Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2019
QUÂN SỰ VIỆT NAM Hồ sơ mật: Bí mật còn chưa biết ở Tổng kho Long Bình
Skip to content
Tổng kho Long Bình: Hệ thống kho ngầm đã được mở khóa hay chưa?
Tổng kho và căn cứ Long Bình nhìn từ trên cao.
Vụ phá nổ kho đạn Long Bình ngày 30 tháng 4 năm 1976
Posted on by dongsongcu
Đỗ Như QuyênNhững gì kể ra ở đây, hôm nay, chỉ có mục đích giải thích phần nào về các hoạt động tình báo của Mỹ sau lưng VC thời hậu chiến, giúp làm sáng tỏ thêm những hiểu biết loáng thoáng của một sô người chưa am tường lãnh vực này, họ không tin rằng sau 1975 tình báo Mỹ còn ngang dọc ở Việt Nam. Những gì nói ra không phải tự đề cao cá nhân, vì nó chẳng mang lại lợi ích gì, và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về các chuyện được ghi ra đây. Người đọc tin hay không đối với tôi chẳng quan trọng, vì tất cả các diễn tìến trong đời mình xảy ra như thế nào rồi cũng sẽ được kể lại đầy đủ hơn trên giấy trắng mực đen.
Sau tháng 4/ 1975, chỉ trong vòng 5 tháng VC đã phục hồi tuyến đường xe lửa, bắt đầu tái hoạt động từ tháng 9 trên đoạn đường từ ga Sài Gòn đến ga Gia Rây thì quay trở lại ( xã Gia Rây, quận Xuân Lộc, Đông- Bắc thị xã Long Khánh khoảng 13 Km). Mục đích VC hối hả phục hồi tuyến đường này vì Sài Gòn dang khan hiếm lương thực trầm trọng, nhất là than và củi cho việc nấu nướng (cũng trong lúc này bến xe Petrus Ký ở Ngã Bảy vẫn còn duy trì, bến xe Nguyễn Hoàng gần đó cũng còn, mãi tới năm 1978 VC mói dời ra chân cầu Bình Triệu, riêng ga xe lửa Sài Gòn thì cuối năm 1976 chúng đưa ra Bình Triệu được hơn một năm thì dời về Hoà Hưng tới ngày nay, riêng đoạn đường từ Gia Rây tới Mương Mán thì hoạt động vào đầu năm 1977).
Trở lại với số cựu quân nhân nay đang sống phiêu bạt khắp Sài gòn và vùng phụ cận như Biên Hoà, Bình Thạnh, Gò Vấp vv, họ thuộc đủ các quân binh chủng, và quan trọng nhất là ai cũng mang trong lòng mối uất hận trước bọn cán bộ VC và sẵn sàng ra tay ám hại nếu có cơ hội, nếu được móc nối để đi vào rừng hoạt động họ sẽ mau mắn đi ngay. Số cựu quân nhân vưà kể chính là nguồn nhân lực cho các tổ chức chống cộng tuyển người và đưa đi các nơi. Ga Sài Gòn lúc đó mỗi ngày có hai chuyến tàu đi Gia Rây và ngược lại, chuyến 5 giờ sáng và chuyến 12 giờ trưa. Tàu đi qua các ga: Hoà Hưng (ga lớn); Phú Nhuận; Gò Vấp; Bình Lợi; Bình Triệu; Chợ Đồn; Thủ Đức; Dĩ An (ga lớn); Hố Nai; Biên Hoà; Sóng Thần; Trảng Bom; Dầu Giây; Bàu Cá; Long Khánh; Bảo Chánh; Gia Rây (ga lớn); Trảng Táo; Gia Huynh; Suối Kiết; Sông Dinh; Sông Phan; Suối Vận; Mương Mán (ga lớn). Lưu ý rằng lúc đó đoạn đường sắt từ Bảo Chánh tới Mương Mán hai bên vẫn còn rừng già dày đặc, rất thuận lợi cho việc nhảy xuống, nhảy lên tàu bất cứ chỗ nào để tẩu thoát nếu gặp nguy hiểm, dĩ nhiên phải có người tháo ống thắng giữa các toa tàu để yểm trợ.
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, ở những vùng nông thôn hẻo lánh, gần núi rừng, đồn điền cao su vv vẫn còn vài đơn vị cấp trung đội, đại đội tiếp tục chiến đấu với VC vì vài nguyên nhân như sau: thất lạc đơn vị gốc cao hơn, không tin VC hoàn toàn chiếm hết miền Nam, không ra đầu hàng bởi không thể chấp nhận sống với cộng sản. Lực lượng này VC gọi là “tàn quân”.
Tất cả những việc nêu trên chỉ là đơn cử vài công tác nổi bật và thành công nhất mà anh em BĐQ chúng tôi đã thực hiện ngay trong lòng địch, lúc mà hầu hết các cấp sĩ quan đã vào tù cộng sản. Và tất cả đều là những nỗ lực thầm lặng, anh em đã hiến thân vì đại cuộc mà chẳng cần bằng cấp hay cấp bậc gì cả, và cũng chẳng cần phải nêu tên, xưng họ nhằm loè loẹt với người đời.
Hôm nay, bất đắc dĩ phải lên tiếng kể ra sơ sài vài chuyện, nhưng trong lòng lại đau đớn khôn nguôi vì chạnh nhớ những anh hùng vô danh đã âm thầm nằm xuống, riêng mình vẫn còn đây trong cay đắng vì đại cuộc vẫn chưa thành.
Anh hỏi tôi có biết hay không hai người bạn đã bị VC thủ tiêu vì tham gia “phục quốc” trong giai đoạn đó. Tôi không thể biết hết được danh tính những anh hùng như vậy đâu anh ơi ! Lúc đó có khá nhiều nhóm hoạt động, anh em hy sinh trong âm thầm cũng nhiều lắm, mộ phần nay cũng không biết bị vùi lấp nơi đâu. Mai sau quê hương không còn cộng sản, xin hậu thế cho các anh được thờ tự như những anh hùng thời hậu chiến với hương khói nghìn thu.
Chúc anh nhiều sức khoẻ.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
Thay vì trả lời vào hai câu hỏi của anh, tôi cố gắng kể lại thật tóm tắt về sự kiện các tổ chức phục quốc, tàn binh v.v từng hoạt động ở miền Nam từ sau năm 1975 đến đầu năm 1982 mà nhiều người thường nghe đồn, không biết thực hư ra sao. Trước khi đi vô các chi tiết, tôi sẽ trình bày khái quát về toàn cảnh xã hội miền Nam trong 7 năm kể trên. Điều này rất cần thiết đối với những ai lúc đó đang ở trong tù cộng sản, đến nay vẫn còn nhiều người chưa biết rõ lúc họ đi tù thì người dân bên ngoài sống ra sao và xã hội miền Nam có những chuyển biến gì. Người nghe kể sau khi hình dung được toàn cảnh xã hội vào lúc đó, thì các câu chuyện về sự kiện phục quốc, tàn quân v.v sẽ dễ hiểu và dễ chấp nhận hơn vì nếu không được hướng dẫn trước, người nghe sẽ không thể tưởng tượng nổi làm sao các hoạt động chống phá cộng sản vẫn tồn tại lúc VC có mặt khắp nơi.
Sau khi VC chiếm miến Nam năm đầu, có một chi tiết ít ai để ý là sự xáo trộn về cư trú trong xã hội, tầm mức của nó rất lớn và rất quan trọng mà VC không thể kiểm soát hết được. Những người chạy tản cư trước kia nay lũ lượt tìm về quê, nhưng cũng có nhiều người không trở về vì sợ VC ở địa phương trả thù, số này chấp nhận sống lang bạt và giấu kín quá khứ của mình. Bên cạnh đó còn có nhiều gia đình tứ tán khắp nơi, lúc về tới nhà thì căn nhà đã bị VC chiếm đoạt vv (lúc đó chưa có vụ “kinh tế mới”).
Các năm 1975, 76, 77, 78 ở miền Nam có cả hàng triệu người sống bơ vơ không nhà không cưả, ngủ đầy các công viên, bến xe, ga xe lửa vv. Bọn VC lâu lâu nửa đêm tổ chức chận đường bố ráp bắt người và thanh lọc lý lịch ở các nơi vừa kể, nhưng con số người sống phiêu bạt mỗi ngày thêm nhiều. Trong số đông những người này thì phần lớn là giới cựu quân nhân, lớp hạ sĩ quan, sĩ quan, binh sĩ trước kia phục vụ các đơn vị xa quê quán gốc của mình, hoặc các đơn vị di tản từ Quân Khu I, Quân Khu II vào Sài Gòn, nay họ không thể về quê vì không có tiền hoặc phương tiện, và giấy tờ đi lại là cả chuyện khó khăn trước con mắt cú vọ của VC. Vì thế họ chấp nhận cuộc sống lang thang để tồn tại trước, mọi việc sẽ tính sau và phần nhiều vẫn còn nuôi hy vọng sự trở lại của Mỹ hay các đơn vị bí mật nào đó của QLVNCH qua đủ thứ tin đồn đang tràn lan ngoài xã hội.Sau tháng 4/ 1975, chỉ trong vòng 5 tháng VC đã phục hồi tuyến đường xe lửa, bắt đầu tái hoạt động từ tháng 9 trên đoạn đường từ ga Sài Gòn đến ga Gia Rây thì quay trở lại ( xã Gia Rây, quận Xuân Lộc, Đông- Bắc thị xã Long Khánh khoảng 13 Km). Mục đích VC hối hả phục hồi tuyến đường này vì Sài Gòn dang khan hiếm lương thực trầm trọng, nhất là than và củi cho việc nấu nướng (cũng trong lúc này bến xe Petrus Ký ở Ngã Bảy vẫn còn duy trì, bến xe Nguyễn Hoàng gần đó cũng còn, mãi tới năm 1978 VC mói dời ra chân cầu Bình Triệu, riêng ga xe lửa Sài Gòn thì cuối năm 1976 chúng đưa ra Bình Triệu được hơn một năm thì dời về Hoà Hưng tới ngày nay, riêng đoạn đường từ Gia Rây tới Mương Mán thì hoạt động vào đầu năm 1977).
Trở lại với số cựu quân nhân nay đang sống phiêu bạt khắp Sài gòn và vùng phụ cận như Biên Hoà, Bình Thạnh, Gò Vấp vv, họ thuộc đủ các quân binh chủng, và quan trọng nhất là ai cũng mang trong lòng mối uất hận trước bọn cán bộ VC và sẵn sàng ra tay ám hại nếu có cơ hội, nếu được móc nối để đi vào rừng hoạt động họ sẽ mau mắn đi ngay. Số cựu quân nhân vưà kể chính là nguồn nhân lực cho các tổ chức chống cộng tuyển người và đưa đi các nơi. Ga Sài Gòn lúc đó mỗi ngày có hai chuyến tàu đi Gia Rây và ngược lại, chuyến 5 giờ sáng và chuyến 12 giờ trưa. Tàu đi qua các ga: Hoà Hưng (ga lớn); Phú Nhuận; Gò Vấp; Bình Lợi; Bình Triệu; Chợ Đồn; Thủ Đức; Dĩ An (ga lớn); Hố Nai; Biên Hoà; Sóng Thần; Trảng Bom; Dầu Giây; Bàu Cá; Long Khánh; Bảo Chánh; Gia Rây (ga lớn); Trảng Táo; Gia Huynh; Suối Kiết; Sông Dinh; Sông Phan; Suối Vận; Mương Mán (ga lớn). Lưu ý rằng lúc đó đoạn đường sắt từ Bảo Chánh tới Mương Mán hai bên vẫn còn rừng già dày đặc, rất thuận lợi cho việc nhảy xuống, nhảy lên tàu bất cứ chỗ nào để tẩu thoát nếu gặp nguy hiểm, dĩ nhiên phải có người tháo ống thắng giữa các toa tàu để yểm trợ.
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, ở những vùng nông thôn hẻo lánh, gần núi rừng, đồn điền cao su vv vẫn còn vài đơn vị cấp trung đội, đại đội tiếp tục chiến đấu với VC vì vài nguyên nhân như sau: thất lạc đơn vị gốc cao hơn, không tin VC hoàn toàn chiếm hết miền Nam, không ra đầu hàng bởi không thể chấp nhận sống với cộng sản. Lực lượng này VC gọi là “tàn quân”.
Lực lượng thứ hai là do các tổ chức phục quốc thành lập và trang bị, số này không nhiều và bị VC truy diệt gắt gao, VC gọi họ là các “tổ chức phản động”.
Lực lượng thứ ba là các nhóm biệt vụ ngoại tuyến do Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch từ trước năm 1975, VC tìm không ra lực lượng này vì sự tổ chức rất chặt chẽ của nó. Lực lượng vưà kể thuộc hai cơ quan khác nhau là CIA và DIA (Cục Tình Báo Trung Ương (dân sự) và Cục Tình Báo Quốc Phòng (quân sự). Nhân viên người Việt của biệt vụ ngoại tuyến có mặt khắp miền Nam Việt Nam và nhóm này không thể biết các nhóm khác đang hoạt động ở đâu, trừ khi được chỉ thị liên lạc vì nhu cầu cấp thiết.
Tôi, Đỗ Tấn Thọ (VN) tự Charlie Brown Phương (Mỹ), còn được biết là Đỗ Như Quyên (BĐQ) hay Trịnh Hồng Phương (TNXP) là người hoạt động biệt vụ ngoại tuyến cho một tổ chức không trực thuộc cả CIA hay DIA. Từ cuối năm 1975 tới 1981, chúng tôi đã bắt đầu tuyển người cho các hoạt động của mình ở phiá Nam. Tại Huế; Đà Nẵng; Quy Nhơn; Nha Trang; Phan Thiết thì mỗi nơi có từ một đến hai người làm trưởng trạm, và họ đã được Mỹ tuyển mộ tứ trước 1975, gài lại hoạt động tới hôm nay. Riêng tôi tuy có trách nhiệm về hai toán Alpha (từ Phan Thiết trở ra) và Bravo (tử Long Khánh trở vô), nhưng phải tự mình tìm người hoạt động từ Gia Rây đến Sài Gòn; từ Bến Sỏi, Dầu Tiếng- Tây Ninh qua Đồng Xoài; Bù Na và Bù Đăng – Phước Long. Nhân sự mà tôi tìm để tham gia vào công việc hầu hết là các cựu Biệt Động Quân, vào những năm đầu sau 1975 anh em thường tập trung quanh vùng Ngã Bảy, nơi có tượng đài BĐQ hoặc khu vực ga Sài Gòn. Sau vài lần để ý, gợi chuyện nhằm thăm dò lập trường tôi sẽ đợi lúc thích hợp nhất để nói thật với người đó về ý định của mình. Giai đoạn này anh em rất khổ, ăn bửa đói bửa no và ngủ bên các lề đường dơ bẩn. Nay được biết có công việc cho mình để đối đầu với cộng sản, hầu hết những người được hỏi đều chấp nhận dấn thân mà chẳng cần nghĩ tới một tương lai đầy bất trắc. Tôi sẽ đưa họ lên xe lửa đi Gia Rây, tại đây anh em sẽ được phân tán gởi đi làm công nhật ở các rẫy, hoặc gởi đi theo các nhóm thợ rừng để phụ việc. Số anh em được tuyển còn được đưa lên Tây Ninh, đưa vào làm thợ rừng (hợp đồng) cho lâm trường Dầu Tiếng, đưa qua Đồng Xoài đi theo những toán cạo mủ cao su…lậu vv, nói chung giúp anh em làm gì cũng được, miễn sao có thu nhập hằng ngày và thoát ra khỏi cái thành phố đang mỗi lúc tràn ngập dép râu và nớn cối khắp các nẻo đường.
Cũng nên biết rằng từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1976, việc tìm vài nhân viên nồng cốt ban đầu thì do đích thân tôi đảm trách, sau đó công việc này được giao cho những anh em bà con bên vợ của tôi làm và họ đều là các quân nhân BĐQ thuộc các liên đoàn khác nhau. Hầu như những ai khi nghe nói tới các toán “phục quốc”, “tàn quân” (mọi người tưởng chúng tôi như thế) thì cứ nghĩ rằng chúng tôi chắc quanh năm suốt tháng ở trong rừng sâu, lâu lâu mới mò ra phá VC chuyện gì đó rồi rút lẹ vô rừng. Thật ra chúng tôi vẫn sống ở ngoài công khai, ngay giữa xóm làng hay ngay cả tại Sài Gòn, lúc cần bàn soạn một việc gì chúng tôi giao ước một điểm họp mặt ở trong rừng, mỗi người cứ thế vác rựa trên vai đi riêng lẻ tới điểm hẹn. Thuở đó xe lưả từ Sài Gòn đi Gia Rây thường đông nghẹt người. Kẻ đi buôn bán nông phẩm như khoai, bắp, đậu xanh, đậu nành, trái cây v.v, người đi mua than, củi, dầu rái v.v và kẻ nghèo hơn thì chỉ với một cái cưa, hoặc một cái rựa đi lên Gia Rây tìm mót củi khô bó lại đem về Sài Gòn. Chính nhờ những đoàn tàu xô bồ hỗn độn như vậy mà anh em chúng tôi mới dễ trà trộn vào nhằm di chuyển đến các nơi mà mình muốn. Bởi thế mới có vụ làm nổ kho đạn ở Long Bình đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1976, vụ giải thoát tù nhân ở trại K-3 Gia Rây năm 1977, (do trung tá Bảy Thích làm trưởng trại, sau đổi là Z- 30A), vụ ám sát đại uý Tư Bông (phó trại K-3) năm 1978 ở Suối Nhỏ Gia Rây, vụ làm lật cả một đoàn tàu chở súng đạn tại Trảng Táo năm 1978, vụ xâm nhập vào toà nhà Cơ Yếu Trung Ương T-78 (dinh thự của chú Hoả bị tịch thu) nằm ngay góc đường Lý Thái Tổ – Hùng Vương năm 1980 để tìm dấu vết của tù binh Mỹ, vụ tổ chức ám sát Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng tại Dương Minh Châu, Lòng Hồ – Dầu Tiếng năm 1981, vụ xâm nhập vô nhà tù PA- 24 năm 1982 (đường Trần Hưng Đạo) cũng để truy tầm thông tin về tù binh Mỹ mất tích, vụ trà trộn vào “Thanh Niên Xung Phong” ở Đắc Nông 1985 và móc nối với trung tá Nguyễn Văn Phát (Hai Phát), huyện đội trưởng Đồng Xoài để thu thập chứng cớ về hài cốt tù binh Mỹ đang bị VC ém nhẹm, vụ tập trung trẻ em Việt lai Mỹ về Sài gòn trong hai năm 1988- 1989 vv và vv.Tất cả những việc nêu trên chỉ là đơn cử vài công tác nổi bật và thành công nhất mà anh em BĐQ chúng tôi đã thực hiện ngay trong lòng địch, lúc mà hầu hết các cấp sĩ quan đã vào tù cộng sản. Và tất cả đều là những nỗ lực thầm lặng, anh em đã hiến thân vì đại cuộc mà chẳng cần bằng cấp hay cấp bậc gì cả, và cũng chẳng cần phải nêu tên, xưng họ nhằm loè loẹt với người đời.
Hôm nay, bất đắc dĩ phải lên tiếng kể ra sơ sài vài chuyện, nhưng trong lòng lại đau đớn khôn nguôi vì chạnh nhớ những anh hùng vô danh đã âm thầm nằm xuống, riêng mình vẫn còn đây trong cay đắng vì đại cuộc vẫn chưa thành.
Anh hỏi tôi có biết hay không hai người bạn đã bị VC thủ tiêu vì tham gia “phục quốc” trong giai đoạn đó. Tôi không thể biết hết được danh tính những anh hùng như vậy đâu anh ơi ! Lúc đó có khá nhiều nhóm hoạt động, anh em hy sinh trong âm thầm cũng nhiều lắm, mộ phần nay cũng không biết bị vùi lấp nơi đâu. Mai sau quê hương không còn cộng sản, xin hậu thế cho các anh được thờ tự như những anh hùng thời hậu chiến với hương khói nghìn thu.
Chúc anh nhiều sức khoẻ.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
***
Sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, các nhu cầu thường nhật của xã hội như gạo, xăng, than, củi, thuốc tây v.v trở nên khan hiếm và đắt đỏ vô cùng. Ở đây tôi chỉ kể sơ vài thứ vì các đồ dùng này có liên đới đến câu chuyện hôm nay. Con số người dân miền Nam sau 1975 trở thành “nông dân bất đắc dĩ” đã gia tăng rất nhiều và đột ngột, vì thế nông cụ cũng không có đủ để cung ứng cho nhu cầu nông nghiệp toàn miền. Cọc sắt hình chữ V dài khoảng 2 thước thường dùng làm trụ hàng rào kẽm gai, nay dân ta có sáng kiến đem ra đập dẹp, cưa ngắn từng đọan 30 phân ( ba tấc), xẻ hai đường rãnh uốn cong lại là có một cái cuốc trong tay. Dây kẽm gai thì chặt ra làm cây đinh (tiếng lóng gọi là đinh đểu vì nó quá mềm). Ống cống cong hình chữ C của Mỹ ngày trước, ngoài công dụng làm cống còn được làm nóc hầm tại các đơn vị quân sự, nay được dân chúng đem ra xẻ dọc thành từng thanh nhỏ, uốn cong, hàn lại thì thành niền xe đạp, bao cát nhà binh thì xé sợi để đan dây đan võng, những ống nước bằng sắt nay cũng đưọc tận dụng để làm sườn xe đạp vv (không kể các thứ nguy hiểm hơn như cưa đáy viên đạn 105 ly, thợ tiện Chợ Lớn sẽ làm ra “líp” xe đạp, cạy bom bi lấy những viên bi thép cho “đùm” giữa và cổ xe đạp vv, bi mìn Claymore bằng chì không dùng được).
Lớp bộ đội VC sau khi chiếm miền Nam đã bị hớp hồn vì sự thưà mưá của cải, vật chất mà ở miền Bắc dù có nằm mơ cũng không thể thấy được, nhưng đa số bộ đội thì lại nghèo kinh niên. Nay thấy tiền nằm rỉ sét, bỏ hoang tràn lan mà họ thì lại muốn có “cái đài, cái đồng, cái đạp” (radio, đồng hồ, xe đạp) vv để đem về quê khoe mẻ nên từ binh sĩ tới sĩ quan tranh nhau vơ vét, lén lút bán cho dân đặng có tiền mua sắm. Vì thế tôi mới có dịp đi Hố Nai một chuyến.
Khoảng 8 giờ tối ngày 22/4/1976, tôi nhảy tàu xuống ga Hố Nai trên chuyến tàu đêm Gia Rây- Sài Gòn, anh M được dặn trước nên đứng đón tại sân ga. Thấy tôi anh im lặng quay lưng bước đi, tôi lặng lẽ đi theo anh một khoảng cách trong bóng tối. Sau hơn nửa giờ bước đi quanh co giữa các xóm nhà, chúng tôi bắt đầu băng qua những khu đất trồng rau, những vườn cây im lìm rồi tới một chỗ trống trải hoàn toàn, chẳng có nhà cũng chẳng có vườn và dưới chân toàn cỏ dại. Xa xa có tiếng người í ới gọi nhau, vài ánh đèn pin chập chờn lúc ẩn lúc hiện. Tôi hỏi nhỏ anh M: “Chừng nào mới tới lớp hàng rào”? Anh M thều thào trả lời: “Làm gì còn hàng rào. Chúng nó xơi cả dzồi ! Mình đã vào bên trong, bây giờ đang tìm tụi nó”.
“Đứa nào đấy”! Có tiếng người hỏi không lớn lắm cùng ánh đèn pin loé lên. “Mờ sờ. Có bờ không” (Mua sắt. Có bán không) ? Anh M đáp lại và đứng yên chờ đợi. Gã bộ đội đến gần đưa đèn pin lên soi nhìn chúng tôi: “Chúng mày chỉ có hai thằng thôi à ! Thế đếch nào khênh được nhiều”! . Anh M hỏi lại: “Vậy anh có gì nào ! Có nặng bằng xe tăng không” ?. “Bố khỉ. Đi theo tao” ! Chúng tôi lầm lũi đi theo gã bộ đội chừng 20 phút sau khi lên xuống vài ngọn đồi nhỏ, vài căn nhà “sam” mà nóc “tôn” và vách đã bị tháo mất, chỉ còn lại khung sắt đứng trơ trọi chờ tới lúc được tháo để bộ đội “phanh thây”.
Khoảng 2 giờ sáng, tôi trở lại chỗ anh M thì anh đã tháo được 15 cọc sắt và đang ăn vội một nắm xôi mang theo trong mình. Thấy tôi lấm lem cả người, anh ấy vụt cười phun cả xôi ra: “Chà ..chà, coi bộ ngắm cảnh .. đời hơi kỹ đấy! Thôi, ăn xôi đi”!
Gần 4 giờ sáng, chúng tôi xếp chia số cọc sắt làm hai bó, mỗi bó mười cây (một cọc sắt chữ V nặng khoảng 4 kg). Anh M vác một bó đi trước, tay cầm đèn pin rọi đường, tôi vác một bó theo sau và thắc mắc hỏi anh: “Mình không đưa tiền cho nó sao”?. “Không đưa sao được. Tụi nó đứng chờ ở phiá trước đó”! Hơn một giờ đi quanh co lên đồi xuống dốc, giữa một thảm cỏ với cây dại như trâm, sim, móc, duối, dang vv mọc lưa thưa và không bụi cây, lùm cỏ nào cao quá đầu người, trừ những cột điện bị dây leo bò lên phủ kín. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng chân nghỉ năm ba phút lại vác đi tiếp ra Quốc Lộ 1 hướng Tây Bắc. Lúc vừa nhìn thấy xa xa bóng dài màu tím thẩm của những mái nhà, nóc chuông nhà thờ mờ nhạt chập chờn trong màn sương sớm, cũng là lúc tôi nhìn thấy bên phải, bên trái, sau lưng và trước mặt mình thấp thoáng nhiều bóng người cũng đang vác sắt chữ V, có người còn gánh tòn ten hai đầu với 6 cuộn kẽm gai bung (concertina), hoặc hai người khiêng ở giữa 2 ống cống cong loại 1 thước đường kính. Tất cả chúng tôi cùng tiến về một hướng, Hố Nai.
Bắt đầu có tiếng người lao xao nhiều nơi ở phiá trước, anh M dẫn tôi đi tách ngang một hướng khác cho lúc tới bên ngoài một trại nuôi bò thật lớn. Tại đây đã có bốn bộ đội đứng chờ mà trong đó chỉ một người mang súng AK 47, ba người kia tay cầm những khúc tre khô dài hơn sải tay (quả là dạn dày kinh nghiệm). Đây, đó vài ba tốp người cũng dân “cưa hàng”vừa đến.
Đứng gần đám bộ đội là một nhóm thanh niên, thiếu nữ thân quen của những kẻ đi mua đồ sắt (nói chung). Họ mang tiền ra đây chờ thấy người, thấy sắt thì mới trao tiến (dân Hố Nai mà). Lỡ đưa tiền trước lúc nửa đêm, chúng trở mặt thì sao? Có mà ngu mới tin VC! Sau khi hai bên kỳ kèo qua lại nào là sắt cong, thiếc mẻ, kẽm mòn v.v, gã bộ đội đêm qua bớt chúng tôi 5 đồng ! “Tiền trao … “sắt” múc”, hai bên vui vẻ đề huề, hẹn đêm nay, tối mai rối rít. Ba tay bộ đội mặt non choẹt hí hửng đi theo chúng tôi ra “phố”, sau khi gom lại ba cây gậy tre đưa hết cho gã mang súng với lời hưá sẽ mua món này, cái nọ cho hắn. Anh M đi đầu bước chậm lại dần sau lưng toán người phiá trước, giờ này trời Đông đã sáng hồng. Tới một con suối lớn, trong lúc tôi rưả mặt anh M nói với người thanh niên đi theo anh từ khi nãy, người này vóc dáng bằng tôi: “Chú cho anh ấy mượn tạm áo quần, lấm lem hết rồi”. Cậu thanh niên vui vẻ thay đổi quần áo với tôi rồi vác một bó sắt đi trước qua suối. Anh M giúi vào tay tôi vài tờ giấy bạc và thì thầm dặn dò: “nhảy mãi tân gô, gu ru” (ngày mai ta gặp, Gia Rây).
Phố thị Hố Nai dọc hai bên QL 1 đang khởi sự cho một ngày sống trong náo nhiệt. Người hối hả gánh gồng, kẻ lăng xăng khuân vác, tiếng máy xe lam, xe ba gác (máy) kêu vang inh ỏi. Tôi lầm lũi bước tìm đến một quán ăn bên ngoài sân ga. Một bát phở “đại liên”, một ly cà phê “cối” làm tôi tỉnh như sáo, một kế hoạch sơ khởi hiện ra trong đầu. Tiếng còi tàu văng vẳng bên tai, tôi rời quán, nhìn quanh rồi rảo bước tới một đám đông đang đứng chờ mua tấm vé mà mình chưa từng mua mỗi khi đi tàu lưả của VC.
Sau rốt, chúng tôi quyết định “hốt ổ”, và ngày gây chấn động là sáng 30 tháng 4. Việc bây giờ là tìm và gom thuốc nổ, ngòi nổ, một cái đồng hồ để chỉnh giờ. Ngoài ra, còn phải chỉ định người rành rẽ về thuốc nổ đi theo anh M tới mục tiêu đêm 29 tháng 4 năm 1976. Chúng tôi chỉ còn gần một tuần để chuẩn bị các việc đó. Vấn đề mua đồng hồ để chỉnh giờ cho khối thuốc nổ thì tôi sẽ lo liệu. Riêng việc tìm thuốc nổ, ngòi nổ vv sẽ giao cho S ở Ngã Ba Ông Đồn vì nhà anh ở gần mỏ đá Núi Le cạnh QL 1. Anh M nhận trách nhiệm tìm người đưa khối thuốc nổ vào kho đạn.
Ngày hôm sau tôi nhảy tàu Gia Rây- Sài Gòn vào chuyến buổi chiều, trên vai là một ba lô nhăn nhúm bạc màu, gói ghém một bộ áo quần và vài bịch nông phẩm khô của Long Khánh. Trong túi là phiếu đi bầu màu đỏ, có tên họ của mình, có con dấu của xã, của ban bầu cử in lên đó hàng chữ “đã đi bầu”, sau khi cả buổi sáng đứng sắp hàng trước uỷ ban xã chờ bỏ phiếu “bầu” cái “quốc hội thống nhất” bịp bợm của VC. Về tới Sài Gòn, đêm đó tôi ngồi chờ sáng cạnh một bàn cà phê bán trên vỉa hè trước rạp Long Vân, gần bùng binh Ngã Bảy (Sài Gòn vào thời điẻm này bắt đầu có nhiều nơi bày bán cà phê, nước trà thâu đêm suốt sáng trên vỉa hè, bàn ghế thấp lè tè, nhẹ hều và khách cũng ngồi thức cả đêm. Các loại “quán” cà phê kiểu đó mỗi khi bất ngờ nghe tiếng la lớn: …”CHÈO..O..O”.. thì mạnh ai nấy chạy, bàn và ghế nhờ nhỏ và nhẹ nên biến mất khỏi lề đường chỉ trong khoảnh khắc. Đám công an đi rồi thì tất cả lại như cũ).
Người ngồi nói chuyện với tôi qua đêm tại đây là chị H, vợ Chuẩn úy Thinh ở TĐ 36 BĐQ, sau ngày 30. 4 chị không có tin tức gì về anh nữa. Nhà chị H ở khu Hoà Hưng, mỗi đêm chị để hai con nhỏ ở nhà với bà ngoại rồi rủ vài người bạn gái ra Ngã Bảy làm cái nghề gọi là “gọt bã đậu” (gạt bộ đội). Nghề này nhắm vào mấy trự bộ đội thích gái miền Nam, là các chàng được đi phép về Bắc nên ra bến xe Petrus Ký mua vé xe. Sau lúc giao hành lý cho lơ xe chất lên mui, họ phải chờ tới sáng thì xe mới rời bến nên hay đi lòng vòng quanh khu Ngã Bảy để rồi gặp những cô gái “lỡ đường”, “bơ vơ” như chị H chẳng hạn. Sau khi nghe những lời than thở não lòng của mấy nàng, trung bình cứ mười bộ đội thì ít nhất cũng có một tên cắn câu, chịu giúp ít tiền nhưng với điều kiện là “phải có qua có lại”. Vậy là chàng “bã đậu” được dắt tới một gốc cây nào đó trong bóng tối để “có qua có lại”. Đúng lúc đó bỗng xuất hiện vài ba thanh niên mặt mày bặm trợn, họ nhào tới quật chàng xuống nện một trận tối tăm mày mặt, lột hết áo quần, lấy sạch tiền, ném lại giấy tờ rồi tất cả chạy biến vào bóng tối. Chàng “bã đậu” lúc hoàn hồn lại thì chỉ còn cái quần đùi, hắn hớt hơ hớt hãi nhưng không dám kêu la mà lủi thủi cắm đầu chạy tìm về chỗ xe ca mình có vé, leo lên ghế rồi mới bắt đầu ngồi vò đầu bứt tóc và chửi om xòm! Chị H thường đi cặp với một cô tên Loan cũng ở khu Hoà Hưng. Loan là bồ của Lộc Lì, một tay anh chị có máu mặt gốc BĐQ ở Cống Bà Xếp, là người đêm đêm cùng “lâu la” đứng chờ “gọt” sạch “bã đậu” nào muốn “có qua có lại” do hai cô này “câu” được (Lộc Lì có những hỗn danh khác như Lộc Liều, Lộc Lưả, thường chạy chiếc “lam bét ta” cũ mèm phun khói đen mù mịt, máy nổ đinh tai nhức óc khắp khu Hoà Hưng. Năm 1986, Lộc Lì gặp lại tôi ở Ngã Ba Cây Chanh gần Bù Đăng, nơi hoạt động của “Liên Đội Thanh Niên Xung Phong quận Ba”, anh ta bị “cá” hốt đưa lên đây giao cho TNXP, tôi xin Liên Đội Trưỏng là Phạm Ngọc Liên (bí thư quận đoàn quận Ba) đưa Lộc Lì về đội cưa xẻ).
Mỗi lần có chuyện phải ghé Ngã Bảy, tôi thường mang theo vài ký đậu xanh, khoai mì khô, bắp hột, đường tán vv để làm quà cho chị H. Đêm nay vừa nói chuyện được không lâu chị đã khều tôi nói nhỏ: “Có ba “tàu bay” chờ cất cánh mấy đêm rồi” (có ba “tân binh” muốn gia nhập). Tôi cảm ơn và nhờ chị giúp giữ họ sống tạm lây lất quanh khu vực tuợng đài BĐQ, một tuần sau tôi sẽ trở lại. Sáng đó tôi nhảy xe buýt đi “ngân hàng” (nơi nhận tiền hoạt động), mà “ngân hàng” là một chiếc xe đẩy bán hủ tiếu lưu động trên đường Tùng Thiện Vương, quận 8 Sài Gòn. Phải có tiền mới mua được cái đồng hồ lên dây ngoài chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, trả cho anh em chẻ đá ở mỏ đá Núi Le để có đủ ngòi nổ và sáu cốt mìn màu đỏ.
Đêm 29 rạng ngày 30.4. 1976, chúng tôi gồm bốn người xuất phát từ bốn địa diểm khác nhau rồi cùng gặp mặt bên ngoài một trại nuôi bò ở Hố Nai (là nơi đã kể ở đoạn trước). Chúng tôi chia làm hai nhóm đi cách xa nhau, vừa đủ tầm nhìn trong bóng đêm để toán sau thấy toán trước mà VC không biết chúng tôi có “cái đuôi” bám sau lưng. Anh M và tôi đi trước với bao đồ nghề gồm kềm cắt, vài nắm xôi, bình nước uống, một cái đòn tre dài, một bao bố rách để bao tay vì theo giao hẹn của gã bộ đội đêm nay hắn chỉ bán dây kẽm gai mà thôi. Hai người lén đi theo sau là BĐQ N ở Thủ Đức và BĐQ T ở Bình Chánh, sáu cốt (ống) mìn và “phụ tùng” kèm theo được hai anh cột chặt nằm hàng ngang ngay sau lưng, bên ngoài mặc áo rộng thùng thình. Hai chúng tôi đi đầu đưọc một lúc thì gặp gã bộ đội quen đứng đón với cái đèn pin, lúc đó khoảng 9 giờ tối. Vưà thấy mặt hắn đã la lớn: “Khẩn trương lên ! Chúng mày vào trễ thế. Bọn chúng nó đến trước “ăn” cả rồi. Chả còn bao nhiêu đâu” ! Gã bộ đội vưà càu nhàu vưà dắt chúng tôi đến vài ba nơi để chỉ từng đống bùi nhùi dây kẽm gai nằm dập vùi trong cỏ, hai người phiá sau vẫn lặng lẽ bám sát chúng tôi. Gã bộ đội tay cầm cây gậy tre đập đập vào đống kẽm gai vưà nói rõ: “Mấy đống này hơi rối rắm, chịu khó mà gỡ nhé. Tao tính một đồng một cân thôi”. Anh M hỏi lại: “Thế sớm mai anh vác theo cân gặp ở chuồng bò à”? Hắn cắt ngang: “Cân kéo chó gì. Tao nhìn biết ngay bao nhiêu cân vì đêm nào chả bán”! Hắn nói tiếp: “Này ! Mai chúng mày phải ra sớm hơn. Bảy giờ sáng chúng tao phải lên ô tô đi Sài Gòn để “diễu binh” đấy”! Nói xong hắn xách đèn pin chạy biến vào bóng tối.
Bốn người chúng tôi ngay lập tức cùng xúm vô tháo, cắt vv rồi quấn lại được một vòng dây kẽm gai nặng hơn 60 kg. Anh M thúc giục hai anh N và T mau chạy theo đường cũ về hướng Hố Nai, dọc đường nếu xui xẻo gặp bộ đội chặn đường thì cứ nói đi “mờ sờ” (mua sắt) nhưng bị lạc. Hai anh vội vàng đứng lên, tay cầm hai ống sắt dài làm vũ khí rồi biến mất trong bóng tối.
Bốn giờ sáng, tôi và anh M hai người khiêng khoanh kẽm gai tà tà đi về hướng cũ. Khoanh kẽm gai cứ đong đưa qua lại theo nhịp bước chân làm chúng tôi chẳng dám đi mau. Cả hai chúng tôi đều ướt đẵm mồ hôi, bàn tay thì rướm máu và đau rát vì bị cắt ngang cắt dọc. Đi phiá sau nhìn cái lưng đẵm ướt của anh M làm tôi cảm thấy thương mến, kính phục anh hơn lúc nào hết. Không biết anh đang nghĩ gì, còn tôi thì cứ nghĩ đến đoạn đường dài mà mình và đồng đội sẽ tiếp tục chiến đấu khi cộng sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam.
Gần 9 giờ sáng hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, chúng tôi ngồi uống cà phê ở bốn bàn khác nhau như người xa lạ trong một quán nhỏ bên ngoài ga Hố Nai. Bỗng một tiếng nổ lớn từ phiá xa vang lên làm mọi người trong quán nhốn nháo. Ngay sau đó hàng loạt tiếng nổ chát chuá kèm theo. Chúng tôi cũng giả bộ chạy ra ngoài lẫn lộn với đám đông đang hoảng hốt, mọi người đưa tay chỉ về hướng một cột khói đen bốc cao trong khi tiếng nổ vẫn không ngớt vang động. Dọc theo đường lộ, xe cộ đều ngừng lại, tiếng người la hét khắp nơi và bóng người chạy tìm chỗ nấp ở những nơi mà họ tin rắng có thể an toàn. Có ai đó hớn hở la lên: “Tới rồi ! Tới rồi ! Phe ta về rồi” ! Xa xa, một đoàn người đông đúc đang bị VC tập trung đi diễu hành “mừng ngày 30 tháng 4” cũng bỏ chạy tán loạn. Các tấm băng rôn khẩu hiệu, cờ đỏ vv bị vứt nằm chỏng chơ dọc theo con đường, vài cái nón cối nằm lăn lóc bên vỉa hè trong lúc tiếng nổ vẫn ầm ầm từ xa vọng đến.
VỤ PHÁ HỦY KHO ĐẠN Ở LONG BÌNH NGÀY 30.4.1976
Một ngày giữa tháng 4 năm 1976, chuyến tàu sớm Sài Gòn-Gia Rây vẫn đến trễ như thường lệ (nhà tôi ở cách ga hơn 100 m), người bám hai bên tàu hoặc ngồi trên nóc toa vẫn đông nghẹt như từng chuyến tàu mỗi ngày (hệt như các đoàn tàu ở Ấn Độ; Pakistan mà chúng ta thấy hôm nay). Tiếng la hét, kêu réo bắt đầu náo động khi con tàu ngừng hẳn, từng giỏ cần xé bánh mì, những thùng dầu lửa, các chồng nhật báo mới in ở Sài Gòn, những bao cá khô, mắm, muốì vv được người trên tàu hối hả đạp xuống nằm lăn lóc dài theo sân ga đầy bụi đỏ. Trong khoảnh khắc, các bao than to tướng, những đống củi niền (củi bó), các lóng cây bằng lăng, căm xe, những bao bố đựng đủ loại nông phẩm vv được nhiều toán thanh niên lưc lưỡng hì hục ném lên tàu. Tất cả “hàng hoá” lên và xuống diễn ra thật nhanh vì tàu sẽ quay đầu về Sài Gòn 30 phút sau đó. Trên sân ga chỉ còn lại những toán người cả nam lẫn nữ đủ lưá tuổi, vai vác cưa, tay cấm rựa đứng tụ tập, hoặc đi tới, đi lui với vẻ mặt bồn chồn lo lắng. Họ là những người dân ở Sài Gòn, nay thời thế đảo lộn, từ chỗ có nhà, có cái ăn, có nơi để học nhưng đã bị mất tất cả và thiếu thốn đủ thứ, kể cả thứ tầm thường nhất như khoai mì khô (xắt lát), bắp hạt khô hoặc than và củi vv. Những thanh niên, thiếu nữ ấy chắc không ít trong số họ có cha, có mẹ, có chị có anh đang bị khổ sai trong ngục tù cộng sản, nay dù chưa từng biết cưa cây, chặt củi cũng mua dao sắm rựa tìm đưòng lên Gia Rây, đi vào rừng tìm gom những nhánh củi khô đem về cho gia đình tại Sài Gòn. Hoặc có toán tìm đường vô các nương rẫy để nhặt mót đậu phụng, đậu nành, khoai lang vv mà chủ rẫy chê xấu bỏ lại. Mỗi lần gặp các toán đứng ngập ngừng như thế trên sân ga, tôi biết ngay họ mới tới Gia Rây lần đầu nên lo sợ vì không biết đi hướng nào để tìm những thứ mình cần. Tôi thường chỉ họ đi đến rừng cây Giá Tỵ gần đó, hoặc chỉ lối vào các rẫy, cánh rừng chồi nào gần Gia Rây hơn là vô rừng già dễ bị lạc, và luôn luôn lắng nghe tiếng còi tàu để biết hướng trở lại ga Gia Rây.
Bỗng nhiên có một người đi ngang đụng nhẹ vào tôi, quay lại nhìn thì tôi thấy anh M, trưởng toán Hố Nai, dang vác rựa đi về hướng rừng Giá Tỵ gần Gia Lào. Nửa tiếng sau chúng tôi gặp nhau bên một bờ suối nhỏ, anh cho biết những tin tức như sau: Đám bộ đội ở trong căn cứ Long Bình nay đang lén lút móc nối với dân để bán kẽm gai, cọc sắt chữ V, ống cống, bao cát vv. Bản thân anh đã vô mua vài lần và khám phá ra một khu vực chưá đạn, nơi này không ai canh gác, rất dễ làm một “chưởng” rung rinh trời đất. Anh M yêu cầu tôi đi Hố Nai, vào đó đích thân quan sát địa thế rồi có quyết định “tung chưởng” hay không vào dịp 30 tháng 4 này, và tôi đã nhận lời. Anh M gốc Bắc di cư, trước kia là một hạ sĩ quan thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ, nay đã trên 60 tuổi và đang sống ở Hố Nai.Sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, các nhu cầu thường nhật của xã hội như gạo, xăng, than, củi, thuốc tây v.v trở nên khan hiếm và đắt đỏ vô cùng. Ở đây tôi chỉ kể sơ vài thứ vì các đồ dùng này có liên đới đến câu chuyện hôm nay. Con số người dân miền Nam sau 1975 trở thành “nông dân bất đắc dĩ” đã gia tăng rất nhiều và đột ngột, vì thế nông cụ cũng không có đủ để cung ứng cho nhu cầu nông nghiệp toàn miền. Cọc sắt hình chữ V dài khoảng 2 thước thường dùng làm trụ hàng rào kẽm gai, nay dân ta có sáng kiến đem ra đập dẹp, cưa ngắn từng đọan 30 phân ( ba tấc), xẻ hai đường rãnh uốn cong lại là có một cái cuốc trong tay. Dây kẽm gai thì chặt ra làm cây đinh (tiếng lóng gọi là đinh đểu vì nó quá mềm). Ống cống cong hình chữ C của Mỹ ngày trước, ngoài công dụng làm cống còn được làm nóc hầm tại các đơn vị quân sự, nay được dân chúng đem ra xẻ dọc thành từng thanh nhỏ, uốn cong, hàn lại thì thành niền xe đạp, bao cát nhà binh thì xé sợi để đan dây đan võng, những ống nước bằng sắt nay cũng đưọc tận dụng để làm sườn xe đạp vv (không kể các thứ nguy hiểm hơn như cưa đáy viên đạn 105 ly, thợ tiện Chợ Lớn sẽ làm ra “líp” xe đạp, cạy bom bi lấy những viên bi thép cho “đùm” giữa và cổ xe đạp vv, bi mìn Claymore bằng chì không dùng được).
Lớp bộ đội VC sau khi chiếm miền Nam đã bị hớp hồn vì sự thưà mưá của cải, vật chất mà ở miền Bắc dù có nằm mơ cũng không thể thấy được, nhưng đa số bộ đội thì lại nghèo kinh niên. Nay thấy tiền nằm rỉ sét, bỏ hoang tràn lan mà họ thì lại muốn có “cái đài, cái đồng, cái đạp” (radio, đồng hồ, xe đạp) vv để đem về quê khoe mẻ nên từ binh sĩ tới sĩ quan tranh nhau vơ vét, lén lút bán cho dân đặng có tiền mua sắm. Vì thế tôi mới có dịp đi Hố Nai một chuyến.
Khoảng 8 giờ tối ngày 22/4/1976, tôi nhảy tàu xuống ga Hố Nai trên chuyến tàu đêm Gia Rây- Sài Gòn, anh M được dặn trước nên đứng đón tại sân ga. Thấy tôi anh im lặng quay lưng bước đi, tôi lặng lẽ đi theo anh một khoảng cách trong bóng tối. Sau hơn nửa giờ bước đi quanh co giữa các xóm nhà, chúng tôi bắt đầu băng qua những khu đất trồng rau, những vườn cây im lìm rồi tới một chỗ trống trải hoàn toàn, chẳng có nhà cũng chẳng có vườn và dưới chân toàn cỏ dại. Xa xa có tiếng người í ới gọi nhau, vài ánh đèn pin chập chờn lúc ẩn lúc hiện. Tôi hỏi nhỏ anh M: “Chừng nào mới tới lớp hàng rào”? Anh M thều thào trả lời: “Làm gì còn hàng rào. Chúng nó xơi cả dzồi ! Mình đã vào bên trong, bây giờ đang tìm tụi nó”.
“Đứa nào đấy”! Có tiếng người hỏi không lớn lắm cùng ánh đèn pin loé lên. “Mờ sờ. Có bờ không” (Mua sắt. Có bán không) ? Anh M đáp lại và đứng yên chờ đợi. Gã bộ đội đến gần đưa đèn pin lên soi nhìn chúng tôi: “Chúng mày chỉ có hai thằng thôi à ! Thế đếch nào khênh được nhiều”! . Anh M hỏi lại: “Vậy anh có gì nào ! Có nặng bằng xe tăng không” ?. “Bố khỉ. Đi theo tao” ! Chúng tôi lầm lũi đi theo gã bộ đội chừng 20 phút sau khi lên xuống vài ngọn đồi nhỏ, vài căn nhà “sam” mà nóc “tôn” và vách đã bị tháo mất, chỉ còn lại khung sắt đứng trơ trọi chờ tới lúc được tháo để bộ đội “phanh thây”.
“Đây này. Có 20 cọc đấy ! Tao tính chúng mày 2 đồng một cái. Giá bèo đấy nhá vì chúng mày phải tự tháo gỡ dây gai ra. Bây giờ mười giờ rồi, bốn giờ tao trở lại lấy tiền”. Sau khi anh chàng bộ đội bỏ đi, tôi ngạc nhiên hỏi anh M: “Sao nó dám để tụi mình ở đây. Không thằng nào coi ngó à ! Còn cái “k” (kho đạn) nằm ở đâu”? Anh M vừa móc trong lưng ra hai cái đèn pin vưà thì thầm bên tai tôi: “Nó còn vài mối nữa gần đâu đây, chắc lo đi dàn xếp giá cả”. Nói xong anh kéo tay tôi đi theo một đường mòn chạy lên một con dốc (trong căn cứ Long Bình có rất nhiều gò, đồi thấp nhỏ). Trên đỉnh dốc, tôi thực sự kinh ngạc vì nhìn xuống chung quanh thấy thấp thoáng ánh đèn pin ẩn hiện nhiều nơi. Té ra cũng còn có nhiều người khác vào đây mua đồ của …đế quốc Mỹ do VC bán lén. Anh M vung ánh đèn pin chỉ về một hướng: “Xuống con dốc này sẽ gặp một đường đất lớn. Ngay chỗ đó có xác chiếc xe bị cháy. Anh đi theo tay phải chừng 200 thước sẽ gặp mấy ụ đất cao, đó là cái “k”. Bây giờ tôi trở lại tháo sắt. Khi quay về chỗ xe cháy nhớ rẽ trái theo đường mòn về đây. Hẹn gặp lại”.
Theo chỉ dẫn của anh M, tôi tìm đến được nơi cần tìm. Ở đó có ít nhất trên 10 ụ đất cao, rộng hình chữ U, chiều dài mỗi ụ khoảng 30 thước. Chung quanh các ụ đất là từng mớ dây kẽm gai nằm xen trong cỏ, dấu vết còn lại sau khi các cọc sắt đã đi ra .. ngoài chợ. Tôi bò lại trước một ụ, nằm bẹp sát đất che đầu đèn pin rọi vào bên trong. Qua ánh đèn lờ mờ tôi nhìn thấy các kiện thùng gỗ nằm chồng lên nhau rất ngay ngắn, trên cùng là những tấm bạt nhựa phủ trùm để che mưa. Nhìn kỹ một lúc tôi mới nhận ra đây là loại thùng gỗ đựng đạn 105 ly, ngày xưa chúng tôi hay lấy nó chưá đất làm hầm hố. Bò tới một ụ khác quan sát tiếp thì thấy vẫn cùng một loại. Qua ụ thứ ba thì thấy các kiện đạn 155 ly trần trụi nằm chồng lên cao và đưọc che đậy rất sơ sài.Khoảng 2 giờ sáng, tôi trở lại chỗ anh M thì anh đã tháo được 15 cọc sắt và đang ăn vội một nắm xôi mang theo trong mình. Thấy tôi lấm lem cả người, anh ấy vụt cười phun cả xôi ra: “Chà ..chà, coi bộ ngắm cảnh .. đời hơi kỹ đấy! Thôi, ăn xôi đi”!
Gần 4 giờ sáng, chúng tôi xếp chia số cọc sắt làm hai bó, mỗi bó mười cây (một cọc sắt chữ V nặng khoảng 4 kg). Anh M vác một bó đi trước, tay cầm đèn pin rọi đường, tôi vác một bó theo sau và thắc mắc hỏi anh: “Mình không đưa tiền cho nó sao”?. “Không đưa sao được. Tụi nó đứng chờ ở phiá trước đó”! Hơn một giờ đi quanh co lên đồi xuống dốc, giữa một thảm cỏ với cây dại như trâm, sim, móc, duối, dang vv mọc lưa thưa và không bụi cây, lùm cỏ nào cao quá đầu người, trừ những cột điện bị dây leo bò lên phủ kín. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng chân nghỉ năm ba phút lại vác đi tiếp ra Quốc Lộ 1 hướng Tây Bắc. Lúc vừa nhìn thấy xa xa bóng dài màu tím thẩm của những mái nhà, nóc chuông nhà thờ mờ nhạt chập chờn trong màn sương sớm, cũng là lúc tôi nhìn thấy bên phải, bên trái, sau lưng và trước mặt mình thấp thoáng nhiều bóng người cũng đang vác sắt chữ V, có người còn gánh tòn ten hai đầu với 6 cuộn kẽm gai bung (concertina), hoặc hai người khiêng ở giữa 2 ống cống cong loại 1 thước đường kính. Tất cả chúng tôi cùng tiến về một hướng, Hố Nai.
Bắt đầu có tiếng người lao xao nhiều nơi ở phiá trước, anh M dẫn tôi đi tách ngang một hướng khác cho lúc tới bên ngoài một trại nuôi bò thật lớn. Tại đây đã có bốn bộ đội đứng chờ mà trong đó chỉ một người mang súng AK 47, ba người kia tay cầm những khúc tre khô dài hơn sải tay (quả là dạn dày kinh nghiệm). Đây, đó vài ba tốp người cũng dân “cưa hàng”vừa đến.
Đứng gần đám bộ đội là một nhóm thanh niên, thiếu nữ thân quen của những kẻ đi mua đồ sắt (nói chung). Họ mang tiền ra đây chờ thấy người, thấy sắt thì mới trao tiến (dân Hố Nai mà). Lỡ đưa tiền trước lúc nửa đêm, chúng trở mặt thì sao? Có mà ngu mới tin VC! Sau khi hai bên kỳ kèo qua lại nào là sắt cong, thiếc mẻ, kẽm mòn v.v, gã bộ đội đêm qua bớt chúng tôi 5 đồng ! “Tiền trao … “sắt” múc”, hai bên vui vẻ đề huề, hẹn đêm nay, tối mai rối rít. Ba tay bộ đội mặt non choẹt hí hửng đi theo chúng tôi ra “phố”, sau khi gom lại ba cây gậy tre đưa hết cho gã mang súng với lời hưá sẽ mua món này, cái nọ cho hắn. Anh M đi đầu bước chậm lại dần sau lưng toán người phiá trước, giờ này trời Đông đã sáng hồng. Tới một con suối lớn, trong lúc tôi rưả mặt anh M nói với người thanh niên đi theo anh từ khi nãy, người này vóc dáng bằng tôi: “Chú cho anh ấy mượn tạm áo quần, lấm lem hết rồi”. Cậu thanh niên vui vẻ thay đổi quần áo với tôi rồi vác một bó sắt đi trước qua suối. Anh M giúi vào tay tôi vài tờ giấy bạc và thì thầm dặn dò: “nhảy mãi tân gô, gu ru” (ngày mai ta gặp, Gia Rây).
Phố thị Hố Nai dọc hai bên QL 1 đang khởi sự cho một ngày sống trong náo nhiệt. Người hối hả gánh gồng, kẻ lăng xăng khuân vác, tiếng máy xe lam, xe ba gác (máy) kêu vang inh ỏi. Tôi lầm lũi bước tìm đến một quán ăn bên ngoài sân ga. Một bát phở “đại liên”, một ly cà phê “cối” làm tôi tỉnh như sáo, một kế hoạch sơ khởi hiện ra trong đầu. Tiếng còi tàu văng vẳng bên tai, tôi rời quán, nhìn quanh rồi rảo bước tới một đám đông đang đứng chờ mua tấm vé mà mình chưa từng mua mỗi khi đi tàu lưả của VC.
Ngày 24 tháng 4 năm 1976. Anh M xuống ga Gia Rây theo chuyến tàu sáng. Vẫn thế, anh lưng đeo túi vải, tay cầm rựa như nhiều người khác lui tới trên đoạn đường này, đường vô cánh rừng Bàu Sen cách Gia Rây 3 km về hướng Bắc. Anh đi sau tôi khoảng gần 100 thước, chúng tôi đi mãi cho tới lúc cả hai hoà nhập vào lá xanh muôn thuở của rừng già. Một cuộc họp giữa rừng diễn ra với sự có mặt của năm người, hai người ở Gia Rây, một tại Ngã Ba Ông Đồn và một ở Xuân Đà – Căn Cứ 2 gần đó. Bốn người ngồi bàn luận dưới gốc một cây hơi cao và rậm rạp, một người ngồi trên cành vừa đủ tầm quan sát chung quanh, vừa lắng nghe diễn tiến buổi họp vừa để ý sự lay động cành lá hoặc các tiếng động đáng ngờ quanh khu vực.
Chúng tôi có chung thắc mắc vì nhớ lại một công tác cách đó không lâu: “Sau giao thưà rạng sáng ngày mùng 1 Tết năm 1976, lợi dụng lúc tiếng pháo của dân, tiếng súng của VC bắn suốt đêm, chúng tôi đã xâm nhập và đốt cháy một đám cỏ rộng bao quanh khu doanh trại hậu cứ Tiểu Đoàn 5 Thuỷ Quân Lục Chiến tại Suối Lồ Ồ (gần Nghĩa Trang Quân Đội, thuộc xã Bình An, quận Dĩ An tỉnh Bình Dương). Kết quả làm nổ tung kho đạn ở đây, mãi tới chiều mùng 1 Tết mới im tiếng”. Thắc mắc được nêu ra là tại sao sau vụ nổ đó VC không tăng cường canh gác cẩn mật những nơi tồn trữ đạn dược, chẳng hạn như kho đạn ở Long Bình. Đây có phải là một cái bẫy không? Các ý kiến lần lượt đưa ra để mọi người cùng phân tích lý do đó, sau cùng chúng tôi đi đến nhận định rằng: (1) VC không bao giờ dám đem một kho đạn như thế ra làm bẫy, vì nó gần Sài Gòn và ngay ngày mai, 25 tháng 4 năm 1976 chúng sẽ tổ chức “tổng tuyển cử” (bịp) toàn quốc để “thống nhất” hai miền Nam- Bắc (sau cuộc họp “hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền”, kéo dài từ ngày 15 đến 21. 11. 1975 ở Dinh Độc Lập, <ngày 2.7. 1976, VC đổi tên nước ra CHXHCNVN tới hôm nay>); (2) Kho đạn mà chúng tôi biết vừa rồi thuộc loại nhỏ hơn nhiều so với các kho ở Cát Lái, ở Thành Tuy Hạ vv. Biết đâu chúng đã giao kho đạn này cho đơn vị VC chiếm đóng trong khu vực làm hoả lực cơ hữu. Nếu lo sợ chúng đã gom về Cát Lái hay một nơi nào khác từ lâu rồi. Có thể đây là kho đạn dự trữ của Bộ Chỉ Huy BĐQ/ Quân Khu III, vì khu vực đó gần các hậu cứ của những tiểu đoàn BĐQ trực thuộc quân khu này; (3) Sau vụ nổ ở kho đạn của TĐ 5 TQLC, có thể VC sau khi điều tra đã kết luận do cỏ bị cháy vì sự bất cẩn trong đêm giao thưà. (4) Kho đạn vửa kể nằm cách xa vùng Hố Nai chừng hơn 6 km, thường dân sẽ tránh được thương vong lúc vụ nổ xảy ra.Sau rốt, chúng tôi quyết định “hốt ổ”, và ngày gây chấn động là sáng 30 tháng 4. Việc bây giờ là tìm và gom thuốc nổ, ngòi nổ, một cái đồng hồ để chỉnh giờ. Ngoài ra, còn phải chỉ định người rành rẽ về thuốc nổ đi theo anh M tới mục tiêu đêm 29 tháng 4 năm 1976. Chúng tôi chỉ còn gần một tuần để chuẩn bị các việc đó. Vấn đề mua đồng hồ để chỉnh giờ cho khối thuốc nổ thì tôi sẽ lo liệu. Riêng việc tìm thuốc nổ, ngòi nổ vv sẽ giao cho S ở Ngã Ba Ông Đồn vì nhà anh ở gần mỏ đá Núi Le cạnh QL 1. Anh M nhận trách nhiệm tìm người đưa khối thuốc nổ vào kho đạn.
Xã Gia Rây trước năm 1975 có năm ấp là Trung Lương; Trung Nghĩa; Trung Tín; Lập Thành; Bình Long (năm 1980 mới lập thêm ấp Gia Lào, tên cổ ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí đọc là Da Lao). Sau cuộc “bầu” thống nhất Bắc- Nam của VC xã Gia Rây bị đổi tên thành Xuân Trường, ấp Trung Lương bị sáp nhập với ấp Trung Nghĩa. Hai ấp Trung Nghĩa và Trung Tín thì nằm ngay khu vực thị trấn xã và nhà ga. Rẽ tay trái theo Tỉnh Lộ 15 thì đi ngang ấp Bình Long, nơi tái định cư của đồng bào nạn nhân chiến cuộc ở Bình Long – An Lộc năm 1972, tỉnh lộ này chạy mãi tới sông La Ngà; Võ Xu; Võ Đắt. Từ xã rẽ tay phải đi đúng bốn cây số thì gặp Ngã Ba Ông Đồn tức ấp Lập Thành nằm bên QL 1. Cuối dốc Ông Đồn về bên tay phải dọc theo QL 1 là Căn Cứ 1, tức xã Xuân Hiệp, còn có tên khác là giáo xứ Lều Xanh- Suối Cát, nơi tái định cư của đồng bào Việt kiều đạo công giáo ở Cam Bốt đưa về đây năm 1971. Đi theo Ql 1 ở hướng này sẽ tơí Ngã Ba Tân Phong và thị xã Long Khánh. Cuối dốc Ông Đồn bên tay trái theo QL 1 hai cây số là mỏ đá Núi Le, nơi giáp giới xã Xuân Tâm (tên cũ là Xuân Đà) tức Căn Cứ 2 với hai giáo xứ Đồng Tâm (Quảng Tín; Quảng Ngãi) và Hiệp Lực (Quảng Trị; Thưà Thiên), vùng đất mới của nạn nhân chiến cuộc ở bốn tỉnh nêu trên về đây lập nghiệp vào giữa năm 1972. Hai giáo xứ Đồng Tâm- Hiệp Lực cũng là nơi có con sông Rây chảy qua, đầu nguồn xuất phát từ núi Mây Tàu, Bình Tuy. Xã Gia Rây có hai mỏ đá, một ở chân núi Chưá Chan ngay tại thị trấn ( núi cao 837 m, đồng bào Châu Ro gọi là Gung Char, “Núi Lớn”) có từ thời Pháp, nơi đây đá được khai thác để cung cấp cho đường xe lửa từ Long Khánh đến Mương Mán, sau năm 1975 không còn hoạt động. Mỏ đá Núi Le cách Ngã Ba Ông Đồn 2 km là nơi cung cấp đá để tu bổ QL 1 cho đoạn đường từ Long Khánh đến Bình Tuy. Người thợ chẻ đá ở Núi Le làm việc rất cực nhọc, thường xuyên sống trong thiếu thốn do chính sách khắc nghiệt của VC. Chúng giao khoán trung bình 10 thước dây cháy chậm + một ngòi nổ (kíp nổ) + bốn ống thuốc nổ thì phải có 5 thước khối đá nhiều cỡ, từ 1 phân, 2 phân, 5 phân cho tới 5 phân, 7 phân vv. Vì thế dân chẻ đá ở đây phải tính toán làm sao để cắt dây, gài thuốc thật chính xác (nhưng rất nguy hiểm) cho vừa có đủ số đá VC ấn định, nhưng cũng vưà dư được dây cháy chậm, dư kíp nổ, dư ống thuốc nổ (dài 30 phân) để bán lén ra ngoài cho dân đánh cá trong sông La Ngà và sông Rây hầu kiếm thêm chút tiền mua gạo. Vì thế, chúng tôi tìm gom các thứ để phá kho đạn ở Long Bình không khó lắm (mỏ đá núi Bà Đen ở Tây Ninh cũng được chúng tôi móc nối mua các thứ cần dùng để gài mìn dọc theo Tỉnh Lộ 13 từ Suối Đá đi Lòng Hồ Dầu Tiếng, qua lâm trường (mật khu) Dương Minh Châu tới Minh Thanh; Núi Cậu; Tống Lê Chân; Tân Khai bên tỉnh Bình Long).
Sau cuộc họp tại rừng Bàu Sen, chúng tôi tỏa ra cắt rừng đi về nhà mà trong lòng của mỗi người ai cũng hớn hở chẳng lo âu.Ngày hôm sau tôi nhảy tàu Gia Rây- Sài Gòn vào chuyến buổi chiều, trên vai là một ba lô nhăn nhúm bạc màu, gói ghém một bộ áo quần và vài bịch nông phẩm khô của Long Khánh. Trong túi là phiếu đi bầu màu đỏ, có tên họ của mình, có con dấu của xã, của ban bầu cử in lên đó hàng chữ “đã đi bầu”, sau khi cả buổi sáng đứng sắp hàng trước uỷ ban xã chờ bỏ phiếu “bầu” cái “quốc hội thống nhất” bịp bợm của VC. Về tới Sài Gòn, đêm đó tôi ngồi chờ sáng cạnh một bàn cà phê bán trên vỉa hè trước rạp Long Vân, gần bùng binh Ngã Bảy (Sài Gòn vào thời điẻm này bắt đầu có nhiều nơi bày bán cà phê, nước trà thâu đêm suốt sáng trên vỉa hè, bàn ghế thấp lè tè, nhẹ hều và khách cũng ngồi thức cả đêm. Các loại “quán” cà phê kiểu đó mỗi khi bất ngờ nghe tiếng la lớn: …”CHÈO..O..O”.. thì mạnh ai nấy chạy, bàn và ghế nhờ nhỏ và nhẹ nên biến mất khỏi lề đường chỉ trong khoảnh khắc. Đám công an đi rồi thì tất cả lại như cũ).
Người ngồi nói chuyện với tôi qua đêm tại đây là chị H, vợ Chuẩn úy Thinh ở TĐ 36 BĐQ, sau ngày 30. 4 chị không có tin tức gì về anh nữa. Nhà chị H ở khu Hoà Hưng, mỗi đêm chị để hai con nhỏ ở nhà với bà ngoại rồi rủ vài người bạn gái ra Ngã Bảy làm cái nghề gọi là “gọt bã đậu” (gạt bộ đội). Nghề này nhắm vào mấy trự bộ đội thích gái miền Nam, là các chàng được đi phép về Bắc nên ra bến xe Petrus Ký mua vé xe. Sau lúc giao hành lý cho lơ xe chất lên mui, họ phải chờ tới sáng thì xe mới rời bến nên hay đi lòng vòng quanh khu Ngã Bảy để rồi gặp những cô gái “lỡ đường”, “bơ vơ” như chị H chẳng hạn. Sau khi nghe những lời than thở não lòng của mấy nàng, trung bình cứ mười bộ đội thì ít nhất cũng có một tên cắn câu, chịu giúp ít tiền nhưng với điều kiện là “phải có qua có lại”. Vậy là chàng “bã đậu” được dắt tới một gốc cây nào đó trong bóng tối để “có qua có lại”. Đúng lúc đó bỗng xuất hiện vài ba thanh niên mặt mày bặm trợn, họ nhào tới quật chàng xuống nện một trận tối tăm mày mặt, lột hết áo quần, lấy sạch tiền, ném lại giấy tờ rồi tất cả chạy biến vào bóng tối. Chàng “bã đậu” lúc hoàn hồn lại thì chỉ còn cái quần đùi, hắn hớt hơ hớt hãi nhưng không dám kêu la mà lủi thủi cắm đầu chạy tìm về chỗ xe ca mình có vé, leo lên ghế rồi mới bắt đầu ngồi vò đầu bứt tóc và chửi om xòm! Chị H thường đi cặp với một cô tên Loan cũng ở khu Hoà Hưng. Loan là bồ của Lộc Lì, một tay anh chị có máu mặt gốc BĐQ ở Cống Bà Xếp, là người đêm đêm cùng “lâu la” đứng chờ “gọt” sạch “bã đậu” nào muốn “có qua có lại” do hai cô này “câu” được (Lộc Lì có những hỗn danh khác như Lộc Liều, Lộc Lưả, thường chạy chiếc “lam bét ta” cũ mèm phun khói đen mù mịt, máy nổ đinh tai nhức óc khắp khu Hoà Hưng. Năm 1986, Lộc Lì gặp lại tôi ở Ngã Ba Cây Chanh gần Bù Đăng, nơi hoạt động của “Liên Đội Thanh Niên Xung Phong quận Ba”, anh ta bị “cá” hốt đưa lên đây giao cho TNXP, tôi xin Liên Đội Trưỏng là Phạm Ngọc Liên (bí thư quận đoàn quận Ba) đưa Lộc Lì về đội cưa xẻ).
Mỗi lần có chuyện phải ghé Ngã Bảy, tôi thường mang theo vài ký đậu xanh, khoai mì khô, bắp hột, đường tán vv để làm quà cho chị H. Đêm nay vừa nói chuyện được không lâu chị đã khều tôi nói nhỏ: “Có ba “tàu bay” chờ cất cánh mấy đêm rồi” (có ba “tân binh” muốn gia nhập). Tôi cảm ơn và nhờ chị giúp giữ họ sống tạm lây lất quanh khu vực tuợng đài BĐQ, một tuần sau tôi sẽ trở lại. Sáng đó tôi nhảy xe buýt đi “ngân hàng” (nơi nhận tiền hoạt động), mà “ngân hàng” là một chiếc xe đẩy bán hủ tiếu lưu động trên đường Tùng Thiện Vương, quận 8 Sài Gòn. Phải có tiền mới mua được cái đồng hồ lên dây ngoài chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, trả cho anh em chẻ đá ở mỏ đá Núi Le để có đủ ngòi nổ và sáu cốt mìn màu đỏ.
Đêm 29 rạng ngày 30.4. 1976, chúng tôi gồm bốn người xuất phát từ bốn địa diểm khác nhau rồi cùng gặp mặt bên ngoài một trại nuôi bò ở Hố Nai (là nơi đã kể ở đoạn trước). Chúng tôi chia làm hai nhóm đi cách xa nhau, vừa đủ tầm nhìn trong bóng đêm để toán sau thấy toán trước mà VC không biết chúng tôi có “cái đuôi” bám sau lưng. Anh M và tôi đi trước với bao đồ nghề gồm kềm cắt, vài nắm xôi, bình nước uống, một cái đòn tre dài, một bao bố rách để bao tay vì theo giao hẹn của gã bộ đội đêm nay hắn chỉ bán dây kẽm gai mà thôi. Hai người lén đi theo sau là BĐQ N ở Thủ Đức và BĐQ T ở Bình Chánh, sáu cốt (ống) mìn và “phụ tùng” kèm theo được hai anh cột chặt nằm hàng ngang ngay sau lưng, bên ngoài mặc áo rộng thùng thình. Hai chúng tôi đi đầu đưọc một lúc thì gặp gã bộ đội quen đứng đón với cái đèn pin, lúc đó khoảng 9 giờ tối. Vưà thấy mặt hắn đã la lớn: “Khẩn trương lên ! Chúng mày vào trễ thế. Bọn chúng nó đến trước “ăn” cả rồi. Chả còn bao nhiêu đâu” ! Gã bộ đội vưà càu nhàu vưà dắt chúng tôi đến vài ba nơi để chỉ từng đống bùi nhùi dây kẽm gai nằm dập vùi trong cỏ, hai người phiá sau vẫn lặng lẽ bám sát chúng tôi. Gã bộ đội tay cầm cây gậy tre đập đập vào đống kẽm gai vưà nói rõ: “Mấy đống này hơi rối rắm, chịu khó mà gỡ nhé. Tao tính một đồng một cân thôi”. Anh M hỏi lại: “Thế sớm mai anh vác theo cân gặp ở chuồng bò à”? Hắn cắt ngang: “Cân kéo chó gì. Tao nhìn biết ngay bao nhiêu cân vì đêm nào chả bán”! Hắn nói tiếp: “Này ! Mai chúng mày phải ra sớm hơn. Bảy giờ sáng chúng tao phải lên ô tô đi Sài Gòn để “diễu binh” đấy”! Nói xong hắn xách đèn pin chạy biến vào bóng tối.
Anh M cẩn thận rảo bước một vòng rộng chung quanh để chắc chắn không có ai ở gần. Khoảng 20 phút sau thì hai BĐQ N và T mới thận trọng tiến tới gặp chúng tôi. Anh M bảo tôi ngồi tại chỗ vưà gỡ kẽm gai vưà quan sát động tĩnh, nếu gã bộ đội quay lại hỏi thì nói lớn tiếng hơn bình thường, cứ nói anh ấy đi gỡ kẽm gai ở đống khác. Tôi ngồi đó một mình trong đêm vắng, vài con đom đóm lập loè nhảy múa bên những lùm cây. Với cái đèn pin đạp dưới chân, tôi ngồi cặm cụi cầm chặt cáí kềm để tháo, gỡ những chỗ rối, cố hạn chế cắt ngắn vì sợi kẽm càng dài còn có giá. Thỉnh thoảng tôi đứng lên nhìn chung quanh rồi lại ngồi xuống với công việc, trong ngực tôi quả tim đập dồn dập liên hồi vì trong đầu cứ lo lắng nghĩ tới ba đồng đội đang loay hoay với bó thuốc nổ bên trong một kho đạn. Đây là lần hồi hộp và sợ hãi nhiều nhất mà tôi từng trải qua, sợ hơn cả các lần nằm dưới mưa đạn của VC ở Hạ Lào và Quảng Trị.
Sau đây là diễn tiến do anh M kể lại từ lúc ba người vác “đồ nghề” đi tới mục tiêu là cái “k”: Lúc đến được các bãi chưá đạn, anh M và N thì nằm ngoài con đường đất chờ đợi (gần chiếc xe cháy), riêng anh T thì nằm dài xuống sát bên ngoài bờ đất của ụ chưá đạn để nối các cốt mìn, kíp nổ, hộp kích hoả và đồng hồ liền vào nhau (hộp kích hoả do anh T tự “chế” từ một đồng hồ điện tử đeo tay). Sau đó anh nằm ngửa ôm bó mìn rướn người nhích dần vô bên sâu trong ụ chưá đạn 155 ly. Khoảng 10 phút sau anh bò ra rồi cả ba cùng hối hả chạy trối chết về chỗ tôi ngồi.Bốn người chúng tôi ngay lập tức cùng xúm vô tháo, cắt vv rồi quấn lại được một vòng dây kẽm gai nặng hơn 60 kg. Anh M thúc giục hai anh N và T mau chạy theo đường cũ về hướng Hố Nai, dọc đường nếu xui xẻo gặp bộ đội chặn đường thì cứ nói đi “mờ sờ” (mua sắt) nhưng bị lạc. Hai anh vội vàng đứng lên, tay cầm hai ống sắt dài làm vũ khí rồi biến mất trong bóng tối.
Bốn giờ sáng, tôi và anh M hai người khiêng khoanh kẽm gai tà tà đi về hướng cũ. Khoanh kẽm gai cứ đong đưa qua lại theo nhịp bước chân làm chúng tôi chẳng dám đi mau. Cả hai chúng tôi đều ướt đẵm mồ hôi, bàn tay thì rướm máu và đau rát vì bị cắt ngang cắt dọc. Đi phiá sau nhìn cái lưng đẵm ướt của anh M làm tôi cảm thấy thương mến, kính phục anh hơn lúc nào hết. Không biết anh đang nghĩ gì, còn tôi thì cứ nghĩ đến đoạn đường dài mà mình và đồng đội sẽ tiếp tục chiến đấu khi cộng sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam.
Gần 9 giờ sáng hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, chúng tôi ngồi uống cà phê ở bốn bàn khác nhau như người xa lạ trong một quán nhỏ bên ngoài ga Hố Nai. Bỗng một tiếng nổ lớn từ phiá xa vang lên làm mọi người trong quán nhốn nháo. Ngay sau đó hàng loạt tiếng nổ chát chuá kèm theo. Chúng tôi cũng giả bộ chạy ra ngoài lẫn lộn với đám đông đang hoảng hốt, mọi người đưa tay chỉ về hướng một cột khói đen bốc cao trong khi tiếng nổ vẫn không ngớt vang động. Dọc theo đường lộ, xe cộ đều ngừng lại, tiếng người la hét khắp nơi và bóng người chạy tìm chỗ nấp ở những nơi mà họ tin rắng có thể an toàn. Có ai đó hớn hở la lên: “Tới rồi ! Tới rồi ! Phe ta về rồi” ! Xa xa, một đoàn người đông đúc đang bị VC tập trung đi diễu hành “mừng ngày 30 tháng 4” cũng bỏ chạy tán loạn. Các tấm băng rôn khẩu hiệu, cờ đỏ vv bị vứt nằm chỏng chơ dọc theo con đường, vài cái nón cối nằm lăn lóc bên vỉa hè trong lúc tiếng nổ vẫn ầm ầm từ xa vọng đến.
BĐQ Đỗ Như Quyên
https://hung-viet.org/p13a14633/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang-4-nam-1976Nguo
Ngồn https://dongsongcu.wordpress.com/2017/05/13/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang4-nam-1976/
Ngồn https://dongsongcu.wordpress.com/2017/05/13/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang4-nam-1976/
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
592
Tổng kho Long Bình được canh phòng cẩn mật và giữ bí mật ở mức độ cao. Phải chăng vì vậy, cho đến nay - dù đã "đổi chủ" hơn 40 năm song vẫn còn nhiều bí ẩn chưa có lời giải?
Những con số khiến thiên hạ phải giật mình
Sau khi thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đưa quân đội vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam, lượng vũ khí và quân trang quân dụng để bảo đảm cho đội quân này tăng lên theo cấp số nhân và càng ngày càng lớn.
Theo các tài liệu thống kê để lại cho biết: Lượng đạn dược được chuyển đến Việt Nam trung bình khoảng 40.000 tấn/tháng trong năm 1966, một năm sau số lượng đã tăng lên gần gấp đôi đạt 75.000 tấn/tháng vào năm 1967.
Đầu năm 1968 số lượng vận chuyển đã tăng lên đến 90.000 tấn/tháng, đến giữa năm 1968 số lượng đã vượt quá 100.000 tấn/tháng.
Đấy mới chỉ là khối lượng đạn dược. Còn để phục vụ đầy đủ cho một đội quân nhà nghề "được trang bị tới tận răng" như quân đội Mỹ thì còn biết bao nhiêu thứ quân trang, quân dụng khác.
Từ các phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, pháo cối... cùng với khí tài vật tư dự trữ phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng trang bị cho đến lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng, đồ dùng sinh hoạt... của mỗi người lính còn cao gấp nhiều lần con số đó.
Trong khi đó, theo yêu cầu của Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Nam Việt Nam thì số lượng vật chất dự trữ phải đảm bảo đủ cho quân đội sử dụng ít nhất là 6 tháng.
Và đó chính là lý do bức bách mà Mỹ phải tiến hành xây dựng Tổng kho dự trữ chiến lược tại Long Bình - một địa điểm vừa thuận lợi cho quá trình tiếp nhận hàng hóa, đồng thời cũng có thể nhanh chóng tiếp tế cho cả 4 vùng chiến thuật và Biệt khu Thủ Đô.
Với quy mô như vậy, Tổng kho Long Bình được xây dựng trên diện tích khoảng 24 km2 với hàng chục phân kho. Mỗi phân kho bao gồm hàng chục dãy nhà kho cả nổi cả chìm tùy theo loại hàng hóa mà nó chứa trong đó.
Các nhà kho nổi thường được làm bằng nhà thép tiền chế khẩu độ rộng với chiều dài từ vài chục đến hàng trăm mét. Còn các kho chìm dùng để chứa bom đạn, hóa chất... thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên.
Xung quanh các nhà kho thường có lũy đất hoặc thùng phuy sắt đổ đất xếp chồng lên nhau bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp - nhất là số cũ hỏng đem về đổi và sửa chữa thì để ở ngoài trời...
Để ra vào tổng kho (TK) có 12 cổng mở theo nhiều hướng khác nhau với hệ thống đường sá rất hiện đại. Hàng ngày có hàng ngàn chuyến xe trọng tải lớn ra vào song không bao giờ có hiện tượng ùn tắc xảy ra.
Với khối lượng hàng hóa tàng trữ trong kho lên đến hàng chục triệu tấn, TK Long Bình trở thành kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của quân đội Hoa Kỳ và được quản lý bằng máy tính IBM 360/50- một trong những hệ thống máy tính hiện đại nhất thời đó.
Do tính chất quan trọng như vậy, TK Long Bình được bảo vệ hết sức cẩn mật và nghiêm ngặt. Xung quanh TK có hàng rào dây thép gai từ 7 đến 12 lớp; giữa các hàng rào dây thép gai đều bố trí mìn nhiều loại. Phía trong và ngoài hàng rào đều bị phát quang.
Phía trong hàng rào có đường dành cho xe tuần tra. Dọc đường tuần tra, cứ vài trăm mét lại có một tháp canh, trên đó được trang bị đèn pha cực mạnh để chiếu sáng ban đêm. Giữa các phân kho cũng có hàng rào dây thép gai.
Toàn bộ phần bên trong kho gần như không có cây xanh lớn, chỉ có loại cỏ Mỹ mà lá sắc như dao. Đảm nhiệm công tác bảo vệ kho thường xuyên là 2000 sĩ quan, binh lính.
Ngoài ra, còn một số đơn vị chiến đấu cũng có doanh trại trong khuôn viên kho nhưng được ngăn cách đặc biệt với kho hàng.
Có điều không hiểu sao trong khi các nhà kho xây dựng rất vững chắc, lâu bền thì nhà ở của sĩ quan, binh lính và nhân viên trong kho lại khá đơn giản và có vẻ ngắn hạn. Đó thường là loại nhà làm bằng gỗ xẻ lợp tôn.
Các thanh gỗ kích thước 15 x 6 cm được lắp ghép thành khung nhà (chỗ nào là cột thì ghép 2-3 thanh bằng đinh rồi bắt bu- lông xuống nền bê tông), mặt trong vách dùng gỗ dán, mặt ngoài gỗ xẻ "lợp" như vẩy cá.
Giữa hai lớp là chất chống nóng khá giống mùn cưa. Sàn cũng bằng gỗ xẻ và trải một lớp nhựa mỏng. Nhà ở của sĩ quan thường là nhà 2 tầng, phòng có máy điều hòa nhiệt độ; còn binh sĩ và nhân viên thì ở nhà 1 tầng, khu vệ sinh chung.
Mặc dù được bảo vệ như vậy song TK Long Bình cũng đã bị đặc công Quân giải phóng (QGP) "hỏi thăm" nhiều lần và cũng tổn thất đáng kể. Một số trận đánh tiêu biểu như:
Trận đánh ngày 23.6.1966, phá hủy 40.000 viên đạn pháo.
Đêm 03.02.1967, làm nổ tung 40 dãy nhà kho, phá hủy 800.000 viên đạn pháo.
Ngày 13.8.1972, phá hủy 17 dãy nhà, thiêu hủy 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu, diệt 300 địch.
Ngày 14.12.1972, phá hủy gần 200 xe quân sự.
Từ khi thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", quân đội Mỹ giảm dần sự hiện diện tại chiến trường miền Nam. Cho đến khi Hiệp định Pa- ri được ký kết, quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam thì TK Long Bình cũng từng bước được bàn giao cho quân lực Việt nam Cộng Hòa (VNCH).
Khi về tay VNCH, lượng hàng hóa trong kho vẫn còn tương đối phong phú nên quân lực VNCH vẫn khá dồi dào về nhiên liệu, đạn dược.
Các tài liệu lưu trữ cho thấy: Tháng 2.1973, quân lực VNCH đã sử dụng 78.000 tấn bom đạn - nghĩa là gần bằng những tháng cao điểm khi còn quân Mỹ. Trong cả năm 1973, VNCH sử dụng 326.000 tấn bom đạn, nhiều nhất từ trước đến lúc ấy.
Tuy nhiên, của kho không vô tận. Cùng với lượng viện trợ của chính phủ Mỹ giảm dần từ 1,4 tỷ USD/ năm xuống 700 triệu, rồi 300 triệu USD/ năm, lượng hàng hóa viện trợ cũng giảm sút nhanh chóng.
Theo hồi ký của TS Nguyễn Bá Cẩn, một trợ lý thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì từ năm 1973 trở đi, lượng hàng hóa, vật tư dự trữ trong TK Long Bình chỉ đủ đảm bảo cho quân đội 3 tháng thay vì 6 tháng như trước đây.
Mùa Xuân năm 1975, sau những thất bại liên tiếp tại địa bàn Quân khu I và II, ông Thiệu chủ trương "trì hoãn chiến" cố giữ lấy quân khu IV và vùng đất còn lại để tìm một giải pháp chính trị nên đã ra lệnh cho quân đội phân tán TK Long Bình về địa bàn Quân khu IV (Miền Tây Nam Bộ).
Tuy nhiên, công việc này được triển khai chậm và thiếu tính tổ chức nên không mấy hiệu quả và thất thoát nhiều.
Hãy nghe một sĩ quan VNCH thuộc Quân đoàn 4 hồi tưởng:
"Ngày 28.4.1975- Ban chỉ huy Trung đoàn đóng tại Trường Trung học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc rạ.
TK Long Bình có lệnh phân tán quân trang quân dụng nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc GMC và xe JEEP các loại kèm theo một lệnh miệng: Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, sử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.
Vừa xe, vừa gạo và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô".
Trước tình hình ấy, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, một phân đội đặc công của QGP Miền (B2) được giao nhiệm vụ tiến công TK Long Bình và họ đã hoàn thành nhiệm vụ mà không gặp mấy khó khăn. Từ đó, TK Long Bình thuộc quyền kiểm soát của QGP miền Nam Việt Nam.
Những tin đồn "vô tiền khoáng hậu"
Do quy mô lớn, lượng hàng hóa phong phú lại được bảo vệ hết sức cẩn mật nên ngay từ khi mới đưa vào sử dụng, TK Long Bình đã được bao bọc trong màn khói vô cùng bí hiểm và gây sự chú ý đặc biệt đối với dân chúng xung quanh nói riêng cũng như cả miền Nam nói chung.
Người ta thì thầm rỉ tai nhau: "TK Long Bình không thiếu một thứ gì, kể cả những loại vũ khí tối tân nhất!". Rồi họ ngó trước, ngó sau và tranh luận với nhau xem trong đó có "bom nguyên tử hay không?".
Lại có người viện dẫn lời của những người quen biết làm "ở trỏng" mà khẳng định chắc nịch: "Trong đó có 2 "mũi tên gẫy" là loại vũ khí tối tân nhất của Mỹ, có sức hủy diệt ngang với bom nguyên tử và vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu".
Người ta còn mắt trước mắt sau rồi thì thầm vào tai nhau: "Ngoài những nhà kho trên mặt đất thì TK Long Bình còn một hệ thống hầm ngầm lớn hơn rất nhiều (có người còn khẳng định rộng đến 300 km2).
Các kho ngầm này có nhiều lớp cửa, khóa cửa có mã khóa bí mật. Nếu mở không đúng sẽ tự hủy và vụ nổ này có thể sẽ tàn phá một nửa thành phố Sài Gòn và toàn bộ thành phố Biên Hòa".
Thật sự đó là những thông tin hết sức hấp dẫn đối với trí tò mò của mọi người và nó cứ thế lan truyền!
Trong khi đó, ngay sau 30.4.1975 TK Long Bình được sử dụng làm nơi đóng quân của hầu hết các đơn vị binh chủng kỹ thuật của Binh đoàn Hương Giang như Lữ đoàn xe tăng 203, các Lữ đoàn Pháo binh, Công Binh và Phòng Không....
Tuy nhiên, các đơn vị này cũng chỉ sử dụng phần doanh trại của các đơn vị quân đội và nhà ở của sĩ quan, binh sĩ, nhân viên tổng kho và không đụng chạm gì đến các phân kho.
Trong thời gian đầu - khi mà công tác bảo vệ kho chưa vào quy củ chặt chẽ thì "lính tráng" các đơn vị cũng giành nhiều thời gian khám phá xung quanh và họ chỉ biết trầm trồ trước sự phong phú, dồi dào của hàng hóa, vật tư chứa chất ở nơi đây.
Riêng về xe quân sự - kể cả tăng thiết giáp và ô tô- đã lên đến gần 1.000 chiếc. Tất nhiên, họ cũng thu một số "chiến lợi phẩm" song chủ yếu là đồ ăn, thức uống cùng một số vật tư phục vụ cho việc bảo quản, bảo dưỡng trang bị mà thôi.
Còn các đơn vị cũng tranh thủ tăng cường vào biên chế của mình một số loại phương tiện vận tải thích hợp.
Một thời gian ngắn sau đó, TK Long Bình được giao cho Tổng cục Kỹ thuật quản lý. Từ đó, công tác bảo vệ và bảo quản được tiến hành chặt chẽ hơn rất nhiều nên hầu hết vật tư, hàng hóa trong TK vẫn còn nguyên vẹn.
Song song với việc đó, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH.
Sau khi khai thác thành công - khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công tác đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình.
Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.
Với dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình đã càng ngày càng đi vào nề nếp, đảm bảo quy trình nghiêm ngặt đối với những chủng loại hàng hóa khác nhau.
Các loại hàng hóa, vật tư phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.
Một số phế liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường...
Thời kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở cho cán bộ- nhân viên...
Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.
Trong điều kiện đó, những tin đồn xung quanh cái Tổng kho bí ẩn vẫn tiếp tục được lan truyền rộng rãi, nhất là khi có một sự kiện nào đó như cháy, nổ xảy ra quanh khu vực đó.
Nào là: "Việt nam đã nhờ cả Liên Xô mở khóa các kho ngầm, một số chuyên gia đã bị hy sinh song vẫn không thành công!".
Nào là: "Sau khi quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ được bình thường hóa, phía Mỹ đã đề nghị Việt Nam cho họ mở khóa với điều kiện sẽ "cưa đôi" những thứ trong đó- riêng 2 "mũi tên gẫy" phải trả về cho họ. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà phía Việt Nam không đồng ý"... v.v... và v.v...
Những tin đồn về TK long Bình không chỉ tồn tại trong nước mà cả ở nước ngoài- nhất là ở Mỹ. Thậm chí một tờ báo Mỹ còn đưa tin:
"Năm 2001, Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Gost Recon và Skull tham gia chiến dịch thu hồi 2 "mũi tên gãy" ở VN nhưng nhiệm vụ thất bại. Toàn bộ 12 binh sĩ Mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả thi thể 12 binh sỹ đều bị tiêu huỷ hoàn toàn".
Không loại trừ sẽ còn nhiều lời đồn đoán "vô tiền, khoáng hậu" nữa về bí ẩn Tổng kho Long Bình tùy theo trí tưởng tượng của tác giả. Thôi thì ai tin cứ tin! Còn Tổng kho Long Bình thì vẫn thế mà thôi!
theo Thế giới trẻ
592
Bạn đọc có thể báo tin, gửi bài viết, clip, ảnh về email quansu@ttvn.vn để nhận nhuận bút cao trong vòng 24h. Đường dây nóng: 0943 113 999
Nguồn: http://soha.vn/tong-kho-long-binh-he-thong-kho-ngam-da-duoc-mo-khoa-hay-chua-20160512091825001.htm
Hồ sơ mật: Bí mật còn chưa biết ở Tổng kho Long Bình
Chiến thắng giải phóng hoàn toàn đất nước đã được nửa thế kỷ nhưng những bí mật trong cuộc chiến tranh ấy vẫn còn rất nhiều. Tổng kho Long Bình là một bí mật như thế. Tới tận bây giờ vẫn còn chưa thể vén hết tấm màn của bí ẩn, nhiều giai thoại vẫn đồn thổi đó đây...
Tổng kho Long Bình là tổng kho cấp chiến lược do Mỹ xây dựng để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Khi người Mỹ rút đi, họ bàn giao cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa và vẫn là tổng kho cấp chiến lược.
I. Lịch sử và vị trí của kho Long Bình:
Nhằm phục vụ cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” với cường độ ngày một cao, vào giữa thập niên 60 của thế kỷ trước người Mỹ đã tiến hành xây dựng một Tổng kho cấp chiến lược ở khu vực Long Bình và được gọi là Tổng kho Long Bình.
Nằm cách Sài Gòn 20 km và cách Biên Hòa 7 km, Tổng kho Long Bình có diện tích khoảng 24 km2 mặt đất nhưng có hệ thống đường hầm ngầm nhiều ngõ ngách với diện tích khoảng 300Km2 (Diện tích hầm ngầm chưa được kiểm chứng), hiện nay nằm trong huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Vị trí thực tế bây giờ: Kho Long Bình nằm trong Trung đoàn 31- Trung đoàn anh hùng - thuộc Sư đoàn 309, Quân đoàn 4. Mặt phía tây, tây nam giáp khu công nghiệp Biên Hòa 2, KCN amata, siêu thị big C. Phía Bắc là tiểu đoàn trực chiến (cũng thuộc trung đoàn 309), Lữ đoàn tăng thiết giáp. Phía đông là hướng ra vũng tàu, gần đó là trường Sỹ quan Lục quân 2.
Bao gồm rất nhiều khu kho riêng biệt và được bảo vệ hết sức cẩn mật với hàng chục phân kho. Mỗi phân kho bao gồm hàng chục dãy nhà kho cả nổi cả chìm tùy theo loại hàng hóa mà nó chứa trong đó. Riêng kho đạn được xây dựng bằng nhiều đường hầm với hằng trăm kho, nhiều cửa thép được khóa bằng phần mềm và phần cứng, phối hợp với nhau rất kiên cố. (Một số cửa thép khi mở khoá sai nhiều lần hoặc dùng lực mạnh tác động thì có khả năng tự huỷ- 1 số chuyên gia Việt Nam và Liên Xô khi mở cửa có khoá mã này không được đã hi sinh). Và tới bây giờ vẫn còn một số kho cửa thép kiên cố vẫn chưa mở ra được và không ai biết có gì bên trong.
II. Bí mật mang tên Long Bình
Tuyến phòng thủ bảo vệ ngoài cùng của tổng kho khi đó có đến 9 lớp hàng rào kẽm gai cao 2m (Khu Vực trọng yếu lên tới 12 lớp hàng rào kẽm gai). Khoảng cách vòng rào ngoài cùng đến vòng rào thứ hai dài mấy trăm mét, rộng hơn các khoảng cách còn lại. Khu vực này gồm nhiều đồi thấp và suối nhỏ. Phía trong và ngoài hàng rào đều bị phát quang, gần như không có cây xanh lớn, chỉ có loại cỏ Mỹ mà lá sắc như dao và có đường dành cho xe tuần tra. Dọc đường tuần tra, cứ vài trăm mét lại có một tháp canh, trên đó được trang bị đèn pha cực mạnh để chiếu sáng ban đêm, chúng được bố trí khéo léo để có thể bắn chéo kẻ xâm nhập. Nhằm bảo đảm an ninh và quan sát, người Mỹ đã đặt cả một hệ thống đèn pha soi từng góc cạnh cả mặt trước lẫn mặt sau vành đai phòng thủ. Các hộp thiếc gắn trên dây kẽm gai sẽ báo động nếu có ai đụng vào. Mìn bẫy dày đặc trên khu đất nằm giữa hai vòng hàng rào dây thép gai phòng thủ. Chúng thường xuyên được thay đổi vị trí để đánh lạc hướng kẻ xâm nhập.
Giữa các khu kho cũng có hàng rào thép gai ngăn cách và bảo vệ bởi lính gác. Hỏa châu báo sáng cũng được đặt ở đây. Ai lỡ chạm phải là hỏa châu sẽ tung lên cao hàng trăm mét, tự động tháo dù và rơi xuống soi sáng cả một khu vực rộng lớn.
Tổng kho được quy hoạch một cách khoa học và ngăn nắp. Đường sá trong tổng kho hầu hết được rải bê tông nhựa áp- phan. Các kho được lắp ghép bằng nhà thép tiền chế tương đối chắc chắn, mái lợp bằng tôn. Các kho chìm dùng để chứa bom đạn, hóa chất thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên Xung quanh kho thường có các lũy đắp bằng đất hoặc thùng phuy, container đổ đầy đất để bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp - nhất là số cũ hỏng đem về đổi và sửa chữa thì để ở ngoài trời...
Tổng kho được quy hoạch một cách khoa học và ngăn nắp. Đường sá trong tổng kho hầu hết được rải bê tông nhựa áp- phan. Các kho được lắp ghép bằng nhà thép tiền chế tương đối chắc chắn, mái lợp bằng tôn. Các kho chìm dùng để chứa bom đạn, hóa chất thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên Xung quanh kho thường có các lũy đắp bằng đất hoặc thùng phuy, container đổ đầy đất để bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp - nhất là số cũ hỏng đem về đổi và sửa chữa thì để ở ngoài trời...
Bình thường, lực lượng bảo vệ Tổng kho này có 2.000 lính Mỹ. Để ra vào tổng kho có 12 cổng mở theo nhiều hướng khác nhau với hệ thống đường sá rất hiện đại. Hàng ngày có hàng ngàn chuyến xe trọng tải lớn ra vào song không bao giờ có hiện tượng ùn tắc xảy ra.Với khối lượng hàng hóa tàng trữ trong kho lên đến hàng chục triệu tấn, TK Long Bình trở thành kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của quân đội Hoa Kỳ và được quản lý bằng máy tính IBM 360/50- một trong những hệ thống máy tính hiện đại nhất thời đó. Ngoài ra, còn một số đơn vị chiến đấu cũng có doanh trại trong khuôn viên kho nhưng được ngăn cách đặc biệt với kho hàng. Không chỉ có diện tích lớn, canh gác cẩn mật mà Tổng kho Long Bình cũng là nơi có các chủng loại hàng hóa vật tư thuộc loại phong phú nhất. Riêng về xe quân sự – kể cả tăng thiết giáp và ô tô- đã lên đến gần 1.000 chiếc.
Trong tổng kho có 3 khu kho quan trọng là khu kho đồi 50, khu kho đồi 53 và khu Kho 3 ngầm bí mật. Kho đồi 53 có rộng 3,75 km2 có 18 dãy nhà kho với khoảng 200 gian kho, được chia làm 3 khu, mỗi khu có 6 dãy, mỗi dãy cách nhau 100 mét và khoảng cách của những nhà kho đặt cách nhau 60 mét. Nhà kho xây hình khối chữ nhật (30m x 25m x 5,5m), cửa thép có khóa sắt và nhũng ụ đất dày từ 4 mét đến 5 mét ở xung quanh.
III. Hồi ký của QĐND Việt Nam về quá trình tiếp quản máy tính IBM365/50:
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam năm 1975, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH. Khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công tác đã cung cấp được danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho. Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.Với dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình. Các loại hàng hóa, vật tư phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Một số phế liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường…
Ông Lê Tự Thành (Cán bộ được phân công tiếp quản máy tính IBM360/50) kể lại: "Sau khi được tin tìm thấy các máy tính của quân đội ngụy và quân Mỹ, anh Nguyễn Lãm đã tức tốc cử thêm cán bộ vào vận hành và khai thác. Tôi được phân công tiếp quản máy IBM 360 model 50 (IBM360/50) của quân đội Mỹ quản lý kho hậu cần (tổng kho Long Bình) và đây là máy tính lớn nhất hồi đó ở miền Nam.Việc đầu tiên của quá trình vận hành lại chiếc máy tính này là gọi công binh gỡ mìn. Khi đó, mìn đặt khắp nơi trên từng bộ phận của máy tính và cả trên những máy đục lỗ. Sau khi gỡ mìn, chúng tôi cùng với những nhân viên cũ của công ty IBM bắt tay vào khôi phục hoạt động. Sau khi khôi phục hệ thống điện, nhân viên IBM kiểm tra từng thiết bị và máy tính. Đồng thời, chúng tôi phải sửa lại hệ thống điều hoà lớn (kiểu điều hoà trung tâm hiện nay) vì phòng máy rất kín và ngột ngạt nếu không có hệ thống điều hoà không chịu được. Sau gần một tháng lao động, chúng tôi đã khởi động thành công máy IBM 360 model 50. Máy tính IBM360/50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình. Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng, vì băng từ lúc đó quá to. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi là họ (quân đội Mỹ) sử dụng máy tính vào quản lý kho rất khoa học. Chiếc máy tính IBM dùng hệ điều hành OS/360, hoạt động khá giống với máy tính Minsk của Nga. Các chương trình viết cho máy tính IBM phía quân đội ngụy sử dụng ngôn ngữ Cobol. Lúc đó Nga cũng có tài liệu về ngôn ngữ này dịch sang tiếng Nga nên mọi người nắm bắt dễ dàng. Ngoài ra, nhân viên cũ của IBM còn khá đầy đủ, nhờ họ hướng dẫn sử dụng nên chỉ sau khoảng một tháng chúng tôi đã cho hoạt động lại bình thường toàn bộ máy tính, kể cả khai thác dữ liệu chương trình quản lý kho của ngụy. Cũng phải nói là các chương trình của họ viết khoa học, tỉ mỉ từng bước rất dễ sử dụng. Nhân viên lập trình chỉ là cán bộ trung học, không phải là cán bộ đại học như ta. Vì vậy, hầu hết các đoạn lệnh viết theo cấu trúc giống nhau, nên ai đọc cũng hiểu. Lúc đầu, anh em tiếp quản nghĩ họ “dốt” thật, đáng lẽ nhiều đoạn lập trình có thể viết ngắn thì họ lại viết rất dài. Nhưng sau này mới thấy lập trình công nghiệp thì phải thế, họ viết rành mạch, có ghi chú rõ ràng nên người sử dụng hiểu rất nhanh. Hồi đó anh em kỹ thuật của ta rất khoái thủ thuật, làm thế nào giải quyết vấn đề ngắn nhất, hay nhất nhưng người khác đọc không hiểu gì cả! Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình. Sau đó, các máy tính IBM tại Sài Gòn tiếp tục phục vụ cho việc tính toán những bài toán giao thông, cầu đường, sau đó là khai thác và thăm dò dầu khí..."
IV. Tin đồn thất thiệt: Kho được cài mã hoá nếu mở không được sẽ tự động tiêu huỷ dự tính vụ nổ kho này sẽ biến Biên Hoà Đồng Nai và 1/2 Sài Gòn thành biển lửa
Chưa biết thực hư thế nào nhưng vào khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1979 thực tế đã có 1 vài lần đã xảy ra nổ một phần của kho Long Bình. Trích hồi kí "Đối mặt với thần chết" của Anh Hùng Nguyễn Văn Huệ: (Độc giả có thể tải bản đầy đủ của Nhật ký tại đây):
... “Tháng 5/1976, một kho lớn chứa hàng chục ngàn trái M.79, mìn, lựu đạn... ở trong kho Long Bình gặp sự cố bất ngờ. Một sợi dây điện cao thế chạy ngang nóc kho bị đứt lơ lửng, đầu dây thỉnh thoảng quẹt vào mái tôn xòe lửa. Anh em coi kho báo cáo gấp cho Bảy Huệ. Anh chạy xe Honda tới hiện trường. Không còn ai ở đó, tất cả chạy xa kho. Thỉnh thoảng gió thổi, đầu dây điện quẹt mái tôn lại xoèn xẹt tóe lửa. Anh suy nghĩ cách giải quyết chỉ một giây, gọi Sơn, bảo kiếm một cây khô làm thang để leo lên mái, cầm cành khô đó quèo đầu sợi dây cao thế văng ra mắc vào hàng rào kẽm gai. Khi mối hiểm nguy không còn, anh mới lấy khăn tay lau sạch mồ hôi đẫm trán. Ít bữa sau, anh đứng kiểm tra các chiến sĩ đồng đội trẻ măng vô tư hồn nhiên bốc xếp cất mìn các loại và lựu đạn ở một kho khác. Chợt anh phát hiện trong một thùng mở nắp có trái lựu đạn mất chốt gài. Phản xạ nhanh như chớp, anh vội chụp lấy, bóp chặt cần bật rồi kêu anh em kiếm cái chốt gài lại cho an toàn. Khi mối hiểm nguy không còn, bấy giờ anh và các đồng độI mới hoàn hồn, mồ hôi vã ướt đầm lưng áo. Nếu trái đó bị xê dịch mà "lên tiếng thì tiểu đội coi kho, trung độI bốc xếp và cả Bảy Huệ đều tan xác cùng một dãy ô tô chờ đến lượt xuống "hàng".
Tháng 3/1977, ông Tư Lạc chỉ huy phó tỉnh đội Đồng Nai cho nhân dân bốc xếp đạn pháo, đạn cối, mìn chiến lợi phẩm... vào một kho lớn ở Bình Đa. Anh Bảy Huệ góp ý:- Để bộ đội làm cho bảo đảm, lỡ địch gài trái thì chết!...Ý kiến trên bị bỏ qua, kết quả kho bị nổ, hơn một tiểu đội quân dân du kích hy sinh, một số ô tô bị phá hủy. Đạn và miểng văng tung tóe khắp một khu vực có bán kính gần cây số, tiếng nổ làm rung chuyển cả thành phố Biên Hòa. Nhìn kho cuồn cuộn khói lửa, Bảy Huệ chạy xe Honda tới nhưng chỉ bất lực đứng nhìn.”
Thời kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở cho cán bộ- nhân viên…Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.
V. Hồi ký 1 trận đánh của Đặc công Việt Nam vào TK Long Bình cho cái nhìn toàn cảnh:
"... Mọi hoạt động của toán cảm tử trong ngày tấn công sẽ được toán thám sát này thực hiện. Đến ngày G. họ sẽ là lực lượng dẫn đội cảm tử xâm nhập căn cứ.
Khi màn đêm buông xuống, toán thám sát hai người bắt đầu xâm nhập căn cứ Long Bình. Lần từng bước một, họ di chuyển hướng về vòng đai ngoài. Những bụi cỏ cao đã che giấu được họ. Hàng rào được căng ra, vừa vặn cho hai người lọt vào, rồi trả lại nguyên hình dáng cũ chứ không cắt. Nếu cắt rào sẽ là dấu hiệu có người xâm nhập và đánh mất yếu tố bất ngờ của cuộc tấn công sắp tới. Vượt qua được vòng rào ngoài, toán thám sát vừa tìm cách bò chầm chậm qua bãi mìn, vừa không để lính trên tháp canh phát hiện. Họ phải định vị được mìn và rào kẽm gai cũng như vô hiệu hóa bằng cách gắn một cây kẽm vào từng trái mìn. Sau đó họ trườn vào mục tiêu tiếp theo - vòng rào thứ hai. Toán xâm nhập lặp lại công việc xác định là vô hiệu hóa mìn và hỏa châu đặt trên bãi đất giữa hai vòng rào. Cứ thế cho đến khi họ dần tạo được một lối vào căn cứ.Cuộc xâm nhập thăm dò của thám sát bắt đầu lúc 8 giờ tối với mục tiêu là mở được một nửa đoạn đường, đến giữa vòng rào thứ năm và thứ sáu lúc 11 giờ khuya. Thời biểu đó đã đạt được. Trời vẫn còn tối nhưng toán không muốn đến quá gần bên trong vào lúc trời sáng. Hai người đào hầm, chui vào ẩn trú và chờ đợi...
Trời hửng sáng, căn cứ Long Bình lại bắt đầu nhộn nhịp như thường lệ. Những kẻ phòng thủ không hề hay những kẻ xâm nhập đang nằm cạnh mình. Toán trinh sát yên lặng nghỉ cả ngày trong nơi ẩn nấp, sát nách đối phương. Khi màn đêm buông xuống, họ tiếp tục chuyển qua các vòng rào còn lại. Sau nửa đêm họ đã chui được qua vòng rào cuối cùng và tiến gần các kho. Khi đã vào được bên trong, họ không để phí thì giờ mà bắt tay ngay vào việc ghi nhận khoảng cách các mục tiêu đã định và tính toán thời gian cần thiết để đến được các nơi đó. Nhiệm vụ hoàn tất, toán thám sát rút lui cũng yên lặng như khi họ tiến vào, lần lượt chui ra chín vòng rào.
Rạng đông, trong khi toán thám sát rút khỏi căn cứ Long Bình, một người quan sát được chốt ở một nơi xa căn cứ để kiểm tra con đường mới xâm nhập. Công việc này nhằm bảo đảm những kẻ phòng thủ bên trong không cản trở con đường đó trước giờ tấn công. Nhằm bảo đảm được thời biểu, đội đặc công khởi sự hai ngày trước cuộc tấn công.
Lúc 8 giờ tối, toán thám sát hôm trước nay lại bắt đầu xâm nhập căn cứ Long Bình. Lần này họ dẫn theo thêm nhiều quân cảm tử - mỗi người đều mang theo chất nổ và dụng cụ định giờ. 20 người tham gia cuộc hành quân. Mỗi toán gồm 3-4 người, tùy theo mục tiêu được chỉ định trong căn cứ. Mục tiêu càng lớn cần nhiều chất nổ hơn, như vậy cũng phải phái thêm một người mang chất nổ.
Toán thám sát dẫn đầu chui qua vòng rào ngoài. Lần này họ cắt một lỗ lớn để một người có thể chui qua lọt. Người cuối cùng phải nối lại rào kẽm gai để che dấu lối vào. Toán dẫn đầu tiếp tục tiến vào con đường họ đã vào mấy hôm trước. Họ vẫn kiểm tra cẩn thận mặt đất để chắc chắn không ai đặt thêm mìn hoặc đã phát hiện lần vào trước của họ. Một khi các toán đặc công tiến vào Long Bình, đại tá Đường không còn liên lạc được với họ. Các thành viên trong toán yên lặng báo hiệu cho nhau bằng tay. Khi toán dẫn đầu đến đoạn nửa đường nằm giữa vòng rào thứ năm và sáu, họ dừng lại và đào hầm ẩn nấp qua đêm.
Khi bình minh ló dạng, họ đã an toàn nằm nơi ẩn nấp. Một ngày bình yên. Ngay sau chạng vạng tối, họ lại tiếp tục tiến vào.Vào nửa đêm, đội đã lọt qua được vòng rào cuối cùng. Mỗi toán vội đến các mục tiêu được chỉ định, thận trọng tránh né các toán tuần tra trong căn cứ. Chất nổ được gắn, sử dụng dụng cụ định giờ MI-8. Dụng cụ này không lớn hơn ngón tay người, sẽ kích hoạt chất nổ nhiều giờ sau khi họ đã rút lui khỏi căn cứ an toàn. Họ vặn kim đồng hồ cho nổ vào ba giờ sau và các toán bắt đầu thoái lui. Các toán phải tập hợp lại tại một điểm nằm ngoài vòng rào cuối cùng trước khi cả đội cùng rút lui. Chỉ cho phép thời hạn 5 phút - không thể dài hơn. Toán nào không đến đúng hẹn, các toán khác vẫn rút lui mà không có họ.
Cuộc hành quân diễn ra suôn sẻ. Mỗi toán hoàn thành nhiệm vụ được giao và đến nơi tập kết đúng hẹn. Cuộc rút lui bắt đầu: người sau bước theo dấu chân hoặc lần theo dấu tay người đi trước trên con đường đã tiến vào khu căn cứ. Và lần này đường rút lui nhanh hơn lúc tiến vào. Ra khỏi vòng rào cuối cùng, họ rút về bộ chỉ huy trung đoàn. Tại đó, người chỉ huy đội đặc công báo cáo cho đại tá Đường là đã hoàn thành nhiệm vụ.
Vào bình minh hôm đó, đại tá Đường cùng vị chỉ huy sư đoàn đứng tại một vị trí cao nhìn xuống căn cứ Long Bình. Họ luôn xem đồng hồ trên tay. Một chuỗi những tiếng nổ long trời lở đất: 30.000 tấn vũ khí làm sáng rực cả bầu trời. Cơn chấn động lớn đến nỗi ở xa 30km còn cảm nhận được.Ngày ló dạng, đại tá Đường nhìn thấy một đám khói khổng lồ cuồn cuộn bốc lên từ căn cứ Long Bình. Hài lòng với kết quả đạt được, ông cùng vị chỉ huy biến mất vào khu rừng già.
Quan tâm tới Tổng kho Long Bình, bạn đọc có thể đọc thêm Tướng cướp Biệt động Sài Gòn- Âm mưu thử nghiệm và sản xuất vũ khí hạt nhân của Việt Nam Cộng Hoà
Qua loạt bài viết về bí mật kho vũ khí...' tổng kho Long Bình 'của Mỹ để lại VN, mà tôi không thấy toán Biệt đội chuyên viên điện tữ của Liên Xô cầm đầu của CSBV vào khai phá phòng Điện toán IBM/BộTTM- "...
Tôi được phân công tiếp quản máy IBM 360 model 50 (IBM360/50) của quân đội Mỹ quản lý kho hậu cần (tổng kho Long Bình) và đây là máy tính lớn nhất hồi đó ở miền Nam.Việc đầu tiên của quá trình vận hành lại chiếc máy tính này là gọi công binh gỡ mìn. Khi đó, mìn đặt khắp nơi trên từng bộ phận của máy tính và cả trên những máy đục lỗ. Sau khi gỡ mìn, chúng tôi cùng với những nhân viên cũ của công ty IBM bắt tay vào khôi phục hoạt động. Sau khi khôi phục hệ thống điện, nhân viên IBM kiểm tra từng thiết bị và máy tính. Đồng thời, chúng tôi phải sửa lại hệ thống điều hoà lớn (kiểu điều hoà trung tâm hiện nay) vì phòng máy rất kín và ngột ngạt nếu không có hệ thống điều hoà không chịu được. Sau gần một tháng lao động, chúng tôi đã khởi động thành công máy IBM 360 model 50. Máy tính IBM360/50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình. Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng, vì băng từ lúc đó quá to. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi là họ (quân đội Mỹ) sử dụng máy tính vào quản lý kho rất khoa học. Chiếc máy tính IBM dùng hệ điều hành OS/360, hoạt động khá giống với máy tính Minsk của Nga- Sic."
Điều vui mừng độc nhất của tôi là không thấy chúng VC tìm ra được 3 cuộn băng từ máy tinh B/TTM, ghi lại tất cả hồ sơ lý lịch của 1 triệu 500 ngành quân lích, sĩ quan QL.VNCH, đã từng phục vụ dưới lá cờ Tự Do VNCH.
Nếu chẵng may, 3 cuộn băng tử IBM/B.TTM lọt vào tay quân Cộng sản Bắc việt, chắc có lẽ quân dân Miền Nam VNCH sẽ bị tiệt chũng như Cam puchia- Khờ me đỏ?....3 cuộn băng IBM chính tướng Nguyễn Ngọc Loan- Sảnh Sát QGVN tuyên bố...trước các sĩ quan bộ Tổng Thanh Tra/Bộ TTM/QL.VNCH, ông sẽ đích thân đưa cho TT.Nguyễn văn Thiệu gởi ra nước ngoài như chính phủ Singapore 1 cái và Chính phủ Đài Loan 1 cái: còn lại 1 cuộn- bí mật không biết cất giử nơi đâu, nhưng chắc chắn không gởi cho ch1nh phủ Hoa Kỳ, vì là kẻ phản bạn và bán đứnng VNCH..Theo tôi biết, với thẩm quyền... thì cuộn băng thứ 3, được cất giử trong hầm ví mật...của Tổng kho vũ khí lớn nhất VN là Tổng Kho Long Bình, để cùng chung số phận VN, nếu nổ tung cả kho Long Bình- Xóa sổ cuộc đời nô lệ VN!!
Huỳnh Mai St.8872
Cựu Đại Úy Bộ TTM- Biệt phái Nha Tổng Thanh Tra/QL.VNCH
Tù binh cải tao- tù cộng sản- QL.VNCH
Trong tổng kho có 3 khu kho quan trọng là khu kho đồi 50, khu kho đồi 53 và khu Kho 3 ngầm bí mật. Kho đồi 53 có rộng 3,75 km2 có 18 dãy nhà kho với khoảng 200 gian kho, được chia làm 3 khu, mỗi khu có 6 dãy, mỗi dãy cách nhau 100 mét và khoảng cách của những nhà kho đặt cách nhau 60 mét. Nhà kho xây hình khối chữ nhật (30m x 25m x 5,5m), cửa thép có khóa sắt và nhũng ụ đất dày từ 4 mét đến 5 mét ở xung quanh.
Riêng khu kho ngầm bí mật nằm trong một số nhà kho và hầm ngầm, là nơi thử nghiệm 1 số loại vũ khí bí mật của Mỹ. Được bảo vệ bởi nhiều lớp cửa sắt có khoá cùng tường bê tông chắc chắn sâu dưới lòng đất. Một số đã được tìm thấy; một số vẫn chưa tìm thấy lối vào và một số đã tìm thấy nhưng tới giờ vẫn chưa mở được ra. Theo cảnh báo từ phía Mỹ nếu mở kho 3 mà sai mã khoá hoặc dùng lực để mở sẽ có thảm hoạ khôn lường. Các chuyên gia của Việt Nam và nhiều đoàn chuyên gia của Nga đã tới nghiên cứu và thử mở khoá. Nhưng kết quả là 1 số chuyên gia đã hi sinh và vẫn chưa mở được khoá.
Năm 2000 Mỹ từng đặt vấn đề sẽ giải mã kho cho VN với điều kiện thu lại mũi tên gãy* và chia đôi vũ khí. Nhưng phía VN không đồng ý nên đến nay vẫn chưa mở được 1 phần (chìm) của kho. Hiện tại có khoảng 2 sư đoàn tinh nhuệ nhất của QĐND Việt Nam đang đóng ở đó để bảo vệ và biến đây thành khu quân sự cấp tối mật ở Việt Nam.
Nói thêm về cụm từ "Mũi tên gãy" là: tên lóng nói về vũ khí hạt nhân , sinh học, hoá học...có sức tàn phá lớn, vũ khí tấn công chiến lượt có sức huỷ diệt của 1 Mỹ bỏ sót hay thất lạc trong chiến tranh và tập trận. Hiện Mỹ thừa nhận trên toàn trái đất Mỹ có tổng cộng hơn 17 mũi tên gãy chưa thu hồi.
Một tờ báo quân sự của Mỹ đã đưa tin: năm 2001 Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Ghost Recon và Skull tham gia chiến dịch thu hồi 2 mũi tên gãy ở Việt Nam nhưng nhiệm vụ thất bại toàn bộ 12 binh sĩ mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả thi thể 12 binh sỹ đầu bị tiêu huỷ hoàn toàn.
Năm 2000 Mỹ từng đặt vấn đề sẽ giải mã kho cho VN với điều kiện thu lại mũi tên gãy* và chia đôi vũ khí. Nhưng phía VN không đồng ý nên đến nay vẫn chưa mở được 1 phần (chìm) của kho. Hiện tại có khoảng 2 sư đoàn tinh nhuệ nhất của QĐND Việt Nam đang đóng ở đó để bảo vệ và biến đây thành khu quân sự cấp tối mật ở Việt Nam.
Nói thêm về cụm từ "Mũi tên gãy" là: tên lóng nói về vũ khí hạt nhân , sinh học, hoá học...có sức tàn phá lớn, vũ khí tấn công chiến lượt có sức huỷ diệt của 1 Mỹ bỏ sót hay thất lạc trong chiến tranh và tập trận. Hiện Mỹ thừa nhận trên toàn trái đất Mỹ có tổng cộng hơn 17 mũi tên gãy chưa thu hồi.
Một tờ báo quân sự của Mỹ đã đưa tin: năm 2001 Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Ghost Recon và Skull tham gia chiến dịch thu hồi 2 mũi tên gãy ở Việt Nam nhưng nhiệm vụ thất bại toàn bộ 12 binh sĩ mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả thi thể 12 binh sỹ đầu bị tiêu huỷ hoàn toàn.
III. Hồi ký của QĐND Việt Nam về quá trình tiếp quản máy tính IBM365/50:
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam năm 1975, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH. Khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công tác đã cung cấp được danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho. Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.Với dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình. Các loại hàng hóa, vật tư phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Một số phế liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường…
Ông Lê Tự Thành (Cán bộ được phân công tiếp quản máy tính IBM360/50) kể lại: "Sau khi được tin tìm thấy các máy tính của quân đội ngụy và quân Mỹ, anh Nguyễn Lãm đã tức tốc cử thêm cán bộ vào vận hành và khai thác. Tôi được phân công tiếp quản máy IBM 360 model 50 (IBM360/50) của quân đội Mỹ quản lý kho hậu cần (tổng kho Long Bình) và đây là máy tính lớn nhất hồi đó ở miền Nam.Việc đầu tiên của quá trình vận hành lại chiếc máy tính này là gọi công binh gỡ mìn. Khi đó, mìn đặt khắp nơi trên từng bộ phận của máy tính và cả trên những máy đục lỗ. Sau khi gỡ mìn, chúng tôi cùng với những nhân viên cũ của công ty IBM bắt tay vào khôi phục hoạt động. Sau khi khôi phục hệ thống điện, nhân viên IBM kiểm tra từng thiết bị và máy tính. Đồng thời, chúng tôi phải sửa lại hệ thống điều hoà lớn (kiểu điều hoà trung tâm hiện nay) vì phòng máy rất kín và ngột ngạt nếu không có hệ thống điều hoà không chịu được. Sau gần một tháng lao động, chúng tôi đã khởi động thành công máy IBM 360 model 50. Máy tính IBM360/50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình. Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng, vì băng từ lúc đó quá to. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi là họ (quân đội Mỹ) sử dụng máy tính vào quản lý kho rất khoa học. Chiếc máy tính IBM dùng hệ điều hành OS/360, hoạt động khá giống với máy tính Minsk của Nga. Các chương trình viết cho máy tính IBM phía quân đội ngụy sử dụng ngôn ngữ Cobol. Lúc đó Nga cũng có tài liệu về ngôn ngữ này dịch sang tiếng Nga nên mọi người nắm bắt dễ dàng. Ngoài ra, nhân viên cũ của IBM còn khá đầy đủ, nhờ họ hướng dẫn sử dụng nên chỉ sau khoảng một tháng chúng tôi đã cho hoạt động lại bình thường toàn bộ máy tính, kể cả khai thác dữ liệu chương trình quản lý kho của ngụy. Cũng phải nói là các chương trình của họ viết khoa học, tỉ mỉ từng bước rất dễ sử dụng. Nhân viên lập trình chỉ là cán bộ trung học, không phải là cán bộ đại học như ta. Vì vậy, hầu hết các đoạn lệnh viết theo cấu trúc giống nhau, nên ai đọc cũng hiểu. Lúc đầu, anh em tiếp quản nghĩ họ “dốt” thật, đáng lẽ nhiều đoạn lập trình có thể viết ngắn thì họ lại viết rất dài. Nhưng sau này mới thấy lập trình công nghiệp thì phải thế, họ viết rành mạch, có ghi chú rõ ràng nên người sử dụng hiểu rất nhanh. Hồi đó anh em kỹ thuật của ta rất khoái thủ thuật, làm thế nào giải quyết vấn đề ngắn nhất, hay nhất nhưng người khác đọc không hiểu gì cả! Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình. Sau đó, các máy tính IBM tại Sài Gòn tiếp tục phục vụ cho việc tính toán những bài toán giao thông, cầu đường, sau đó là khai thác và thăm dò dầu khí..."
IV. Tin đồn thất thiệt: Kho được cài mã hoá nếu mở không được sẽ tự động tiêu huỷ dự tính vụ nổ kho này sẽ biến Biên Hoà Đồng Nai và 1/2 Sài Gòn thành biển lửa
Chưa biết thực hư thế nào nhưng vào khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1979 thực tế đã có 1 vài lần đã xảy ra nổ một phần của kho Long Bình. Trích hồi kí "Đối mặt với thần chết" của Anh Hùng Nguyễn Văn Huệ: (Độc giả có thể tải bản đầy đủ của Nhật ký tại đây):
... “Tháng 5/1976, một kho lớn chứa hàng chục ngàn trái M.79, mìn, lựu đạn... ở trong kho Long Bình gặp sự cố bất ngờ. Một sợi dây điện cao thế chạy ngang nóc kho bị đứt lơ lửng, đầu dây thỉnh thoảng quẹt vào mái tôn xòe lửa. Anh em coi kho báo cáo gấp cho Bảy Huệ. Anh chạy xe Honda tới hiện trường. Không còn ai ở đó, tất cả chạy xa kho. Thỉnh thoảng gió thổi, đầu dây điện quẹt mái tôn lại xoèn xẹt tóe lửa. Anh suy nghĩ cách giải quyết chỉ một giây, gọi Sơn, bảo kiếm một cây khô làm thang để leo lên mái, cầm cành khô đó quèo đầu sợi dây cao thế văng ra mắc vào hàng rào kẽm gai. Khi mối hiểm nguy không còn, anh mới lấy khăn tay lau sạch mồ hôi đẫm trán. Ít bữa sau, anh đứng kiểm tra các chiến sĩ đồng đội trẻ măng vô tư hồn nhiên bốc xếp cất mìn các loại và lựu đạn ở một kho khác. Chợt anh phát hiện trong một thùng mở nắp có trái lựu đạn mất chốt gài. Phản xạ nhanh như chớp, anh vội chụp lấy, bóp chặt cần bật rồi kêu anh em kiếm cái chốt gài lại cho an toàn. Khi mối hiểm nguy không còn, bấy giờ anh và các đồng độI mới hoàn hồn, mồ hôi vã ướt đầm lưng áo. Nếu trái đó bị xê dịch mà "lên tiếng thì tiểu đội coi kho, trung độI bốc xếp và cả Bảy Huệ đều tan xác cùng một dãy ô tô chờ đến lượt xuống "hàng".
Tháng 3/1977, ông Tư Lạc chỉ huy phó tỉnh đội Đồng Nai cho nhân dân bốc xếp đạn pháo, đạn cối, mìn chiến lợi phẩm... vào một kho lớn ở Bình Đa. Anh Bảy Huệ góp ý:- Để bộ đội làm cho bảo đảm, lỡ địch gài trái thì chết!...Ý kiến trên bị bỏ qua, kết quả kho bị nổ, hơn một tiểu đội quân dân du kích hy sinh, một số ô tô bị phá hủy. Đạn và miểng văng tung tóe khắp một khu vực có bán kính gần cây số, tiếng nổ làm rung chuyển cả thành phố Biên Hòa. Nhìn kho cuồn cuộn khói lửa, Bảy Huệ chạy xe Honda tới nhưng chỉ bất lực đứng nhìn.”
Thời kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở cho cán bộ- nhân viên…Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.
V. Hồi ký 1 trận đánh của Đặc công Việt Nam vào TK Long Bình cho cái nhìn toàn cảnh:
"... Mọi hoạt động của toán cảm tử trong ngày tấn công sẽ được toán thám sát này thực hiện. Đến ngày G. họ sẽ là lực lượng dẫn đội cảm tử xâm nhập căn cứ.
Khi màn đêm buông xuống, toán thám sát hai người bắt đầu xâm nhập căn cứ Long Bình. Lần từng bước một, họ di chuyển hướng về vòng đai ngoài. Những bụi cỏ cao đã che giấu được họ. Hàng rào được căng ra, vừa vặn cho hai người lọt vào, rồi trả lại nguyên hình dáng cũ chứ không cắt. Nếu cắt rào sẽ là dấu hiệu có người xâm nhập và đánh mất yếu tố bất ngờ của cuộc tấn công sắp tới. Vượt qua được vòng rào ngoài, toán thám sát vừa tìm cách bò chầm chậm qua bãi mìn, vừa không để lính trên tháp canh phát hiện. Họ phải định vị được mìn và rào kẽm gai cũng như vô hiệu hóa bằng cách gắn một cây kẽm vào từng trái mìn. Sau đó họ trườn vào mục tiêu tiếp theo - vòng rào thứ hai. Toán xâm nhập lặp lại công việc xác định là vô hiệu hóa mìn và hỏa châu đặt trên bãi đất giữa hai vòng rào. Cứ thế cho đến khi họ dần tạo được một lối vào căn cứ.Cuộc xâm nhập thăm dò của thám sát bắt đầu lúc 8 giờ tối với mục tiêu là mở được một nửa đoạn đường, đến giữa vòng rào thứ năm và thứ sáu lúc 11 giờ khuya. Thời biểu đó đã đạt được. Trời vẫn còn tối nhưng toán không muốn đến quá gần bên trong vào lúc trời sáng. Hai người đào hầm, chui vào ẩn trú và chờ đợi...
Trời hửng sáng, căn cứ Long Bình lại bắt đầu nhộn nhịp như thường lệ. Những kẻ phòng thủ không hề hay những kẻ xâm nhập đang nằm cạnh mình. Toán trinh sát yên lặng nghỉ cả ngày trong nơi ẩn nấp, sát nách đối phương. Khi màn đêm buông xuống, họ tiếp tục chuyển qua các vòng rào còn lại. Sau nửa đêm họ đã chui được qua vòng rào cuối cùng và tiến gần các kho. Khi đã vào được bên trong, họ không để phí thì giờ mà bắt tay ngay vào việc ghi nhận khoảng cách các mục tiêu đã định và tính toán thời gian cần thiết để đến được các nơi đó. Nhiệm vụ hoàn tất, toán thám sát rút lui cũng yên lặng như khi họ tiến vào, lần lượt chui ra chín vòng rào.
Rạng đông, trong khi toán thám sát rút khỏi căn cứ Long Bình, một người quan sát được chốt ở một nơi xa căn cứ để kiểm tra con đường mới xâm nhập. Công việc này nhằm bảo đảm những kẻ phòng thủ bên trong không cản trở con đường đó trước giờ tấn công. Nhằm bảo đảm được thời biểu, đội đặc công khởi sự hai ngày trước cuộc tấn công.
Lúc 8 giờ tối, toán thám sát hôm trước nay lại bắt đầu xâm nhập căn cứ Long Bình. Lần này họ dẫn theo thêm nhiều quân cảm tử - mỗi người đều mang theo chất nổ và dụng cụ định giờ. 20 người tham gia cuộc hành quân. Mỗi toán gồm 3-4 người, tùy theo mục tiêu được chỉ định trong căn cứ. Mục tiêu càng lớn cần nhiều chất nổ hơn, như vậy cũng phải phái thêm một người mang chất nổ.
Toán thám sát dẫn đầu chui qua vòng rào ngoài. Lần này họ cắt một lỗ lớn để một người có thể chui qua lọt. Người cuối cùng phải nối lại rào kẽm gai để che dấu lối vào. Toán dẫn đầu tiếp tục tiến vào con đường họ đã vào mấy hôm trước. Họ vẫn kiểm tra cẩn thận mặt đất để chắc chắn không ai đặt thêm mìn hoặc đã phát hiện lần vào trước của họ. Một khi các toán đặc công tiến vào Long Bình, đại tá Đường không còn liên lạc được với họ. Các thành viên trong toán yên lặng báo hiệu cho nhau bằng tay. Khi toán dẫn đầu đến đoạn nửa đường nằm giữa vòng rào thứ năm và sáu, họ dừng lại và đào hầm ẩn nấp qua đêm.
Khi bình minh ló dạng, họ đã an toàn nằm nơi ẩn nấp. Một ngày bình yên. Ngay sau chạng vạng tối, họ lại tiếp tục tiến vào.Vào nửa đêm, đội đã lọt qua được vòng rào cuối cùng. Mỗi toán vội đến các mục tiêu được chỉ định, thận trọng tránh né các toán tuần tra trong căn cứ. Chất nổ được gắn, sử dụng dụng cụ định giờ MI-8. Dụng cụ này không lớn hơn ngón tay người, sẽ kích hoạt chất nổ nhiều giờ sau khi họ đã rút lui khỏi căn cứ an toàn. Họ vặn kim đồng hồ cho nổ vào ba giờ sau và các toán bắt đầu thoái lui. Các toán phải tập hợp lại tại một điểm nằm ngoài vòng rào cuối cùng trước khi cả đội cùng rút lui. Chỉ cho phép thời hạn 5 phút - không thể dài hơn. Toán nào không đến đúng hẹn, các toán khác vẫn rút lui mà không có họ.
Cuộc hành quân diễn ra suôn sẻ. Mỗi toán hoàn thành nhiệm vụ được giao và đến nơi tập kết đúng hẹn. Cuộc rút lui bắt đầu: người sau bước theo dấu chân hoặc lần theo dấu tay người đi trước trên con đường đã tiến vào khu căn cứ. Và lần này đường rút lui nhanh hơn lúc tiến vào. Ra khỏi vòng rào cuối cùng, họ rút về bộ chỉ huy trung đoàn. Tại đó, người chỉ huy đội đặc công báo cáo cho đại tá Đường là đã hoàn thành nhiệm vụ.
Vào bình minh hôm đó, đại tá Đường cùng vị chỉ huy sư đoàn đứng tại một vị trí cao nhìn xuống căn cứ Long Bình. Họ luôn xem đồng hồ trên tay. Một chuỗi những tiếng nổ long trời lở đất: 30.000 tấn vũ khí làm sáng rực cả bầu trời. Cơn chấn động lớn đến nỗi ở xa 30km còn cảm nhận được.Ngày ló dạng, đại tá Đường nhìn thấy một đám khói khổng lồ cuồn cuộn bốc lên từ căn cứ Long Bình. Hài lòng với kết quả đạt được, ông cùng vị chỉ huy biến mất vào khu rừng già.
Quan tâm tới Tổng kho Long Bình, bạn đọc có thể đọc thêm Tướng cướp Biệt động Sài Gòn- Âm mưu thử nghiệm và sản xuất vũ khí hạt nhân của Việt Nam Cộng Hoà
Mai Huỳnh Mai St.88728/13/2018 04:40:00 PM
P/s-Ghi chú:-Mai Nguyễn Huỳnh St.8872Qua loạt bài viết về bí mật kho vũ khí...' tổng kho Long Bình 'của Mỹ để lại VN, mà tôi không thấy toán Biệt đội chuyên viên điện tữ của Liên Xô cầm đầu của CSBV vào khai phá phòng Điện toán IBM/BộTTM- "...
Tôi được phân công tiếp quản máy IBM 360 model 50 (IBM360/50) của quân đội Mỹ quản lý kho hậu cần (tổng kho Long Bình) và đây là máy tính lớn nhất hồi đó ở miền Nam.Việc đầu tiên của quá trình vận hành lại chiếc máy tính này là gọi công binh gỡ mìn. Khi đó, mìn đặt khắp nơi trên từng bộ phận của máy tính và cả trên những máy đục lỗ. Sau khi gỡ mìn, chúng tôi cùng với những nhân viên cũ của công ty IBM bắt tay vào khôi phục hoạt động. Sau khi khôi phục hệ thống điện, nhân viên IBM kiểm tra từng thiết bị và máy tính. Đồng thời, chúng tôi phải sửa lại hệ thống điều hoà lớn (kiểu điều hoà trung tâm hiện nay) vì phòng máy rất kín và ngột ngạt nếu không có hệ thống điều hoà không chịu được. Sau gần một tháng lao động, chúng tôi đã khởi động thành công máy IBM 360 model 50. Máy tính IBM360/50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình. Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng, vì băng từ lúc đó quá to. Ấn tượng ban đầu của chúng tôi là họ (quân đội Mỹ) sử dụng máy tính vào quản lý kho rất khoa học. Chiếc máy tính IBM dùng hệ điều hành OS/360, hoạt động khá giống với máy tính Minsk của Nga- Sic."
Điều vui mừng độc nhất của tôi là không thấy chúng VC tìm ra được 3 cuộn băng từ máy tinh B/TTM, ghi lại tất cả hồ sơ lý lịch của 1 triệu 500 ngành quân lích, sĩ quan QL.VNCH, đã từng phục vụ dưới lá cờ Tự Do VNCH.
Nếu chẵng may, 3 cuộn băng tử IBM/B.TTM lọt vào tay quân Cộng sản Bắc việt, chắc có lẽ quân dân Miền Nam VNCH sẽ bị tiệt chũng như Cam puchia- Khờ me đỏ?....3 cuộn băng IBM chính tướng Nguyễn Ngọc Loan- Sảnh Sát QGVN tuyên bố...trước các sĩ quan bộ Tổng Thanh Tra/Bộ TTM/QL.VNCH, ông sẽ đích thân đưa cho TT.Nguyễn văn Thiệu gởi ra nước ngoài như chính phủ Singapore 1 cái và Chính phủ Đài Loan 1 cái: còn lại 1 cuộn- bí mật không biết cất giử nơi đâu, nhưng chắc chắn không gởi cho ch1nh phủ Hoa Kỳ, vì là kẻ phản bạn và bán đứnng VNCH..Theo tôi biết, với thẩm quyền... thì cuộn băng thứ 3, được cất giử trong hầm ví mật...của Tổng kho vũ khí lớn nhất VN là Tổng Kho Long Bình, để cùng chung số phận VN, nếu nổ tung cả kho Long Bình- Xóa sổ cuộc đời nô lệ VN!!
Huỳnh Mai St.8872
Cựu Đại Úy Bộ TTM- Biệt phái Nha Tổng Thanh Tra/QL.VNCH
Tù binh cải tao- tù cộng sản- QL.VNCH
Bất Ngờ Việt Nam phát hiện nơi Chôn Giấu V.ũ K.h.í hạt nhân ở Tổng Kho Long Bình
https://youtu.be/HJL40sPiPKM
Giải mã - Mở cửa Tổng Kho Long Bình , Cả thế giới hãi hùng với vũ khí bên trong P1https://youtu.be/GtwqMC8F4co
Vén màn bí mật 'Tổng Kho Long Bình' Những sự thật gây sốc
https://youtu.be/mV8dmmLaKGg
GIẢI MẢ VỀ KHO VŨ KHÍ LONG BÌNH TRONG CHUYẾN THĂM CỦA BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG MỸ ĐÉN SÂN BAY BIÊN HÒA
https://youtu.be/DBIk6Q2_t30
Bí mật: Tổng kho Long Bình VN có chứa Vũ Khí Mỹ để lại là gì Phần 1 || sự thật Không thể tin nổi
https://youtu.be/VfjdVgWhPAQ
Phát Hiện Thêm Một Bí Mật về Tổng Kho Long Bình chưa Từng được Công Bố
https://youtu.be/lo4-isIqWn0
Giải mã bí ẩn hầm ngầm ở tổng kho Long Bình (138)
https://youtu.be/FGG18QAIQHc
#tinnongbiendong247 #toiyeuvietnam #biendong
Tin Nóng Biển Đông – Tổng Kho Vũ Khí LONG BÌNH Và Những BÍ MẬT Quân Sự Gây "SỐC" (Phần 2)
https://youtu.be/KK3IkX_e2yk
Kinh hoàng Vén bức màn Bí Mật về TỔNG KHO LONG BÌNH ít ai biết khiến cả thế giới hoảng hồn
https://youtu.be/UvVVKMeQqQw
Sự thật kinh hoàng về tổng kho Long Bình khiến cả thế giới hoảng hồn
https://youtu.be/-maFzVnUQHg
Việt Nam tiết lộ sự thật kinh hoàng ở Tổng Kho Long Bình khiến Trung Quốc đái ra máu
https://youtu.be/-fnD23fF3tI
#kinhphat #kinhcauan #kinhsamhoi
Bí mật kinh hoàng Tổng Kho Long Bình Việt Nam tiết lộ khiến TQ sợ đái ra quần
https://youtu.be/NUZFdPm5kaM
Hé lộ bí mật động trời về tổng kho Long Bình ở Đồng Nai
https://youtu.be/JShsOgkVkKg
#TrungCộng #Hoa #VNCH
Tại sao Hoa Kỳ không giúp VNCH trong trận chiến Hoàng Sa?
https://youtu.be/ggvsMtYOHUU
Chủ Đề: Có phải Chăng Chính Phủ Hoa Kỳ Đang Giữ Một Số Tiền Lớn Của VN thời Vua Bảo Đại ?
https://youtu.be/hDd_RMHB6x8
Được đăng bởi MAI ĐÂY HÒA BÌNH- Mai Nguyễn Huỳnh vào lúc 03:11
Nguồn: | http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2019/01/quan-su-viet-nam-ho-so-mat-bi-mat-con.html |