Hội chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome)
Tác giả: Trần Nam Tiến
Hội chứng Việt Nam là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến tại Mỹ, để mô tả những chấn động trong tâm lý của người Mỹ cũng như những tranh cãi nội bộ của chính giới Mỹ liên quan đến chính sách can thiệp của Mỹ vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Hội chứng này được bộc lộ ở các hiện tượng xã hội – chính trị – kinh tế… như: khủng hoảng lòng tin, tâm trạng chán chường, mặc cảm của nhân dân Mỹ, đặc biệt là thanh niên đối với cuộc chiến (phong trào chống quân dịch, phản đối chiến tranh); sự ám ảnh bởi tội lỗi do họ gây ra của phần lớn lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam…; nội bộ nước Mỹ chia rẽ, giới cầm quyền mâu thuẫn sâu sắc, nhất là trong hoạch định chính sách đối ngoại; sự gia tăng tốc độ suy thoái kinh tế và các tệ nạn xã hội; sự suy giảm vị thế của Mỹ trên thế giới…
Thuật ngữ này được Tổng thống Ronald Reagan đưa ra lần đầu tiên trong một bài diễn văn tại một hội nghị của các cựu chiến binh Mỹ tổ chức tại thành phố Chicago ngày 18 tháng 8 năm 1980. Thuật ngữ này nhanh chóng trở thành đề tài tranh cãi trong nội bộ phe bảo thủ về việc hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ, mà ban đầu được dùng để chống lại chính sách hoà dịu của chính quyền Jimmy Carter (1977 – 1981). Các học giả như Ole Holsti và James Rosenau cho rằng chính chính sách can thiệp quốc tế của Mỹ đã khiến cho quốc gia này mất dần sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế thời Chiến tranh Lạnh.
Các nhà phân tích thời kỳ sau 1975 cho rằng sự thất bại của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam càng làm cho những lời cảnh cáo này trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, Reagan cùng những người bảo thủ cho rằng do Hội chứng Việt Nam, chính quyền Carter đã giảm chính sách can thiệp ở bên ngoài, đi vào hòa hoãn với Liên Xô trong khi Liên Xô tăng cường chạy đua vũ trang, khiến cho vị thế sức mạnh toàn cầu của Mỹ trở nên suy yếu tương đối. Chính vì vậy Reagan cho rằng nước Mỹ cần vượt qua Hội chứng Việt Nam và quay lại chính sách can thiệp quốc tế. Điều này dẫn tới việc chính quyền của Reagan thực hiện những chính sách mang tính bảo thủ, hiếu chiến trong những năm 1980, như tăng cường can thiệp quân sự ở nước ngoài hay tích cực chạy đua vũ trang với Liên Xô.
Trở lại nguồn gốc của Hội chứng Việt Nam, trong những năm 1970, những cuộc điều tra dư luận cho thấy kết quả thăm dò ở mọi tầng lớp nhân dân Mỹ đều cho rằng sự can thiệp của quân đội Mỹ ở Việt Nam là một “sai lầm”. Nước Mỹ đã huy động 6,5 triệu lượt binh sĩ sang tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Số binh sĩ Mỹ ở miền Nam Việt Nam lúc cao điểm lên đến 545.000 người với hơn 1100 máy bay và 60 tàu chiến. Cho đến lúc kết thúc cuộc chiến tranh, 2 tổng thống Mỹ đã phải từ chức, 12 viên tướng chết trận, 8 viên tướng bị thương, số binh sĩ bị giết lên đến 57.259 người, trong khi đó số binh sĩ bị thương và mất tích đến nay vẫn chưa thể xác định được.
Các cuộc biểu tình phản đối chính phủ leo thang chiến tranh tại Việt Nam thường xuyên diễn ra không chỉ trên khắp nước Mỹ và còn lan rộng ra toàn thế giới. Kể từ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến khi cuộc Chiến tranh Việt Nam kết thúc, nước Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc can thiệp quân sự, nhưng chưa khi nào nước Mỹ bị sa lầy và tổn thất lớn đến mức phải chấp nhận thất bại như ở Việt Nam. Bản thân McNamara – Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thời điểm đó cũng phải thừa nhận nước Mỹ đã sai lầm một cách khủng khiếp khi đã gây nên một cuộc chiến mà không hề hiểu gì về sức mạnh tinh thần của người dân Việt Nam. Thất bại của người Mỹ đã gây nên những chấn động về tinh thần và sự mất lòng tin của người dân vào chính sách can thiệp của Chính phủ Mỹ.
Sau khi Reagan lên cầm quyền, Hội chứng Việt Nam vẫn tiếp tục có những tác động lên chính sách đối ngoại Mỹ. Ví dụ, chính sách can thiệp của Reagan vào công việc nội bộ của Chính phủ Nacaragua qua việc ủng hộ lực lượng Contra đã gợi lại những ký ức khó chịu về chính sách can thiệp của Mỹ ở nước ngoài, đặc biệt là thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính vì vậy, có thể nói dưới tác động cùa Hội chứng Việt Nam, Quốc hội Mỹ sau đó đã phải bổ sung Tu chính án Boland vào Dự luật Tài chính Hạ viện năm 1982 nhằm ngăn chặn việc chính phủ Mỹ tài trợ cho lực lượng Contra nhằm lật đổ chính quyền Nicaragua.
Thế nhưng nhìn chung bất chấp những tác động của Hội chứng Việt Nam, nước Mỹ từ sau 1975 trong nhiều trường hợp vẫn thi hành chính sách can thiệp ở nước ngoài, biến can thiệp ở nước ngoài gần như trở thành một đặc điểm của chính sách đối ngoại Mỹ. Trong những trường hợp đó, những giới hạn và lối thoát chiến lược luôn là những điều kiện thiết yếu được cân nhắc trước khi Mỹ tiến hành can thiệp nhằm tránh một sự sa lầy như trong Chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ cũng đã tiến hành cuộc Chiến tranh vùng Vịnh nhằm tìm kiếm chiến thắng để xoa dịu vết thương của Hội chứng Việt Nam.
Thế nhưng vẫn còn quá sớm để có thể kết luận về điều này. Một điều rõ ràng hơn đó là Hội chứng Việt Nam đã đặt một sức ép nặng nề lên việc sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài. Những cam kết ngắn hạn ít tốn kém hơn (ít nhất là cho nước Mỹ) đã trở thành ưu tiên của nước này khi tiến hành can thiệp ở nước ngoài. Mặc dù vậy, sau sự kiện 11/9, Mỹ đã tiến hành hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan và đặc biệt là Iraq, đi kèm sau đó là thời kỳ chiếm đóng kéo dài và những thiệt hại về vật chất và nhân mạng ngày càng gia tăng. Điều này khiến nhiều người quan ngại rằng Hội chứng Việt Nam sẽ tái hiện trở lại trong những cuộc chiến này của người Mỹ.
Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2015/08/29/hoi-chung-viet-nam/
Chiến tranh Việt Nam: miền Bắc thắng nhờ lợi dụng lòng dân?
0:00
0:03:28
Xem bình luận
Đấu tranh chính trị để xây dựng chính nghĩa cho mình và đả phá chính nghĩa của Sài Gòn, kế sách này đã
giúp Hà Nội tập hợp sự ủng hộ của người dân Việt Nam không chỉ ở miền Bắc mà cả một bộ phận ở miền Nam, cùng lúc làm lay chuyển sự ủng hộ của dân Mỹ đối với cuộc chiến. Đó là một trong những nguyên nhân then chốt giúp Bắc Việt giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo các học giả Mỹ và Việt Nam tại một hội thảo mới đây ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn lại chật vật tranh thủ sự ủng hộ của người dân, đối mặt với sự chia rẽ trong dư luận, bị nghi ngờ về tính chính nghĩa của mình ở cả trong nước và trên trường quốc tế, cũng theo các ý kiến tại hội thảo có tiêu đề: ‘Nhìn lại Chiến tranh Việt Nam’ do Tập hợp vì Dân chủ cho Việt Nam (ADVN) tổ chức tại Cơ quan Văn khố Quốc gia Mỹ hôm 14/9.
‘Giương cao chính nghĩa’
Chiến dịch đấu tranh ngoại giao ‘hết sức quyết liệt và hiệu quả’ của chính quyền Hà Nội trên trường quốc tế là ‘một trong những chìa khóa’ giúp miền Bắc giành chiến thắng chung cuộc bên cạnh chiến dịch quân sự ở miền nam, ông Pierre Asselin, Giáo sư Sử học thuộc Đại học San Diego và là tác giả của nhiều đầu sách về chiến tranh Việt Nam, nhận định.
Nhờ đó mà Hà Nội ‘đã giương cao chính nghĩa của mình là chính nghĩa hợp pháp trong khi liên tục đả kích tính chính nghĩa của miền Nam và của Mỹ’. Theo GS Asselin, đó là vũ khí để Hà Nội vô hiệu hóa sức mạnh quân sự rõ ràng là vượt trội của người Mỹ.
“Chung cuộc, Hà Nội đã có thể cô lập cả người Mỹ và miền Nam Việt Nam về ngoại giao,” ông Asselin nhận định trong phần tham luận có tựa đề ‘Nhìn từ Bắc Việt: Làm sao Bắc Việt thắng trong cuộc chiến’ và lưu ý rằng miền Nam đã không thể làm được như Hà Nội.
“Sài Gòn đã thất bại thảm hại trong việc thể hiện tính hợp pháp của mình ngay cả với dư luận trong nước,” ông nói.
Ông Asselin nói rằng ngay từ rất sớm trong cuộc chiến, chính quyền miền Bắc đã nhận thức được tầm quan trọng của thông tin tuyên truyền. “Hà Nội đã xây dựng được luận điệu tuyên truyền thậm chí ngay trước khi chiến tranh bắt đầu và luôn nhấn mạnh, duy trì luận điệu đó một cách nhất quán,” ông nói.
“Cách tuyên truyền đó thành công đến nỗi nó vẫn còn tiếp tục đến ngày nay,” ông nói thêm và dẫn chứng những sinh viên học sinh khi được học về Chiến tranh Việt Nam vẫn cho rằng Việt Nam Cộng hòa là ‘tay sai, bù nhìn’ của người Mỹ.
Về tính chính nghĩa của miền Nam, ông Tường Vũ, Giáo sư chính trị tại Đại học Oregon, cho rằng đó là một chính thể cộng hòa được xây dựng với các lý tưởng tự do dân chủ kết hợp với lý tưởng dân tộc. Theo ông thì những giá trị như ‘xã hội dân chủ tự do cho phép mọi người được tự do buôn bán, làm việc, học hành’ cũng tạo nên chính nghĩa của riêng miền Nam để thu hút người dân đứng lên.
Về lý tưởng dân tộc thì miền Nam cũng mong muốn Việt Nam ‘trở thành một quốc gia thống nhất, không bị lệ thuộc vào ngoại bang’, ông Vũ trình bày trong phần tham luận về quá trình xây dựng nhà nước cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1955-1975.
“Tổng thống Ngô Đình Diệm từng nhấn mạnh rằng sự can thiệp quân sự của người Mỹ là đi ngược lại lý tưởng dân tộc,” GS Vũ cho biết và nói rằng tuy nhiên sau đó Việt Nam Cộng hòa đã không thể chấm dứt được sự lệ thuộc vào người Mỹ.
Trả lời câu hỏi của VOA tại hội thảo rằng điều gì, chính nghĩa giải phóng dân tộc hay xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã giúp miền Bắc tranh thủ được sự ủng hộ của người dân miền Bắc và cả ở miền Nam tập kết ra Bắc, GS Asselyn nói rằng đó là vì miền Bắc ‘biết cách thao túng lịch sử’.
Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng chính người Mỹ cũng đã giúp Hà Nội tăng cường tính chính danh của mình khi họ tiến hành ném bom miền Bắc. Điều này càng làm cho người dân miền Bắc, vốn đã mệt mỏi sau cuộc chiến với người Pháp và không muốn có thêm một cuộc chiến nữa, càng hết lòng ủng hộ lãnh đạo của họ trong cuộc chiến ở miền Nam.
‘Thất sách’ của miền Nam
Trao đổi với VOA bên lề hội thảo về tại sao miền Nam cũng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc nhưng lại để cho quân Mỹ vào bắn giết người dân Việt Nam, GS Vũ cho rằng ‘đó là thất sách’ mà vì lẽ đó mà chính quyền miền Nam ‘phần nào mất đi tính chính nghĩa’.
Tuy nhiên, ông cho rằng ‘điểm yếu đó nằm ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền miền Nam Việt Nam’ mặc dù ‘rất nhiều giới tinh hoa kể cả Tổng thống Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ đều không đồng ý đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam’.
Trước câu hỏi của VOA tại sao miền Bắc cũng đón quân Trung Quốc và Liên Xô vào cố vấn, vào đồn trú nhưng lại không ảnh hưởng đến chính nghĩa của họ trong mắt người dân, ông Vũ giải thích rằng đó là vì ‘miền Bắc để cho quân lính nước ngoài đóng ở các tỉnh biên giới sát với Trung Quốc và không được đi sâu vào thành phố’.
“Họ (quân nước ngoài) được bố trí ở những nơi hẻo lánh và kín đáo nên không tạo nên sự phản cảm với người dân trong khi ở miền Nam sự hiện diện của quân Mỹ là quá rõ ràng,” ông nói thêm và cho biết quân Trung Quốc và Liên Xô không trực tiếp chiến đấu như quân Mỹ ở miền Nam mà ‘chỉ huy các đơn vị phòng không và các đơn vị xây dựng sửa chữa cầu đường khi bị bom đạn phá hỏng’.
Ông Vũ cũng cho rằng tính chất chế độ Nhà nước ở miền Nam khiến cho họ gặp nhiều bất lợi hơn Hà Nội trong việc thống nhất dư luận cho cuộc chiến.
“Chế độ độc tài có thể huy động quân lính, huy động lương thực, huy động tài nguyên cho chiến tranh dễ hơn chế độ dân chủ vốn phải qua nhiều cuộc thảo luận mới có thể quyết định,” ông giải thích. “Thêm nữa là còn tinh thần thượng tôn pháp luật (ở miền Nam). Ở miền Bắc những ai bất đồng chính kiến thì bị bỏ tù ngay lập tức trong khi ở miền Nam thì không thể làm thế vì người dân có quyền biểu tình, có quyền thể hiện chính kiến của mình.”
Chính vì vậy mà miền Nam đã ‘không thể thống nhất được dư luận và gặp phải sự chống đối từ bên trong’, ông Vũ phân tích. Tuy nhiên, ông cho rằng miền Nam không thể nào làm theo miền Bắc là xây dựng một chế độ toàn trị để có thể thắng cuộc chiến vì ‘nếu từ bỏ những giá trị tự do thì miền Nam còn đi chiến đấu để làm gì?’
“Việt Nam Cộng hòa vẫn trung thành với lý tưởng của mình cho dù họ có thua trong cuộc chiến đi nữa,” ông nói.
Điều này cũng được GS Asselyn đồng tình. Ông cho rằng mặc dù bên ngoài không nghe thấy về thái độ phản chiến trong lòng Bắc Việt nhưng điều này thật sự là có vì ‘cho đến những năm 1969-1971, người dân Bắc Việt đã quá mệt mỏi với chiến tranh vì họ cũng là con người’ nhưng ‘Hà Nội đã làm tốt hơn rất nhiều so với Sài Gòn trong việc bóp nghẹt những tiếng nói phản đối’.
Cũng tại hội thảo, trước câu hỏi về tình trạng tham nhũng và không có tính giải trình (unaccountability) của các quan chức miền Nam làm tổn hại như thế nào đến cuộc chiến của họ, GS Vũ thừa nhận rằng ‘chắc chắn có tình trạng tham nhũng và vấn đề giải trình và xu hướng của một số lãnh đạo như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lĩnh có những hành động làm mất lòng tin của người dân, giới trí thức, xã hội dân sự và gặp khó khăn trong quan hệ với Mỹ’. Tuy nhiên, ông cho rằng xã hội lành mạnh và truyền thông độc lập ở miền Nam có thể đứng lên chống lại những hành vi vi phạm các chuẩn mực của nền Cộng hòa.
Về câu hỏi của VOA rằng đối với các nhà lãnh đạo miền Bắc thì mục tiêu chiến lược nào của họ là quan trọng hơn: dùng lá bài giải phóng dân tộc để tiến tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội hay dùng lý thuyết đấu tranh giai cấp để phục vụ cho việc giành độc lập dân tộc, ông Vũ cho rằng mục tiêu cuối cùng của các nhà lãnh đạo cộng sản ‘luôn là chủ nghĩa xã hội’ vì điều này ‘thể hiện rất rõ trong những văn kiện của Đảng Cộng sản từ những thập niên 30 cho đến 60’.
“Điều kiện cần thiết để họ đạt được mục tiêu đó (xây dựng chủ nghĩa xã hội) là quyền kiểm soát chính trị ở cả miền Bắc lẫn miền Nam,” ông giải thích và lấy dẫn chứng là cuộc cải cách ruộng đất mà thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn đã được các lãnh đạo miền Bắc đưa vào thực thi ngay cả trước khi họ đạt được mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Về phần mình, GS Asselyn cũng cho rằng Hà Nội muốn thắng trong chiến tranh không chỉ vì mục tiêu thống nhất đất nước mà còn là ‘để tạo cảm hứng cho các phong trào cách mạng cánh tả khác trên thế giới’.
Tuy nhiên, chính sử của đảng Cộng sản cho rằng ông Hồ Chí Minh vì ra đi tìm đường cứu nước (độc lập dân tộc) mới tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin (Luận cương của Lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa) và xem chủ nghĩa xã hội là con đường giải phóng dân tộc. Trong khi đó, trước giờ các văn kiện của Đảng Cộng sản vẫn đặt hai mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội song song và ngang nhau.
Lung lạc dân Mỹ
Nhìn từ quan điểm của nước Mỹ, trong phần tham luận có tiêu đề ‘Cuộc đấu tranh chính trị không được để ý: Tại sao miền Nam Việt Nam và đồng minh thua cuộc chiến?’, GS Robert Turner thuộc Trường Luật Đại học Virginia nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt ‘đã rất thành công trong việc làm cho người Mỹ quay lưng lại với cuộc chiến’.
“Chúng ta đã nói nhiều về việc Bắc Việt đã giành được khối óc và trái tim của người dân Việt Nam nhưng chúng ta ít khi để ý đến việc họ đã chiếm được tình cảm và suy nghĩ của người dân Mỹ,” ông Turner nói.
“Chúng ta tham chiến với sự ủng hộ áp đảo của người dân Mỹ,” ông nhắc và đưa ra dẫn chứng là tỷ lệ ủng hộ của Tổng thống Lyndon B. Johnson đã tăng vọt lên thêm 30 điểm (tức tăng đến 58%) sau khi ông lần đầu tiên ra lệnh dùng vũ lực đối với miền Bắc Việt Nam và việc Quốc hội Mỹ đã cho phép sử dụng hành động quân sự với tỷ lệ 99,6% bỏ phiếu thuận trong khi hai nghị sỹ bỏ phiếu chống đã thất cử ngay sau đó.
Theo ông Turner thì cho đến năm 1970 nhiều quan chức và giới học thuật nhận thấy rõ là Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa ‘đang trên đà thắng’, và điều này cũng được chính các quan chức ở Hà Nội nhìn nhận.
Ông lấy dẫn chứng là lời của Đại tá Bùi Tín, người vừa qua đời tại Paris, thuật lại vào giữa những năm 1990 rằng ‘kể từ năm 1965 thì Bộ Chính trị đã biết rằng họ không thể nào đánh thắng được Mỹ’ và ‘hy vọng duy nhất của Hà Nội là thắng lợi trong phong trào phản chiến ở Mỹ’.
Chính vì vậy, GS Turner cho rằng chính quyền Hà Nội và các đồng minh của họ đã tiến hành một cuộc đấu tranh chính trị ‘tài ba’ để thay đổi lập trường của người dân Mỹ đối với cuộc chiến.
Ông dẫn lại nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 của Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1963 đã trình bày về chiến lược chiến tranh chính trị như sau: “Chúng ta phải tiến hành mọi nỗ lực để thúc đẩy các tổ chức yêu chuộng hòa bình của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latin có hành động mạnh mẽ yêu cầu đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Chúng ta cũng phải tranh thủ sự thông cảm và ủng hộ của nhân dân các nước đế quốc như Mỹ, Anh, Pháp’.
Chiến lược chiến tranh chính trị này thật ra đã được giới lãnh đạo cộng sản miền Bắc áp dụng từ cuộc chiến chống lại người Pháp. Ông Turner đã dẫn lời Tổng bí thư Trường Chinh viết vào năm 1947 rằng họ phải ‘cô lập kẻ thù, thêm nhiều bạn’ và tranh thủ sự ủng hộ của người dân Pháp, người dân ở các thuộc địa của Pháp và của ‘tất cả các lực lượng yêu chuộng hòa bình’ trên thế giới.
“Dưới sức ép của các nhà hoạt động phản chiến, vào tháng 5 năm 1973, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật để đưa tới thất bại từ ngưỡng cửa của chiến thắng,” ông Turner nói và cho biết đạo luật này đã dừng mọi chu cấp tài chính của Mỹ cho cuộc chiến ở Việt Nam.
Ngoài ra, theo GS Asselyn, các nguyên nhân khác giúp miền Bắc giành thắng lợi chung cuộc là ‘khả năng tổ chức tài tình về mặt đảng và mặt quân đội’, ‘sự kiên trì, bền bỉ đến không ngờ’, ‘khả năng phục hồi sau những thất bại thảm khốc như chiến dịch Mậu Thân 1968’, ‘biết lợi dụng chia rẽ giữa Moscow và Bắc Kinh để đạt được sự ủng hộ vật chất, chính trị và tinh thần của cả hai bên’, và việc Lê Duẩn và các cộng sự thân cận của ông ‘không hề quan tâm đến việc phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng để đạt đến thắng lợi’.
Ngoài ra, sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong thắng lợi của miền Bắc mà nếu không, theo GS Tường Vũ, thì Hà Nội không thể nào thắng được Mỹ và Sài Gòn.
Ông Asselyn cho rằng nhờ vào sự ủng hộ của hai nước lớn này mà quân đội Bắc Việt, vốn phần lớn là nông dân, đã được huấn luyện và trang bị tốt ‘như bất cứ quân đội nào trên thế giới’.
“Bất chấp những sai lầm thảm họa của giới lãnh đạo và đặc biệt là của (Bí thư thứ nhất) Lê Duẩn, Bắc Việt Nam vẫn chiến thắng,” ông Asselyn kết luận.
Mục lục
Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam
- 849.018 liệt sĩ (khoảng 1/3 chết bởi những nguyên nhân phi chiến đấu, ví dụ như bệnh tật, tai nạn, kiệt sức...)
- Khoảng 500.000 - 600.000 bị thương
Cần lưu ý, số binh sỹ thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức..., và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận...
Tính tới năm 2012, cả nước có 9.637 công trình ghi công Liệt sĩ trên cả nước (nghĩa trang, đài tưởng niệm, đền thờ). Tỉnh có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là Quảng Nam với 65.000 liệt sĩ (ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh). Huyện có nhiều liệt sỹ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng thuộc tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ[6][7]
Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho 44.253 bà mẹ có chồng, con hy sinh trong chiến tranh. Một số Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu: mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam có chồng, chín con đẻ, một con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; Mẹ Trần Thị Mít ở Quảng Trị có chồng, sáu con đẻ, một con dâu và một cháu nội là liệt sĩ; Mẹ Lê Thị Tự ở Quảng Nam có chín con là Liệt sĩ; Mẹ Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận, mẹ Nguyễn Thị Rành ở huyện Củ Chi (Sài Gòn) đều có tám con là Liệt sĩ, bản thân 2 mẹ cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Số lượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng chia theo khu vực gồm[8]:
- Miền Bắc: 15.033 mẹ
- Miền Nam: 29.220 mẹ
- Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 Mẹ.
Trong các báo cáo sau trận đánh, quân đội Mỹ thường dùng tỉ lệ "1 đổi 10" (1 lính Mỹ thương vong đổi 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam). Tuy nhiên, tỉ lệ này là phi lý vì nếu cộng lại thì nó còn vượt gấp nhiều lần tổng quân số của QĐNDVN. Số liệu toàn cuộc chiến cho thấy thương vong của hai bên khá tương đương. Do đó, tỷ lệ "1 đổi 10" hiện nay được các nhà sử học xác định là do quân Mỹ phóng đại nhiều lần so với thực tế, cả vì vô tình lẫn cố ý, ví dụ như:
- Để đơn vị và bản thân được khen thưởng, các sĩ quan Mỹ thường cố ý khai khống số thi thể đối phương đếm được vì dù sao cũng chẳng có ai kiểm chứng lại báo cáo của họ.
- Khi ném bom hoặc pháo kích, nhiều thi thể không còn nguyên vẹn, thi thể của một người có thể bị tưởng là của nhiều người.
- Mặt khác, trong nhiều trường hợp, cả do vô tình lẫn cố ý, lính Mỹ đã tính luôn xác thường dân vào số lính đối phương bị tiêu diệt.
Một tỉ lệ khá lớn số binh sĩ thiệt mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam (có thể lên tới 40%) không phải trong chiến đấu mà bởi các nguyên nhân diễn ra trong hoàn cảnh chiến đấu khó khăn (như tai nạn, rắn cắn, thú dữ, bệnh tật, thiếu dinh dưỡng...), đặc biệt với những đoàn quân hành quân qua những chặng đường gian khổ của Đường mòn Hồ Chí Minh. Tính trung bình, trong giai đoạn nửa đầu (trước 1968), khi quân Mỹ đánh phá ác liệt và hệ thống quân y viện chưa phổ biến, cứ 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nam chiến đấu thì chỉ 5-6 người vào tới miền Nam, còn lại hầu hết bị ốm hoặc tử vong dọc đường do sốt rét, rắn cắn, kiệt sức hoặc tai nạn. Hiện Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn là nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất Việt Nam với hơn 1 vạn mộ, song cũng chỉ chiếm một phần số bộ đội hi sinh khi hành quân trên tuyến đường này.[cần dẫn nguồn]
Con số bị thương cũng khó xác định bởi nhiều chiến binh bị thương nhiều lần, nhiều người khác lại không bị thương do bom đạn mà bị mất sức chiến đấu do bệnh tật, và khó lần tìm bằng cách xem sổ sách lưu giữ, nhất là đối với lực lượng du kích ở miền Nam. Hơn nữa việc cấp cứu y tế khó khăn và thiếu thốn thuốc men cho lực lượng du kích đồng nghĩa với tỷ lệ chết của thương binh cao hơn nhiều so với của lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh ở miền Nam [10] (thông thường cứ 2 lính quân Giải phóng bị thương thì có 1 chết vì không đủ phương tiện cứu chữa, trong khi cứ 6 lính Mỹ và đồng minh bị thương thì mới có 1 chết do có hệ thống quân y trang bị đầy đủ).
Hoa Kỳ
- Khoảng 58.200 tử trận và chết vì lý do khác[11]
- Hơn 304.000 bị thương. Trong đó 153.303 bị thương nặng hoặc tàn phế[12]
- 1.948 mất tích[13]
Quốc gia | Binh chủng | Con số binh sỹ phục vụ | Chết | Bị thương | Mất tích |
---|---|---|---|---|---|
Hoa Kỳ[4] | Lục quân | 4.940.000 | 38.218 | 96.802 | |
Thủy quân lục chiến | 794.000 | 14.840 | 51.392 | ||
Hải quân | 1.842.000 | 2.565 | 4.178 | ||
Không quân | 1.740,000 | 2.587 | 1.021 | ||
Tổng số | 8.744.000 | 58.209 | 153.303 | 1.948 |
Quốc gia | Năm chết | Số người chết |
---|---|---|
Hoa Kỳ[5] | ||
1956-1964 | 401 | |
1965 | 1.863 | |
1966 | 6.143 | |
1967 | 11.153 | |
1968 | 16.592 | |
1969 | 11.616 | |
1970 | 6.081 | |
1971 | 2.357 | |
1972 | 641 | |
1973 | 168 | |
1974-1998 | 1333 |
Thương vong của lính Mỹ chia theo nguyên nhân[14]:
- 51% số tử vong và 16% số bị thương là do súng bộ binh như AK-47, SKS...
- 36% số tử vong và 65% số bị thương là do mảnh văng từ đạn pháo binh, súng cối, lựu đạn.
- 11% số tử vong và 15% số bị thương là do các loại bẫy treo và mìn
- 2% số bị thương gây ra bởi hầm chông, cọc nhọn...
- 2% số tử vong và 2% số bị thương được gây ra bởi các phương tiện khác
Tổn thất đầu tiên và cuối cùng của Hoa Kỳ
- Dân sự Hoa Kỳ:
- 6 tháng 5 năm 1954 — James 'Earthquake McGoon' McGovern và phi công phụ Wallace Buford chết tại Lào (bị pháo cao xạ của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn rơi khi đang thả dù cho quân Pháp tại trận Điện Biên Phủ).
- Quân sự Hoa Kỳ:
- 12–15 tháng 5 năm 1975 — 41 quân nhân Hoa Kỳ chết và 41 quân nhân khác bị thương trong "Sự kiện Mayaguez" tại "Campuchia Dân chủ".
Tù binh chiến tranh
- Tù binh chiến tranh đầu tiên bị bắt
- 26 tháng 12 năm 1961 - George F. Fryett là tù binh đầu tiên bị bắt và được phóng thích vào tháng 6 năm 1962.
- Tù binh chiến tranh cuối cùng bị bắt
- 27 tháng 1 năm 1973 - Phillip A. Kientzler là tù binh cuối cùng bị bắt và được phóng thích vào ngày 27 tháng 3 năm 1973.
- Tù binh chiến tranh bị giữ lâu nhất
- 8 năm, 355 ngày- Floyd James Thompson bị bắt ngày 26 tháng 3 năm 1964 và được phóng thích ngày 16 tháng 3 năm 1973. Chỉ thiếu 10 ngày là đủ 9 năm làm tù binh chiến tranh, ông bị bắt giữ làm tù binh lâu nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là tù binh Hoa Kỳ bị bắt giữ lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Việt Nam Cộng hòa
Quân lực Việt Nam Cộng hòa- ~310.000 tử trận hoặc mất tích
- ~1.170.000 bị thương [cần dẫn nguồn]
Theo thống kê chi tiết của Jeffrey J. Clarke thì tính từ năm 1960 tới 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 254.256 lính tử trận[17]. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là khoảng 310.000.
Từ năm 1965 đến năm 1972, ước tính có khoảng 840.000 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã đào ngũ. Giữa tháng 4 tới tháng 12/1974, có 176.000 lính đào ngũ[18]. Số lượng lính đào ngũ không được tính vào số thương vong.
Hàn Quốc
- 5.099 tử trận
- 11.232 bị thương
- 4 mất tích trong chiến đấu[19]
CHDCND Triều Tiên
14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương.Trung Quốc
- 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai nạn hoặc bị trúng bom ném từ báy bay Mỹ)[cần dẫn nguồn]
Liên Xô
Khoảng 6.000 quân nhân Xô Viết từng có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh với vai trò cố vấn kỹ thuật và huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn (không có ghi nhận thiệt mạng trong chiến đấu)[cần dẫn nguồn].Philippines
- 552 tử trận[cần dẫn nguồn]
Thái Lan
- 351 tử trận[19]
- 1.358 bị thương
Úc
Khoảng 502 chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu và 76 chết vì các nguyên nhân khác (tai nạn hoặc bị bệnh).New Zealand
- 55 tử trận + 2 dân thường
- 212 bị thương[19]
Campuchia
Thường dân Campuchia- 70.000[cần dẫn nguồn]
Lào
- ~30.000 quân Hoàng gia Lào chết
- ~50.000 thường dân chết[cần dẫn nguồn]
Tổn thất dân sự
- ~900.000 đến 4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995[cần dẫn nguồn], hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
- ~3.000.000 ảnh hưởng bởi chất độc da cam
- Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất:
- - Gần 2 triệu thường dân chết;
- - Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời;
- - Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân) bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.
Đại úy không quân, Brian Wilson, thực hiện ném bom vào vùng tự do bắn phá, nhận thấy những kết quả đầu tiên: "Đó là hình ảnh thu nhỏ của sự vô đạo đức... Một trong những lần tôi đếm số xác chết sau khi không kích kết thúc với hai quả bom napalm, thứ sẽ đốt cháy tất cả mọi thứ, tôi đếm được 62 thi thể. Trong báo cáo của tôi, tôi mô tả họ gồm rất nhiều phụ nữ ở khoảng 15 tới 25 tuổi và rất nhiều trẻ em - thường nằm chết trong vòng tay người mẹ hoặc chị, và rất nhiều người già." Thế nhưng sau khi đọc báo cáo chính thức, Wilson lại thấy những thi thể thường dân này được quân đội Mỹ liệt kê là 130 binh lính địch bị giết.[21]
Chú thích
- ^ [1]
- ^ [2]
- ^ [3]
- ^ a ă 900.000 hài cốt liệt sĩ đã được quy tập, Báo Quân đội Nhân dân online, Thứ Sáu, 13/01/201
- ^ “Chuyên đề 4 CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO, datafile.chinhsachquandoi.gov.vn/Quản%20lý%20chỉ%20đạo/Chuyên%20đề%204.doc”.
- ^ “Chuyện ở Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn”. Quân đội Nhân dân. 24 tháng 5 năm 2017. Truy cập 5 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Quảng Nam khánh thành nghĩa trang liệt sĩ”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập 5 tháng 2 năm 2018.
- ^ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh
- ^ Spencer Tucker, Vietnam, (Routledge: 1999), pp. 120-145
- ^ Counting Hell, Bruce Sharp
- ^ Statistical information about casualties of the Vietnam Conflict, US National Archives
- ^ Bill Abbott, Names On The Wall: A Closer Look At Those Who Died In Vietnam, HistoryNet.com
- ^ The Vietnam-Era Prisoner-of-War/Missing-in-Action Database, Vietnam-Era Unaccounted for Statistical Report, CURRENT AS OF: ngày 7 tháng 11 năm 2001, Library of Congress
- ^ “Leaders and Intelligence”. Google Books. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
- ^ American War and Military Operations Casualties: Lists and Statistics, Congressional Research Service, ngày 26 tháng 2 năm 2010 Available online
- ^ http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF
- ^ Clarke, Jeffrey J. (1988), United States Army in Vietnam: Advice and Support: The Final Years, 1965–1973, Washington, D.C: Center of Military History, United States Army, p. 275
- ^ http://ic.galegroup.com/ic/uhic/ReferenceDetailsPage/ReferenceDetailsWindow?failOverType=&query=&prodId=UHIC&windowstate=normal&contentModules=&display-query=&mode=view&displayGroupName=Reference&limiter=&currPage=&disableHighlighting=true&displayGroups=&sortBy=&search_within_results=&p=UHIC%3AWHIC&action=e&catId=&activityType=&scanId=&documentId=GALE%7CBT2336200026&source=Bookmark&u=imgacademy&jsid=5116c558dde83f89d502b9ce6a804831
- ^ a ă â KOREA military army official statistics, 28 tháng 8 năm 2005 (tiếng Hàn)
- ^ Turse 2013, tr. 251.
- ^ Turse 2013, tr. 212.
Xem thêm
Đọc thêm
- Edward Doyle, Samuel Lipsman, et al, Setting the Stage. Boston: Boston Publishing Company, 1981.
- U.S.—57,605. South Vietnamese military—220,357. Republic of Korea, Australia, New Zealand, and Thailand—not listed. DRV and NLF deaths—444,000. Combined DRV and RVN civilian deaths—587,000.
- Harry G. Summers, The Vietnam War Almanac. Novato CA: Presidio Press, 1985.
- U.S. killed in action, died of wounds, died of other causes, missing and declared dead—57,690. South Vietnamese military killed—243,748. Republic of Korea killed—4,407. Australia and New Zealand (combined)—469. Thailand—351. The Vietnam People's Army and NLF (combined)—666,000. North Vietnamese civilian fatalities—65,000. South Vietnamese civilian dead—300,000.
- Marc Leepson, ed, Webster's New World Dictionary of the Vietnam War. New York: Simon and Schuster, 1999.
- U.S. killed in action, etc.—58,159. South Vietnamese military—224,000. Republic of Korea, Australia, New Zealand, and Thailand—not listed. DRV military—not listed. DRV civilians—65,000. South Vietnamese civilians—300,000.
Liên kết ngoài
- (tiếng Anh) Source of the figures
- (tiếng Anh) National Archives AAD Searchable database
- (tiếng Anh) Casualties—US vs NVA/VC Casualty breakdown by year, province, unit.
- (tiếng Anh) The American War Library's best estimates on friendly fire casualties since WW2