Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Xem thêm: VIII- DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN- P2


HànhTrìnhTìmTựDo
HànhTrìnhTìmTựDo





Bao nhiêu người đã bỏ mình dưới biển trên rừng, để tìm Tự Do ? 

HCSVVDHD - HànhTrìnhTìmTựDo


Lao Tù & Vượt Biển
MX Trần Văn Khoẻ - C/N 2014/10/18

Sài Gòn những năm cuối thập niên 70 , nhà nhà vượt biển , người người tìm đường vượt biên . Người Sài Gòn những năm đó có câu Cây cột đèn có chưn nó cũng đã đi rồi . Đường biển thì đi bằng tàu , đường bộ thì vượt biên giới qua Căm Bốt , Lào để đến Thái Lan . Những câu chuyện vượt biên vượt biển được truyền nhau bí mật , truyền cho nhau kinh nghiệm trong chỗ bạn bè , thân nhân ruột thịt . Nhưng cũng có những câu chuyện thương tâm bị cướp biển Thái Lan hảm hiếp , bắt về bán cho các động mãi dâm ở Thái . Năm 1979 có những chuyến đi « bán chánh thức » , người Hoa bị xua đuổi về Tàu .

Rạch Chanh , lối 50 KM Tây Nam Sài Gòn
Người ta đóng ghe công khai , có những nguời dắt mối , mỗi đầu người 9 cây ... những từ ngữ trở thành quen thuộc « Yanma Đầu Bạc » « ba lốc , bốn lốc » ( block ) . Rạch Chanh ở Long An là một trong nhiều chỗ đóng ghe đi bán chánh thức . Có người bị gạt , cũng có người đi được , cũng có những chuyến bị « bán » và bể khi ra khỏi cửa sông làm mồi cho cá . Một dạo , có một chuyến đi « bán chánh thức » từ Biên Hoà , đến khi vào sông Lòng Tảo bị bể tàu và người chết , xác nổi lên tấp vào bến phà Cát Lái , Nhơn Trạch , người ta đi vớt xác cũng có , mà người ta đi vớt của cũng không thiếu . Sài Gòn vượt biên ... những câu chuyện vượt biên không kém phần hấp dẫn như tiểu thuyết .
ooOoo
Trốn tù ra trong những ngày cuối tháng 06/1979 . Đã hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài , tinh thần tôi khủng hoảng và sợ sệt , tôi về tịnh dưỡng dưới quê nhà anh Rể tôi vùng Rạch Kiến . Được vài tháng quen cách sống bình dân , tôi trở lên lại Sài Gòn liên lạc được một số bạn bè cũ , biết được Phan Văn Đuông thằng bạn cùng khoá chung TD5/TQLC , cũng lỳ đòn trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng vào nhau , có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương , dù trong lòng địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn .
Len lỏi sống qua ngày , Đuông thi bơm hộp quẹt ga chợ Sai Gòn , tôi vá bánh xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng , kiếm ăn , đồng thời nghe ngóng tin tức để tìm đường vượt biển .
Vài tháng sau , gặp được Nguyễn Văn Phải cũng khoá 4/71 bên Binh Chủng Nhảy Dù được VC thả về trước 3 năm , bà mẹ già về quê để lại căn nhà nhỏ bên hông trường « Đại Học Sư Phạm » , thấy bạn bè không nơi nương tựa , Phải kéo một đám về cho tá túc hằng đêm , sau này có thêm Sơn , Lâm BĐQ tất cả độ khoảng trên dưới năm bảy thằng toàn là SQ trong 3 binh chủng TQLC , ND  ,BQĐ .
Ban ngày tủa ra đường kiếm ăn , đêm thì ghé lưng được vài ba tiếng , chúng tôi thường giành nhau chỗ ngủ trên gác gần máng xối , để khi đêm về có động tỉnh thì hồn ai nấy giữ , trổ máng xối chui ra mà chạy .
Tháng ngày trôi qua , ngoài cái đói và phập phòng lo sợ hàng đêm , những thằng trốn tù như tôi và Đuông phải nổ lực ráo riết tìm đường vượt biển .
Nghe Phải nói về tổ chức vượt biên của anh Sáu ( Khoái Th/Tá ND ) . Đuông và tôi thì trên răng dưới vế tìm đâu ra 1 , 2 cây vàng mà đi ? Nhưng tôi cũng bậm gan nhờ Phải hỏi dùm « đi trước trả sau » may ra thì anh Sáu đồng ý . Vài tuần sau , nghe được trả lời , còn 1 chỗ cho tôi đi trong chuyến « Chín Thu » .
Tôi không biết mặt anh Sáu nhưng tôi thằm phục môt vị đàn anh , cảm thông và giúp đỡ đàn em trong cảnh khốn cùng , như một tia sáng vươn lên hoà lẫn trong niềm hy vong . Vài hôm sau , ngày đổ bãi đã đến , tôi được anh Hai Nhất tới dẫn đi về Vĩnh Long . Trên xe đò , tôi tò mò hỏi :
- Hai Nhất có phải tên thật của anh không ? Và « Chín Thu » là ai ? Mấy anh gọi nhau bằng ám danh tôi không hiểu ra tên ai hết .
Tôi là HSQ đàn em của anh Sáu , tôi thường hay đi trước nên mệnh danh Hai Nhất .
Tôi hỏi tiếp , như vậy còn Chín Thu , anh Hai Nhất trã lời :
- Chín Thu là anh Th/Tá Mai BT , chồng cũ ca sĩ KL , hiện anh đang giữ con « Cá Lớn » , là bạn thân của anh Sáu , yên chí đi .
Tôi thầm nghỉ số tôi quá ư là may mắn , tên Mai BT vang bóng một thời nổi tiếng dân chơi của Biệt Đoàn ... nay được anh tới đón là điều không thể tưởng .
Tới Vĩnh Long đã chiều , anh Hai Nhất và tôi ăn vội dĩa cơm lót dạ , rồi đón xe lôi chạy thẳng về điểm hẹn ... Tôi không còn nhớ rõ nơi nào , một căn nhà nhỏ độ vài mươi mét vuông , cạnh bờ rạch nhỏ , vào bên trong nhà , tôi ngã lưng trên chiếc võng sau nhà . Anh Hai Nhất đi tìm người liên lac . Giờ phút đến theo dự trù khoảng độ 10 giờ đêm , tôi hồi họp chờ đợi , rồi 11 giờ tôi thấy anh Hai Nhất lầm lũi trở về trong bực tức anh chửi thề ĐM ... thằng Chín Thu chỉ rướt đám Ca Sĩ Ngọc M , bỏ lại bên cánh mình . Lòng buồn vô hạn , nhưng cũng an ủi , vì đâu đã mất tiền , có lẽ đây là cách chơi của bậc đàn anh ... Trong khoảng gần cuối năm 1979 , chuyến vượt biên đầu coi như hoàn toàn thất bại , tôi lểu thểu trở lại Sài Gòn .
Thời điểm bấy giờ , vượt biên , vượt biển là đề tài chính . Lường gạc , lừa đảo lẫn nhau là chuyện bình thường . Vợ tôi khi tới Úc cũng cực khổ , cố gắng làm gởi tiên về gia đình nhưng chỉ đủ cho thằng em trai tuổi Nghĩa Vụ đóng tiền vượt biển .
Đầu năm 1980 , tôi tình cờ gặp anh Phan Thành Nam trước kia anh là Đ/Uý Trưởng Phòng Truyền Tin Phủ Tổng Thống ở chung trại tù lúc còn ở Trảng Lớn , anh bây giờ đồng cảnh ngộ như tôi , nhưng anh may mắn hơn có được Chị Thu người vợ rất lanh lẹ và quán xuyến công việc mọi đàng .
Anh Nam cho biết đã đóng tiền 1 chỗ đi rất tin tưởng , chiếc ghe đang kéo lên ụ tàu Cầu Rạch Ong sửa chữa , sẽ được xuống nước trong thời gian ngắn . Làm cách nào tôi đào ra 2 cây vàng để đưa cho chủ ghe để được có phần trong chuyến đi cùng anh Nam sắm tới .
Tôi liên lạc với má vợ tôi thường xuyên , bà rất thương tôi , chạy lòng vòng vài chỗ hỏi mượn cho tôi đến khi vợ tôi gởi tiền về thì hoàn trã lại , cũng may có người bạn cùng xóm của vợ tôi cho mượn .
Được 2 cây vàng lòng mừng không diễn tả được , nhưng bấy giờ lại sợ bị mất tiền . Tôi đòi hỏi thấy chiếc tàu đồng thời được làm thuỷ thủ . Người chủ tàu đồng ý lời tôi . Khi đưa xong vàng , đi sâu vào nội bộ thì biết ra có 2 phe cánh đang giành giựt nhau làm chủ , một bên chủ máy và một nửa của chủ vỏ ghe
Cuối cùng bên bỏ tiền mua máy tàu làm chủ , vì chủ vỏ ghe đã lấy quá nhiếu vàng . Tôi và anh Nam cũng may được 2 bên đồng ý cho làm thuỷ thủ đoàn vì họ đang cần người chăm sóc chiếc ghe . Với tôi thêm 1 chỗ ngủ mới cho tôi thay đổi , trong thời gian di động . Tôi thường phụ thợ máy mỗi khi làm hộp số . Khi rảnh rổi thì tới nhà Diệp Phi Hùng tìm anh Sơn để học hỏi lý thuyết về cách lái ghe , khi gặp sóng biển lớn , và những ký hiệu phao nỗi ngoài cửa biển . Anh Sơn chỉ vẽ rất tân tình vì trước kia anh là dân lái giang thuyền PCF , anh Sơn luôn căn dặn :
- Nhớ lúc nào cũng đi sóng 6/4 hay 7/3 , không bao giờ chẽ sóng 5/5 .
Những danh từ thường dùng cho dân HQ , tôi chưa bao giờ nghe , rồi anh giải thích :
- Sóng 6/4 là mũi ghe và sóng biển với góc 60 độ và 40 độ , 7/3 là 70 và 30 độ , còn 5/5 là sóng biển và mũi ghe góc vuông 90 độ , phải nên tránh trường hợp này .
Tôi cẩn thân ghi chép từng đoạn , vẽ hình từng loại phao đặt ngoài cửa biển . Trước đây khi còn trong tù , tôi cũng học hỏi sơ qua của mấy thằng bạn Hải Quân chung trại nhưng có bao giờ nghĩ tới có dịp thực hiện bao giờ .
Khoảng tháng 03/1980 chiếc ghe hạ thuỷ , với 14 m dài , gần 3 m chiều ngang , vỏ nghe đi sông biến thành ghe biển . Lúc đang chờ hợp đồng tôi và anh Nam lấy ghe chạy thử , lái thì dễ nhưng cập bến là vấn đề khó khăn , hơn nữa tôi nghĩ đâu phải là trách nhiệm của tôi . Vài tuần sau , khi có giấy phép hợp đồng chở cát về xã Lý Nhơn thuộc Quận Nhà Bè , cũng là dịp để thử chiếc ghe , thì đám Tài Công chính xuất hiện , một Th/Sĩ HQ làm Tài Công Chính , 1 Ch/Uý và 2 người khác tôi không nhớ rõ , tất cả đều là phe ta Quân Đội cũ , có lẽ ngoài Tài Công ra , đoàn thuỷ thủ này toàn bộ Amateur như tôi và anh Nam .
Sau 3 chuyến đi hợp đồng coi như suông sẻ , qua sông Nhà Bè rồi tới xã Lý Nhơn . Kế hoach bàn thảo sẽ đổ quân vào chuyến thứ 4 với hợp đồng nước đá Huyện Cần Giờ , nhưng khi ra cửa sông lớn lái gần bên phải bốc quân bên Vàm Láng .
Vào cuối Tháng Tư , theo dự trù sẽ tất cả chờ trên Cá Nhỏ ( ghe nhỏ ) , sẳn sàng ngoài cửa sông Vàm Láng , chờ khi trời sụp tối Cá Lớn ( ghe lớn ) đến bốc rồi thẳng ra cửa biển trong đêm . Mỗi nhóm một phận sự trên bờ ông chủ ghe điều động bốc người , phần chúng tôi là làm thế nào để đưa ghe lớn « Cá Lớn » tới điểm hẹn an toàn và bốc người đầy đủ .
Ghe rời ụ xuất phát khoảng lúc 8 giờ sáng , chạy sang cầu chử Y rước bà chủ ghe , lúc chờ đợi tôi lội xuống kiểm soát chân vịt lần cuối . Ghe bắt đầu rời bến , lúc đi hợp đồng thì không gì lo sợ , không hiểu lúc này sao lại run chân , chạy ra khỏi vùng sông Sài Gòn , rồi khu vực Nhà Bè xuyên qua những con rạch nhỏ , lúc này tôi không còn đinh hướng được vì qua các khúc rạch quằn quèo . Tôi vào cabin nhìn qua tấm hải đồ định hướng .
Anh Tài Công chỉ vào Hải đồ tôi thấy đã hơn nửa đoạn đường , chúng tôi cho ghe chậm lại lúc đó độ hơn 1 giờ trưa , lòn lách trong những con rạch nhỏ solo một mình . Tôi không hiếu tại sao anh Tài Công lại đi đường tắc này rất dễ dàng lộ diện . Nếu là tôi lái thì sẽ đi con đường chính diện , cũng may là không ai phát giác , tà tà chạy tới , con sông bắt đầu rộng dần , rồi tới rộng lớn mênh mong anh Tài Công lái ra chính giữa , nhìn qua 2 bên bờ quá xa , cả đoàn thuỷ thủ trên ghe mừng hớn hở , hy vọng đã vươn cao , gần tới chỗ bốc người , trời cũng xế chiều .
Bỗng nhiên hàng loạt AK50 bắn ròn rã vào hướng ghe chúng tôi đang chạy . Biết bị lộ , trên ghe cả đám mất tinh thần , lúc này tôi như ra lệnh cứ tiếp tục chạy như không nghe biết gì , anh Th/Sĩ cũng nghe theo chạy thẳng qua hướng về Vàm Láng . Tiếng AK50 nổ dòn và giữ dội hơn kèm theo M79 , nổ ầm ầm trước sau con tàu . Bà chủ ghe quá sợ , kêu gọi chúng tôi quay vào , còn lây quây suy nghỉ thì 2 , 3 trái M79 nổ ầm , ầm sát bên ghe . Anh Tài Công hốt hoảng quay mũi tàu hướng về phía Công An . Rồi nghe tiếng AK bắt đầu bớt lại , khi thấy ghe chúng tôi hướng thẳng vào bờ .
Cửa biển quá rộng mà tôi lại lội không rành , làm sao tôi dám nhảy sông , nghĩ bụng đợt này mình chết chắc , bao nhiêu lần may đều thoát nạn giờ thì đã hết vận may . Có thể trong đoàn thuỷ thủ tôi là người tội nặng nhất , trốn tù , giấy tờ giả , thêm tội vượt biên . Cả đoàn thuỷ thủ mỗi người ngồi một góc , có thể họ cũng đang tìm lời đối đáp với bọn Công An .
Chiếc ghe từ từ lũi vào chỗ cạn , một đám Công An lội sình cầm súng nhảy lên ghe , trói tay tất cả , bắt lội sình vào trong xã , rồi quỳ một hàng như những tội phạm đang đợi giờ xử bắn .
Bà chủ ghe cũng bi đưa vào trong đó hỏi cung , và trình giấy hợp đồng bà đang giữ .
Tên Công An xã quát lên :
- Hợp đồng buôn nước đá này là giả , hợp đồng vượt biên thì đúng hơn .
Bà chủ ghe cũng cãi lại :
- Trên ghe không bằng chứng vượt biên .
Tên Công An cười mĩm rồi nói tiếp :
- Bà có biết ai tên là Nguyễn Thị Quí không ? Chủ máy của chiếc ghe này , chính bà ấy lên tận sở Công An thành phố thưa bà đó . Công văn , công điện chúng tôi nhận được từ lúc 12 giờ trưa hôm nay , và bà ấy đã cho biết bà Lê Thị Hồng cướp ghe vượt biển . Ghe này có phải mang số : SS0167 không ?
Nói xong tên Công An quăng ra bản công điện nhận từ Sở Công An Thành Phố , trên đó có ghi rỏ tên chủ ghe , chủ máy , và những lời tố cáo hợp đồng giả mạo để vượt biên , nên bà chủ ghe cứng họng .
Chờ trời vừa sụp tối , chúng tôi được lệnh giải giao về huyện Cần Giờ đoạn đường này phải mất cả đêm . Tôi không còn nhớ tên xã là gì nhưng biết là xã cuối cùng của huyện . Sáu tên Công An áp tải với 3 khẩu AK47 , 2 khẩu M16 và 1 cây M79 . Nhìn những khẩu súng trên tay 6 tên Công An đang giữ , trong số các loại này tôi chỉ sợ khẩu M79 .
Chúng tôi được mở trói lúc đẩy trở lại ghe , và tất cả bị đẩy xuống hầm tàu chỉ chừa lại một Tài Công điều khiển . Ghe chạy được một đoạn ngắn , anh Tài Công buồn chán nản , cho gọi tôi lên điều khiển con tàu . Tôi nhảy lên phòng lái , nhanh mắt quan sát , thấy cách Công An bố trí , rồi thoáng nghĩ chắc đời mình hết chạy , một tên Công An ngồi trên mũi ghe , một sau lái , một trên nóc , 2 bên hong và một ngồi cạnh bên Tài Công để hướng dẫn đường . Như con chim bị nhốt trong lòng , cố tìm lỗ trống bay ra , cầm tay lái nhưng đầu tôi luôn suy nghĩ .
Hơn 8 giờ đêm , trên trời mặt trăng lưỡi liềm lơ lững , ánh sáng chiếu trắng bon tàu . Bỗng tên Công An ngồi canh tôi lên tiếng hỏi :
- Trên ghe các anh có gì ăn không ?
Tôi suy nghĩ một chút và trả lời :
- Trên ghe có gạo , muối , khô sặc , khô đuối , nếu các anh đói bụng thì tôi đi nấu cơm . Không đợi tên CA trả lời , tôi cúi đầu xuống hầm tàu gọi thằng đàn em lên cầm lái thế tôi .
- Cứ giữ tay lái thế này , bẻ qua , bẻ lại như lái xe hơi ; cố giữ cho chiếc ghe đi thẳng . Tôi đi bắt nồi cơm . Khi bước ra sau ghe gặp tên Công An sau lái hỏi .
- Anh làm gì đi ra đàng sau này ?
Tôi trả lời :
- Đi nấu cơm , anh ngồi trong phòng lái bảo tôi đi nấu cho tất các anh ăn .
Tên Công An này yên lặng , thì ra tên Công An trong phòng lái với tôi là Trưởng Toán . Nấu cơm xong tôi nướng cá khô sặc kèm theo khô cá đuối . Mùi cá khô làm thơm phức cả tàu , tôi thấy cả mấy tên đói bụng đang chờ ăn . Tôi vừa nấu cơm , nướng khô , nhưng đầu óc quay cuồng tìm cách thoát . Nấu cơm , nướng cá khô xong đã hơn 9 giờ đêm , tôi dọn ra phía trước mũi giữa bon tàu , rồi mời tất cả vào ăn một lượt . Sáu tên Công An tụm lại ngồi ăn .
Bầu trời mờ mờ ánh trăng , mặt sông loang loáng ánh sáng . Tôi không thể xác định được điểm đứng , đây là nơi nào ... Hai bên bờ mờ mờ trong sương đêm , nhưng đây là dịp ngàn năm một thuở , bằng mọi giá tôi phải thoát khỏi con tàu này . Trở vào phòng lái dặn dò thằng đàn em Ch/Uý , nói vắn tắt cho anh ta hiểu hoàn cảnh hiện tại của tôi . Và tôi dặn anh ta cố gắng giữ cho con tàu ép về bên phải :
- Tao phải đi , bằng mọi giá phải đi .
Thấu hiểu được hoàn cảnh của tôi , nên anh đã làm như lời tôi dặn . Con sông rộng độ chừng 100 m , tôi thì quờ quạng không lội xa .
Ghe bắt đầu lạng dần về bên phải , tôi ra sau lái , thấy Đ/Uý Nam Trưởng Phòng Truyền Tin PTT nằm ngoài cạnh bon tàu . Tôi nói nhỏ vào lỗ tai anh ấy :
- Trốn không ? Đã tới lúc .
Anh trả lời với giọng buồn thiu :
- Bạn đi đi , giấy tờ tôi đầy đủ , hơn nữa giờ này vợ con tôi không biết ra sao ngoài cửa biển , good luck ... ! ! !
Biết anh không đi , tôi vội vàng lòn qua khung cửa sổ bên hông tàu , chùi mình qua cửa , rôì thả nhẹ đôi chân , mình trầm xuống nước . Nước lạnh , có gió , tôi rùng mình , tự nhủ thầm « Nhứt chin nhì bù » . Tôi nhoài mình cố gắng lặn ra xa ; cánh quạt chân vịt phía sau tàu giúp đẩy thẳng tôi ra một đoạn , cố nín thở , lặn sâu xuống nước , nhưng không hiểu sao lúc này đầu cứ lại trồi lên .
Tôi hụp xuống và lặn ra xa cách chiếc ghe độ chừng 10 mét , tiếng máy ghe cứ nổ đều đều , không một chút nghi ngờ , trên ghe vẫn yên tỉnh . Thật cám ơn thằng Ch/Uý đàn em . Tôi nín thở cắm đầu lặn tiếp , lặn mấy hơi , trồi lên thở mà vẫn thấy chiếc ghe còn rất gần . Tôi than thầm trong bụng ; không còn đầu óc để tính toán , suy luận .
Trong đầu chỉ còn một ý niệm « thoát hay là chết » . Lấy hơi , vừa lặn tôi vừa bơi về bên phải để vào bờ . Lúc này , tôi sợ nhất là khẩu M79 , khi chúng phát giác có người trốn chúng sẽ dùng khẩu đó để bắn chụp xuống sông , chắc tôi sẽ bỏ xác vì tức nước , AK47 và M16 thì tôi đã biết rõ tầm tác hại , xui lắm tôi mới dính đạn này . Cám ơn Thuỷ Quân Lục Chiến . Cám ơn Quảng Trị chiến trường . Kinh nghiệm đó tôi lấy làm căn bản . Để đối phó cùng thực tế đêm nay .
Tôi vẫn cố sức sãi vào bờ , ghe vẫn chạy đều đều trong đêm trăng sáng , khi tôi bám được bờ thì tiếng máy đã xa dần . Nhảy lên bờ , việc đầu tiên là tìm chỗ ẩn núp , phòng khi phát giác , bọn chúng sẽ cho ghe trở lại tìm kiếm . Nằm yên lặng trong mấy gốc tràm hơn nửa tiếng với quần xà lỏn áo thun , bây giờ tôi mới thấy đói và lạnh .
Tôi cố tìm một khoảng trống bằng mặt để nghỉ lưng , nhưng tìm mãi vẫn không sao có được , cuối cùng phải đành nằm trên đống rễ tràm lồi lõm . B52 ( muỗi ) bắt đầu quần thảo khi đã đánh hơi , chịu không nổi với đám muỗi rừng quần thảo , tôi trầm mình xuống nước để giải vây , vừa đứng yên tay chân không quậy nước , một đàn tàu ngầm ( cá lòng tong ) bay vào phập tới tấp vào chân tôi .
Chưa bao giờ tôi nghĩ cá cắn đau như vậy . Tôi sợ một hồi nó phập luôn « thằng nhỏ » nên nhảy phóng lên bờ chịu đựng B52 . Không chiu nổi B52 thì cho tàu lặn cắn . Tôi loay hoay đối phó với bọn « địch » không chợp mắt chút nào từ 10 giờ đêm tới 4 , 5 giờ sáng .
Ánh sáng mờ mờ từ hướng đông , chung quanh thật yên tĩnh . Lạnh và đói , tôi chợt thèm ly rượu đế ấm lòng . Tôi bâng khuâng nhớ lại những đêm lạnh nước ngập trung đội đi tiền đồn ở thôn Gia Đẳng , nhớ lại đêm trốn trại ở Bù Gia Phúc năm rồi trong rừng Phước Long . Nhưng rừng Cao Nguyên khác xa rừng tràm ngập mặn của vùng Rừng Sát . Những ngày đó , tôi còn đồng đội , còn anh em . Bây giờ đứng đây , một mình , « tứ đầu thọ địch » . Tôi đứng lên định hướng , bỗng tôi nghe đàng xa trong bờ rừng bên phải từng hồi kẻng vang lên , loại kẻng này với tôi không lạ . Tôi di chuyển về hướng ngược lại , đi dần về hướng Tây .
Một hồi kẻng khác lại vang lên . Tránh đầu này thì nghe kẻng đầu kia . Biết mình bị lọt vào khu vực trại tù cải tạo nữa rồi , nhưng tôi không biết được nó là ở nơi nào . Tôi xác định , điều trước hết là phải lội qua bên kia sông rồi tính tiếp . Nhìn ra sông , con sông ngày hôm qua chiếc ghe tôi đi qua . Sông rất rộng , tôi đi tới đi lui một hồi tìm không ra khúc sông hẹp , đang tìm kiếm thì trời mờ sáng , cảnh vật rõ dần , tôi áng chừng khúc sông nầy rộng gần 100m . Nhìn dọc theo mé song , từ đàng xa tôi thấy một ông già ngồi trên chiếc xuồng nhỏ , phản ứng tự nhiên , tôi thụp đầu xuống núp vào một lùm cây . Làm gì bây giờ ?
Ông ta là ai ? Gấn đây có xóm nhà ? Hay là cán bộ trong trại vừa đánh kẻng ? Rối mù với hàng trăm câu hỏi . Tôi định thần nhìn thật kỹ , ông già đang ngồi trên chiếc xuống nhỏ , chung quanh đó là đàn vịt đang bì bỏm lặn hụp tìm mồi . A ! Ông già chăn vịt . Tôi quyết định đi về phía ông Lão . Khi thấy tôi ổng liền hỏi :
- Cậu làm gì ở đây ?
Tôi phải đành nói thật :
Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới đây rồi nhảy trốn .
- À thì ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối .
Tôi vội hỏi thăm dò tiếng kẻng . Ông trả lời :
- Đây là « Đặc Khu Rừng Sát » chung quanh đây toàn trại tù cải tạo « Phục hồi nhân phẩm của người xì ke ma tuý » .
- Vậy bên kia sông có trại tù cải tạo nào không Bác .
- Không , chỉ bên này thôi » .
- Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không , vì cháu lội không rành .
- Không được , không được , cậu có thấy một đàn vịt gần 2000 con tôi đang chăn , đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu mà tìm . Thôi cậu ráng mà lội qua đi .
Lòng buồn thất vọng , nhưng cũng hiểu cho ông vì đàn vịt đó là sự sống của ông hằng ngày . Tôi đi tới , đi lui vài lần dọc theo bờ sông , sình , bùn , cỏ lác trộn lẫn những gốc tràm và nước ngập tới gối , tôi cố tìm chổ nào hẹp nhất để lội qua , nhưng dường như không khác chổ nào . Dòng sông nước chảy xiết rộng chừng gần 100 mét . Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ , giờ đụng phải con sông quá rộng , lúc này tôi ước gì lội được như thằng Sinh , thằng Mỹ 2 đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi chiều . Suy nghỉ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn , đã tới lúc tôi phải quyết định lội qua , bằng mọi giá phải rời xa khu tù cải tạo .
Nhớ lời thằng Sinh nói , điều quan trọng nhất là khi mệt phải thả ngữa , chân đạp nhẹ nhàn , đừng để vộp bẽ , khi đở mệt thì trở người qua lội tiếp . Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho mình để vượt qua con sông này .
Lấy hết bình tĩnh , tôi bắt đầu lội , lúc đầu còn khoẻ , thì lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét , nước sông chảy xiết , quá mệt tôi thả ngửa mặc cho dòng nước đẩy , hơi đỡ mệt tới phần lội nhái , cứ sải , ngửa , rồi nhái tới được giữa sông , thả ngửa nghỉ mệt .
Nghỉ tới vợ và đứa con gái còn chưa thấy mặt , nhưng dẩu sao vợ con tôi đã đến được bên bờ tự do , có biết tôi đang sắp chết đuối để đi tìm . Tiềm thức cũ , cứ lần lược tung ra trong lúc đó , có lẽ là dấu hiệu của những người sắp vĩnh viễn ra đi .
Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện « Anh Phải Sống » của Khái Hưng hai vợ chồng chèo xuồng ra giữa sông vớt củi , trời mưa , sóng lớn , rồi bị lật xuồng . Vợ chịu chết đuối , cho chồng sống nuôi 3 con « Thằng Bò , cái Bé , cái Lớn » . « Anh Phải Sống » không lẽ tôi bị chết chìm như người vợ trong câu truyện này .
Ý chí tôi trở nên mạnh hơn « Tôi phải sống để tìm Tự Do » . Trở người lại , tôi sải thêm một đoạn , rồi nhái , ngửa , liên tục hai ba lần thi sắp tới bờ bên kia ... Thả ngửa , nghỉ mệt lần cuối rồi lội thẳng vào bờ . Gần tới bờ tôi quá mệt , với nắm được cành tre nằm thòng đưa ra ngoài mé , mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ . Cành tre không chụi nổi sức nặng thân tôi , gãy kêu rôm rốp .
Nghe tiếng động , tôi chợt thấy 3 dáng người chạy thẳng vào hướng tôi . Vội vàng , tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn , rồi ngóc đầu quan sát . Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội , tôi mất hồn định lặn trốn xa , thì tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám .
Đã thấy anh rồi , đừng sợ , tui em trốn nghĩa vụ , không phải bộ đội .
- Nghe tiếng nói của người miền Nam , khi nhìn thấy tụi nó trẻ , chắc là nói thật . Tôi liều mạng lội ra bò lên bờ . Ba thanh niên dẫn tôi tới căn chòi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn .
- Anh làm gì ở đây ?
- Đi vượt biên ghe anh bị bắt ngoài cửa biển , bị Công An giải giao về huyện Cần Giờ , khi chạy tới đây anh nhảy trốn .
- Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua nhưng không nghĩ là ghe bị bắt .
Thanh niên ngồi đối diện tôi nói :
- Anh này gan thiệt , anh có biết đây là « Đặc Khu Rừng Sát » nổi tiếng cá sấu trên con sông này không ? Tuần vừa rồi có đàn trâu lội ngang sông , có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một giò .
Tôi trố mắt hỏi lại « thiệt hôn » vậy mà từ tối qua tới giờ anh cứ lên xuống nước liền liền , có biết đâu mà sợ . Quả thật là số tôi vẫn còn may mắn đúng là điếc không sợ súng , nghĩ lại rùng mình . Hồi lúc nhỏ khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về « Đặc Khu Rừng Sát » này , nhưng không nghĩ đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này , rất lý tưởng cho VC dễ dàng bị phục kích .
Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột , tôi quá đói không mắc cở để mở lời .
- Cho anh xin nửa chén cơm được hôn .
- Được , người ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một chén cơm nguội .

Tôi đớp ngon lành , cắn hột muối mà tưởng như cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt , cảm giác này chưa có trong đời . Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện , tụi em ở đây từ bao lâu rồi ?
- Hơn 6 tháng
- Có về thành phố chơi không ? Nhà ở đâu ? Tôi hỏi
- Thỉnh thoảng nhớ nhà , ra cửa sông lớn có giang ghe vê nhà bè , trốn về chơi vài ngày rồi trở lại .
- Anh muốn về cầu Rạch Ong thì làm sao đi ?
Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói :
- Cách đây không xa lắm , tụi em biết có một bà nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu , nhưng lâu lâu bà ấy mới về . Tụi em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ , may ra bà ấy về sớm .
Nói chuyện với 3 đứa thanh niên trẻ , tôi tìm hiểu để rõ thêm khu vực này . Gần 10 giờ sáng , 3 đứa dẫn tôi đi , qua những đoạn rừng tràm , lên đê , xuống ruộng , rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số , tôi nhìn thấy xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ , và căn chòi nhỏ mập mờ . Tôi hỏi có phải căn chòi đó không ?
- Đúng rồi , tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về .
- Cám ơn mấy em nhiều lắm . Nếu không gặp tụi em thì anh biết ai mà nhờ , làm sao anh biết được khu vực này .

Tới khúc đê quẹo vào trong chòi , 2 đứa đứng lại còn một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi :
- Dì Tư , có anh nầy muốn quá giang về cầu Rạch Ong khi nào Dì về giúp dùm .
Tôi trình bày sơ qua cây chuyện vượt biên của tôi cho Dì Tư rõ .
Rồi thanh niên quay lại chào tôi « Thôi em về » . Sau khi mấy thanh niên vừa khuất cua quẹo căn chòi . .
Dì Tư nhìn tôi rồi nói với giọng hốt hoảng :
- Thôi chết tôi rồi cậu ơi , 3 đứa đó là điềm chỉ viên của Công An thôn này . Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi , rồi đi báo Công An để bắt luôn tôi . Thôi cậu đi tìm chỗ khác đi , tôi sợ lắm .
Biết đâu mà đi bây giờ , cả khu vực này chỉ thấy có căn chòi một , tôi tiếp tục năn nỉ dì . Thấy tôi năn nỉ quá , Dì Tư xiêu lòng :
- Thôi được , tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa , và bây giờ thì cậu không được ở trong chòi mà phải ra bờ rừng mà ở khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu và cũng an toàn cho tôi .
Rồi Dì Tư chỉ hướng trước mặt chòi là khu Rừng Chàm dầy đặt cách đó độ vài trăm thước , tôi nghe dì nói cũng có lý nên nghe theo ; hơn nữa cũng không còn cách khác . Có người nhận giúp lúc này là vô cùng ơn phước lớn . Tôi vội vàng cám ơn Dì Tư rồi đi tiến về rừng . Đi gần tới đám Rừng Chàm tôi nghe tiếng động rào rào dưới mặt đất phía trước mặt , đưa mắt nhìn xuống tôi thấy hàng ngàn con còng đỏ chạy chui vào hang lẫn trốn khi nghe tiếng động của chân tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô .
Vào bờ rừng chừng năm ba thước , tôi lựa chổ mát nhất trong đám tràm khô , nằm kê đầu vào nhánh rể lớn . Mệt lã , tôi nằm yên thiêm thiếp , tưởng là xác chết , một đám còng bò ùa ra cấu xé tay chân tôi . Tôi vùng dậy đám còng văng ra tứ phía , tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không là xác chết . Khi thiếp đi thì chúng nó lại xông vào cắn tiếp , chẳng ngủ yên được với đám còng đỏ này .
Cả đêm ngâm nước , giờ thì trời nắng chang chang trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt , lạnh run cầm cập giữa buổi trưa , nhắm mắt nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh . Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ , tôi mở mắt nhìn lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn mình bò xuống . Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhích , để mặc con rắn cắn hay mổ gì cũng được . Con rắn lớn bò qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác .
Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng , tôi nghĩ lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa . Chịu hết nổi cơn sốt tôi đi liều trở vào chòi . Dì Tư thấy tôi vào vội hỏi :
- Cậu vào đây làm gì ? Đã nói cậu phải ở ngoài rừng .
- Cháu bị sốt lạnh , ngoài đó nắng quá chịu không nổi , rồi tôi tiếp tục năn nỉ Dì Tư .

Suy nghĩ một hồi rồi Dì Tư nói :
- Tôi có thể giúp , đưa cậu tới xã Lý Nhơn , rồi từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5 , 7 cây số , qua phà , rồi đón xe về cầu Rạch Ong , nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng .
- Cháu trong mình còn vỏn vẹn 80 đồng , vừa nói tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa dì hết 80 đồng . Dì Tư cầm lấy nhưng không hài lòng lắm , thấy mắt nhìn chiếc nhẫn cưới vàng 18 K tôi đang đeo trên ngón tay áp út , hiểu ý Dì Tư tôi tuột nhẫn ra đưa . Ngay sau đó , thái độ dì đổi khác .
- Thôi được , để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe đưa cậu về xã Lý Nhơn . Nhưng nè nghe tôi dặn . Khi tới xã , đi xuyên qua rồi cập trên đê mà đi qua phà chỉ tốn 3 đồng , đón xe về Rạch Ong 5 đồng là 8 . Đây tôi cho lại cậu .
Dì Tư cho tôi lại đúng 8 đồng , tôi vội vàng cám ơn Dì .
Hai thằng con tuổi chạc 13 , 15 đã chuẩn bi xuồng xong , rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ . Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá , cùng đống lá chuối bên cạnh xuồng . Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng , thì hai đứa nhỏ nói :
- Anh nằm xuống đi , để tụi em phủ lên người lớp lá chuối , để ra ngoài kia Công An không để ý , tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối .
Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ , rồi nó phủ lên người mình mười mấy tấm lá chuối tươi .
Thằng anh chèo mũi , đứa em chèo lái . Chiếc xuồng nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác , hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh nhỏ trong khu rừng sát . Khi ra tới cửa con sông lớn , chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp sóng đi chậm dần , thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp , giá tôi còn tiền cũng đưa hết cho hai em . Thỉnh thoảng tôi ngóc đầu lên nhìn xem còn bao lâu nữa .
Thằng em sau mũi nói :
- Đã hơn nửa đường , còn gần một tiếng nữa mới tới xã Lý Nhơn .
- Tụi em có thường chèo ra khu vực này không ? tôi hỏi chuyện
- Thỉnh thoảng qua đây bán cá tiện đường về thành phố mua nhưng món đồ cần thiết .
- Tụi em chèo xuồng có mệt không ?
- Quen rồi ngày nào mà không chèo , giăng câu , đi chợ , chèo về nhà mỗi tuần còn xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi .
Trò chuyện với hai đứa nhỏ một hồi thì xuồng đã tới xã Lý Nhơn .
Hai đứa nhỏ nói :
- Anh ngồi dậy đi tới nơi rồi đó .
Tôi chỉ nó cho tôi xuống chỗ tôi đỗ Cát hai tuần trước đó . Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi . Trước khi xuống hai em căn dặn :
- Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5 , 7 cây số sẽ gặp bến phà , qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi .
- Cám ơn hai đứa em nhiều lắm , thôi hai đứa trở về nhà đi .

Lúc này đã hơn 4 giờ chiều , trong túi được Dì Tư cho lại 8 đồng , cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe . Bước đi trên đê có một mình đơn độc , về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi , quần sọt , áo thun , đi chân không như người làm ruộng , phóng đi thật lẹ , được vài cây số vẫn không thấy bóng người . Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi , được vài cây số nữa thì từ xa tôi nhìn thấy được một dãy nhà , thật mừng rỡ có lẽ là tới bến phà . Khi đến gần thì quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng . Quả thật Dì Tư nói đúng . Trả 3 đồng qua sông là tới Nhà Bè , tới bến xe Lam về cầu Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng . Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài , khi nhìn tôi lạ ông tài xế hỏi :
- Đi đâu mà chân không , quần xà lỏn , áo thun vậy ?
- Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xã Lý Nhơn , tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy . Thấy có lý bác tài không hỏi nữa . Khi xe chạy đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống . Hết tiền , tôi liều quắc đại Honda ôm kêu chở thẳng về Ngã Sáu chỗ nhà bạn thân của thằng em , là một trong những nơi tôi thường tá túc . Về tới nhà cũng may , tôi xin được 10 đồng đem trả tiền xe .

Tá túc một đêm , sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng về Rạch Kiến , Long An , quê chồng bà chị Hai tôi , trú ẩn . Nơi đây , với tôi coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí , khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp .
Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi là tôi vẫn còn mạng sống . Vượt biên quả thật là không đơn giản . Sau này khi trở lại Sài Gòn để tìm đương vượt biển chuyến thứ 3 . Mới vỡ lẽ cũng vì lòng chủ tham nên chuyến thứ 2 của tôi hoàn toàn thất bại .
Văn viết không hay , hơn 32 năm đã bao lần tôi định viết lại chuyến trốn tù , để cháu con tôi hay đời sau được biết , nguồn gốc ở đâu và vì sao chúng được tới nơi này .
Nhờ Lý Khải Bình cho tôi dịp gặp đuợc 2 NT trong buổi tiệc tân gia . Cám ơn NT Tô Văn Cấp , NT Phan Nhật Nam đã khuyến khích tôi cứ viết lên những gì tôi nghĩ , nên đã hoàn thành xong câu chuyện trốn tù . Và đây chuyến thứ 2 là đề tài vượt biển .
Chuyến trốn thứ 3 của đời tôi vô cùng ngoạn mục , cũng là chuyến cuối cùng tôi giã biệt địa ngục XHCNVN .
MX Trần Văn Khoẻ - San Jose 25/03/2012
  Nguồn:http://hcsvvdhdalat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1237:ltavb&catid=29:the-cms&Itemid=75


HCSVVDHD - HànhTrìnhTìmTựDo

Vượt Biên Đường Bộ
Huyên Chương Quý , C/N 2012/02

Tác giả Huyên Chương Quý nhận giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ 2009 và hình bìa sách mới . Trân trọng giới thiệu sách Khát Vọng Tự Do của Huyên Chương Quý với thân hữu Viết Về Nước Mỹ . Mua sách , xin liên lạc tác giả , Khai Huy , Địa chỉ : 1250 S Euclid St # I - 350 Anaheim , CA 92802 , USA . Giá sách : 17 Mỹ kim ( Thêm cước phí $2 trong nước Mỹ , $5 ngoài nước Mỹ )
Tác giả Huyên Chương Quý , tên thật là Khải Huy , giải thưởng Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2009 , vừa báo tin vui : đã hoàn tất việc xuất bản tác phẩm đầu tay . Tập Truyện « Khát Vọng Tự Do » . Sách hiện đã sẵn sàng gửi tới bạn đọc , và sẽ chính thức ra mắt trong tháng 10 sắp tới .
Là một sinh viên Sài Gòn , sau tháng 04/1975 , tác giả từng bị chế độ cộng sản xua đi làm « nghĩa vụ quân sự » tại chiến trường Kam Pu Chia . Cuối năm 1980 , Quýmột mình vượt biên đường bộ , qua biên giới Thái Lan , hai lần vượt ngục khi bị quân của Khờ Me Đỏ và sau đó là Khờ Me Tự Do bắt giam , định cư tại Mỹ từ 1982 . Hồi ký sau đây trích từ sách Khát Vọng Tự Do , kể lại những gian nan của người vượt biên đường bộ , từng chứng kiến thảm cảnh người vượt biên bị quân Khờ Me Đỏ cướp bóc , hãm hiếp , tàn sát .
* * *
Vượt Biên Giới
Nước Thái ở hướng Tây Campuchia . Khi mới vào rừng , tôi cứ nhắm hướng Tây đi tới , gần gần con đường mòn , để tránh bị lạc hướng . Lần lần , có nhiều cây rừng rậm rạp che khuất , hoặc nhiều vũng bùn lầy rộng chắn lối , tôi phải đi vòng đến những nơi thưa cây nên xa dần đường mòn , bị lạc luôn trong rừng .

Trời không trăng . Trong đêm tối , tôi phải vẹt cây gai , cây dại dầy đặc nên tốc độ đi rất chậm . Thời khắc trôi qua theo từng bước chân , tôi chẳng biết đi được bao xa rồi . Nếu muốn quay về cũng không biết đi theo hướng nào . Thôi , cứ bước tới . Tối nay tìm chỗ ngủ sớm , đợi ngày mai xem mặt trời , sẽ dễ định ra hướng Tây .

Rán đi tiếng nữa , bụng cồn cào . Tôi chợt nhớ từ xế chiều đến giờ chưa ăn gì . Nhịn đói thôi . Mai tìm trái cây rừng để ăn . Đến một vũng nước , tôi vốc nước uống đầy bụng rồi đi tiếp . Hai năm trước theo đơn vị hành quân , vài lần đóng quân trong rừng , nhưng có đồng đội chung quanh , nên không có gì sợ hay buồn . Bây giờ , một mình trơ trọi , chung quanh là màn đêm thăm thẳm , tôi thấy sợ sợ . Thêm cái cảm giác thật cô đơn , buồn bã khi nhìn lại mình như một bóng ma trơi trong rừng đêm . Thấm mệt rồi , nhịn đói ngủ thôi .

Tôi bứng nhiều bụi cỏ đem đến lót nơi một lùm cây rậm rạp . Tiết trời mùa đông ban đêm , lúc đi không thấy lạnh , nhưng khi nằm xuống cỏ , thấy lạnh kinh khủng . Chỉ mặc cái quần sọt và áo thun ngắn tay mỏng manh , nên cả người tôi run lên cầm cập . Tôi nằm co quắp người lại cố dỗ giấc ngủ . Cái lạnh , cái đói hành hạ , lại có nhiều tiếng ù u , ù u vang vang ở xa xa , và tiếng sột soạt của thú rừng đi ăn đêm , tôi không thể nhắm mắt .

Thao thức đến trời tờ mờ sáng , tôi ngủ luôn một giấc say sưa . Thức dậy , đã 12 giờ trưa . Nắng chang chang chói hai con mắt . Tội tìm vũng nước rửa mặt và vốc nước uống . Mặt trời ngay trên đỉnh đầu . Thế này , biết hướng nào là hướng Tây ?

Giải quyết cái đói trước đã . Tôi đi vòng vòng tìm trái cây rừng . Tìm cả tiếng vẫn không thấy một loại cây nào có trái . Mặt trời đã hơi nghiêng về phía Tây . Nhịn đói đi vậy . Tôi phải luồn lách qua nhiều khu cỏ gai , tránh những đám cây rậm , vòng qua những đầm nước rộng , nên có lúc phải rẽ sang Nam , lúc quẹo qua Bắc , rồi mới tiếp tục đi theo hướng Tây . Mệt thì ngồi nghỉ chút , thấy đói thì uống nước vũng cầm hơi . Đi sáu tiếng rồi vẫn không thấy biên giới Thái đâu .

Mặt trời dần tắt nắng . Bóng tối dần phủ xuống cả khu rừng . Tôi lại phải dò dẫm đi từng bước . Gai cào sước khắp tay , chân , đau buốt . Bao tử , ruột , gan muốn nát vụn vì sự cào cấu của cơn đói . Hai ngày rồi không ăn gì . Lần đầu tiên tôi mới thấm thía cái đói thật sự như thế nào . Thèm cho vào bụng bất cứ cái gì , dù là vỏ cây , lá cây hay cỏ dại để có thể qua được cơn đói . Tôi còn đủ lý trí không làm như vậy vì sợ bị trúng độc , sẽ ngã bệnh . Bệnh nặng trong cảnh một thân , một mình nơi rừng sâu lạnh lẽo thế này đồng nghĩa với cái chết . Sẽ bỏ xác trong rừng sâu không ai biết đến . Chỉ còn biết uống nước vũng dằn bụng . Rán đi thêm hai tiếng nữa , tôi lại bứng cỏ lót chổ nằm trong lùm cây rậm .

Vừa chợp mắt ngủ được một chút thì mưa gió trùm phủ khu rừng . Tôi ngồi dậy , co rúm người vì lạnh . Nước mưa tạt xối xả lên người . Tôi chui vào một bụi cây rậm nhất , vẫn không tránh được nước mưa . Người tôi run lên từng hồi như bị mắc kinh phong . Mưa càng lúc càng to . Gió rít liên hồi , cây rừng nghiêng ngả . Đến sáng , mưa bớt dần , không dứt hẳn .

Suốt đêm không ngủ , phải chịu đựng mưa gió , tôi mệt quá , nhưng cũng cố gắng lên đường . Đi loanh quanh suốt buổi trong trời mưa rỉ rả . Lại xui , đôi dép bị đứt quai . Đành đi chân không . Rừng thẳm âm u trong cảnh trời tù mù không thấy mặt trời kéo dài năm ngày liền . Tôi không phân biệt được phương hướng , cứ đi lòng vòng mãi . Chỉ thấy rừng tiếp nối rừng . Đi chân không trong rừng là cả một cực hình . Hai chân chảy máu , bắt đầu sưng lên . Tôi đi cà nhắc từng bước một .
Nhịn ăn bảy ngày rồi . Bao tử đã tê liệt nên tôi không còn cảm giác biết đói nữa . Nước vũng kéo dài sinh mạng tôi . Thân xác rã rời , nhiều khi ngất xỉu , không biết bao lâu , tỉnh dậy lại loang choạng bước đi . Tôi không còn ý thức ngày và đêm nữa , có lúc cảm thấy tuyệt vọng lắm . Quý ơi ! Mày không thể chết lặng lẽ trong rừng sâu thế này . Phải sống , phải tiến tới để tìm được bến bờ tự do . Tôi quỳ xuống khấn nguyện Ơn Trên thiêng liêng phù hộ cho tôi vượt thoát khu rừng . Với ý chí sinh tồn mạnh mẽ , cùng với niềm tin có Ơn Trên cứu độ , tôi cứ cà nhắc từng bước đi tới .

Mưa đã dứt hẳn . Tôi có được một đêm ngủ thật say đến 2 giờ trưa hôm sau . Có sức lực , thêm trời nắng tốt và mặt trời chỉ hướng Tây , tôi lần ra được dấu vết xe bò hằn trên cỏ . Đi theo đường xe bò bốn tiếng , rừng thưa dần , và trước mặt tôi là một khu vườn chuối . Đã ra khỏi rừng .

Tính ra , tôi bị lạc trong rừng tám ngày , đêm . « Được sống rồi ... Được sống rồi ! » Tiếng reo to của tôi đem đến sự hiểm nguy . Hai tên lính Polpot không biết từ đâu lù lù hiện ra . Tôi bị chúng chỉa súng đưa đến một căn lều tranh lụp xụp trong vườn chuối . Lúc đó , có sáu người vượt biên khác cũng đang bị một toán lính Polpot dẫn tới . Chúng tôi bảy người , bốn đàn ông và ba phụ nữ trẻ đẹp bị chúng bắt cởi hết quần áo . Hai tên đứng chĩa súng , bốn tên lục các quần áo tìm vàng , bạc . Còn ba tên lần lượt khám xét từng người chúng tôi để lấy nữ trang , đồng hồ . Tôi chỉ có cái đồng hồ đeo tay bị chúng lột ngay . Ba người phụ nữ bị hai tên lính vừa khám xét lấy nữ trang vừa mò mẫm khắp chổ kín . Lục xét xong , chúng cho bốn đàn ông được mặc đồ lại và ngồi xuống một góc nhà , còn ba phụ nữ vẫn bị bắt đứng trần truồng như nhộng trước mắt mọi người .

Trời chạng vạng , bọn lính Polpot tụm lại ăn cơm . Họ không cho chúng tôi ăn uống gì . Cơm nước xong , ba tên cầm súng ra đứng canh trước cửa , sáu tên còn lại trong nhà kéo ba cô gái nằm xuống đất để thoả mãn dục vọng . Các cô dẫy dụa , la hét , van xin . Nghe tiếng nói , tôi nhận ra hai cô người Việt , một cô người Tàu .

Mặc cho các cô kêu gào , khóc lóc thảm thiết , chúng vẫn tiếp tục hành vi cầm thú . Một anh trong nhóm ba đàn ông bị bắt chung bổng hét lên « ĐM ... Tao liều chết với tụi mày » rồi nhảy vào kéo bật hai tên lính Miên ra khỏi thân thể trần truồng của hai cô gái Việt . Một người đàn ông Việt khác cũng nhảy ào tới giúp sức cho anh . Có lẽ hai anh là người thân của hai cô gái . Cả ba , bốn tên lính Miên cùng nhào vào đấm , đá túi bụi hai anh . Sự uất ức biến thành sức mạnh , hai anh can đảm chống đỡ và đánh trả lại . Thấy cảnh hổn chiến kéo dài , một tên lính Miên cầm súng gác ở cửa chạy vào dùng báng súng nện liên tục lên đầu một anh . Máu trên đầu anh tuôn xối xả ; anh ngã lăn kềnh ra mặt đất , nằm bất động . Tiếp theo là hai , ba tiếng súng nổ . Anh thứ hai bị trúng đạn cũng đổ nhào cả thân người xuống đất . Tên lính Miên còn điên cuồng dí họng súng gần mặt xác chết bắn thêm vài phát nữa . Bấy giờ , tôi đã ngồi thụp xuống ở xó lều . Thừa lúc lộn xộn đó , trong màn đêm bao phủ , tôi từ từ bò ra vườn chuối . Khi bò khá xa căn lều tranh , tôi đứng dậy đi cà nhắc theo đường xe bò . Nhiều tiếng súng nổ sau lưng . Với lòng cầu sống , dù chân bị sưng , tôi vẫn chạy thục mạng , nhanh như gió . Không biết bao lâu , đuối sức , tôi nằm ngã ra trên một bãi cỏ . Máu chảy dầm dề ở hai bàn chân , nhức nhối không tả xiết .

Trời tối đen . Chung quanh yên tĩnh . Giờ này cũng khuya . Tôi cố gắng vẹt cỏ tranh bò tới . Đường xe bò được tiếp nối bằng một con đường đất khá rộng . Tiếp tục bò theo con đường đất , khoảng tiếng sau , trước mắt tôi hiện ra một bờ hào cao , dài tít tắp , có bóng người lính cầm súng đứng trên một vọng gác . Tôi đoán đây là biên giới Thái . Lòng mừng rỡ như được thấy cha mẹ sống lại , tôi chậm chạp bò đến gần bờ hào . Nhờ trời tối , lính Thái không nhìn thấy , tôi vượt qua biên giới Thái dễ dàng . Con đường dẫn đến bến bờ tự do đang thênh thang phía trước . Tôi không ngờ ... vẫn còn nhiều hiểm nguy đang chờ đón tôi !
Vướng Cảnh Lao Tù
Qua khỏi biên giới , trước mắt tôi là đường lộ nhựa . Quên hẳn cơn đau của hai bàn chân , tôi đứng dậy đi tới . Khoảng 30 phút sau , thấy có nhiều ánh đèn leo lét trong những ngôi nhà ở xa xa hai bên đường , tôi đoán là nhà dân nên quẹo vô một lối mòn , đi đến khu nhà bên trái . Tôi vào trúng một căn nhà bếp , có sẵn cơm , thức ăn trong vài cái nồi trên bếp . Đã nhịn đói suốt tám ngày , nên quên chuyện phải xin phép chủ nhà , tôi vội lấy dĩa , muỗng bới cơm , lấy thức ăn . Trong lúc vội vàng , tôi làm rớt cái nắp nồi gây nên tiếng động lớn trong đêm . Có tiếng người chạy đến . Tôi nhảy ngay xuống đường mương sau bếp . Vài phút sau , một họng súng M16 chỉa xuống đầu tôi . Thì ra đây là trại lính Thái . Tôi bị bắt , đưa vào một ngôi nhà rộng . Tôi nói bằng tiếng Anh là tôi đói bụng lắm , họ lấy cho tôi dĩa cơm với trứng chiên . Tôi ăn ngấu nghiến thoáng cái đã sạch dĩa . Vừa ăn xong , tôi bị một anh lính Thái chỉa súng lục vào đầu , tra khảo :
- Are you vi xi ? ( VC )

Hiểu họ đoán tôi là bộ đội Việt cộng , tôi vội trả lời :

- No vi xi . I am student from Saigon .
- Why you coming here ?
- I’m looking for freedom . I just want to go to America

Anh lính Thái gằn giọng :
- I don t believe . You are vi xi .

Ngay sau câu nói là anh đấm vào mặt tôi , và hét lớn :
- You , vi xi . , vi xi .

Tôi cũng hét lên :
- No ! I am not a vi xi .

Người lính Thái càng tức giận , đấm , đá tôi liên tục , còn lấy súng lục nện vào đầu tôi . Vừa khi thấy máu đầu chảy xuống lênh láng trên mặt , trên áo thì tôi ngất xỉu . Sáng tỉnh dậy , đã thấy một người lính Thái già đứng trước mặt . Ông nói tiếng Việt :
- Tôi là Trung Tá , tư lệnh ở đây . Sao em bị đánh như vầy ?

Tôi mếu máo :
- Dạ . Họ nói em là Việt cộng nên đánh em . Em là sinh viên ở Sài Gòn đi tìm tự do .

Vừa nói , tôi vừa lấy ra bọc ni long có vài hình ảnh người thân và thẻ sinh viên đưa cho ông , nói tiếp :
- Ông xem giùm , em là sinh viên trường đại học Văn khoa . Em vượt biên qua đây để xin đi Mỹ .

Ông Trung Tá Thái xem qua giấy tờ , gật đầu :
- Được rồi . Em chờ đây , chút có xe đến chở em vào trại tỵ nạn . Hồi trước tôi có tham chiến tại miền Nam Việt Nam . Tôi có vợ Việt ở Gia Định . Em an tâm nhé .

Mừng quá , tôi yên trí ngồi chờ . Khoảng nửa tiếng sau , xe đến chở tôi đi , nhưng không chở đi trại tỵ nạn mà chở đến Ty công an A Ran . Công an Thái tịch thu hết giấy tờ , hình ảnh trong bọc ni long của tôi và tống tôi vào nhà tù .

Sau ba ngày giam giữ , họ chở tôi vào trại lính Khmer Tự do ở trên phần đất Campuchia sát biên giới Thái . Tôi cứ đinh ninh đây là thủ tục phải như vậy trước khi được cho vào trại tỵ nạn . Ngờ đâu , lính Khmer Tự do đem nhốt tôi vào một cái chuồng gỗ thấp lè tè , phải khom khom người khi xê dịch . Trong chuồng gỗ đã có hai thanh niên người Việt gốc Hoa . Một người có vẻ lớn tuổi hơn cho biết họ là anh em ruột , ở Chợ Lớn , bị bắt nhốt vào đây nửa tháng rồi .

Hàng ngày , chúng tôi bị lính Khmer Tự do bắt đi lao động , đào hầm , hố , đốn cây , chẻ củi . Họ cho chúng tôi ăn ngày hai bửa cơm trắng với muối . Mỗi cuối tuần được ăn một bửa cơm với cá hộp . Tôi lo lắng , không biết phải chịu đựng kiếp lao tù này đến lúc nào ? !

Một buổi trưa , sau khi đào xong cái mương , được cho ngồi nghỉ , tôi hỏi một anh lính Khmer Tự do biết tiếng Việt :

- Anh có biết chúng tôi chừng nào được cho vào trại tỵ nạn không ?
- Không biết nữa . Khi nào « ông lớn » thấy vui thì thả các anh .

Tôi than thở :

- Tôi bị nhốt ở đây gần tháng rồi . Biết chừng nào « ông lớn » vui đây ? Anh có thể thả tôi đi không ?
- Đâu được . Anh muốn tôi bị nhốt như anh hở ? Ông lớn nghiêm lắm .

Tôi hỏi dò :

- Hình như trại tỵ nạn ở gần đây phải không anh ?
- Ừa . Có trại tỵ nạn NW9 cách đây hai cây số .

Tôi chỉ ra hướng con đường ở xa xa ngoài trại lính , hỏi :

- Thỉnh thoảng tôi thấy có xe Jeep cắm cờ thập tự đỏ chạy ngang . Họ là ai vậy ?
- Là Hồng thập tự Quốc tế . Họ lo cho dân tỵ nạn trại NW9 , và cũng thường cung cấp gạo cho trại lính chúng tôi để đổi lấy người tỵ nạn bị « ông lớn » bắt giữ .
- Vậy sao « ông lớn » các anh không trao đổi chúng tôi ?
- Thì vừa rồi tôi có nói , khi nào « ông lớn » vui sẽ trao đổi các anh để lấy gạo .

Được anh nói chuyện cởi mở , tôi hỏi thêm :

- Các anh có phải lính của chế độ Lonnol không ?
- Phải , nhưng bây giờ là lực lương Khmer Tự do của tướng Sonsann .
- Tôi cũng có người anh rễ phục vụ trong chế độ Lonnol từ năm 1970 . Anh rễ tôi tên Thạch Vọng , cấp bực sau cùng là thiếu tá .

Anh lính Miên ngạc nhiên :
- Hả ? Thiếu tá Thạch Vọng hả ? Phải ổng có vợ người Việt không ? Bả tên Mùi , có hai con trai .

Tôi muốn hét lên , nhưng kịp ngăn lại , nói trong xúc động :

- Đúng rồi . Đúng rồi ... Anh chị của tôi đó . Rồi tôi hỏi dồn dập :
- Anh quen với ảnh chỉ hở ? Bây giờ ảnh chỉ ở đâu ? Có ở đây không ?

Người lính Miên lắc đầu :
- Chết hết rồi . Khi Polpot vào Nam Vang , đơn vị do ông Vọng chỉ huy rút vào rừng kháng chiến , đóng trại gần biên giới Thái . Được một thời gian , lính Polpot tấn công vào trại , tiêu diệt tất cả . Ông bà thiếu tá Vọng và hai con trai đều bị chúng giết .
ôi sững sờ trước cái tin buồn bất ngờ này . Niềm hy vọng có ngày anh chị em được trùng phùng đã tan thành mây khói ! Tôi bật khóc nức nở .

Tối hôm đó , tôi không ngủ được . Hình ảnh chị Mùi , anh Vọng và hai cháu cứ chập chờn trong đầu tôi . Vậy là hết , anh Phùng , anh Thiện , em Hỷ đã mất vì đất nước , bây giờ thêm tin chị Mùi chết thảm cùng với gia đình , tôi thật sự không còn người thân ruột thịt nào nữa ở trên đời !

Biết được ngoài trại có xe Hồng thập tự thường chạy ngang qua , tôi lập kế hoạch trốn thoát . Sau hơn một tháng bị nhốt , lao động khổ sai , tôi không thể chờ đợi thêm cái ngày được « ông lớn » của trại Khmer Tự do này vui vẻ tha cho .

Một buổi chiều , sau giờ lao động gần con đường lớn ngoài trại , tôi giả vờ đau bụng và xin phép người lính Miên cho tôi đi giải quyết . Người lính Miên đứng chờ . Tôi chui vào một lùm cây rậm . Khi thấy người lính Miên châm thuốc hút và lơ đãng nhìn đi nơi khác , tôi vụt chạy ào ào một quãng xa rồi phóng ra khỏi hàng rào trại . Vài tiếng súng nổ ở phía sau , nhưng tôi đã chạy tới đường lớn cách trại khoảng trăm mét . May mắn thay , từ xa có xe Jeep cắm cờ Hồng thập tự chạy tới . Tôi đứng giữa đường , giơ hai tay lên . Xe ngừng lại trước mặt tôi . Hai người Mỹ xuống xe hỏi :
- Are you Vietnamese ?

Tôi mau mắn trả lời :

- Yes ! I am Vietnamese . I came from Saigon . I looking for freedom . Please help me .
- OK ! We help you .

Tôi mừng rỡ như chết đi sống lại , nhảy lên xe Jeep . Nghe tôi khai bị đói , lạnh trong rừng suốt tám ngày đêm , Hồng thập tự chở tôi vào một bệnh viện dã chiến trong vùng Khmer Tự do , nằm dưỡng bệnh ba ngày . Tôi được cho uống thuốc , ăn cháo và các trái cây bổ dưỡng . Đươc sự che chở và chăm sóc của Hồng thập tự , tôi đã thật sự hồi sinh , nhìn thấy trước mắt một tương lai tươi sáng . Tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng và Ông Bà , Cha Mẹ , Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi được chuyển nguy thành an .

Sau khi khoẻ mạnh , tôi được Hồng thập tự chở vào trại tỵ nạn NW9 . Bấy giờ là giữa tháng 01/1981 . Tôi mừng rơi nước mắt . Cảm ơn Hồng thập tự Quốc tế . Cảm ơn những tấm lòng nhân ái của nhân viên Hồng thập tự và Cao uỷ Liên hiệp quốc .
Trại Tỵ Nạn
Trại NW9 là trại tỵ nạn dành cho người vượt biên đường bộ . Trại nằm trên lãnh thổ Campuchia nhưng ở sát bờ hào biên giới Thái . Một cây cầu nhỏ bắc ngang từ bờ hào biên giới qua đến cổng trại . Hàng ngày , nhân viên Hồng thập tự từ bên đất Thái chỉ bước vài bước trên cầu nhỏ này là vào trại để làm việc . Ngày đầu được vào trại , lòng rộn ràng vui sướng , tôi hớn hở nhìn những người tỵ nạn khác đang tập trung ở gần văn phòng trại xem bảng niêm yết tin tức hay thư từ . Đồng bào Việt Nam tôi đây . Tôi có cảm giác thân thiết với tất cả mọi người , luôn miệng cười với người này , người nọ . Tôi được xếp cho một chổ ngủ trong một dãy lều dài thuộc khu dân sự . Vài hôm sau , được vài thanh niên cho biết , nếu là bộ đội Việt cộng tỵ nạn chính trị sẽ được cứu xét cho đi Mỹ nhanh hơn . Tôi lên văn phòng khai mình đã từng là bộ đội , được chuyển ngay qua một dãy lều trong khu bộ đội . Tất cả bộ đội nơi đây đều từ các đơn vị Việt cộng ở gần biên giới đào ngũ chạy qua Thái .
Dân tỵ nạn trong trại sinh hoạt rất vui vẻ . Dù việc ăn uống có hơi thiếu thốn , nhất là nước , mỗi người chỉ được bốn lít mỗi ngày để uống và tắm rửa , nhưng ai ai
trong trại cũng được yên ổn sống qua ngày . Vài ba tối thì có nhiều người tụ tập liên hoan đưa tiễn người được xuất trại . Chỉ với nước trà và bánh , kẹo đơn sơ , họ mời nhau và đàn ca , nhảy nhót với nhau thật vô tư . Họ an tâm từ nay không còn phải sống với cộng sản nữa . Qua những buổi liên hoan đó , tôi quen thân với một người bạn tên Khúc duy Viễn , cũng là bộ đội tỵ nạn chính trị .

Tôi viết thư thăm anh chị Hải Vân và các bạn thân ở thương xá Rex như Phuợng , Đức , Minh ... Một tháng sau , nhận được thư anh Vân và các bạn , tôi nhảy tưng tưng . Ở trại tỵ nạn , người ta rất khát khao thư từ người thân . Nhận được thư là người ta vui lắm . Vui nhất là những người có thân nhân ở các nước tự do gửi cho tiền . Nhờ đọc báo Văn nghệ tiền phong , tôi liên lạc được một hội thiện nguyện ở bang Kansas , xin hội làm hồ sơ bảo lãnh . Tháng rưởi sau , tôi nhận được giấy tờ bảo lãnh của bà hội trưởng Mai Liên . Nhờ có hồ sơ bảo lãnh này , sau bốn tháng ở trại NW9 , tôi được chuyển đến trại Sikiu , cũng là trại tỵ nạn đường bộ nhưng ở sâu trong đất Thái .

Trại Sikiu được chia thành hai khu . Khu gia đình và phụ nữ ở chung . Khu khác dành cho thanh niên độc thân , có hai building giống như nhà tù , bị cách biệt với khu gia đình bằng một vòng rào kẻm gai cao lút đầu . Building 1 gồm nhiều thanh niên ở trại trên một năm vì không có thân nhân bảo lãnh , là building nhà giàu , có bàn đánh ping pong và ai cũng có máy hát nghe nhạc , tiền bạc tiêu xài rủng rỉnh . Đời sống họ sung túc trong hoàn cảnh tỵ nạn nhờ họ , ai cũng giả tên con gái đăng báo Văn nghệ tiền phong , mục tìm bạn bốn phương , dụ dỗ đàn ông độc thân ở Mỹ gửi tiền , quà cho họ . Tên cô « đực rựa » nào cũng đẹp : Hồng Ngọc , Thu Thảo v . v ... Rồi họ gửi hình của thiếu nữ xinh đẹp nào đó mà họ có được , làm cánh đàn ông ở Mỹ chết mê , chết mệt . Thời đó , đàn ông độc thân bên Mỹ chịu cảnh khan hiếm đàn bà , khao khát tình cảm lắm , nên dốc túi gửi tiền và quà lia chia cho các cô bạn « đực rựa » này , hy vọng sẽ bảo lãnh được một cô vợ đẹp như tiên .

Building 2 là building nhà nghèo gồm những bộ đội tỵ nạn chính trị mới đến như tôi . Đa số là dân bộ đội có gốc rễ ở Sài Gòn hay miền Tây , trong hoàn cảnh tỵ nạn nghèo rớt mùng tơi vẫn còn tánh ăn chơi . Hàng đêm các chàng ta tụ tập thành từng nhóm ca hát , ôm nhau nhảy đầm , rồi kết bè , kết đảng quánh lộn , thường bị an ninh trại kéo ra ngoài building đánh cho một trận . Tôi cứ an phận sống qua ngày tháng . Ban ngày thì lặng lẽ đi vòng vòng trong khu độc thân , nhìn cảnh sinh hoạt mua bán nơi cổng trại , hoặc trò chuyện với Viễn . Mỗi tối , tôi thui thủi một mình trên cái chiếu trải trên sàn nhà ở một góc building . Đi tìm đời sống tự do , không phải là tự do kết bè đảng để đánh người hay bị người đánh ! .

Hai tháng sau , tôi được phái đoàn Mỹ vào trại làm hồ sơ phỏng vấn , chụp hình . Thêm ba tháng rưởi nữa , tôi được chuyển đến trại Phanatnikhom . Được rời trại Sikiu , tôi mừng như người vừa ở tù ra .

Trại Phanatnikhom là trung tâm tỵ nạn lớn nhất ở Thái Lan , gồm người vượt biên từ các trại đường bộ và đường biển đã có hồ sơ bảo lãnh của thân nhân hay hội đoàn . Họ được chuyển đến đây để chờ được phái đoàn các nước thứ ba phỏng vấn chính thức , quyết định cho đi định cư hay không . Ở trung tâm này có đủ các sắc dân tỵ nạn : Việt , Miên , Lào . Vì quá đông nên trại không tổ chức phát cơm canh nấu sẵn cho người tỵ nạn , mà mỗi tuần phát thực phẩm cho từng tổ độc thân hay từng gia đình để tự nấu ăn . Tổ độc thân tôi có năm thanh niên . Cả tổ lãnh thực phẩm về rồi chia nhau ai muốn nấu ăn sao thì tuỳ . Sinh hoạt ở trung tâm vui nhộn như trong một thị trấn . Có chợ bán đủ loại hàng hoá và nhiều hàng quán bán thức ăn , thức uống như cơm dĩa , hủ tíu , cà phê , bánh mì , nước sinh tố ... Dân tỵ nạn có thân nhân gửi tiền thì tha hồ vui chơi , tiêu xài ở chợ và các hàng quán này . Phượng , Đức ở thương xá Rex giới thiệu tôi với người bạn của hai cô ở bang California tên Nguyễn ngọc Lưu . Tôi được Lưu gửi cho 50 dollars . Nhờ vậy , thỉnh thoảng tôi cũng vào quán phong lưu chút đỉnh sau gần một năm gian truân khổ ải trong hành trình viễn xứ .

Giữa tháng 11/1981 , tôi được phái đoàn INS Mỹ chính thức phỏng vấn và chấp thuận cho tôi đi Mỹ . Nhìn hai chữ OK của nhân viên INS phê vào hồ sơ , tôi mừng quá cỡ , cả người nhẹ hẫng như muốn bay lên trời .

Tình Đầu Đời Tỵ Nạn
Nỗi mừng được phái đoàn Mỹ chấp thuận chưa tiêu hoá xong thì qua hôm sau tôi lại có thêm một niềm vui khác không thể nào ngờ trước được . Tôi từ cửa phòng thư tín chen ra khỏi đám đông , vừa đi vài bước thì gặp một thiếu nữ đang đi tới . Cô mặc áo thun trắng ngắn tay bó sát thân mình và cái quần Jean xanh . Nhìn phục sức trẻ trung và khuôn mặt kiều diễm của cô , trông quen quá . Tôi ngẩn người nhìn cô một thoáng và bật reo lên :
- Trời ơi ... Diệu !

Cô gái ngỡ ngàng nhìn tôi rồi cũng reo lên :

- Anh Quý ! Sau tiếng reo là Diệu nhào tới quàng hai cánh tay qua hai vai tôi , ôm chặc lấy tôi và nói trong xúc động :
- Anh Quý . Em không ngờ được gặp anh ở đây .

Tôi cũng ôm chặt cô , lòng bồi hồi , vui sướng . Trong hoàn cảnh tỵ nạn xa xứ này lại được gặp cố nhân . Người con gái xinh đẹp ở Thị Nghè ngày nào có với tôi tình thân thiết , và một thời gian tôi đã nhớ nhung cô muốn phát điên vì ám ảnh nụ hôn đầu đời do cô chủ động ban cho . Buông nhau ra , tôi mời Diệu vào quán .
Chúng tôi ngồi sát bên nhau , vừa ăn uống vừa chuyện trò vui vẻ . Tôi nói :

- Từ sau tháng 04/1975 , không còn gặp Diệu , anh nhớ quá chừng .
- Sao anh không đến gặp em ?
- Ngay ngày 01/05 anh có đến tìm Diệu mà cả nhà Diệu đi vắng . Sau đó , phải lo toan đời sống mới nhiều khó khăn , anh không có dịp đến thăm em . Khoảng tháng 11/1975 , anh nhớ em quá nên đến nhà em ở xóm chợ Thị Nghè thì em đã dọn nhà đi đâu rồi . Thấm thoát đã năm năm rưởi rồi hở Diệu .
- Đời sống mới trong chế độ Việt cộng khó khăn thiệt . Bố em bị đi tù « cải tạo » . Mẹ bán nhà để lấy tiền nuôi Bố , nên dọn đến căn nhà nhỏ khác . Em sống đời con gái nhà nghèo , hết vui chơi phóng túng như trước .

Tôi nhìn Diệu mỉm cười :
- Đời sống con gái nhà nghèo mà Diệu vẫn đẹp . Bây giờ Diệu đẹp hơn xưa nhiều lắm .

Diệu cũng mỉm cười , không phủ nhận sắc đẹp của mình :
- Có đẹp hơn mà tình thì thiếu vắng ! ...

Sau câu nói , Diệu nhìn tôi với ánh mắt long lanh . Tôi muốn chìm sâu vào đôi mắt đẹp của Diệu . Sự rung động của cái tình nam nữ mà từ lâu tôi đã quên đối với Diệu bây giờ lại nổi lên mạnh mẽ trong tim tôi ...

Ăn uống xong , Diệu nói :
- Thôi , mình đi anh . Về chổ em chơi nhé . Gặp mẹ em luôn . Mẹ em cũng hay nhắc đến anh .

Ra tới đường , Diệu nhoẻn miệng cười nhìn tôi :
- Anh nắm tay em đi . Như hồi ở Thị Nghè vậy .

Tôi nắm lấy bàn tay mềm dịu , mịn màng của Diệu , lòng lâng lâng vui sướng . Trời buổi chiều mùa Đông se se lạnh . Diệu đi nép vào tôi như người tình bé bỏng . Diệu hỏi :

- Anh Quý đã có vợ chưa ?
- Đã ai yêu anh đâu mà có vợ .
- Vậy anh đi Úc với em nhé .
- Hôm qua , anh mới được INS phỏng vấn cho đi Mỹ .
- Tiếc quá ! Em cũng thích đi Mỹ lắm . Nhưng em có người chị ruột ở Úc , nên mẹ muốn đi Úc . Vài ngày nữa mẹ và em sẽ được phái đoàn Úc phỏng vấn .

Về tới chổ Diệu ở , dì Sáu , mẹ Diệu , cũng vui mừng khi bất ngờ gặp lại tôi . Nói chuyện một hồi , dì Sáu nói : « Hai con cứ nói chuyện đi , mẹ qua thăm bà bạn mới đến trại » . Khi dì Sáu đi rồi , Diệu kéo tấm màn che chổ ngủ của cô . Hai đứa tôi có khoảng không gian riêng tư để tâm tình . Tôi hỏi : -
- Còn bố đâu Diệu ?

Diệu buồn rầu trả lời :
- Bố em mất rồi . Bố chết rất thảm trên biển ...

Diệu lấy tay dụi đôi mắt vì xúc động rồi kể cho tôi nghe hành trình vượt biển của cô : « Bố em đi tù cải tạo về vài tháng thì cùng mẹ và em vượt biên . Thuyền em có 43 người , gồm đàn ông , phụ nữ và trẻ em . Đi được 6 ngày , tàu chết máy , lênh đênh trên biển . Rồi một tàu hải tặc Thái áp sát . Chúng 13 tên trang bị nhiều vũ khí nhảy sang tàu em . Chúng lục soát tất cả mọi người , cướp hết mọi thứ vàng , bạc , nữ trang . Sau đó , chúng lôi các cô trẻ đẹp ra để thoả mãn thú tính .
Em cũng ... » Diệu ngập ngừng không nói tiếp , rồi gục vào vai tôi . Tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra cho Diệu . Tôi xúc động nắm chặt bàn tay Diệu , im lặng . Vài phút trôi qua , Diệu kể tiếp « Bố thấy em bị làm nhục thì nhào tới chống cự , bị hai tên hải tặc túm đánh , lấy súng nện liên tục lên đầu bố rồi ném xác bố xuống biển . Sau khi thoả mãn , chúng về lại tàu rồi cho tàu húc lủng thuyền em . Nước tràn vào và thuyền lật . Em và mẹ mỗi người may mắn bám được một mảnh gỗ trôi vào bờ , được người Thái đưa vào trại Songkhla . Vào trại rồi em mới được gặp lại mẹ . Nghe mẹ nói , số người trên thuyền bị chết hết 23 người » .

Kể xong chuyện buồn , Diệu im lặng , mắt có ngấn lệ . Tôi không biết nói gì để an ủi Diệu , chỉ biết bóp nhẹ bàn tay Diệu , im lặng cảm thông . Một lát sau , bổng Diệu ôm ghì lấy tôi , đôi mắt lá răm tuyệt đẹp nhìn sâu vào mắt tôi như hớp hồn tôi , rồi hôn tôi say đắm . Lần thứ hai tôi được Diệu chủ động hôn . Nụ hôn lần này kéo dài càng ngọt lịm bờ môi , truyền dẫn vào người tôi cảm giác đê mê , ngây ngất . Không tự chủ được trước hương sắc và sự nồng nàn của Diệu , tôi cũng ôm chặt cô , say sưa hôn lại . Diệu thỏ thẻ ngọt ngào bên tai tôi :
- Anh Quý . Em đã yêu anh từ hồi còn ở Thị Nghè .

Tôi cảm động :
- Sao em không nói cho anh biết ?- Tại em thấy anh có vẻ không yêu em . Anh chỉ coi em như bạn . Anh có hỏi em , người em thật sự yêu là ai . Em không nói vì ... chính là anh đó .

Lòng xao xuyến , tôi nói với giọng run run :

- Anh cũng yêu em ... Chẳng qua hồi đó ... anh có nhiều mặc cảm ...
- Vậy bây giờ ... anh yêu em đi ...

Diệu vừa nói với giọng nhiều cảm xúc vừa quàng hai cánh tay trắng nõn nà quanh cổ tôi , kéo tôi cùng nằm xuống ... Từ hôm đó , tôi luôn khăng khít bên Diệu .
Một tuần sau , tôi có tên trong danh sách xuất trại đi đảo Galang , Indonesia . Ngày cuối ở bên nhau , Diệu tha thiết nói :
- Chúng mình đã có với nhau kỷ niệm đẹp tuyệt vời . Mai đây mỗi người một phương trời , chúng mình sẽ vẫn luôn nhớ đến nhau . Nha anh .

Tôi xúc động :
- Anh cảm ơn em ... Anh sẽ nhớ mãi về tình yêu em dành cho anh .

Hôm sau , Diệu tiễn tôi lên đường . Phút biệt ly giữa hai người yêu nhau buồn não nuột . Diêu rươm rướm nước mắt . Chúng tôi ôm nhau thật lâu lần cuối . Tôi hôn lên hai má Diệu rồi lặng lẽ đi theo đoàn người chuyển qua Transit Center , đối diện với Trung tâm Phanatnikhom .
Ngoái nhìn lại , thấy Diệu vẫn còn đứng nhìn theo với đôi mắt buồn vời vợi , tôi giơ tay vẫy vẫy . Diệu vẫy tay lại . Chào biệt Diệu . Chào biệt cuộc tình đầu đời tỵ nạn ! ...
Tự Do Ơi ... Tự Do !
Sau bốn ngày ở Transit Center , tôi và nhiều người được xe Bus chở đến một trạm chuyển tiếp gần thủ đô Bangkok , nằm chờ ba ngày .

Khi có chuyến bay , chúng tôi được phát mỗi người một túi thức ăn và lên xe Bus đến phi trường Bangkok . Cảnh đêm thủ đô Bangkok thật đẹp với muôn ánh đèn màu . Ngồi chờ ở phi trường hai tiếng thì đoàn người tỵ nạn lần lượt lên máy bay . Nửa tiếng sau , máy bay cất cánh . Lòng tôi phơi phới , vui như ngày lễ hội .
Khoảng ba tiếng sau , máy bay đáp xuống phi trường Singapore . Hôm sau , chúng tôi được chuyển đến đảo Galang , Indonesia bằng thuyền lớn . Tại đảo , tôi gặp lại Viễn , đến trước tôi một tháng . Chúng tôi càng thân với nhau hơn . Rồi Viễn cũng lên đường đi Mỹ trước tôi . Nghe theo lời Viễn , tôi chuyển hồ sơ đi theo bảo lãnh của người anh bà con Viễn là anh Dương Minh Hiệp ở bang South Dakota .

Sau bốn tháng rưỡi ở Galang 2 , học văn hoá Mỹ và thêm chút tiếng Anh , tôi được rời đảo ngày 21/4/1982 . Ở thêm ba ngày trong trạm chuyển tiếp Singapore , tôi chính thức được lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ ngày 24/4/1982 .

Hành trình viễn xứ của tôi đã tới đích . Khát Vọng Tự Do của tôi giờ đây được toại nguyện . Tôi đã thật sự đặt bước chân lên miền đất Tự Do mà tôi hằng mong ước từ bao năm qua . Xin chào UNITED STATES OF AMERICA - Đất nước tự do , dân chủ , văn minh , nhân bản và giàu mạnh nhất thế giới . Một lần nữa , tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng , Ông Bà , Cha Mẹ , Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi , trong hành trình nhiều gian truân , trắc trở , được may mắn chuyển nguy thành an . Tự Do ơi ... Tự Do ! Tôi đã có được Người !
* * *
Xin cảm ơn Chính phủ Mỹ , Nhân dân Mỹ đã nhân ái dang rộng vòng tay đón nhận tôi và cưu mang tôi 28 năm qua .

Trưa nay , trời cuối thu se se lạnh , tôi đến viếng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trong khuôn viên nghĩa trang Westminster , toạ lạc trên đại lộ Bolsa góc đường Hoover , quận Cam . Tôi cúi đầu thật lâu trước Tượng Đài để tưởng niệm tất cả vong linh Đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trong Hành Trình Tìm Tự Do .

Đã có khoảng 200 ngàn người Việt tử nạn trên biển cả trùng khơi hay nơi rừng sâu , nước độc bởi đói khát , bão tố , biển động , hay hải tặc hãm hiếp , giết chết .
Trước Tượng Đài có tấm bảng đồng ghi : « Tưởng niệm đến hàng trăm ngàn Thuyền Nhân , Bộ Nhân Việt Nam đã chết trên đường tìm Tự Do , Nhân Phẩm , Nhân Quyền . Gợi nhớ về cuộc hành trình đầy đau thương và khổ nạn của hàng triệu người Việt rời bỏ Quê Hương sau ngày 30/04/1975 vì không chấp nhận chế độ Cộng sản . Lưu truyền chứng tích đến các thế hệ mai sau về nguyên nhân sự hiện hữu của người Việt tại Hoa Kỳ và các quốc gia Dân Chủ , Tự Do trên thế giới » .

Tôi lại cúi đầu thật lâu trước Tượng Đài . Những Thuyền Nhân , Bộ Nhân đã chết trên đường vượt biển hay đường bộ để cho nhiều người thân ruột thịt được sống , được đến bến bờ Tự Do an toàn . Nhờ đó , ngày nay đã có hơn ba triệu người Việt được sống đời an bình , thăng tiến tại Hải Ngoại . Và mai đây , sẽ có biết bao nhiêu người con ưu tú của Tổ Quốc Việt thuộc thế hệ thứ hai , thứ ba trở về quê hương Việt không cộng sản , đem tài năng , kiến thức học được nơi xứ người để xây dựng nước Viêt nhanh chóng trở thành cường quốc .

Cá nhân tôi ngày rời xa quê hương , hành trang lên đường là ý chí của Tống Biệt Hành : « Ly khách ! Ly khách ! con đường nhỏ . Chí lớn không về , bàn tay không . Thì không bao giờ nói trở lại ... » . Nên tôi cũng đang âm thầm hoạt động trong một tổ chức chính trị , với hoài bão được đóng góp tất cả tâm trí , tài sức vào công cuộc đấu tranh chung của toàn dân Việt trong và ngoài nước , nhằm xoá tan bóng tối đêm đen trên quê hương Việt Nam . Cho những đau thương , thù hận của một thời nô lệ ngoại bang sẽ bị nhạt nhoà , tiêu tán vào dĩ vãng của lịch sử đã sang trang . Cho những xiềng xích , chuyên chế , hung tàn , bạo ác của cộng nô phải bị sụp đổ , tiêu vong . Cho viết lên trang sử mới của bình minh nước Việt ngày xanh tươi rạng rỡ , huy hoàng , kiến tạo nên một xã hội mới thật sự dân chủ , tự do , văn minh , nhân bản , công bình , bác ái để toàn dân Việt mãi mãi được sống an hoà , vui sướng , hạnh phúc .

Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày « đắc lộ thanh vân" , đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời .

Huyên Chương Quý ( Trích sách « Khát Vọng Tự Do »
-Ghi dấu 30 năm rời xa quê hương : 1980 - 2010
  Nguồn: http://hcsvvdhdalat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=879:vbdb&catid=29:the-cms&Itemid=75 


Những Cánh Chim Không Mỏi Tony Dương, 2011/01

Đây là lần thất bại thứ mấy rồi, tôi không còn nhớ được – nhưng thất bại bị ở tù thì đây là lần thứ hai.
- Lần thứ nhất : Cùng ông anh rể, xuống tuốt mãi Trà Vinh : Họ dụ khị để bán vé, rồi bắt bỏ tù 10 tháng, đòi đem tiền chuộc mạng, mới tha ! ! ! (có đáng nổi loạn chưa ?) - Lần thứ hai : Tham gia cướp tàu có vũ khí (đã nổi loạn thật rồi ! ! !) ; tù 15 tháng ! ...
Các cụ bảo : « Cùng tắc biến, biến tắc thông » xem ra chẳng đúng một ly ông cụ nào trong trường hợp của tôi cả ! ... Cái cảnh “cùng đường” của tôi đã được bọn chúng tôi « khuấy lên thành BIẾN » ! ... Thế nhưng cái “tắc biến” đó lại dẫn tôi đến nơi « tắc tị » ... Tôi vừa suy ngẫm như thế, vừa thất thểu trên đường chẳng biết đi về đâu. Với nước da bạc thếch lốm đốm những nốt ghẻ ruồi và muỗi đốt, nhất là cái đầu trọc lốc dễ gây chú ý cho những người qua lại, và không dấu được hành tung của một tên tù, hay ít ra là của một tên tù vừa được thả, thì bỗng nghe có tiếng gọi tên tôi ... Một cô gái cũng khá tiều tuỵ, từ bên kia đường đang hăm hở lách dòng xe cộ băng qua. Hoá ra là Ngọc Bảo, một sinh viên trước năm 1975 và cũng là vị hôn thê của tôi. Chúng tôi đưa nhau vào một quán cóc ven đường. Ngọc Bảo cho biết nàng cũng vừa được thả từ huyện Duyên Hải về tuần trước. Về chuyện của tôi cả hai bên Cha Mẹ đều đã biết. Các vị buồn chứ không lo lắng lắm. Riêng Ông Già Vợ của tôi thì "phán” thêm một câu : “Ngựa non háu đá !” và nói với Bảo rằng ông muốn gặp tôi chừng nào tôi được tha về.
Ông già vợ tôi là người có khuynh hướng thực dụng, làm việc cần cù và rất thận trọng. Phân tích những lần thất bại của tôi và của các ông – ông thường dựa vào 3 yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa ... nhưng luôn nhấn mạnh “ chính mình phải luôn luôn nắm lấy lấy thế chủ động “. Việc gì cũng vậy, nếu chưa chuẩn bị chu đáo thì hãy chờ thời.
Từ đó tôi ở hẳn nhà bố mẹ vợ tôi. Tứ thân phụ mẫu đã cùng lo tổ chức hôn lễ cho chúng tôi. Sau đó nhờ sự quen biết rộng rãi ông xin nhập hộ khẩu cho tôi. Dịp này chị tôi từ Mỹ gởi về mừng chúng tôi một số vốn kha khá. Vợ tôi sang được một sạp bán đường, đậu, bột tại chợ Hòa Bình. Còn tôi học được một lớp máy nổ tại Trường Kỹ Thuật Cơ Khí trên đường Vườn Chuối Sài Gòn.
Năm 1984 chúng tôi có một cháu trai, ba năm sau nữa vợ tôi sinh thêm một cháu gái. Vợ chồng tôi tâm sự với ông :
- “Chúng con thấy trách nhiệm ngày càng thêm nặng ... Chúng con không thể để các cháu lớn lên trong cái xã hội mỗi ngày thêm một thoái hóa này được được ...”.
Ông nhìn tôi thích thú :
- “Tôi tưởng những cánh chim bằng đã mỏi rồi chứ !” – Rồi ông cười ha hả ...
Có lần ông kể cho tôi nghe như một lời gợi ý : Một lần ông đến liên hệ công tác với công ty Hải Sản quận 6, Giám đốc công ty này thấy ông nói tiếng Bắc, lại than sắp về hưu, ngỡ ông là cán bộ, nên vốn vã : “Lo gì đồng chí cứ xuống đây “ ...
Chúng tôi bèn nhờ ông mở hồ sơ tại đó và lấy những thông tin cần thiết. Sau đó chúng tôi chính thức đến phường xin thị thực chữ ký và đem đơn đến Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố nạp ở Sở Thủy sản để xin phép đóng thuyền đánh cá ven biển. Được giấy phép, chúng tôi đến Hợp Tác Xã Sao Vàng tại quận 8 ký hợp đồng đóng thuyền. Ngày thuyền đóng xong, khánh thành hạ thủy, chúng tôi cũng mời thầy cúng Tổ Nghiệp. Tiệc khánh thành chúng tôi mời công nhân hợp tác xã và hai anh công an địa phương tham dự. Rượu nửa chừng, anh công an trưởng nửa đùa nửa thật :
- “Này, chừng nào cậu vượt biên nhớ rủ tớ với nhé !” Vợ tôi tái mặt, tôi vội bỏ đũa đùa lại : “ Dạ, nếu anh chịu thì nhất định em sẽ đến tận nhà mời cả chị và các cháu nữa !”.
Anh công an khu vực cũng thêm vào : “ Các cậu cứ ngồi lai rai, tớ phải đi rồi, chiều nay tớ sẽ tóm một lũ vượt biên cho coi !”. Lúc đó đã quá 3 giờ 30 chiều. Tiệc tan, chúng tôi cũng dọn dẹp xong, sau đó tôi đi tìm được anh công nhân để nhờ giới thiệu một người thợ máy. Chuyện vãn một lúc lâu, tôi chở vợ tôi trên chiếc xe Lambretta sport cổ điển rời khỏi bến sông. Đi vào trong xóm, còn xa mới ra đến đường Phạm Thế Hiển, đã thấy phía trước môt đoàn người bị trói thành một giây đang bị dẫn đi.
Thấy tôi, anh công an khu vực khi nãy hất hàm kênh kiệu :
- Thấy chưa ?
Tôi đùa lại :
- Anh phát tài rồi !
Vỏ thuyền có rồi, bây giờ đến giai đoạn làm máy. Công đoạn này, và trong giai đoạn 1987 này mới thật vất vả. Tôi còn nhớ hồi đầu phong trào vượt biên, người ta tìm kiếm vỏ tàu phải là dài hơn 20 m, 19 là bị chê rồi. Máy thì chọn Yanmar 8 lốc đầu bạc, hèn cũng phải 6 lốc, 4 lốc là bị chê, đầu xanh cũng chê ... Còn bây giờ thì bói cũng không mua nổi một máy 2 lốc được cho là tạm ổn.
Cuối cùng chúng tôi chọn mua trong đống phế liệu một thân máy hai lốc thật cũ xì hiệu Kiloska sản xuất tại Ấn Độ - anh thợ máy, người tôi nhờ đi mua giải thích :
- Cái thân máy này có thể cải tiến được ;
1 – Thân máy rất dầy, các máy dẫn nước giải nhiệt còn nguyên chưa bị nước biển bào mòn gây rò rỉ
2 – Trục máy rất lớn có thể mài mà không sợ yếu.
3 – Phần thân đặt cylinder rất dầy tha hồ xoáy, để thay cặp cylinder to nhất.
4 – Cá bộ phận khác ta còn có thể kiếm ra ...
Khi đem về tái tạo, chúng tôi thay vào bằng một cặp cylinder Yanmar và một cặp Píton Kubota mới toanh, chỉ còn thiếu một cây lap cốt cam. Anh thợ máy lại một phen vất vả mất mấy ngày mới vác về một cây lap, hình như được tháo ra từ một cái máy điện nào đó, sau khi anh hì hục chế biến, rồi cũng lắp vào được.
Tiện, xoáy, đục, đẽo, cắt, mài thôi thì đủ cả ... Các công đoạn giờ đã hoàn thành. Chúng tôi cho nổ máy thử, tiếng nổ âm vang, từ dòn tan như bắp khi ga thấp, cho đến rền êm khi tăng ga lên tối đa. Chiếc thuỷ động cơ của chúng tôi giờ đây như mới, tôi bảo đảm ngay đến ông chủ hãng Kiloska Ấn Độ có thấy cũng không dám nghĩ đó lại là từ sản phẩm của mình.
Máy được lắp đặt vào vỏ thuyền xong xuôi, chúng tôi chuẩn bị cho bữa tiệc khao quân trên sông nước. Thức ăn đã được bầy ra ở khoang trên, rượu, thuốc lá đã sẵn sàng. Tôi mường tượng chút nữa đây, vừa cầm lái cho thuyền vun vút trên sông, vừa nâng ly chúc tụng nhau cho bõ những ngày mồ hôi chảy ...
Đến giờ hoàng đạo, anh thợ máy lệnh cho tài công quay máy. Tôi đứng cạnh anh, chờ sai bảo khi cần. Máy nổ rộn ràng tựa tiếng vỗ tay chào mừng của một đám đông. Anh thợ máy ra lệnh tiếp cho tài công gài số tới và kéo ga ... rời bến. Thuyền giật lên chuyển mình. Tất cả mọi người hoảng hốt ! Thay vì thuyền tiến lên rời bến, thì nó lại thụt lui thật mạnh ... suýt gây tai nạn phía sau ... Anh thợ máy hoang mang suy tính ... Tôi trấn an ; - Thôi thì ... ta vừa bàn vừa nhậu ... Thịt rượu sẵn sàng rồi ...
Kiểm tra thật kỹ từng động cơ qua hộp số đến chân vịt ... không có gì sai sót. Vậy nguyên nhân từ đâu ? Máy vẫn nổ nhẹ nhàng khi khởi động ... Tắt máy để kiểm tra thật kỹ vẫn không thấy gì bể gẫy ... Thôi đây rồi ... Tôi chợt hiểu ; Tất cả chỉ tại cây cốt cam ... Một thứ : “Râu ông nọ cắm cằm bà kia “ Từ những kiểm tra thực tế đó, tôi đi mua ngay một cái chân vịt trái chiều. Cuối cùng thuyền của chúng tôi : Lui tới ngon lành như bao thuyền khác. Nhưng khi kiểm tra về tốc độ ... mới thật là số Dách ! ... Máy mạnh thuyền chạy nhanh là chuyện rất bình thường. Trong trường hợp thuyền của tôi chỉ có chúng tôi mới biết : nó mạnh nhỡ cặp cylinder và piston quá khổ ! ...
Chúng tôi ghi danh vào Hợp Tác Xã Đánh Cá Nhà Bè. Từ một người mất chỗ đứng trong xã hội “xhcnvn” giờ đây tôi đã trở thành Thuyền Trưởng kiêm Thợ Máy và “ chỗ đứng của tôi nhất định là trên con thuyền “ này rồi ! ! ... Vợ tôi là chủ phương tiện đánh cá này, hay nói cho oai là Chủ Tầu đánh cá ! Lương, em trai vợ tôi là tài công, cô vợ tôi, chị gái tôi, em gái vợ tôi là thuyền viên ! ... Thành lập một danh sách như thế để đi ghi danh hành nghề đánh cá, tôi mới thấy một khoảng trống không thể nào chấp nhận được ! Bạn đi đánh cá ven biển thì có thể là đàn ông, đàn bà, già trẻ gì đều được ráo ... Nhưng chỉ có 2 mống đàn ông là không thể được ! ! ! Khi ra khơi lỡ một người ốm đau thì sao ? Cuối cùng chúng tôi phải rủ thêm anh Bình, một bạn hàng xóm tham gia, với điều kiện anh phải góp vào 5 chỉ vàng. Đây chỉ là điều kiện chúng tôi cầm chân anh mà thôi. Cho đến lúc đó, thông thường vượt biên vẫn phải là 3 “ cây” trở lên, điều kiện chúng tôi đưa ra làm anh ngỡ ngàng ... Dĩ nhiên là anh mừng húm, bắt ngay.
Kể từ lúc đó chúng tôi chăm chỉ hành nghề ! Nếu ai tinh ý sẽ thấy chúng tôi xuất bến ra khơi kể cả các ngày giông gió lớn. Đi đi về về đến độ sạp đường, đậu, bột của vợ tôi tại chợ Hoà Bình cứ mỗi ngày một teo lại. Thực ra những ngày ra khơi là tập cho quen để không say sóng, tập nhảy sóng ra sao, tập đoán thời thiết bằng cách nhìn ráng trời, mây, nước, và cũng là quan sát địa hình cũng như thực trạng hoạt động của biên phòng và của các tàu đánh cá quốc doanh. Buổi tối, tôi thường neo thuyền và đăng ký tạm trú tại bến công an biên phòng cửa sông Rinh. Mỗi lần được phép đi đánh cá là phải mua cá để khi về có cá bán cho Hợp Tác Xã, hay ít nhất cũng phải có chút đỉnh làm quà cho biên phòng và công an dọc bờ sông. Năm 1986, Tường Vân em gái của vợ tôi được người anh họ đưa đi đã đến bến tự do. Từ đảo Galang cô gửi thư về, ngầm chỉ đường cho tôi tìm gặp người taxi chở cô.
Nắm rõ tình hình, tôi ra bến xe mua vé đi Bà Rịa, đem theo xe đạp. Còn cách Bà Rịa 18 cây số, tôi xuống xe, đạp khoảng hai cây số, tôi thấy một xe nước mía bên đường, ghé vào nghỉ chân, kêu một ly nhâm nhi giải khát, nhìn sang bên kia đường ... Tôi tìm thấy một căn nhà tranh vách đất, trên vách gần cửa có trổ một cửa sổ tròn, nhìn qua bên phải có một trạm sửa xe màu xanh dương. Băng qua đường tôi đi thẳng đến căn nhà tranh.
Từ sân nhìn xuyên qua nhà vào tận bếp, tôi thấy một người đàn bà và một đứa nhỏ, tôi mạnh dạn lên tiếng như một người quen :
- Chị Cang ơi ! Anh Cang có nhà không ?
Người đàn bà bế con ra ngó tôi lom lom :
- Anh ... mà xin lỗi..Anh là ai ?
- Tôi là anh của cô Vân - Cô Vân nào cà ? ... Mà anh tìm anh Cang có chuyện gì không ?
Tôi nghĩ người đàn bà này thật khôn ngoan, kín đáo, biết rõ việc của chồng mà chị ta vẫn vờ như không biết.
- Cũng có chút việc muốn nói với anh ấy, chị có biết bao giờ anh ấy về không ?
- Mọi khi giỡ này về rồi, còn hôm nay thì tôi không biết.
- Thôi được ! Tôi ra ngoài một lát, chút nữa tôi quay lại vậy !
- Tôi vừa quay ra thì chị vợ reo lên ; - kìa, anh ấy về rồi.
- Tôi thấy một anh chàng thanh niên khoảng gần 30 tuổi từ ngõ bước vào sân, dáng đi vững vàng chắc nịch, khổ người cao to cân đối, nước da nâu bóng nhẫy, rõ ra một người suốt ngày sống với sóng gió thiên nhiên. Nét phong trần phóng khoáng của anh khiến tôi có tình cảm ngay khi gặp mặt.
Thấy tôi, đôi lông mày Cang hơi nhíu lại, thì chị vợ lên tiếng :
- Anh đây là anh của cô Vân - Làm sao anh biết mà ra đây ?
- Em tôi viết về giới thiệu cho tôi, mấy tháng trước cô ấy đã ở đây vài ngày, nên tôi ra đây để cám ơn anh chị.
Hình như Cang còn do dự, chưa đủ tin, tôi tung thêm đòn tối hậu :
- Lúc mới đến đây nhìn thấy chị Cang, tôi đã hoàn toàn tin là tôi đã đến đúng nhà và tìm đúng người, vì chiếc áo sơ mi mà chị đang mặc, chính là chiếc áo quen thuộc mà ở nhà em Vân thường mặc.
- Đến lúc ấy Cang mới chịu đưa tay ra bắt tay tôi và vui vẻ mời tôi ngồi uống nước.
Lúc đó đã quá trưa, chị Cang nhanh nhẩu dọn cơm và mời tôi cùng ăn với anh chị. Xong bữa thì chúng tôi đã thực sự thân tình. Anh pha hai ly cà phê rồi kéo tôi ra sau nhà ngồi dưới gốc điều (đào lộn hột) xum xuê rợp bóng. Tôi hỏi anh :
- Bữa trước cá lớn của anh Diệm nằm có xa không ?
- Khoảng một giờ taxi thôi.
- Từ đấy ra biển bao xa ?
- Gặp lúc nước ròng cũng chỉ khoảng một giờ đồng hồ - Có thể tìm được bến khác tốt như thế không - Ăn thua là cá lớn, lớn hay nhỏ thôi, nếu chỉ bằng của anh Diệm thì vùng này thiếu gì vũng có thể làm bến.
Tôi đề nghị anh Cang cho tôi đi chơi một vòng, nhân tiện thăm cho biết bến của anh Diệm ra sao. Cang lấy đưa tôi một bộ quần áo của anh để tôi “ giả dạng thường dân”, mặc dù bộ quần áo của tôi đang mặc trên người chẳng đáng giá gì.
Trên chiếc Tam bản, tôi ngồi đằng mũi, cũng hờ hững cầm theo một mái chèo. Cang ngồi lái, con thuyền uốn lượn đưa tôi đi như đi trong một mê hồn trận. Thật là một vùng trời nước mênh mông luồn lách dọc ngang chằng chịt, nếu không phải là người địa phương, đã vào đây cầm chắc sẽ lạc lối, khó tìm được đường về. Ấy thế mà Cang luôn miệng giải thích chỗ này là gó ếch, chỗ kia là vũng cua ...
Lúc này nước đang dâng lên và bóng tồi bắt đầu phủ xuống. Chúng tôi ra về, đêm đó tôi nghỉ lại nhà Cang.
Sáng sớm hôm sau, theo đề nghị của tôi, Cang đưa tôi ra biển. Cũng may lúc đó nước vẫn còn ròng, nên khoảng hai tiếng sau thì tôi đã nghe tiếng sóng biể rì rào. Cửa rạch mỗi lúc thêm mở rộng ... Trước hình như có một cái đảo chặn ngang tầm mắt. Cang bảo chúng tôi đã ra đến biển – Vì lúc này nước đã hết ròng, mép nước biển cũng đã rút ra xa, nên mới thấy được trọn vẹn cả bãi bùn lẫn cồn đất đang bồi. Lúc nước lớn mặc cồn hoàn toàn chìm dưới mặt nước sâu khoảng ngang thắt lưng – Tuy nhiên các lùm cây vẫn xanh um. Chúng tôi bơi xuồng vòng ra phía ngoài mặt cồn cạn. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn ra khơi, nhấp nhô đây đó những con thuyền đánh cá. Xa xa về bên trái là một dốc đá, trên đó thấp thoáng có một ngôi chùa, Cang cho biết ngôi chùa bỏ hoang từ lâu, bây giờ chỉ là chỗ nghỉ trưa, ăn cơm của những người mò cua bắt ốc. Ngay bên dưới chỉ là vũng bùn, nên tất cả những ghe cào cũng lánh xa. Xa hơn nữa là cửa sông Rinh, mà bên kia là đồn công an biên phòng nằm gần như dựa vào chân núi lớn Vũng Tàu. Về bên mặt chúng tôi, lác đác những hàng cột đáy, càng xa về huyện Duyên Hải và Vam Láng cột đáy càng thêm dày đặc.
Lúc trở về, vì là nước dừng và cạn nên chúng tôi phải chèo thuyền rất vất vả, phải mất một thỡi gian dài gấp hai lần chuyến đi, mới về đến nhà. Tuy vậy có một cái lợi là tôi quân sát được độ nông sâu của con rạch, căn cứ vào các thân cây để lại vết bùn rêu bám vào khi nước lớn. Trước khi rời nhà Cang, tôi hỏi ; - Sao anh không tự lực làm một mình mà phải dựa vào người khác ?
Tôi thấy anh cũng tháo vát lắm mà !
- Chúng tôi chỉ mới đến đây đây được vài năm thôi nên không quen biết nhiều.
Về lại Sài Gòn tôi tìm mua được một bản photocopy bản đồ hải hành thuộc vùng cửa sông Rinh để nhận định được rõ vị trí mà tôi và Cang đã đi suốt một ngày rưỡi trên thực địa. Tôi thấy có thể chọn vùng này làm nơi xuất phát. Tôi đem dự kiến của tôi bàn lại với ông già vợ và trình bầy khái quát ; Buổi đi biển chót, không về bến, đợi đến tối khuya khi nước lên, dẫn thuyền vào lạch mất một giờ, bốc dầu, bốc lương thực, bốc người tối đa một giờ, quay thuyền trở ra biển thêm độ một giờ nữa, là khoảng độ 3 tiếng đồng hồ tất cả. Như vậy khoảng 3 giờ 30 sáng thuyền sẽ thong thả ra khơi, như bất kỳ một thuyền đánh cá nào khác. Nghe xong ông già vợ tôi phản bác ngay :
- Vẫn hoàn toàn bị động ! Này nhé, từ lúc bắt đầu vào lạch là lúc thuyền trở nên bất hợp pháp, ba giờ là tối thiểu, lúc nào thuyền cũng bị lệ thuộc vào con nước, ba giờ đầy bất chắc cho thuyền không phải là ngắn ngủi. Nếu thuyền không gặp rủi ro, nhưng nhóm taxi gặp phải thì thuyền vẫn bị vạ lây, không có cách nào gỡ ra được ! Tại sao ta không đem điểm xuất phát ra tuốt bên ngoài ?
Tôi chợt hiểu :
- Như vậy con có thể chọn điểm ở gần cồn cạn ?
- Tại sao không chính là cồn cạn ?
- Lúc nước lên cồn cạn bị ngập nước.
- Càng tốt, nhóm taxi càng không thể lên đổ người lên đó rồi rút trước, mà sẽ ẩn kỹ trong các lùm cây trên đó.
Tôi hiểu ý ông già vợ, lúc nào cũng muốn bảo vệ thuyền, và còn muốn nhóm taxi tham dự vào công việc để bảo đảm sự thành công. Tôi kể cho ông nghe về chuyện gặp gỡ của tôi với Cang – và ý muốn của tôi sẽ nhờ Cang ... Sau khi hỏi tôi về tính tình, gia cảnh của anh, ông đồng ý với tôi nên nhờ Cang là phải.
Tôi bèn nhờ ông hôm sau đi gặp Cang để bàn chi tiết, kể cả tiền bạc. Kết quả ông mang về thật hợp lý và tốt đẹp.
Nhằm làm cho Cang lên tinh thần bằng cách tạo cho anh ta một hy vọng « Bắt được cái mối lâu dài », khi gặp Cang ông đóng vai Người Chuyên Tổ Chức. Ông hỏi Cang có dám đưa nguyên một nhóm taxi ra hẳn ngoài biển không ? Cang nhận và nói đến số đầu không quá 20, bởi lẽ chỉ riêng anh chị em ruột của anh ta có tới 5, thêm vào là ông bố vợ với hai người em vợ. Về phần giá cả Cang chỉ xin 2 chỉ mỗi đầu. Ông đồng ý với điều kiện là không được đổ khách xuống bãi. Ông còn tố thêm là sẽ thưởng thêm 1 chỉ cho mỗi đầu khách nếu “ ráp nối” thành công. Ngoài ra nếu chẳng may không ráp nối được, taxi phải cố gắng đưa khách về an toàn sẽ được hưởng 2 chỉ tiền công lần về. Công lần đi thanh toán ngay khởi sự.
Chúng tôi cũng thoả thuận nhờ Cang mang dầu ra dấu ngoài biển, mỗi can 30 lít với giá 1 chỉ. Trong khi giá bình thường trong đất liền một chỉ mua được gần ba chục can.
Nước ngọt để uống cũng vậy : 1 chỉ cho mỗi can 30 lít. Cang lý luận : Gánh dầu hay nước ngọt ra biển bị bắt cũng tù như tội tổ chức vượt biên ... Để tiết kiệm tiền về vụ nước, tôi lập tức ngăn phần mũi nhọn của thuyền thành một hầm nhỏ chứa nước. Ốp hai lần gỗ, ở giữa chèn chấu khô cho nước không thấm, vách ngăn với khoang thuyền tôi đặt một vòi nước cho tiện. Phía trên bên ngoài tôi cũng mở ra một nắp như các hầm thuyền khác. Trong hầm này từ đó lưu trữ thường xuyên 5 cây nước đá 50 ký (5x50=250 lít). Đó là tiêu chuẩn nước đá được đem theo cho các thuyền đánh cá. Thể tích của hầm trên 400 lít, ngày khởi sự chúng tôi sẽ đổ thêm nước cho đầy. Như vậy cộng với một phuy 200 lít được phép có trên thuyền, chúng tôi có trên 600 lít nước ngọt, dư cho cả 20 người trong cuộc hành trình.
Nhờ sự quen biết của gia đình, chúng tôi mời được một Trung Uý hải quân xưa kia phục vụ trong đơn vị tuần duyên VNCH dậy cho chúng tôi cách đi biển. Tất cả thân nhân trong gia đình chúng tôi, dù trai hay gái đều quây quần ngồi nghe ông chỉ. Từ cách đo toa độ trên bản đồ, cách bố trí vật dụng trước mặt tài công, và lái thuyền theo hải bàn – cho đến cách lái thuyền khi không có hải bàn hay hải bàn bị hư bể ... Nếu trời trong, học cách nhận định đi theo hướng trăng sao. Nếu trời tối mây mù, ta có thể lái theo hướng gió. Ông nhắc chúng tôi : “ Vùng biển Việt Nam có gió mùa, gió nồm thổi từ tây nam qua đông bắc. gió bấc thổi từ đông bắc xuống Tây Nam".
Tìm phương hướng bằng cách nghe tiếng gió : Quay mặt về hướng gió thổi tới, nhẹ nghiêng mặt qua phải, rồi qua trái để nghe tiếng gió thổi ù ù vào tai bên này hay bên kia, nhẹ nhàng điều chỉnh sao cho tiếng ù ù ở hai bên tai can bằng. Lúc đó, hướng mặt ta đang đi chính là hướng tây nam hay đông bắc. Từ vị trí hướng vừa tìm được, điều chỉnh mũi thuyền lên hay xuống bao nhiêu độ cho đúng với hướng đi là chuyện quá dễ dàng. Dĩ nhiên theo cách này còn cần đến một dụng cụ chia góc số theo hải bàn được phóng lớn cho dễ nhìn và dễ lái. Chúng tôi bèn lấy cái mâm nhôm cũ đang dùng trên thuyền, lật úp xuống khắc vào đáy, đoạn bôi đen nham nhở để nguỵ trang, khi cần chỉ một miếng giấy nhám chà sạch, đáy mâm sẽ hiện rõ ràng nét khắc mầu đen. Khi xử dụng, nó sẽ được đặt úp dưới một sợi dây căng thẳng dọc theo chiều từ mũi xuống đuôi thuyền.
Khi nói về bão, ông cho chúng tôi biết đa số các trận bão thổi vào bờ biển Việt Nam thường xuất phát từ Thái Bình Dương thổi qua đảo Midanao – Phi Luật Tân. Vì nước ta ở bắc bán cầu nêu chiều xoáy của chúng theo kim đồng hồ, vì vậy hướng chúng lúc đầu như sẽ chạy thẳng vào Sài Gòn Vũng Tàu nhưng rồi thường chệch hướng dần dần thổi vào miền Trung, có khi vào miền Bắc, và có khi sang hẳn tới miền miền Nam Trung Hoa. Tránh bão tốt nhất là càng ra xa bờ càng tốt, vì gần bờ, bị sóng dội ngược rất cao. Xa bờ sóng dù cao nhưng khoảng cách từng đợt này đến đợt khác rất xa, nên độ dốc của nó trở thành thoải hơn, không đáng sợ ...
Chúng tôi được đặt câu hỏi ; - Khi gặp bão nên lái thế nào.
- Bình thường ta có thể cưỡi sóng đi, đi ngược sóng, nhưng gặp bão sóng quá lớn thì không thể đi được, đành phải xuôi theo sóng gió. Có điều cấm kỵ cần nhớ để giữ cho thuyền không bị lật úp chớ bao giờ đưa sườn thuyền ra hứng một đợt sóng lớn.
- Đó là trường hợp máy thuyền còn chạy, còn xử dụng được bánh lái. Trướng hợp máy thuyền chết thì sao ?
- Phải thả dù thôi ... Vài trường hợp máy bay phản lực phải tung dù ra sau đươi khi đáp xuống một phi trường có phi đạo ngắn, để giảm bớt tốc độ của máy bay. Vậy ta cũng phải áp dụng một động tác tương tự. Trên thuyền có vài cần xé đựng hải sản là chuyện bình thường, ta nên mua sẵn ba cái mới cho chắc ăn. Dùng ba hay bốn đoạn dây thừng bằng nhau, buộc vào miệng cần xé, những đầu kia cột chung lại, thế là ta có được một cái dù rồi. Khi hữu sự kết chung ba cái lại thành từng một chùm, cột thật chắc những đầu dây dù kia vào đuôi thuyền, rồi thả cả chùm dù xuống nước. Dù cần xé bằng tre tươi nhưng bao giờ cũng nổi mà chỉ nổi lập lờ dưới mặt nước. Bây giờ thuyền của ta là vật nổi trên mặt nước, hứng gió như những cánh buồm, bị sóng gió đẩy trôi đi nhưng đuôi thuyền phải kéo ba cái cần xé nên sức trôi của thuyền bị giảm đáng kể. Cái lợi quan trọng ở đây là mũi thuyền luôn đi trước, đuôi thuyền đi sau, và không bao giờ có trường hợp thuyền đưa sườn ra hứng sóng.
Một câu hỏi về vấn đề khác ;
- Thuyền đang chạy trên đại dương, chung quanh có những tàu thuyền khác, làm sao để biết cái nào đang đuổi bắt mình ?
- Ta đổi hướng một góc độ nào đó, thuyền đuổi bắt tất cũng đổi hướng theo.
- Gặp trường ho8p. Bị đuổi bắt, phải làm sao - Tất nhiên phải tăng tốc tối đa, lúc này tốc độ là điều ăn thua nhất. Ở ngoài biển ta có nhiều ưu điểm hơn họ, thuyền ta càng chạy nhanh ta càng bỏ xa bờ, hiểm hoạ bị bắt càng giảm đi. Ngược lại phía đuổi càng lâu càng bất lợi, bởi lẽ lượng dầu chạy máy của họ rất ít không thể so với ta. Mặt khác 100 toán đi tuần thì đủ 100 % toán bớt dầu để ăn nhậu hay chia chác ... Nên lúc nào họ cũng sợ không đủ dầu để trở về, thế nên họ không dám đuổi xa đâu !
- Nếu bị đuổi trong khi thuyền còn đang trong sông rạch ?
- Ta phải bắt chước lối chạy của kẻ cướp giựt. Đang chạy nó bỗng quay ngoắt vào một con hẻm, đợi cho cảnh sát đuổi quá trớn nó quay ra chạy ngược lại hướng cũ. Ở đây nếu bị biên phòng đuổi ta phải cố chạy ra biển, lỡ bị đuổi rát, nhắm một con lạch nhỏ, một lùm cây rậm rạp, tắt máy ngay rồi lao vào ẩn kín. Khi biên phòng vượt qua cho máy nổ lại tìm đường khác cố chạy ra biển ...
Ngoài ra ông nhắc chúng tôi : Tại Đông Nam Á, các trại tiếp nhận thuyền nhân đều đã tuyên bố đóng cửa, nhiều thuyền đến sau ngày đóng cửa đang gặp khó khăn – Tuy nhiên vẫn còn hai nơi ; Một là Nhật Bản từng tuyên bố cho 10, 000 thuyền nhân đến định cư tại Nhật, nhưng mới có 3, 500 người nên chắc họ sẽ tiếp đón dễ dãi. Hai là tại Philippines, tuy cũng đã tuyên bố đóng cửa, nhưng vẫn còn căn cứ Không Quân Mỹ Clack và căn cứ Hải Quân Mỹ tại Vịnh Subic, đó là những ngọn hải đăng !
Chúng tôi muốn tới Mỹ nên chọn Philipine khi chấm toạ độ ông Trung Uý nhắc :
- Cứ nhắm thẳng theo cánh tay tượng Đức Chúa Giê-Su đang dang tại núi hải đăng Vũng Tàu cho thuyền ra khơi, ta sẽ đụng Côn Đảo. Để tránh vùng hành nghề của các vùng đánh cá quốc doanh dù muốn đến mục đích nào cũng nên đi ngược lên phía bắc Côn Đảo, ra đến đường hàng hải quốc tế rồi hãy bẻ góc đi về hướng muốn tới. Ví dụ bẻ góc Tây Nam để Singapore, Malaysia, v v ... Muốn đi Philippines cũng vậy, từ phía bắc Côn Đảo đến Philippines theo đường gần nhất phải chui qua hai nhóm đảo của Trường Sa. Giữa hai nhóm đảo này có một hành lang rộng rãi. Lúc này bộ đội Việt Nam đã chiếm đóng một đảo tại phía bắc hành lang này. Đối diện, về phía Nam hành lang cũng có một đảo bị Quân đội Trung Cộng chiếm đóng. Hai bên này vẫn hằm hè nhau nhưng không bên nào muốn nổ súng trước. Muốn đến Philippines qua ngả này phải canh cho thuyền đi ngang qua hành lang vào ban ngày để cả hai bên đều nhìn thấy rõ “ đây chỉ là thuyền vượt biên”. Tuy nhiên cứ theo đường hàng hải quốc tế về phía tây nam, sẽ gặp nhiều dàn khoan dầu của các nước dọc theo lối đi. Hơn nữa đi lối này trên một chặng đường dài như thế, sẽ gặp rất nhiều tàu thuyền qua lại, có nhiều hy vọng được tiếp cứu và tương đối an toàn. Ông Trung Uý còn nhắc chúng tôi nên đem theo một cái Radio chạy pin, chủ yếu để nghe tin tức thời tiết.
Dĩ nhiên còn rất nhiều điều hữu ích cho những người đi biển mà ông Trung Uý đã dậy cho chúng tôi suốt hai ngày. Trên đây tôi chỉ kể một số vấn đề thật đặc biệt cần thiết cho cuộc vượt thoát thành công, và cho cả sự an nguy của chính mạng sống bản thân chúng tôi.
Cho đến lúc đó tôi mới kịp nhìn lại bao lần thất bại trước đây của tôi, của vợ tôi và của tất các người tôi quen biết mới thấy ; Quả thật chúng tôi đã nhắm mắt làm liều một cách thật ngây thơ, khờ khạo ...
Cuối tháng 08/1988 tôi dự định giã biệt quê hương, nên xin xuất bến vào ngày 27 – Nhưng không được nhà cầm quyền địa phương cho phép, họ bảo : Nghỉ ăn lễ độc lập xong hẳn đi. Ai cũng nhắm vào dịp lễ Tết, các cơ quan, cán bộ say sưa, lơ là để thừa cơ trốn chạy. Thực ra tôi cũng nhắm vào dịp 02/09. Cuối cùng đành chọn vào đêm 7 rạng ngày 08/09, một đêm tối trời ...
Cuộc “ Hành Quân Đêm” của chúng tôi xuất phát vô cùng thuận lợi – diễn ra từng bước đúng như tính toán trước. Thuyền của tôi chiều ngày 7 tháng 9 vẫn về cửa bến sông Rinh như thường lệ, vẫn vui đùa ăn nhậu như mọi ngày, nhưng mọi thứ cần thiết cho chuyến đi vẫn được kín đáo, sắp xếp, kiểm soát ... Sáng hôm sau, thuyền của tôi vẫn ra khơi ngay từ đợt đầu tiên trong lúc trời còn chưa sáng rõ. Từ ngoài xa, ngồi trong khoang tôi dùng ống nhòm kín đáo quan sát « Những hoạt động tại điểm » trong khi thuyền thả cào chầm chậm di chuyển vào cồn cạn ... Khi nhận được tín hiệu của nhóm taxi đã đầy đủ và sẵn sàng, thuyền liền gác cào, nhanh chóng áp sát và quay ngang để án ngữ tầm nhìn từ biển vào. Chỉ trong vòng 15 phút vội vàng, căng thẳng, nhưng rất trật tự ... Tất cả số lượng dầu, lương thực, và 18 người lớn nhỏ đã nằm gọn ghẽ trong khoang thuyền, và nhóm taxi cũng lần lượt phân tán khuất sâu trong các con lạch.
Tôi thở ra một hơi thật dài nhẹ nhỏm ... trong lúc con thuyền tiến ra xa ... xa ... xa mãi.
Vào lúc 7 giờ sáng hôm đó trong một bãi kios tại bãi Vũng Tàu, gần đồn biên phòng, mũi hải đăng với tờ giấy vừa xuất viện (nằm bệnh viện) trong túi, và cuốn « Bố Già » mới phát hành tại Sài Gòn trên tay, ông già vợ tôi ung dung ngồi trước một cái phin cà phê thong thả nhỏ giọt. Người ta tưởng ông đang say sưa với cuốn truyện, thỉnh thoảng lật từng trang ... Nhưng thực ra ông đang để hết tinh thần vào thính giác và thị giác quan sát ngoài biển, và nhất là những động tĩnh của đồn biên phòng ...
Mười giờ ông vui vẻ ra về ... Tìm gặp Cang để bác cháu hàn huyên. Sau này Cang còn có dịp tìm ông vài lần để cám ơn ông đã giới thiệu cho anh vài người bạn của tôi tại bãi sông quận 8.
Chúng tôi đã vượt qua Côn Đảo an toàn, đã gặp đường Hàng Hải Quốc Tế và vẫn đang theo con đường đã chấm toạ độ đi tới Philippinse thì khoảng 11 giờ sáng hôm sau, trong bản tin thời tiết loan báo một trận bão xuất phát từ ngoài biển Trung Hoa Lục Địa tiến về hướng Tây Nam. Nếu ít giờ sau bão tràn tới mà thuyền của tôi vẫn còn giữ hướng đang đi, thì sóng gió gần như đập thẳng vào hông thuyền « Gặp điều cấm kỵ đây rồi ! ! ! » ... Tối quyết định tức khắc phải đổi Hướng : bẻ góc cho thuyền đi xéo dần dần về gặp lại (và đi theo) đường hàng hải quốc tế để hy vọng :
a) – Lúc đó gió bão sẽ đẩy thuyền đi nhanh hơn
b) – Tránh tình trạng sóng đập vào hông thuyền (nếu theo hải trình cũ)
c) – Trên đường hàng hải quốc tế có hy vọng nhận được sự tiếp cứu của các tầu lớn.
Chiều hôm ấy quả nhiên bão đã tràn tới sau lưng, đẩy thuyền chúng tôi chạy như tên bắn ... Tiếp theo tức thì, sóng biển dềnh lên cuồn cuộn ... Thuyền bị nâng lên thật cao ... cao ngất ... .rồi từ độ cao chót vót ấy ... lao ào ... .xuống thung lũng đen ngòm phía dưới khoang ... Riêng tôi, lúc này chỉ mong sao cho máy thuyền đứng chết ... Bóng tối cũng mau chóng trùm kín, sấm chớp giăng giăng ngang dọc ... chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh sáng lửa bập bùng xa xa, hình như từ một dàn khoan nào đó. Khoảng nửa đêm, sóng gió quay cuồng, mưa đổ như trút ... sấm chớp liên hồi ... Dĩ nhiên thuyền của chúng tôi phải đổi hướng xoay chiều theo sóng gió ... Suốt ba ngày đêm bị vùi dập, thuyền của chúng tôi trôi tới trôi lui, hình như vẫn đứng nguyên tại vị trí cũ, dốm lửa dàn khoan vẫn lúc thấy lúc không. Có vài lần chúng tôi đã toan tính thử cho thuyền sáp gần về phía ánh lửa dàn khoan ... nhưng không thể được ... 12 giờ trưa ngày thứ 55 kể từ khi chúng tôi rời bỏ quê hương, và là ngày thứ 3 khi gặp bão gió, gió mới dịu lại ! Tứ lúc ra đến đường Hàng Hải Quốc Tế, chúng tôi đã gặp không dưới 10 chiếc tầu dân sự to lớn, mang cờ hiệu của nhiều quốc gia ngược xuôi, chúng tôi đều ra dấu cứu vớt, nhưng họ cố ý làm ngơ. Khoảng 4 giờ chiều, đột nhiên tôi nghe Lương La lên ; - Cái tàu đằng sau hình như đã dừng lại !
Tôi nhìn lại, quả thật một ngọn núi sắt sừng sững hiện ra trước mặt tôi :
- Chúng ta được cứu rồi ! ! !
Suốt ba ngày đêm bị bão táp vúi rập, trừ những đứa trẻ vẫn ăn ngủ, bú sữa bình thường, còn hầu hết hành khách của tôi đều mệt mỏi, say sóng, không ăn và nằm bẹp dí ... Bây giờ mới chỉ nghe được tiếng “ Có tầu cứu” là tất cả đều nhỏm dậy và leo lên boong. Các chị, các cô bế ngay mấy đứa trẻ, nâng cao để những người trên tàu trông thấy. Tôi thấy thuỷ thủ trên tầu ra dấu cho thuyền tôi tới gần đống thới họ thả thang sắt xuống ...
Sóng lúc đó vẫn còn khá lớn, con thuyền dềnh lên thụt xuống, khi vừa áp sát đã đụng nhẹ vào thành tầu kêu lên răng rắc như muốn bể toang. Cho thuyền lui giật ra tôi cố ghìm giữ cho thuyền chỉ tiếp xúc với tàu bằng mũi. Trước đó chúng tôi đã căng sẵn một dây thừng lớn từ khoang ra đến cọc mũi làm chỗ vin và móc dây an toàn. Nhờ đó sự di chuyển bây giờ tương đối an toàn. Theo lệnh từ trên tàu đưa xuống : Người ít tuổi sẽ ưu tiên lên tàu trước. Do đó, con gái tôi mới 7 tháng tuổi được cậu Lương và chú Bình, người bế kẻ dìu, thận trọng từ khoang thuyền ra mũi, đợi đúng lúc thuyền dềnh lên mới chuyền cháu cho hai thuỷ thủ, đứng sẵn ở bậc cuối thang sắt, cùng đưa tay đỡ lấy cháu ... Tôi nghe một loạt pháo tay rộ lên ... của những người trên tàu đón mừng cháu ... mà chảy nước mắt dài ... Tôi khóc..Quả thật cho đến lúc ấy tôi mới khóc ... khóc, vì ... mừng vui ! ! ! Đến lượt thằng con trai của tôi gần 4 tuổi, vùng vằng không chịu lên tàu, khóc lóc la hoảng đòi về nhà bà ngoại. Người thứ ba là một cháu gái tên Thuý (hiện là sinh viên của đại học UCL). Lương và Bình cố móc dây an toàn lần lượt dẫn từng người từ khoang ra mũi để rời thuyền. Người khách cuối cùng là bà Chín, cũng là người lớn tuổi nhất trong chuyến đi, run rẩy sợ hãi vì thuyền dềnh lên thụt xuống, ra đến mũi sắp được kéo lên thang ... loạng quạng sao đó, té lăn xuống biển ... Nhanh như vượn Lương phóng xuống theo túm được, Bình cũng lao đến tiếp cứu, vớt lên được. Lên tầu bà Chín phải nằm bệnh viện săn sóc 5 ngày mới khỏi (Ông bà Chín hiện định cư tại Boston – Massachussets). Lệnh thuyền trưởng yêu cầu chúng tôi đem lên boong tất cả các dụng cụ hải hành, cũng như tất cả các loại lương thực có trên thuyền.
Sau Lương và Bình, tôi là người cuối cùng, tắt máy, rời thuyền với một tâm trạng bâng khuâng, dào dạt. Đặt chân lên boong tầu, lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 12 tháng 9 năm 1988. Tôi nhìn xuốt lượt 21 người “ cùng hội cùng thuyền” với tôi, Bà Chín, cô Lan và cháu gái 5 tuổi tên Thuý, Tôi chỉ gặp từ lúc lên thuyền (vì là người của Cang đưa taxi, anh đã năn nỉ vợ tôi cho đi để anh có thêm sở hụi), Anh Bình là bạn hàng xóm, còn lại đều là thân thuộc trong gia đình chúng tôi (Sau này lúc Lương lập gia đình, ông bà Chín nhân dịp này tặng Lương một kỷ vật trân quý. Cô Lan đã nhận bố mẹ vợ tôi làm bố mẹ nuôi và cô đã kết hôn với anh Bình. Chúng tôi đều được định cư tại Mỹ, và hầu hết ở Cali. Chúng tôi thướng đi lại gặp nhau như một nhóm gọi là “ Nhóm Golar Freeze”, lấy tên của con tàu đã cứu vớt chúng tôi trên Biển Đông.
Khi tôi đến chào và trình diện ông thuyền trưởng, ông tỏ ra rất lịch sự và ân cần, ông cho tôi biết ông là người Tây Đức, ôgn rất thông cảm chẳng những với thuyền nhân, mà còn với tất cả mọi người ở Miền Nam Việt Nam nữa. Ông nói ông đã nhìn thấy thuyền của chúng tôi từ xa 9 – 10 cây số. Tứ đằng sau ông quan sát thuyền của chúng tôi rất lâu. Vừa rồi ông đã xem xét cái Mâm Nhôm, một dụng cụ thô sơ nhất của người đi biển, rồi đến cái hải bàn cổ quái “không có kim” (nó đã bị bão vùi dập lăn lóc, nên kim đã gẫy và tấm bản đố Hải Hành vẽ bằng tay (Thực ra là can bằng tay theo kiểu học trò), ông hoàn toàn kinh ngạc và hỏi tôi làm cách nào dẫn thuyền đi đúng hướng, đúng đường và an toàn qua cơn bão vừa rồi. Tôi đã trình bày cho ông rõ là : « Chúng tôi đã được một Trung Uý Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà huấn luyện trong một khoá đặc biệt ... thật kỹ ... và lâu đến cả ... hai ngày lận ! ! ! ». Lúc đó tất cả chúng tôi đã được an toàn trên con tầu Golar–Freeze, một tầu chở dầu, trọng tải 80 ngàn tấn của một đại công ty hỗn hợp Nhật Bản - Phần Lan – Anh Quốc. Chúng tôi được từ cõi chết trở về !
Anh chị em chúng tôi, từ trên boong, nhìn xuống con thuyền bé bỏng, thân thương, hiện không còn người lái đang quay cuồng trên sóng đại dương, va đập vào hông tàu bể vỡ ... và từ từ chìm xuống. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng im lặng bùi ngùi, cúi đầu như mặc niệm.
Sóng nước đã hoàn toan phủ kín nó ... Như phủ kín cả một thời trai trẻ, thanh xuân của thế hệ chúng tôi !
Lake Forest, Ngày trọng đông năm Nhâm Ngọ
Tony Dương, C/N 2011/01
VanTuyenNet 2007/03/30
Nguồn:  http://hcsvvdhdalat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=550:tabdcanhbuom87&catid=29:the-cms&Itemid=75


Những Chuyến Ghe Đời Mong Manh
Kim Thanh Portland 2016/04/30

ThuyenNhan46
Từ trại tù Vĩnh Phú ngoài Bắc , sau 8 năm ròng rã nhai sắn khô và lao động gian khổ , cuối cùng , tôi cũng được thả về quê quán Nha Trang , năm 1983 , và bị quản chế liền . Quả vậy , phường khóm đã ưu ái sắp xếp ngay cho tôi công việc quét dọn , vệ sinh tại một hợp tác xã dệt quôc doanh mà thợ dệt toàn là con gái . Mục đích để các cô , vốn dễ sai bảo , và tên Thủ Trưởng già , loại Cách Mạng Ba Mươi , rất hắc ám , kiểm soát và canh chừng tôi mỗi ngày . Trong khi đó , mẹ và em gái lớn của tôi , Huệ Trân , ráo riết tìm mánh vượt biên cho tôi , và Kim Trọng , người em kế , Ttrung Uý Giáo Sư Anh Văn Võ Bị , nửa năm trước đã trốn trại tù cải tạo về sống chui tại gia – cả 2 anh em đều là thứ bom nổ chậm , không thể chứa lâu trong nhà .
Chưa đầy 1 tháng sau , 2 đứa nhận được lệnh xuất quân . Đi kèm theo là Tú , thằng cháu 12 tuổi , con của cô em . Chuyến đi được tổ chức bởi 1 ngư dân tên Trứ , đồng hương Quảng Bình với Thư , em Rể tôi . Kế hoạch hơi phức tạp , không chắc ăn . Nghĩa là Trứ sẽ đưa khách bằng ghe nhỏ ra 1 hòn đảo nằm chờ trước , rồi sau đó mới tìm ghe lớn đến bốc đi . Nếu không có ghe lớn , Trứ bảo đảm sẽ chở tất cả về đất liền , an toàn , và trả lại tiền đặt cọc .
- 1 -
Đó là 1 đêm không trăng sao . Tám giờ , Thư chở tôi bằng Honda đến nhà Trứ trước – nằm dưới chân cầu Xóm Bóng , phía Khu Hà Ra . Sau đó , chở Trọng , hàng quốc cấm , được cải trang kín mít như một phi hành gia , chạy lòng vòng trong thành phố Nha Trang một hồi , để đánh lạc hướng địch , rồi bất ngờ Thư ngừng lại trước cửa nhà Trứ , đẩy Trọng chui tọt vào , và biến mất . Trọng thở hổn hển , vì sợ hơn vì mệt .
Chủ nhà đãi chúng tôi bia , cho ấm lòng chiến sĩ . Hai đứa không nói gì nhiều , và vẻ mặt nghiêm trọng còn hơn thích khách Kinh Kha khi sắp vượt sông Dịch sang Tần . Đúng mười giờ , Trứ dẫn chúng tôi ra phía sau nhà , nơi một chiếc ghe nhỏ và dài giống như một périssoire ( thuyền thoi ) , đang đậu . Chủ ghe là một ông già trên 65 , ốm tong teo . Sau này tôi được biết , cứ gần nửa đêm ông già chèo ghe ra các đảo để chặt củi , sáng đem về bán – điều mà bọn Công An đều rõ – và Trứ sẵn tiện mướn ông làm tài xế taxi , chở người ra ghe lớn .
Ông nhét chúng tôi dưới đáy ghe hẹp , trên phủ một lớp gỗ thưa . Hai đứa phải nằm nghiêng , mặt đối mặt , nghe rõ hơi thở của nhau . Trọng bị suyễn , nên tiếng thở nghe khò khè , khá lớn . Từ nhà Trứ , tức từ chân cầu , ra bót Công An đặt giữa một khúc sông Cái , không xa bao nhiêu . Mười phút sau , ông già cập bót , trình báo . Chúng vẫy tay , cho đi . Bình thường ghe nhẹ tênh . Đêm ấy , chở theo 2 đứa tôi , tổng cộng khoảng 120 ký lô , trừ bì rồi , ông loay hoay mãi , không đẩy nổi chiếc ghe ra khỏi bờ cát . Hai đứa hết hồn , nín thở . Tự nhiên Trọng dứt tiếng khò khè . Tên Công An nói lớn , giọng Quảng rặt : Choà , bữa ni ông gioà chỏ coái chi moà nẹng rớ hè ( dịch nghĩa : Chà , bữa nay ông già chở cái chi mà nặng rứa hề ) ? Rồi chiếu đèn pin khắp sàn ghe , dừng lại rất lâu chỗ chúng tôi nằm . Và sắp sửa leo lên xem thì thằng tà-lọt từ đâu chạy đến báo cáo một việc gi quan trọng , hắn trở vào đồn . Thằng tà-lọt đẩy ghe giúp ông già . Ghe đụng nước , chúng tôi nghe tiếng ông thở phào , bỏ nhẹ : Hú día ! Mô Phật . Phần chúng tôi mừng hết lớn , và đọc kinh cảm tạ ơn Chúa . Rồi ông già hối hả chèo đến điểm hẹn , tuốt ngoài khơi .
Mười lăm phút sau , ghe máy của Trứ xình xịch đến . Hai anh em được chuyển sang . Trong bóng đêm , tôi thấy trên ghe chở một số khách , trong đó có thằng cháu Tú , một ông Thượng Sĩ già trường Hạ sĩ quan Đồng Đế ( hỗn danh Thượng Sĩ Heo , vì trước 1975 , ông có trại nuôi heo rất lớn ) , tôi đã nghe tên , nhưng bấy giờ mới biết mặt , đi với đứa con trai và một thằng cháu nhỏ , cả 2 khoảng 13 , 14 tuổi . Số khách này , Trứ đã giấu kín dưới lòng ghe , và qua bót trót lọt , không bị khám xét , như những lần ra khơi đánh cá trước kia .
Trứ cho ghe tiếp tục chạy , và chừng nửa tiếng nữa , đến một hòn đảo nhỏ mọc trơ vơ giữa biển . Đêm tối quá , nhưng Trứ không dám bật đèn pin , dẫn cả đám len lỏi qua một con đường nhỏ ngoằn nghèo , lởm chởm đá nhọn và chằng chịt dây leo và rễ cây , khiến tôi phải dùng lưỡi lê nhà binh , mua ở chợ trời , phạt đi bớt . Cuối cùng , lên đến một mỏm đá rộng . Trứ bảo tất cả nghỉ đêm tại đó , chỉ định tôi làm trưởng nhóm , trao nhau mật khẩu , và hẹn đêm mai sẽ trở lại cùng với ghe lớn , bốc đi . An tâm , tôi hỏi , đây là đâu ? , anh trả lời , vắn tắt : Bãi Trũ .
Bãi Trũ
Bao nhiêu kỷ niệm thời ấu thơ bỗng trở về rõ nét trong ký ức . Vào năm 1944 , tại những làng mạc chung quanh thành phố , chiến tranh nổ lớn giữa lính Tây và du kích Việt Minh , đàn bà và trẻ em phải tản cư ra các hải đảo . Mẹ tôi thuê ghe , đưa 2 con trai đầu ( tôi và Trọng ) , lúc ấy còn bé tí , và đứa con gái kế mới 3 tháng ( Huệ Trân ) ra Bãi Trũ , tránh máy bay và bom đạn của giặc Tây , và tạm trú nhà của người bạn bà ngoại tôi một tháng . Đó là một xóm hiền hoà , ít dân , phía trước là biển và bờ cát trắng xoá . Ngày ngày , tôi , Trọng , và mấy đứa cháu bà chủ nhà đi ra biển tắm , hoặc leo lên mỏm đá này chơi và hái trái chùm bao ăn . Gần nửa thế kỷ sau , 2 đứa tôi trở lại , nhưng lần này để trốn chạy giặc Việt Cộng , còn tàn ác hơn giặc Tây gấp bội . Nằm duỗi thẳng trên một tảng đá lớn , thay giường , mà ôn lại chuyện cũ , tôi thiếp đi lúc nào không hay .
- 2 -
Giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao , nắng chiếu vào mắt , chói chang . Nhìn quanh , trong một thoáng , không nhớ ra mình đang ở đâu . Nằm rải rác trên những tảng đá sát bên tôi là năm đồng bọn . Tất cả được che giấu bởi một vòm cây lá xanh tươi duy nhất , khá kín , từ bên ngoài khó thấy gì bên trong . Hồi tản cư hơn 40 năm trước , tôi nhớ cả hòn đảo còn um tùm cây cối , bây giờ chỉ là những tảng đá trọc lóc , to nhỏ không đều , trơ gan cùng tuế nguyệt . Chắc dân làng , năm này qua năm khác , đã leo lên chặt hết cây đem về làm nhà , hay đun bếp .
Tôi lấy giỏ thức ăn và nước uống , mà đêm qua Trứ giao cho , phân phát cho mỗi người một ổ bánh mì thịt , 2 viên kẹo bột , và một ca nước . Dặn mọi người không được nói lớn , vì phía dưới là dân làng , và dĩ nhiên , theo VC . Quả thế , nhìn xuống tôi thấy một lá cờ đỏ sao vàng to tướng treo từ một mái nhà , chắc là trụ sở phường , phất phới bay theo gió . Thỉnh thoảng vẳng lên nhiều tiếng cười nói ồn ào , có cả tiếng cãi vã , chửi thề .
Chín giờ tối , Trứ trở lại mỏm đá . Nghe đúng mật khẩu , tôi và Trọng xuống đón và nhận thức ăn mới , cũng là bánh mì thịt , và một nải chuối . Trứ nói nhỏ : Chưa có cá mập ( ghe lớn ) , có lẽ tối mai . Đi theo Trứ ra đảo lần này là một cặp anh em ruột tuổi độ 20 và 18 , tên Hùng và Cường , 2 khách hàng mới toanh , nhập bọn với 6 tên phản động nằm vùng sẵn . Thằng em , cao ráo đẹp trai , chọn tảng đá kế Trọng , Tú và tôi , dáng vẻ hồn nhiên , nói năng lễ phép , trong khi thằng anh , mập lùn , mặt lầm lì , khó chịu . Kế sát tôi là ông Thượng Sĩ già . Ông bị cảm lạnh , nên quấn khăn trùm kín đầu và cổ , và bất luận đêm , ngày cứ mỗi 15 phút , ông ngứa cổ ho lên một tràng sù sụ . Tôi sợ quá , nên mỗi lần ông rè rè sắp lên cơn , tôi vội lấy tấm khăn lau vàng ố của ông , hôi rình , có lẽ lâu ngày không giặt , bịt miệng ông lại , không cho ho lớn ( điều mà tôi làm trước cả người hùng Rambo đã dùng bàn tay che miệng một tù binh Mỹ bị ho vừa được anh cứu khỏi trại giam VC , khi cả 2 bị địch đuổi theo , trong phim First Blood II , 1985 ) và bảo Trọng lấy dầu cù là bôi lên và xoa ngực cho ông . Thằng cháu và thằng con ông thì ngồi giương mắt ngó , với vẻ thích thú .
Cảnh sống bất thường và đầy lo âu , hồi hộp cứ tiếp tục ngày này qua ngày khác , nhàm chán . Có những đêm nằm nghe từng tiếng máy ghe ra khơi , hoặc đi đánh cá đêm , hoặc tiến về phía những chân trời tốt đẹp hơn , mà lòng náo nức , lóe lên một tia hy vọng mong manh , chóng tàn , so với thực tại mịt mùng bóng tối . Có những ngày máy bay quan sát ( L19 , bà già cũ ) lướt qua , không biết có thấy gì không , nhưng cũng đủ làm nhức tim . Cả nhóm không thiết ăn uống nữa , không muốn nói năng gì nữa . Sáng dậy ai cũng ngồi thiền , tư lự , ngó mảng trời xanh xuyên qua kẽ lá , mà thở dài thườn thượt . Ông Thượng Sĩ Heo ngày càng bệnh nặng thêm . Vì là trưởng nhóm , tôi phải tỏ vẻ bình tĩnh , để làm gương , mặc dù nỗi thất vọng thêm ê chề sau mỗi lần Trứ đến tiếp tế , với câu thông báo duy nhất : chưa có cá mập .
- 3 -
Sau 6 ngày trông chờ ghe lớn , một buổi trưa nắng gắt , chúng tôi thấy một bầy con gái trong làng ra biển tắm , đúng ra nhúng nước cho mát , vì trên người vẫn mặc quần áo bình thường , đùa giỡn ồn ào , phía dưới mỏm đá . Không gian yên tĩnh , tiếng họ vọng lên nghe rõ mồn một . Ai cũng sợ , tự nhiên ngồi sụp xuống , nín thinh . Ông Thượng Sĩ Heo bỗng quên ho . May quá , bởi chỉ cần một tiếng ho , hay nhảy mũi , là bị lộ tẩy . Lòng tôi như lửa đốt . Khoảng nửa giờ sau , một đứa bỗng chỉ tay về hướng chúng tôi , nói lớn :
- Trời nóng quá , mình lên lùm cây trên mỏm đá kia ngồi nghỉ cho mát !
Nghe thế , tôi hoảng kinh , đến bên Trọng , ông Thượng Sĩ , và Hùng mở cuộc họp khẩn cấp bàn kế hoạch đối phó . Ông Thượng Sĩ đề nghị : Hay là mình dùng lưỡi lê bắt một con làm con tin ? Tôi lắc đầu , hỏi : Rồi sau đó mình sẽ làm gì ? Còn những con khác , bộ tụi nó không biết chạy đi và la lên cho Công An nghe ? Không biết phải làm sao nữa , cả ba đồng ý để tôi toàn quyền hành động . Tôi bình tĩnh , mà run trong lòng , chờ tai hoạ đến , vì biết chắc không còn chỗ nào ẩn náu nữa . Tôi ra hiệu cho tất cả , nhất là ba đứa con nít , hãy ngồi yên .
Một lát sau , các cô leo lên thật , vừa đi vừa nói chuyện . Thấy chúng tôi , cả bốn cô bỗng im tiếng , dừng bước , trố mắt , nhìn sửng , nhưng không hoảng sợ , hoặc rú lên , dường như đã quen cảnh này . Một cô lớn tuổi nhất , có vẻ tử tế , trầm tĩnh hỏi , giọng Bình Định vừa đủ nghe :
- Bộ mấy nẩu ( các ông ) núp ở đây để dượt biên , phải chớ ?
Tôi trả lời :
- Đúng vậy . Mấy cô làm ơn đừng báo Công An , phường khóm . Chỉ còn đêm nay nữa thôi , ghe lớn sẽ ra đón đi . Tôi trả ơn bằng một chỉ vàng nghe ...
Vừa nói tôi vừa móc túi áo và trao cho cô gái chiếc nhẫn vàng –quà tặng đi đường của Huệ Trân để ba cậu cháu xài khi hữu sự . Cô lưỡng lự , đưa mắt ngó đám bạn , ngầm hỏi ý kiến . Ai nấy lặng thinh . Cô gật đầu , cầm lấy nhẫn , nói :
- Thôi được , tụi tui không báo cho ai biết . Nhưng mấy nẩu nhớ , từ giờ đến sớm mai thôi nghen . Để lâu , người ta biết , kẹt cho tụi tui . Bây giờ tụi tui dìa nghen .
Bốn cô xuống núi , tôi đứng ngồi không yên , sợ họ phản phé . Thời buổi này , làm sao tin được ai ? Rồi tự an ủi : chối cũng không xong , thà khai thật tội vượt biên , nhẹ hơn là tội phản động , âm mưu trốn ra đảo để đánh phá Cách Mạng . Đành phó mặc cho mệnh số . Chuẩn bị tinh thần và chờ Công An lên hốt . Chờ mãi , không thấy động tĩnh gì , mới dám chắc các cô đã giữ lời hứa .
Tối đến , Trứ lại ra tiếp tế , như thường lệ . Vẫn không có cá mập . Tôi vắn tắt thuật cho Trứ nghe câu chuyện bị bại lộ buổi trưa . Nhưng anh vẫn câu giờ , hẹn tối mai , chắc chắn sẽ có ghe lớn . Tôi bực quá , ra tối hậu thư : Anh hứa lèo quá nhiều rồi . Chúng tôi không thể tin và chịu đựng được nữa . Ai cũng kiệt sức . Phải chở chúng tôi về đất liền ngay trong đêm nay . Nếu không , sáng mai chúng tôi sẽ xuống làng trình diện , và dĩ nhiên sẽ khai tên anh . Tuỳ anh ! Cuối cùng , Trứ phải đồng ý . Và lên kế hoạch : Tôi cần bốn người biết bơi , tôi sẽ chở qua Nha Trang trước , thả xuống cách Bưu điện chừng 100 thước , rồi lội vào bờ . Còn 4 người khác , tôi sẽ đưa qua bót . Bốn người biết bơi giơ tay tình nguyện , gồm Trọng , tôi , và 2 anh em Hùng , Cường , được sắp xếp ngồi trên khoang thoáng mát , cởi hết quần áo ngoài giao cho Trứ , chỉ còn quần tắm . Ông Thượng Sĩ và ba em bé , phải qua bót , bị ém chặt dưới lòng ghe như cá hộp , như lần trước .
- 4 -
Xong xuôi , ghe nổ máy trực chỉ Nha Trang . Tôi ngoái cổ , nhìn về phía lùm cây , mỏm đá , và Bãi Trũ , vẫy tay chào vĩnh biệt , như một cơn ác mộng . Hai mươi phút sau , đến khu vực Bưu điện và thành phố leo lét ánh đèn đường . Trứ giục : Nhảy xuống đi . Tôi không chịu : Anh bảo 100 thước , sao còn xa đến 200 thước vậy ? Trứ nói , giọng sợ sệt : Vô sâu thêm nữa , sẽ bị lộ . Hùng lên tiếng : Để tôi lội vô trước , coi tình hình , rồi nhảy xuống trước tiên , bỏ mặc thằng em ở lại với 2 đứa tôi .
Trọng và tôi bơi song song , gần nhau , liếc mắt trông chừng lẫn nhau . Cường bơi theo , lúc đầu ngang hàng , cách bên trái tôi độ nửa thước . Rồi càng lúc em càng tụt dần ra sau , và tôi không còn thấy bóng đâu nữa . Còn cách bờ khoảng 90 thước , 2 chúng tôi bỗng nghe tiếng gọi thất thanh của Cường vang lên trong không gian vắng ngắt : Anh Quý ơi , anh Trọng ơi , em đuối lắm rồi , cứu em với . Tôi quay nhìn đằng sau , thấy Cường trồi lên ngụp xuống , và nghe tiếng mếu máo : Anh Quý ơi ! Cứu em với ! Không hiểu sao , có lẽ vì phản xạ tự nhiên , có lẽ vì thương Cường , tôi bơi trở lại , về phía em , mà quên rằng mình chưa bao giờ học cách , mà cũng chưa có kinh nghiệm , cứu người sắp chết đuối , không phao . Trọng bơi theo sau , la lớn : Đừng , đừng , anh Quý ơi , anh sẽ bị chết theo đó . Lúc ấy tôi đã đến chỗ Cường rồi , vừa giơ tay trái ra , thì em chụp liền , giật mạnh xuống và toan ôm thân tôi . Tôi hoảng hốt , dùng tay phải , và lấy hết sức bình sinh , cố đẩy em ra . Tuy trẻ , nhưng đã trải qua bảy ngày đêm cực khổ trên mỏm đá , chăc Cường không còn sức , hoặc bơi không khá , hoặc cả 2 , chứ bình thường , tôi nghe nói , người bị nạn sẽ ôm cứng lấy người cứu , tưởng như 1 cột nhà , nhất là khi đến giai đoạn trồng cây chuối ( đứng thẳng đơ ) . Sau 1 hồi vật lộn , Cường cuối cùng buông tay tôi . Tôi vội vàng đạp nước bơi đi thì em cố chụp lấy chân , và hụt . Trong đường tơ kẽ tóc . Tôi thoát ra 1 khoảng cách vừa phải , rồi ngừng bơi , 2 giây , để thở . Vừa lúc ấy , Trọng sà tới , thấy tôi không nhúc nhích , tưởng cũng đang trồng cây chuối , nghĩa là hết cứu nổi , bèn bật khóc . Tôi nói : Anh không sao . Chỉ mệt . Trọng mừng lắm , đổi thế bơi ngửa , 1 tay khoát nước , 1 tay dìu tôi bơi theo . Không đến nửa phút sau , có tiếng thét lẫn tiếng khóc của Cường : Anh Quý ơi ! Anh Trọng ơi ! Cứu em ! Em chết mất ! Rồi im bặt .
Bơi miết đến bờ cát trống , thấp hơn mặt đường , gần Bưu điện , chỗ có quán nhậu Gió Khơi Số Một trước 1975 , với hàng thuỳ dương lưa thưa , nay bị dẹp bỏ . Lúc ấy , xem đồng hồ thấy ba giờ sáng . Trên đường không 1 bóng người hay xe . Không thấy Hùng đâu . Tôi bảo Trọng : Bây giờ còn sớm quá , mình hãy ngồi núp dưới bờ tường kia , chờ đến bốn giờ rưỡi , rồi hãy đi , giả người đi tắm biển sớm , rồi về nhà Mạnh . Mạnh là bạn thân của tôi , Đại Uý Lực Lượng Đặc Biệt . Về nhà chúng tôi thì xa quá , và không ai chạy bộ vào giờ ấy , sẽ bị lộ .
Đúng 04G30 , trời bắt đầu sáng . Trên đường , đã có người chạy , hoặc đi ra biển . Hai anh em rời chỗ núp , leo lên đường , và bắt đầu chạy lúp xúp , như tập thể dục , theo đường Duy Tân , về hướng Xóm Bạch Đằng , nơi Mạnh ở . Đi ngang 1 đồn Công An , Trọng bỗng quýu chân , như muốn khựng lại . Tôi phải liên tục nhắc : Cứ chạy tỉnh bơ , để chúng khỏi nghi .
Cuối cùng cũng đến địa chỉ của Mạnh , có 2 căn giống nhau và sát nhau , tôi không nhớ căn nào là của Mạnh . Sau 1 giây lưỡng lự , tôi gõ đại . Một tiếng Bắc Kỳ 2 nút nhừa nhựa của 1 người đàn bà còn ngái ngủ vọng ra : Ai đấy ? Tìm ai ? Tôi trả lời : Tôi muốn tìm ông Mạnh ! Vẫn tiếng Bắc Kỳ 2 nút , cộc lốc : Nhà ông Mạnh bên kia !
Chị Mạnh mở cửa , ngón tay đặt lên môi , ra dấu bảo im lặng , và đẩy ngay 2 đứa vào trong , khoá trái cửa lại . Nghĩa là chị đã nghe những câu đối đáp từ căn bên cạnh . Mạnh cười cười nhìn 2 đứa , nói nhỏ : Nhà đó là của thằng Công An khu vực , chuyên nhốt người vượt biên . May cho 2 ông , nó mà mở cửa , là tiêu đời . Rồi Mạnh pha cà phê , mời uống . Đưa cho mỗi đứa 1 bộ quần áo , và nói : Chút nữa , tôi sẽ chở Quý về trước , và nói với Thư đến tối qua chở Trọng về .
- 5 -
Mẹ và 3 em gái , Huệ Trân ( vợ Thư ) , Bội Trân , và Huyền Trân , đã biết tin bể mánh , do Trứ chở cháu Tú đến trả tận nhà , báo cho biết . Cho nên không ai ngạc nhiên khi thấy Mạnh đậu xe trước ngõ , thả tôi xuống . Hỏi han đủ chuyện trên đảo , tất cả quay về đề tài người chết đuối , Cường . Khi thấy tôi cứ ân hận mãi , mẹ bảo : Con đã làm hết sức mình để cứu nó rồi , mà không được , thôi đừng áy náy nữa .
Trong khi tôi nằm đảo , mẹ đã sai Huyền Trân đạp xe ra xưởng dệt báo tôi bị bệnh nặng , xin nghỉ 1 tuần . Cho nên , trở về , ngay sáng hôm sau , hết hạn nghỉ , tôi phải đi làm lại . Không ai nghi ngờ , vì bảy ngày đêm kham khổ làm mặt tôi tái xanh , hốc hác thấy rõ . Trừ 1 cô , bạn của Huyền Trân , tên Thanh , là người ghiền đi vượt biên , bị bắt mấy bận , nên mũi rất thính . Thấy tôi đâu , cô tủm tỉm cười , thông cảm .
Hai ngày sau , xác Cường nổi lên , tắp vào bờ . Thiên hạ hiếu kỳ đi xem đông . Nghe Trứ kể , có cả Hùng , mẹ và người chị của Cường . Họ chỉ biết đứng nhìn và khóc thầm . Không dựa vào chứng cớ nào , Công An cho đó là xác của 1 người vượt biên , chứ không phải đi tắm . Cho nên thân nhân không dám đứng ra nhận , vì sợ bị tra hỏi , hoặc tống giam . Bọn chúng , vào thời đó , quá ác ôn đối với những người phản bội tổ quốc trốn ra nước ngoài , có lẽ , đúng hơn , cốt moi tiền . Khác với sau này , no rồi , chúng dễ dãi hơn . Mẹ Cường phải bỏ tiền thuê 1 người dưng liều mình đứng ra nhận xác con đem đi chôn . Sợ lộ , tôi không đến xem . Nhưng sau đó 1 mình lên lầu , trước bàn thờ Chúa , tôi quỳ xuống , đọc kinh cầu nguyện cho em : Em Cường , anh xin lỗi đã không thể cứu em được . Xin em thông cảm và đừng giận anh . Suốt đời anh sẽ không quên em . Thôi em hãy ra đi bình an , không còn lo lắng , hồi hộp , sợ hãi gì nữa , vĩnh viễn xa lìa cái chế độ khốn nạn này ...
- 6 -
Liên , vợ của Trọng , ở Phan Rang , giới thiệu 1 ông Thầy Bói Chàm , đoán về vượt biên , như thần . Mẹ bảo tôi vô Tháp Chàm thăm gia đình Liên , nhân tiện gặp hỏi ông về việc đi đứng trong tương lai . Tôi là chúa ghét , và không tin , thầy bói , sáng hay mù , Kinh hay Chàm . Nhưng chiều mẹ , 1 sáng Thứ Bảy , nghỉ việc , tôi lấy xe đò đi Phan Rang cùng với em Bội Trân . Ăn trưa xong , Liên dẫn chúng tôi đến nhà ông Chàm , gần đó .
Tôi vừa lò dò bước vô cửa , chưa kịp chào , thì ông thầy , tuổi độ 60 , mặc áo và quấn xà-rông trắng , như người Miên , vẻ dữ tợn , lấy tay chỉ vào bản mặt tôi , mà nói 1 tràng như hét , giọng lơ lơ : Ông mới đi vượt biên hụt trở về phải không ? Có 1 con ma nam nó đang theo ông , vì nó thương ông . Con ma nó còn trẻ , chừng độ 17 , 18 thôi . Nó chết đuối trong chuyến vượt biên cùng với ông . Ông ráng cứu nó , mà không được . Tôi giật mình , sửng sốt nhìn Liên , rồi Bội Trân , ngầm hỏi có phải Liên đã mách nước cho ông Chàm , để quảng cáo ? Nhưng thấy nét mặt Liên cũng ngạc nhiên không kém , tôi an lòng . Vả lại , thời ấy chưa có cell phone , ipad , và Trọng đang trốn nhà tôi , Liên lấy đâu ra đầy đủ tin tức , mà nhanh đến thế ? Phần khác , tôi sợ ông thầy là Công An giả dạng , chơi đòn phủ đầu , nên ngậm miệng , không cho biết ông nói đúng hay sai . Chỉ hỏi : Tôi có số xuất ngoại không ? . Ông khẳng định : Không ! Phải cúng con ma đó , xin nó tha đừng theo phá anh nữa , mới được ! . Bội Trân nói : Nhưng gia đình tôi theo đạo Chúa , không biết cúng . Ông trả lời : Thì mướn người khác cúng thế . Cũng được ! Khi ra về , Bội Trân không quên trả tiển quẻ cho ông .
Về lại Nha Trang , Bội Trân kể hết chuyện ông thầy Chàm cho cả nhà nghe . Ai cũng lấy làm lạ . Mẹ tin , và ưu tư với việc cúng con ma nam , mà mẹ muốn làm lắm , nhưng biết chắc chắn các con không đứa nào chịu , mà cũng chưa biết nhờ ai cúng thay . Một tuần sau , 1 bà bạn của mẹ từ Sài Gòn báo tin gấp , có chuyến đi sắp sửa khởi hành , bảo đảm một trăm phần trăm . Ưu tiên cho Trọng và Tú đi trước , có Mẹ và Huệ Trân đưa vô tận nhà bà bạn , ở chợ Vườn Chuối . Hai đứa đi thoát , đến Indonesia .
Trọng đi rồi , bớt được 1 trái bom nổ chậm trong nhà , mẹ vui lắm . Lòng thấy nhẹ hơn . Còn lại , tiếp theo , là tôi , trái bom thứ 2 , và Bội Trân , Tiếp Viên Hàng Không Nguỵ , cũng là hàng độc , bị những thằng Công An trồng cây si , nườm nượp thay nhau đến nhà quấy rầy , quá phiền . Loay hoay tìm mánh , Mẹ quên mất chuyện cúng con ma nam . Một tháng sau khi Trọng ra đi cứu nước , từ Cầu Chữ Y , thành công hoành tráng , thì bà mối Chợ Vườn Chuối lại nhắn tin có chuyến mới , vô gấp . Chắc ăn quá rồi . Tôi làm đơn xin nghỉ làm tại xưởng dệt , lấy cớ đi Sài Gòn kiếm việc dạy học , nghề cũ của tôi , để phục vụ tốt đất nước . Thằng phường trưởng mới nhậm chức là em cùng cha khác mẹ với 1 người bạn đồng ngũ thân thiết của tôi , 2 gia đình quen biết nhau trước 1975 , nhắm mắt ký đơn liền , sau khi nhận được 1 số tiền trà nước từ tay Mẹ . Thấy tôi nhăn mặt , Mẹ bảo : Của đi thay người mà con . Bây giờ , muốn được việc gì , chỉ còn cách đó thôi .
Hai anh em tôi lên đường ngay . Nhưng đó là chuyện khác , lần khác , trong 1 bài khác . Cũng gian truân , hồi hộp , đau thương và tràn nước mắt . Như trăm , ngàn chuyến ghe đời mong manh khác , ở 1 địa ngục trần gian , còn kinh khiếp hơn địa ngục trong Virgile , Dante , và Phạm Công Cúc Hoa , có tên Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của 1 loài khỉ đột đã biến thành người , hiểm ác nhất hành tinh , được gọi là Việt Cộng .
Kim Thanh - Portland 2016/04/30
( Kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 41 ) 

Nguồn: http://hcsvvdhdalat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1276:gd&catid=29:the-cms&Itemid=75 


Tưởng niệm thuyền nhân tử nạn trên đường tìm tự do
(VienDongDaily.Com - 28/04/2015)
Bài THANH PHONG

WESTMINSTER - “Ngày hôm nay, Chủ Nhật 26 tháng Tư năm 2015. Chúng ta đang ở vào thời điểm 30-4. Ngày Tưởng Niệm Quốc Hận của người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoại. Nếu không có ngày Quốc Hận 30-4-1975 sẽ không bao giờ có hiện tượng bi thảm Thuyền Nhân.”
Trên đây là một phần trong bài diễn văn khai mạc buổi lễ Tưởng Niệm Thuyền Nhân của nhà thơ, nhà báo Thái Tú Hạp, thuộc Ban Tổ Chức Lễ Tưởng Niệm Thuyền Nhân vào trưa Chủ Nhật tại Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trong khu nghĩa trang Westminster Memorial Park.
Buổi lễ do nữ sĩ Ái Cầm làm Trưởng Ban Tổ Chức và có sự tham dự của Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam, các vị dân cử từ tiểu bang đến các thành phố Westminster, Garden Grove, thân hào nhân sĩ, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị và Hội Đồng Hương Quảng Nam - Đà Nẵng, Cộng Đồng Người Việt San Diego, CLB Hùng Sử Việt San Diego; Ban Tù Ca Xuân Điềm, các cơ quan truyền thông và hàng trăm đồng hương.
Mở đầu buổi lễ có nghi thức chào quốc kỳ Quốc Gia VN và Hoa Kỳ cùng phút mặc niệm do các cựu quân nhân TQLC/VNCH dưới sự chỉ huy của TQLC Nguyễn Phục Hưng. XNV Minh Phượng và Nghị Viên Tyler Diệp điều hợp chương trình buổi lễ.
Trong diễn văn khai mạc, sau khi đề cập đến hậu quả của Hiệp Định Paris ký kết năm 1973 đưa đến việc quân đội VNCH “mặc dù tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường nhưng phải đau lòng chấp nhận buông súng tan hàng,” nhà báo Thái Tú Hạp nói tiếp, “Trong cuộc hành trình đi tìm tự do đã có đến hàng trăm ngàn thuyên nhân, bộ nhân tử nạn vì đói khát, hải tặc, bão tố và những cơn biến động nghiệt ngã kinh hoàng bi thảm trên biển Đông và nơi rừng sâu núi thẳm! Chưa có một cuộc di tản nào trong lịch sử dân tộc Việt Nam thể hiện sự can trường của người Việt chấp nhận đi vào con đường chết để tìm sự sống như hiện tượng Thuyền Nhân. Những đau thương thống khổ không thể nào tả xiết là một minh chứng hùng hồn nói lên quyết tâm của người Việt tỵ nạn thiết tha yêu chuộng Tự Do – Dân Chủ và Nhân Quyền, Hãy Cho Tôi Tự Do Hay Là Chết!”
Ông Thái Tú Hạp cũng đề cập đến những ân nhân của người Việt tỵ nạn, trong đó có Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ Jimmy Carter mà nhiều người Việt gọi thân thương là “Tổng Thống Của Thuyền Nhân” cùng với lòng bao dung của người dân Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới. Ông nhấn mạnh, “Bốn-mươi năm nhìn lại, chúng ta rời khỏi quê hương, nhưng quê hương không bao giờ rời khỏi trong tâm khảm chúng ta,” và “Nếu chúng ta vinh danh các chiến sĩ đã hy sinh cho tổ quốc Việt Nam, chúng ta cũng cần phải vinh danh những người đã tử nạn trong hành trình tìm tự do. Họ chính là những chiến sĩ đã hy sinh cho tự do của dân tộc, của chính mỗi người chúng ta, và của con cháu muôn đời chúng ta đang được đãi ngộ xứng đáng ở các xứ sở tự do, dân chủ trên khắp thế giới.”
Cũng trong bài diễn văn cảm động này, nhà báo Thái Tú Hạp không quên cám ơn Thị Trưởng Tạ Đức Trí tác giả Nghị Quyết Vinh Danh Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân và Ngày Thuyền Nhân Việt Nam được HĐTP Westminster đồng thuận ban hành ngày 12 tháng Tám, 2009. Cuối cùng, thay mặt ban tổ chức, ông Thái Tú Hạp chân thành cảm tạ mọi người đã hiện diện trong buổi lễ mang ý nghĩa tâm linh này.
Bác sĩ Lê Hồng Sơn, thành viên Ủy Ban Thực Hiện Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân có một diễn từ bằng Anh ngữ. Sau đó ban tù ca trình bày hoạt cảnh “Nhớ Về Biển Đông” sáng tác của nhạc sĩ Xuân Điềm.
Thị Trưởng Tạ Đức Trí và HĐTP Westminster cùng ông Jeff Gibson, Giám Đốc Westminster Memorial Park được ban tổ chức tặng hoa và mời phát biểu cảm tưởng. Kế tiếp, một bản hợp ca “Bạch Đằng Giang” được ban hợp ca trình bày. Sau cùng, các vị lãnh đạo tôn giáo đến trước Tượng Đài Thuyền Nhân thắp hương cầu nguyện và thả bong bóng kéo theo những lời nguyện cầu bay lên cao.


                            Nhà báo Thái Tú Hạp đọc diễn văn khai mạc. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Một số đồng hương chia sẻ cảm nghĩ
Xung quanh khu vực Tượng Đài có hàng chục phiến đá lớn khắc tên những thuyền nhân tử nạn. Một bác cao niên ở Anaheim cùng với ba người con cúi nhìn tên thân nhân mình. Bà nói với chúng tôi trong nước mắt, “Con, cháu tôi đi vượt biên năm 1987 tại bãi Cần Giờ, gia đình tôi 7 người mất thằng con trai tên Lục Phương Dinh, hai cô nó là Lục Phương Hồng, Lục Phương Hoàng, chồng của cô nó là Nguyễn Văn Của (Thiếu tá KQ), em nó là Huỳnh Tịnh Khiêm, Huỳnh Tịnh Duy đều tử nạn. Sau 40 năm rồi, tôi vẫn đau buồn, tôi vẫn hận cộng sản. Tôi không ra đây thì thôi, ra đây tôi hận lắm. Năm nào tôi cũng ra, coi như nơi đây là nơi an nghỉ của con, cháu tôi rồi tại vì bây giờ mình đâu có biết xác ở đâu nữa!”
Người con dâu của bà nói với Viễn Đông, “Con tên là Phương, lần đầu tiên con đến đây. Nhìn những tên khắc trên tấm đá này con thấy đó là nỗi đau buồn của mỗi gia đình. Con đến đây để cầu nguyện cho những linh hồn này được an nghỉ trên chốn vĩnh hằng”.
Chị Huệ Trần, cư dân Westminster đang thắp nhang cho người thân và cả những tấm bia khác. Trả lời câu hỏi của chúng tôi, chị cho biết, “Tôi có người cô là Huỳnh Thanh Niệm và người em là Huỳnh Ngọc Khôi cùng chết trong chuyến tàu vượt biên năm 1989 đi từ Cà Mau. Tôi buồn thì buồn thiệt nhưng cũng mừng vì có nơi này ghi khắc tên cháu, coi như phần mộ cháu ở đây. Tôi rất biết ơn những người thành lập ra Tượng Đài Thuyền Nhân này.”
Chị Nguyễn Thị Bích, một người rất tích cực trong các sinh hoạt đấu tranh của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali. Khi được hỏi, 40 năm rồi, bây giờ ngồi trước Tượng Đài Thuyền Nhân, chị nghĩ gì? Chị trả lời, “Cái cảm nghĩ của tôi là rất xúc động, bùi ngùi, tưởng nhớ sau 40 năm, biến cố đau thương xẩy ra cho dân tộc mà tất cả người Việt đều cho rằng đó là ngày Quốc Hận, rất chính xác, vì là ngày giặc cộng đem tang thương, gây chết chóc, chia lìa gia đình và gây hận thù. Hôm nay tôi có mặt để tưởng niệm anh linh các Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã hy sinh và đồng bào mình đã tử nạn, một việc làm thật ý nghĩa của ban tổ chức”.
Một chiến hữu, anh Trương văn Thưởng, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cho Viễn Đông biết cảm nghĩ của anh khi ngồi trước Tượng Đài Thuyền Nhân: Bốn-mươi năm rồi, tôi vẫn cảm thấy rất đau đớn cho dân tộc VN, và các thân nhân của mình còn kẹt bên quê nhà cùng với gần 100 triệu đồng bào trong nước vẫn đang phải sống dưới chế độ cộng sản mà người ta gọi là nhà tù lớn, thành ra tôi cảm thấy rất bùi ngùi, thương tiếc cho đồng bào còn ở lại. Gia đình tôi cũng là gia đình thuyền nhân vượt biên, chịu nhiều sóng gió nhưng may mắn qua tới đây được là nhờ ơn Thượng Đế và tôi hằng cảm tạ.”
Cô Nguyễn Thu Hà, Hội Trưởng Young Marine (Hậu Duệ TQLC/VNCH), một người trẻ hết sức tích cực trong các cuộc đấu tranh và sinh hoạt cộng đồng chia sẻ cảm nghĩ của mình với độc giả Viễn Đông, “Hôm nay Thu Hà đến đây cùng với đồng hương tham dự buổi lễ Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Năm nào cháu cũng đến và cũng bùi ngùi vì cháu cảm thấy rất may mắn là người đã đến được bến bờ tự do nhưng nhiều thuyên nhân khác đã không được may mắn như cháu. Bản thân cháu cũng là một thuyền nhân dù lúc đó còn rất nhỏ nhưng cháu cũng hiểu chuyến hành trình thật là vô vọng, không biết mình có đền được miền đất tự do hay không nên cái cảm xúc mà khi đọc tên từng người trên các mộ bia có một cái gí đó làm cho cháu nấc ngẹn trong lòng. Theo cháu, đây là một trang sử khó quên của dân tộc nói chung và của người Việt tỵ nạn nói chung, đồng thời cũng là một tội ác không thể nào biện minh được của chế độ cộng sản Việt Nam.”
Chị Thanh Liễu, phu nhân nhạc sĩ Xuân Điềm, cho biết chị “Mất một người con trên đường vượt biên, lúc đó cháu 11 tuổi. Chị Thanh Liễu chia sẻ, “Thực ra, sau 40 năm rồi mà Thanh Liễu thấy như những hình ảnh đang ở trước mặt mình, nên rất buồn, buồn vô cùng vì người Việt mình đi tìm tự do đã phải trả cái giá quá đắt, hàng trăm ngàn người chết vì đói khát hay bị hải tặc hãm hiếp, bị đắm tàu v.v. ôi buồn quá! Nhất là vợ chồng Thanh Liễu cũng mất một người con. Ngày hôm nay, Ban Tù Ca tới đây để cùng ban tổ chức nói lên những gì thay cho những thuyền nhân đã tử nạn.” Chị xúc động quá không nói tiếp được.
Viễn Đông hỏi nhạc sĩ Xuân Điềm: Anh nghĩ thế nào khi anh chọn bài nhạc “Đêm Chôn Dầu Vượt Biển của nhạc sĩ Vũ Thành An” để hát mở đầu trong chương trình hôm nay?

           Gia đình này có 7 người thân tử nạn trên đường tìm tự do, đang ngồi trước phiến đá ghi tên thân nhân. (Thanh Phong/Viễn Đông)


Nhạc sĩ Xuân Điềm trả lời, “Tất cả những người đang nằm đây, hầu hết là đi tỵ nạn cộng sản, nhiều nhất là những người đi trên những chiếc thuyền mỏng manh. Họ biết nguy hiểm nhưng họ vẫn cứ đi, và muốn con thuyền ra khơi họ phải cần có dầu, và để qua mặt bọn công an cộng sản, họ phải tìm mọi cách chôn từng lít dầu cho đến khi đủ số dầu mới dám vượt biển, nhưng rồi tàu chìm vì sóng to gió lớn, người chết vì hải tặc tấn công, vì khát, vì đói thành ra tôi chọn nhạc phẩm đó để nói lên cái đêm tối hãi hùng đó.”
Anh Lý Vĩnh Phong, cựu Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Nam Cali, hiện là đại diện cho Dân Biểu Liên Bang Alan Lowenthal, chia sẻ cảm nghĩ của mình với độc gỉa Viễn Đông, “Tượng Đài Thuyền Nhân này rất đặc biệt, tại vì khi biến cố 30 tháng 4 xảy ra cách nay 40 năm, bây giờ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ, không ai không cảm động khi nhìn thấy những hình ảnh thuyền nhân. Trên thế giới chưa có quốc gia nào có biến cố đau thương khiến hàng trăm ngàn đồng hương mình phải bỏ nước ra đi. Cho dù thế hệ trẻ không hiểu biết nhiều về chiến tranh Việt Nam nhưng họ cũng phải đặt câu hỏi trong đầu họ là Tại sao những người này phải bỏ nước ra đi, phải bỏ chạy hốt hoảng như vậy? Thì đó là chứng cớ lịch sử rõ ràng nhất cho giới trẻ Việt Nam xem, đất nước chúng ta đã rơi vào cái thể chế rất xấu, rất không tốt nên mới khiến người dân phải bỏ nước ra đi.

Nén hương cho thuyền nhân VN bỏ mình vì tự do
Một người đang khấn nguyện cho những đồng bào Việt Nam đã tử nạn trên đường tìm tự do thoát khỏi chế cộng sản VN, bằng đường biển cũng như đường bộ, trong buổi lễ tưởng niệm được tổ chức vào trưa Chủ Nhật vừa qua, tại Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trong khu nghĩa trang Westminster Memorial Park. Một bác cao niên có con cháu tử nạn trên đường vượt biển, nói, “Sau 40 năm rồi, tôi vẫn đau buồn, vẫn hận cộng sản. Năm nào tôi cũng ra, coi đây là nơi an nghỉ của con, cháu tôi rồi, tại vì bây giờ mình đâu có biết xác ở đâu nữa!” Xem bài trang A10. (Hình: Thanh Phong/Viễn Đông)



“Những thế hệ đi trước và thế hệ đi sau đã biết đó là vấn nạn cộng sản Việt Nam. Lần nào Phong đến đây Phong cũng xúc động vô cùng, và luôn cầu nguyện cho các người tử nạn được sớm siêu thoát. Và Phong nghĩ, Tượng Đài Thuyền Nhân là một chứng tích hùng hồn cho người trẻ biết lý do tại sao họ có mặt tại đất nước Hoa Kỳ này để họ cố gắng thay thế cha ông mình lấy lại giang sơn tổ quốc, dẹp bỏ chế độ cộng sản, xây dựng một thể chế tự do, dân chủ như hấu hết các quốc gia hiện nay trên thế giới.”
Tượng Đài Thuyền Nhân được khánh thành vào ngày 25 tháng Tư, 2009 thực hiện bởi một Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài Thuyền Nhân VN gồm cố nhạc sĩ Việt Dzũng, BS Lê Hồng Sơn, Thu Thủy, Minh Phượng, Chí Thiện, GS Vân Bằng, LS Từ Huy Hoàng, Khúc Minh, Đan Tâm, Hiền Nhi, Doanh Doanh, Thái Tú Hạp và Ái Cầm và sự hỗ trợ của Ban Giám Đốc Westminster Memorial Park. (tp)

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/tuong-niem-thuyen-nhan-tu-nan-tren-duong-tim-tu-do-WQOBKsZ6.htm

Xem thêm:
Cách mạng 30- Giờ thứ 24/csVN


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét