Nguyễn Huệ đã chia sẻ một bài viết. biểu tượng huy hiệu Người bắt chuyện · 18
giờ · Nền Đệ Tam Cộng Hòa sẽ giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu giống như
Vua Lê Thánh Tông đã giải oan cho Ức Trai Nguyễn Trãi sau 20 năm vụ án Lệ Chi
Viên❤❤❤ Một mình VNCH đã chiến đấu chống cả một thế giới communism . Mỹ bỏ rơi
đồng minh của mình . Trong khi đó Bắc Việt được sự hậu thuẫn từ Liên xô , trung
cộng ... Ngài TT Thiệu đã làm hết sức mình rồi . Gặp một ai khác đóng vai của TT
Thiệu , cũng phải chịu chung số phận thôi ...... Muốn tiêu diệt Liên xô nên nhả
Miền Nam cho Trung cộng,để nó không phá rối . Nên phải hy sinh miền nam ... vậy
đó . Chúng ta chỉ là con cờ cho nước lớn chơi . Chơi theo ý định của họ thôi .
Thật buồn ! Lat NguyenHoài Niệm Miền Nam Một Thời 23 giờ · Thấy bài viết hay .
Gửi các bạn đọc . Đọc để thấy người bạn Đồng Minh (Hoa Kỳ) ném đá dấu tay như
thế nào. Tác gỉa Bùi Anh Trinh 29-9-2015 * Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ
14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận
chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một
người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả
là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm. Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI? Kể từ
ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh
tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất
tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau. Chính vì vậy
mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn
chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và
đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào
cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường
để làm lại cuộc đời. Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán
hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh”
khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi
thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho
nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH. Ⅱ –
Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973. Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm
đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm
1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân
viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân
tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt. Đến năm 1972 ông bị đày đi
VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo
của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank
Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình
cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng
kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn
cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất
dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ. CIA đã
đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào
tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp
vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank
Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều
đã đọc Decent Interval. Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký
kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử
Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ
Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo
được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà
Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was
obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion
required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như
vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973. Ⅲ – Nixon
THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974. Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon
đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến
lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên
Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn
1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ
dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh
lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ. Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội
Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà
Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ
để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra,
ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối. Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi
ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách
lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của
Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt
Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà
Nội. Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và
Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội.
Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ
không còn cớ để truy xét. Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông
qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật
Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì
những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được
thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi
Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí. Ⅳ
– HÀ NỘI CAY ĐẮNG. Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội
ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh
VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn
tiếp tục bị giam giữ. Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN
vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam.
Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa
biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng
Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris
được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng
10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng. Theo
đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát
triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK
cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết,
và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ
đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên
Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là
Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa
Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người
chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn
lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà
nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ
phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu
để gây chiến tranh trở lại. *(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho
tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm
được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%) Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU. Bắt đầu từ
năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày
cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với
tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được
nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối
của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại
Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn
và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên,
The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136). Năm 1974 tháng
Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974
Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm
đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để
giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới
bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95). Tướng John Murray là Tư Lệnh
cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định
Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính
toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm
1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô
la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ
được Vùng 4. Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp
chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên
(Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray
khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1,
Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên
đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không
thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH)
thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của
Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng
trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1,
Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng
kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo
chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh. Năm
1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân
CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh
được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu
của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ
quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn
Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá
Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên). Thiếu Tướng Smith tiết lộ
rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu
đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian
thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách
của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống
mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn
toàn có thật. Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất
Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn
kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân
sách chi dụng cho kế hoạch. Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất
Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những
điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt
Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này
Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng
Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng
Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng
Văn Thái, trang 172). Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại
Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem
phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu
quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH. Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM
1975: -Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại
Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính
Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp
tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”.
(Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol
Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid
pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”). –
Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông
ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện
trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì
không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang
176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our
aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were
necessarily salvageable, but precisely because they might not be). Hai ngày sau
khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ.
Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không
còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn
Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và
Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã
thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội. Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột.
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm,
Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt
lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi
lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy
đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã
ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi
trong bữa ăn sáng…” *“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan
trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê
Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The
Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131). “Ngay sau khi
Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như
hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để
VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã
kết thúc” (trang 132). Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng
Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt
tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu. Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến
dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ
đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải
oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch
sử.
(Nguồn: Email)
Nguồn:https://www.facebook.com/groups/1022221241153489/user/100031036507769/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét