc xe cà tàng. Continue reading 
Posted in Những mảnh đời rách nátTản Mạn | Leave a comment

Trang Y Hạ – Chiếc Bóng


Ngọ là ngựa chạy giáp vòng chạy mãi
Bóng nhân sinh thời khắc tựa vó câu
Chúng mầy tử, mừng gom chung một chỗ
vậy cũng vui – tình huynh đệ chi binh
nằm gần nhau, mưa nắng cũng ấm tình
đời lính chiến có chi đâu ái ngại. Continue reading 
Posted in Văn Nghệ Kaki | Leave a comment

Phan Nhật Nam – Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến


I. Tháng Chín, ba mươi hai năm trước, 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công.
Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc… hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của người lính – Bảo Quốc An Dân – Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy mươi năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Orchid Thanh Lê – Đi Tìm Tên Một Người “Vô Danh”


Orchid Thanh Lê sinh trưởng tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997. Hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California. Bài viết của cô kể về một câu chuyện mang tính nhân bản theo phương châm làm việc của Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mất Tích Trong Chiến Tranh, đó là “You Are Not Forgotten” tạm dịch “Chúng Tôi Không Quên Các Anh”. Người viết bài do nhân duyên đã tìm được tên của một binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử thương trong một phi vụ hỗn hợp với quân nhân Hoa Kỳ vào thời chiến. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014, đã phát hành khắp nơi. Continue reading 
Posted in Uncategorized | 2 Comments

Nhật ký của Hải Quân VNCH Đỗ Trọng Hải

Nhật ký của thiếu uý quân đội VNCH Đỗ Trọng Hải, người xã Hải Thuỷ tham gia trận hải chiến Hoàng Sa, ngày 18 và 19 tháng 1 năm 1974

Makét bìa Sóng gió Biển Đông, hoạ sỹ Ngô Xuân Khôi vẽ cho NXB Lao Động, từ tháng 4/2013, nhưng cho tới nay sách vẫn chưa được duyệt.
SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
Đây là cuốn tiểu thuyết viết về một làng chài bao đời gắn bó với Biển Đông. Chính nơi đây đã đóng góp những thế hệ ngư dân và chiến binh khai thác và gìn giữ  biển đảo Tổ quốc, trong đó có những chiến sĩ đã tham gia hai trận hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa.  SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG, cũng như tiểu thuyết NGUYÊN KHÍ của tác giả, đang chờ được cấp phép  để xuất bản. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Phạm Tín An Ninh – Ðằng sau cuộc chiến


Cuộc chiến ba mươi năm kết thúc, nhưng chỉ làm cho đất nước điêu linh, dân tộc khốn cùng, kéo theo bao chia ly tan tác. Trước tháng 4, 1975 hầu hết những người trai trẻ miền Nam là lính chiến. Nếu may mắn sống còn qua một thời lửa đạn, cuối cùng cũng khốn khổ trong ngục tù sau lần bại trận oan khiên. Ra khỏi tù, tứ tán trôi dạt muôn phương, ngỡ không bao giờ còn gặp lại những bạn bè đồng đội cũ. Vậy mà dường như được đất trời thương xót chở che, run rủi bao cuộc trùng phùng bất ngờ, cảm động, như họ vừa cùng tái sinh ở một thế giới nào khác. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 3 Comments

MX Nguyễn Đức Hùng – Chuyện ngày xưa…thật xưa

Tôi đã sống những buổi sáng mủ sương nơi Tam thôn Hiệp, Rừng Sát. Ngày nắng hè chói chang ở Giồng Trôm, Bến Tre. Những đêm đen lạnh buốt người với muà đông ở Đông hà, Quảng Trị và nhiều vùng đất nữa của quê hương Việt Nam. Thời gian trãi dài trôi theo từng miền trên những phần đất của quê mẹ tôi đã đi qua. Cố quên đi hận thù chiến tranh, không nghỉ đến những trận chiến điêu tàn, Tôi chỉ muốn nhắm mắt để hình dung lại hình ảnh, những khuôn mặt thân yêu của đám bạn bè ngày xưa của một thời áo rằn mũ xanh, kỷ niệm kéo nhau về chập chùng trong tâm trí như những đọan phim rời, trở lại vây kín trong hồn tôi … Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Trần Nguyên Công – Ngày Xuân Nghe Bạn Kể Chuyện Đời

Quảng Đức, Virginia
Anh em,
Mưa suốt đêm. Sáng nay trời mù câm, cái lạnh tràn về Virginia sớm quá. Mùa thu chưa kịp báo tin cho lá cây chuyển màu. Sáng của những ngày mưa trên rừng Quảng Đức cũng y như thế này. Lành lạnh, ướt át và rừng cây ngái ngủ, mờ mịt hơi sương. Những ngày mưa dầm trên cao nguyên, trần mây thấp, không có không yểm, súng cối kỵ bắn qua đầu, là những ngày lính trinh sát “thức khuya dậy sớm, đi mãi đi hoài đi hông biết mệt”. (khác RNSL một chút) Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Trần Minh Hòa – Tôi đi lính


Đầu tháng 2 năm năm 75, một tháng 2 vẫn còn bình yên chưa có chiến tranh, ít ra là ở Mỹ Tho, nơi tôi đang ở rất bình yên, thỉnh thoảng vẫn có pháo kích nhưng không đáng kể, đêm đêm ăn đạn pháo kích của Việt cộng là chuyện bình thường của thị xã, chưa có gì là ầm ỉ. Tôi không nhớ rõ là ngày nào, nhưng lúc đó đã qua tết âm lịch, tôi đã làm 1 việc hết sức quan trọng trong đời tôi: tôi đi đăng lính ! Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Vĩnh Chánh – Requiescat in pace – Xin Cho Linh Hồn Này Được Yên Nghỉ Nghìn Thu

Để tưởng nhớ đến các chiến sĩ đã hy sinh trong Chiến Trường Việt Nam và mến tặng các BS. Quân Y của Quân Lực VNCH, đặc biệt các đàn anh trong Tiểu Đoàn Quân Y Nhảy Dù và các y sĩ tiền tuyến từng sát cánh với các đơn vị tác chiến. Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Tiên Sha – Môt Lần Lầm Lỡ


1- Nghĩa trang chiều nay vừa có thêm một ngôi mộ mới. Vài bó hoa layơn trắng nở muộn, đặt nằm trơ trọi trên nấm mộ còn tươi mùi đất mới. Người đưa tiễn đã về hết, chỉ còn trơ lại ngọn đồi thấp mênh mông với khoảng trời cô quạnh hiu hắt những nấm đất cao thấp, không hàng không lối, nhập nhòa trong ánh tà dương chìm khuất xa xa tận cuối chân trời. Continue reading 
Posted in Văn Nghệ Kaki | 1 Comment

Đồi Bắc – Lần này thôi nhé!

http://www.bietdongquan.com

Lần này thôi nhé!

Đồi Bắc
20VBQGVN/ LĐ6BĐQ


Tạm biệt mùa đông, tạm biệt ánh lửa hồng, tạm biệt vòng tay ấm.
Mùa đông sẽ đi qua, rồi anh sẽ đi xa.
Chỉ còn lại một mình em, ngồi hát cùng dòng sông.Chỉ còn lại mình em, nhớ về một mùa đông
Nếu như ngày ấy, một hai ta biết nghĩ, thì bây giờ, ta để mất nhau chưa?
(Trích lời bản Tình khúc yêu thương) Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Huy Văn – Đêm Giã Từ Saigon


Rồi cũng đến ngày đối diện với thực tế và chấp nhận định mệnh. Một định mệnh nghiệt ngã đến không ngờ. Một tháng vui tạm để khỏa lắp nỗi trống vắng, để đánh lừa tâm trạng chao đảo suốt từ khi rời Đà Lạt sau ngày thi cuối khóa. Cả nhà thông cảm nỗi buồn của tôi nên từ Ba Má đến các em, luôn cố gắng hết mức trong việc tạo một nguồn vui trong những buổi cơm gia đình trong suốt thời gian qua. Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 2 Comments

Trịnh Thanh Xuân – Bảy ngày tại Tân Cảnh

Chân dung tác giả.
– Ngày 10-6-60, tình nguyện vào khoá 10 Thành Tín, Liên Trường Võ khoa Thủ Đức.
– Tháng 8-61, ra trường với cấp bậc chuẩn úy, trung đội trưởng, thuộc Đại đội 348 BĐQ. Lần lượt thăng cấp Thiếu Uý năm 63, Trung Úy năm 65, Đại Uý đặc cách tại mặt trận năm 68, Thiếu tá năm 72, Trung Tá đặc cách tại mặt trận năm 1974. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Nguyễn Mạnh Khải – Bastogne : Mùa hè đỏ lửa 1972

Bastogne ở trong tiềm thức của tôi không dính dáng gì đến nước Bỉ hoặc Âu Châu mà là một địa danh lẫy lừng của hàng trùng trùng lớp lớp núi vùng Tây Nam Huế thuộc lãnh thổ trách nhiệm của SĐ1 BB QLVNCH mà tôi đã được vinh dự phục vụ suốt trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và ở lại bên cạnh các bạn tác chiến cho đến ngày mất nước. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 7 Comments

Tiểu Cần Nguyễn Thế Thụy – Tháng Ba Buồn… Hiu !

Thời gian 35 năm, từ 3/75 tới 3/2010, là một nửa đời người nếu tôi chỉ xin được sống bình an đến 70 tuổi thôi là đủ rồi, vậy mà hằng năm cứ đến tháng 3 là lòng tôi lại nao nao buồn bã, bao hình ảnh của chiến trận năm xưa, vào hạ tuần tháng 3/75, lại hiện về khiến tôi giảm tuổi thọ! Cuộc chiến “không chiến*” ấy chỉ xẩy ra trong vòng một tuần lễ trên một đoạn đường không xa, từ cửa Thuận An, Huế đến bờ biển Non Nước Đà Nẵng mà có quá nhiều đổi thay, quá nhiều điều khó hiểu luôn dày vò tâm can khiến tôi lại ngậm ngùi nghĩ về Tháng Ba Buồn Hiu! Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | Leave a comment

Lê Đình An – Chiến dịch Tảo thanh Việt Cộng vùng Rừng Sát, Nhà Bè


Vào khoảng gần cuối năm 1966, thương thuyền của ngoại quốc ra vào trên sông Lòng Tào, từ Vũng Tàu đến Sài Gòn, thường bị Việt cộng bắn phá. Theo tin tình báo, VC dùng chiến thuật du kích tấn công các tàu bè di chuyển trên dòng sông này với ý định cô lập và cắt đứt đường giao thông thủy lộ huyết mạch vào Thủ Đô. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 4 Comments

Vương Mộng Long – Nốt Thăng Trầm


TRung Úy Long, 1968
Chân dung tác giả
– Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
– Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
– Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
– Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
– Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
– Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A Social Sciences and Communication.
– Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 8 Comments

Trần Ngọc Nguyên Vũ – Nhớ Cả Khung Trời Mây Trắng Bay!


https://i0.wp.com/www.haingoaiphiemdam.com/upload/news/6851932_2031.jpg
(Những đoản khúc mùa Đông. Thân kính gởi về “Thần Phong Nguyễn Ngọc-Khoa”, Trung-Tá Lê Bá-Định, Đại-Tá Nguyễn Văn-Bá, cùng những người mà tên tuổi đã đi vào huyền-thoại trong quân-sử.)
Trần Ngọc Nguyên Vũ Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Hoài Ziang Duy – Mơ Giấc Đời Thường


Trong đời tôi có những giấc mơ bất chợt, không tưởng lại đến. Không là vì hết, lại gặp.  Có bao giờ bạn tưởng được người tôi muốn nói đến là Hồ diệu Bang, lảnh tu ïđảng ngày nào của Trung Quốc. Tôi không bao giờ nghĩ đến ông ta, và cũng không hiểu sao ông xuất hiện, trong cơn mơ lạ kỳ nầy. Điều tôi có chút cảm tình với ông, qua việc sinh viên biểu tình ở Thiên An môn trước đây. Những giọt nước mắt thương tâm ở một người lãnh đạo, trước thân xác những người trẻ tuổi chống áp bức, đòi hỏi dân chủ công bằng xã hội. Nhưng cũng chính những lời phát biểu, đứng về phía quyền đòi được làm người. Những giọt lệ chắc không muốn cho ai thấy, biểu lộ bề trong một con người thật, làm địa vị, sự nghiệp bị kéo xuống, cho đến cuối đời ông nhắm mắt.Tôi không hề quen biết ông ta. Tôi không có chút huyết thống nào để ràng buộc, bắt nhớ. Một giấc mơ đi qua. Ở đó không có hàng rào ngôn ngữ, địa vị, chủng tộc. Không chuẩn bị đo lường, gặp nhau từ tâm thức cuả một ngươì đang ngủ. Phải chăng ở không gian nầy, còn có hơi thở sống còn, là còn thấy những việc ngớ ngẩn không liệu trước. Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Trần Thị Chiến Tranh – Có phải tôi không ?

 Image

CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?
Có người gửi tôi tấm hình trên mạng
cô gái Sài gòn áo trắng khăn tang
đi trong Sài gòn bốn mươi năm cũ
cô gái trong hình có phải tôi không? Continue reading 
Posted in Văn Nghệ Kaki | 1 Comment

Điệp Mỹ Linh – Vết Sẹo Xưa

Để biết ơn Thương-Binh V.N.C.H.

… Diễn giả vừa dứt câu, tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói, hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt vẫn còn vương buồn, nhìn quanh hội trường, tiếp:

 “… Kể từ tháng Tư năm 1975 đến nay, ngoài những tai tiếng như băng đảng, gian lận bảo hiểm, khai man để hưởng trợ cấp xã hội, v. v… tập thể Việt-Nam tỵ nạn cũng đã tạo được nhiều thành quả lớn lao như nuôi dạy và tạo dựng không biết bao nhiêu nhân tài; như hỗ trợ chương trình cứu người vượt biển; như giúp đỡ vật chất và an ủi tinh thần những người tỵ nạn tại các đảo; như tiếp nhận và trợ giúp từng loạt H.O. và O.D.P., v.v… Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 1 Comment

Kim Chi – Tặng anh người hát bài Biển Mặn

Bài hát mở đầu: “Cao ngất Trường Sơn…”
Có phải anh đang hát bài Biển Mặn?
Anh ôm đàn, bàn tay không lành lặn.
Giọng hát buồn như chở nặng niềm đau.
Anh là ai, là người của bên nào?
“Bên thắng cuộc” ? Không, là “Bên bỏ cuộc”!  Continue reading 
Posted in Văn Nghệ Kaki | 1 Comment

Nguyễn Sơn – Nhớ về An-Lộc

Cho đến nay, đã hơn ba tháng tôi sống nơi đây mà vẫn chưa quen được với giờ giấc và thời-tiết. Đã đành đang Đông nên mặt trời thường “đi ngủ sớm”. Nhưng trong người tôi vẫn thường bị xây xẩm hoặc bị ảo-giác về giờ-giấc. Có khi đang trưa mà tôi cứ ngỡ là nửa đêm. Nên thường nhìn đồng-hồ là vậy.
Bây giờ đã hơn 1 giờ. Tôi biết chắc điều này vì ngoài trời mờ ảo với ánh đèn nhiều màu của thành-phố. Tuyết đang rơi thì phải. Hơn một tiếng đồng-hồ trước đây tôi đã thức giấc trong tiếng chuông điện-thoại. Người đã gọi, tôi không quen hay đúng hơn là tôi không nhớ. Anh đã nhắc nhiều đến Biệt Cách Dù trong đó có cả chị. Sau đó tôi đã không ngủ được. Tâm trí cứ vẫn-vơ nghĩ đến chuyện cũ An-Lộc năm xưa, đưa tôi vào ảo-giác chiêm-bao, trong mê tỉnh thực mộng…Tôi đã quên tôi trong hiện-hữu lạnh lẽo giá băng, trong thực tại tha-hương kiếm sống… tôi nhớ thật nhiều đến một mùa hè rực-rỡ, trong lửa đỏ Bình-Long, đến chị. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 7 Comments

Đồi Bắc – Lần này thôi nhé!


Tạm biệt mùa đông, tạm biệt ánh lửa hồng, tạm biệt vòng tay ấm.
Mùa đông sẽ đi qua, rồi anh sẽ đi xa.
Chỉ còn lại một mình em, ngồi hát cùng dòng sông.Chỉ còn lại mình em, nhớ về một mùa đông
Nếu như ngày ấy, một hai ta biết nghĩ, thì bây giờ, ta để mất nhau chưa?
(Trích lời bản Tình khúc yêu thương)
Người viết nhớ lại những ngày bị thương tại Pleiku… khi nằm trong quân y viện. Bị thương, không người thăm, chắc chắn là khổ, nhưng hơn một người thăm, cũng chẳng dễ dầu gì.  Tên người không phải tên thật ngoài đời, mọi chuyện trùng hợp đều ngoài ý tác giả. Continue reading 
Posted in Tản MạnVăn Nghệ Kaki | 1 Comment

Tô Văn Cấp – Buồn Vui Với Trâu Điên Trưởng

                                           

Khoảng tháng 8-9/1975 tại trại tù Long Giao, trong một buổi “lên lớp”, tên VC đang nói phét về chính sách khoan hồng nhân đạo “trước sau như một” của chúng đối với “ngụy quân, ngụy quyền”, và kể đủ thứ tội của tất cả các quân binh chủng.Quân Y có tội, Tuyên Úy cũng có tội. Rồi bất ngờ hắn lòi đuôi chồn sạo, cáo nói láo bằng câu kết luận:

– “Nhưng những cái gọi là Trâu Điên, Cọp Ba Đầu Rằn thì phải thẳng tay trừng trị”. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Lê Đình An – Chiến Dịch Hành Quân Tam Giác Sắt

Chiến dịch Cedar Falls là chiến dịch quân sự từ ngày 8 tháng 1 đến 16 tháng 1 năm 1967 trong Chiến tranh Việt Nam do Quân đội Mỹ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thực hiện nhằm triệt nhổ gốc rễ các căn cứ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở “Tam giác sắt” (khu vực rộng 155 km² nằm giữa sông Sài Gòn và đường 13, khoảng 40 km phía bắc trung tâm Sài Gòn). Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 2 Comments

Nguyễn Minh Thanh – Áo Đan Cho Chồng Mãi Dở Dang… !!


Sinh nhằm thời chiến chinh
Sông núi chìm điêu linh
Anh lên đường chinh chiến
Em xót xa phận mình
Lớp lớp rèn cung đao
Lẫm liệt người đi vào
Chiến trường hung hiểm quá
Anh ơi, em làm sao?! Continue reading 
Posted in Văn Nghệ Kaki | 1 Comment

Lê Hùng – Nét Buồn Thời Chiến


image
Sau cuộc hành quân khai thông Quốc lộ 14 nối liền Pleiku và Kontum, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về Kontum dưỡng quân. Vừa về đến hậu cứ, chưa kịp tháo dây ba chạc và bỏ chiếc mũ sắt,.tôi nhận được công điện khẩn goị lên trình diện Đại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân của Quân Đoàn II. Tôi được chỉ định Xử Lý Thường Vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 72 BĐQ, thay thế Đại úy Lê văn Dưỡng bị bệnh, đem quân về giải tỏa ngã ba Daksong đang bị cộng quân đóng chốt. Tôi họp các Đaị đội trưởng thông báo tin tức, ra lệnh cấm trại 100% chuẩn bị hành quân. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 4 Comments

Phan xuân Sinh – Gió bụi một thời


                                                               http://www.bietdongquan.com/hinhanh/BAN/huyhieubinhchung/Logo_SD1.jpg

Tôi rời Đà Nẵng gần cuối năm 1974 để vào sống tại Sài Gòn. Trong dự trù, sau khi giải ngũ tôi được lãnh số tiền trợ cấp hàng tháng để yên tâm đi học trở lại. Số tiền nầy dư giả cho tôi trang trải mọi chi phí về chuyện ăn ở tại Sài Gòn mà không cần sự trợ cấp của gia đình. Tất cả hồ sơ giải ngũ của tôi từ Trung Tâm I Quản Trị được gửi vào Trung Tâm III Quản Trị. Nếu không có biến chuyển gì thì tháng 4 năm 75 tôi sẽ ra Hội Đồng để duyệt xét mức độ tàn phế. .. Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Trần Ngọc Nguyên Vũ – Bảo Quốc Trấn Không

 
 
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1383869848.PNG

Nơi đất trích trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha nhìn quanh cả vạn muôn
Há chỉ mình ta xuôi biên tái
“Nhất khứ bất phục phản” là thường.
Phạm Ngọc Lư
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Nguyễn Phán – Những giờ phút cuối cùng của những mãnh hổ

                                               
Lời người viết: Vì bài viết khá dài, dù chưa đi vào những chi tiết, do đó, xin được chia bài viết thành hai phần. Người viết căn cứ vào sự thật và trí nhớ về những biến cố xưa, như còn nguyên ở đây; cho dù có thể vài chi tiết nhỏ (như giờ, con số…có thể không được chính xác), ngoài ra, các sự kiện, các diễn tiến được ghi lại trong bài viết là hoàn toàn đúng. Viết với LÒNG DANH DỰ và SỰ TỰ TRỌNG.
Lính già Mũ Nâu Nguyễn Phán Continue reading 
Posted in Hồi ký chiến trường | 1 Comment

Phan Nhật Nam – Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến


I. Tháng Chín, ba mươi hai năm trước, 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công.
Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc… hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của người lính – Bảo Quốc An Dân – Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy mươi năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng.
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước… Continue reading 
Posted in Tản Mạn | 3 Comments

Harry F. Noyes III – Đồng minh can trường


             
Tác giả là cựu chiến binh HK tại Việt Nam trong quân chủng Không Qu

Nguồn: 
https://buonvuidoilinh.wordpress.com/page/45/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét