Thứ Ba, 1 tháng 5, 2018

P. I- TỰ DO!!- DÒNG SỐNG NGHIỆT NGÃ...MÁU XƯƠNG VNCH-

Thiên bút ký- Quốc Hồn Việt Nam.
TỰ DO!!- DÒNG SỐNG NGHIỆT NGÃ...MÁU XƯƠNG VNCH- P.1
Kết quả hình ảnh cho www. Ảnh tiểu sử Huỳnh Mai St, 8872     Kết quả hình ảnh cho www. Ảnh- Huỳnh Mai St.8872 Kết quả hình ảnh cho www. Ảnh tiểu sử- Huỳnh Mai St.8872


Kết quả hình ảnh cho www. Ảnh tiểu sử Huỳnh Mai St, 8872
 
Kết quả hình ảnh cho www. Ảnh tiểu sử Huỳnh Mai St.8872

Lời trần tình của Cựu chiến binh VNCH
Tôi viết ra đây là tất lòng yêu nước người lính chiến QL/VNCH. Mong rằng, tôi đã hoàn- thành trách nhiệm- tổ quốc- danh dự giao cho. Vì tuổi già, sức yếu... và không muốn đổ lỗi "Tội tổ tông-'mất nước '- cho thanh niên, tuổi trẻ Hậu Duệ VNCH!!- Xin tất cả hãy tha thứ cho Người cựu chiến binh QL.VNCH- chưa hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng... Tự Do-Việt Nam!!!
Trân trọng kính chào
Huỳnh Mai St.8872

Phần I
- TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!!

 


Tự Do & Hòa bình VN trong ước vọng xuân Mậu Tuất 2018.
TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!!

|SỨ GIẢ HÒA BÌNH VÀ THÔNG ĐIỆP TỰ DO- DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM!
Qua hai cuộc trao đổi liên tục như con thoi của hai phái đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam trong đầu xuân mới Asean-Đông Nan Á Thái Bình Dương, được cho là động thái quyết tâm cấp bách phục hồi nền kinh tế Mỹ đang suy trầm.Để tạo sự ủng hộ,chiến thắng trong cuộc bầu cữ nhiệm kỳ2 của Barack Obama trong tháng 11-2012,và cũng tạo một niềm tin tưởng đáng tin cậy cho các đồng minh và đối tác kinh tế trong khu vực Đông Nam Á/TBD, khi TT.Barack Obama tuyên bố trở lại Biển Đông ÁTBD phục hồi lại kinh tế suy thoái Hoa Kỳ.
Muốn làm được điều này,trước hết phải giải quyết hiện tình Việt Nam đang nằm trong thế kẹt của Cộng Sản Trung Quốc chiếm trọn lãnh hải một vùng “Lưỡi Bò-Chín Đoạn” rộng lớn hơn 80% Đông Nam Á/TBD, là nhờ vi phạm trắng trợn HD Paris/73 của 2 kẻ thù CSVN và Trung Cộng do sự bao che,dễ dàng trong trao đổi mở cửa thị trường đông dân Trung Quốc Của Hoa Kỳ năm 1972 giữ Nixon và Mao Trạch Đông TQ. Và vùng Lưỡi Bò nằm áng ngữ ngả tư giao thương quốc tế,từ Đông Sang Tây của Thái Bìng Dương và Ấn Độ Dương;từ Bắc tới Nam của khu vự biển Đông Á/TBD do bị Hoàng Sa của CSTQ và CSVN chiếm đóng kiểm soát, và khống chế giao thương quốc tế,và ảnh hưởng thất bại đến tự do mậu dich xuyên Thái Bình dương –TPP- của Hoa Kỳ .Vì thế Mỹ phải dùng sức mạnh quân sự “Win-Spoil” vừa mới chế tác ra để yễm trợ phục hồi kinh tế Hoa Kỳ,và luật quốc tế LHQ về biển{Unclos},hay nguyên tắc ứng xử biển đông{COC} ra áp dụng với Cộng Sản TQ và VN,để đòi lại quyền Tự Do hàng hải và quốc tế hóa Biể Đông Á.Nhưng chưa chắc gì chấp thuận hòa bình biển Đông của kẻ bành trướng Bắc Kinh nuôi tham vọng làm kinh tế sô1 toàn cầu và đè bẹp,nhấn chìm kinh tế Mỹ hết chỗ ngóc đầu lên,với lý do đây là vùng kinh tế đặc quyền Cộng Sàn, “Kinh tế Dịnh Hưo1ng Xã Nghĩa Cộng Sản” bách chiến bách thắng,không bao giờ suy thoái trên toàn cầu!?
Vì muốn được niềm tin của của đồng minh buôn bán trong khu vực Asean và thắng lợi trong bầu cữ nhiệm kỳ2, nên TT Barack Obama phải đưa Trung Quốc Cộng Sản và Cộng Sản VN vào thế vi phạm H Đ Paris/73 do Trung Cộng chiếm đóng của VNCH ngày 19-1-1974,Và Cộng Sản Bắc Việt tiến chiếm Sài gòn/Miền Nam/VNCH và lôi cả quốc tế LHQ vào cuộc thi hành H D Paris.Đó là lý do rất thuyết phục cho đồng phạm TQ và VN ra Hội Đồng Bảo An LHQ thi hành bản lệnh tội ác và phải trả lại quyền tự chủ dân tộc cho Việt Nam tự quyết định Tự do, dân chủ chinh mình, cho công cuộc gia nhập vào cộng đồng thế giớiTư do Mậu dịch.
Có được như vậy TT.Obama mới giữ trọn miền tin và giữ chữ tín, bảo vệ đồng minh, không bán đứng bạn bè như VNCH trước đây,thì kinh tế mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương-TPP- mới được thành công cho phục hồi kinh tế nước Mỹ và thắng cữ nhiệm kỳ 2 của TT Barack Obama trong trạng thái thanh-thãng làm tròn trách nhiệm mang lại tự do,dân chủ dân tộc Viêt Nam.Và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của Thượng Đế cho Hòa Bình Việt Nam, mà tiên tri Vũ Trụ Trần Dần chúc phúc dân tộcViệt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
Cưu chiến binh Ql.VNCH
Xem tiếp: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2012/02/tim-lai-gia-tri-tu-do-anh-mat.html

HOA KỲ TRỞ LẠI VIỆT NAM.- Chiến Lược Tiểu vùng Sông MêKong

HOA KỲ TRỞ LẠI VIỆT NAM.
P/s- NẾU CHIẾN TRANH VIỆT TRUNG XẨY RA, CHÚNG TÔI ,CỰU CHIẾN BINH QL.VNCH SĂN SÀNG BỦ BOMBS SAN BẰNG 7 ĐẬP THỦY ĐIỆN  CỦA TRUNG CỘNG; TRẢ LẠI THÔNG THOÁNG DÒNG CHẢY THƯỢNG NGUỒN SÔNG MELONG. vÀ QL.HOA KỲ CŨNG OK PHI VỤ NÀY DỄ CỨU LƯU VỤC TIỂU VÙNG SÔNG MELONG, LÀ VỰA LÚA CUNG CẤP LƯƠNG THỰC ĐỨNG ĐẦU THẾ GIỚI!

Xin mời vào địa chỉ liên kết,
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2012/05/hoa-ky-tro-lai-viet-nam.html

Sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry, ngày 14-12-2013 tại Sài gòn của Miền Nam VN, là một chỉ dấu nói lên sự tiếp nối chiến lược Hoa Kỳ xoay trục quân sự về Biển Đông Á/TBD. Và để thay thế Bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton tiếp tục " Xoay trục CSVN về phía Hoa Kỳ ", trong chiến lược" Tiểu Vùng Sông Me6kong. Dù được bằng lòng hay không bằng lòng của nhà nước CSVN, thí cũng là pháo hiệu- " Hoa Kỳ trở lại Việt Nam"

Nếu Người Mỹ nói, thật lòng trở lại Việt Nam, và tự nhận đem đến tự do,dân chủ, nhân quyền cho Việt nam,thì chớ vội tin là tự do có chính nghĩa Người Việt Quốc Gia,mà là thứ tự do giả hiệu đổi màu Cộng Sản VN do Hoa Kỳ dàn dựng, bắt tay nhau: “Diễn biến hòa bình” cho Việt Nam để đổi lấy các giếng dầu trong khu vực biển Hoàng Sa & Trường Sa VN. Nếu Hoa Kỳ làm chủ được nguồn năng lượng chiến lược này của Việt Nam, sẽ là bá quyền Biển Đông Á/TBD, và có quyền thay đổi nền an ninh,hòa bình thế giới .Nhưng phải trải qua một cuộc chiến tranh với TQCS,mà VNCS là con cờ thí của Mỹ và cũng là vật xúc tác của ngòi nổ chiến Tranh tại Châ Á Thái Bình Dương của Hoa Hỳ, để tìm lại quyền lợi kinh tế Hoa Kỳ bị bỏ rơi nơi chiến trường VN và ĐNÁ/TBD mà thôi!!!

Âm mưu gì khi Mỹ trở lại Việt Nam lần2…!?
   Mỹ trở lại Việt Nam lần 2 với mưu lược Dân chủ hóa Cộng Sản VN theo thể chế chính trị độc tài Mafia Putin-Nga Xô- mà VNCS đồng ý với Hoa Kỳ: “Dân Chủ Định Hướng Xã Nghĩa VN”,tức là họ “ Tự diễn biến hòa bình” theo nghị quyết 36/TW-Đảng CSVN cho hòa hợp,hòa giải dân tộc để thay đổi một thể chế mới.Từ độc tài Cộng Sản chuyển sang dân chủ định hướng Xã Nghĩa,tức nữa vời Tự Do và Cộng Sản theo kiểu  Mafia Putin nặng phần kinh tế làm giàu hơn phần trình diễn chính trị,để an toàn trên bải đáp,khi cộng sản bị người dân uất lòng đứng lên lật đổ chế độ!.Người Công Sản vẫn còn dủ quyền hành sinh sát trong tay,nhưng núp dưới bong Dân chủ,Tự-Do,Nhân quyền để hành xử dân có hiệu quả hơn danh xưng cộng sản cũ,chỉ làm dân chán ghét hơn.Nên CSVN càng ngày càng than Mỹ hơn và gởi tiền cướp của dân vào ngân hang cho Mỹ cấ giùm.Đưa con cái sang Mỹ làm du sinh chuyển tiền mua cao ốc ,đất đai,trang trại và di tản có chiến thuật cho con cái,gia đình lãnh đạo ra sinh sống nước ngoài.Và dể lại Việt Nam,một đất nước tang thương cho Mỹ lảm pháo đài chống Trung Quốc vì Tự Do,độc lập chủ quyền Việt Nam, hay bán dứng Việt nam lần thứ 2 để trừ nợ thiếu Trung Quốc.Còn lãi ròng bao nhiêu là để phục hồi lại nền kinh tế suy trầm của Mỹ và cùng Trung Quốc sống chung hòa bình trên Biển Đông Á/TBD,khi được LHQ, Quốc Tế hóa tự do mậu dịch hàng hải Biển Đông,và đường lữơi bò chín đoạn vẫn trơ trơ ra đó!?,Vì Trung Quốc đã mua dứt Việt Nam rồi,còn đâu nữ Việt Nam của tôi!!?
   Đồng bào dân tộc Việt Nam đứng lên, giành quyền tự quyết dân tộc, lập lại nền Tự Do, dân chủ cho chính mình, không nên dựa hơi và ỷ lại nơi người Mỹ phản bội sẽ đem lại tự dovà hòa binh dân tộc, nếu chúng ta không tự đứng lên từ nơi té ngả của mình,thì sẽ không bao giờ có tự do và hạnh phúc tương lai cho con cháu thế hệ Mai sau!!!.Nên nhớ câu châm ngôn phản bạn Hoa Kỳ:”Không ai cho không Tự Do cho ai bao giờ!”
   Người Mỹ thật lòng trở lại Việt Nam, và tự nhận đem đến tự do,dân chủ, nhân quyền cho Việt nam,thì chớ vội tin là tự do có chính nghĩa Người Việt Quốc Gia,mà là thứ tự do giả hiệu đổi màu Cộng SảnVN do Hoa Kỳ dàn dựng,bắt tay nhau: “Diễn biến hòa bình” cho Việt Nam để đổi lấy các giếng dầu trong khu vực Hoàng Trường Sa VN.nếu Hoa Kỳ làm chủ được nguồn năng lượng chiến lược này của Việt Nam, sẽ là bá quyền Biển Đông Á/TBD,và có quyền thay đổi nền an ninh,hòa bình thế giới.Nhưng phải trải qua một cuộc chiến tranh với TQCS,mà VNCS là con cờ thí và cũng là vật xúc tác của ngòi nổ chiến Tranh tại Châ Á Thái Bình Dương!!!?
Xem tiếp:
http://maidayhoabnh.blogspot.co.id/2012/05/hoa-ky-tro-lai-viet-nam.html

Xin mời xem thêm:
Mekong, dòng sông của 60 triệu người
http://mainguyenhuynh.blogspot.co.id/2017/01/mekong-dong-song-cua-60-trieu-nguoi.html

Thỉnh Nguyện Thư- HỘI ĐỒNG BẢO AN LHQ.

   Thỉnh Nguyện Thư- HÔI ĐỒNG BẢO AN LHQ.
Kính gởi,

                  - Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

                  -Hội Đồng Quốc Tế Nhân Quyền- Human Rights Watch- LHQ

    V/v: Tái lập Hội Đồng Giám Sát, thi hành vi phạm HĐ Paris/73/VNCH

            Và yêu cầu Quốc tế Nhân Quyền Human Rights Watch giải cứu tù binh:

             Đại Úy Nguyễn Hữu Cầu, chiến sĩ Tự Do QL.VNCH

    Chúng tôi, người dân Miền Nam VNCH,sau biến có lịch sử 30-4-1975, bị quốc tế Cộng sản Bắc Việt Nam chiếm đóng và Cộng Sản Hóa Miền Nam VNCH, do CSVN vi phạm thô bạo và trắng trợn HĐ Paris/73 chiến tranh VN, gây nên vấn nạn tù binh chiến tranh VNCH bị Hoa Kỳ và thế giới LHQ bỏ rơi và quên lãng chúng tôi trong nhà tù cải tạo cộng sản VN suốt 37 năm qua. Nay viết thỉnh nguyện thư này đến các cơ quan quốc tế trách nhiệm nhân quền, Hãy vì lòng nhân đạo cứu giúp chúng tôi, những người còn kẹt lại trong nước; sống như một " Ngục Đàng Cộng Sản!"

   Hãy trả lại cho chúng tôi sự công bằng đối xử bình đẵng nhân loại không Cộng Sản. Đã cướp mất TỰ DO- DÂN CHỦ- NHÂN QUYỀN của Việt Nam chúng tôi.!!!
 
    Đại Úy Nguyễn Hữu Cầu, người tù xuyên thế kỹ của tù binh chiến sĩ Tự Do QL.VNCH trong trại giam tù cải tạo CSVN; suốt 35 năm qua,kể từ ngày chiếm đóng, và cộng sản hóa miền Nam VN, 30-4-1975.
Chính sách hận thù xuyên suốt thế kỷ của Chủ nghĩa cộng sản VN,đã đánh mất tính nhân đạo và tình dân tộc hiếu hòa Việt Nam. CSVN không buông tha kẽ đối thù VNCH, như Đại- Úy QL.VNCH Nguyễn Hữu Cầu theo tính sắc máu cộng sản- "Thà giết lầm hơn bỏ xót" của CSVN. Và không bao giờ buông tha tù binh vì sức yếu, tuổi già, bệnh tật; phải chịu nhiều tra tấn, tàn bạo trong tù dày cộng sản VN,đối với tù binh chiến sĩ Tự Do/QL.VNCH, như Đại Úy Nguyễn Hữu Cầu!??
Yêu cầu Hội Đồng Quốc Tế Nhân Quyền - Human Rights Watch LHQ,dùng tiếng nói lương tri con người; can thiệp với nhà cầm quyền CSVN thả ngay vô điều kiện Đại Úy Nguyễn Hữu Cầu, theo luật tù binh chiến tranh quốc tế LHQ dã được phía Cộng Sản Bắc Việt ký kết theo công ước quốc tế chiến tranh VN.
Và cũng yêu cầu Hôi Đồng Bảo An LHQ triệu tập hội đồng khoáng đại các nước có trách nhiệm ký kết Hiêp Định Paris năm 1973,bao gồm 12 nước thuộc khối Công sản, như Liên Xô-Trung Quốc, và kh6i1 Tự Do:Hoa Kỳ-Pháp- Canada... có chữ ký phê chuẩn của Tông Thư Ký LHQ. Hãy đến Việt Nam giám sát thi hành Hiệp Định Paris/73 bị Cộng Sản Quốc tế Nga Tàu và Bắc Việt Nam vi phạm trắng trợn HĐ. Paris/73, đưa quân chiếm đóng trái phép Miền Nam VNCH; tướt đoạt quyền Tự Do, dân Chủ và bắt 265.000 sĩ quan tù binh cải tạo VNCH, làm chết 165.ooo sĩ quan trong nhà tù Cộng Sản VN. Trong số đó có Đại úy Nguyễn Hữu Cầu; cố Đại Úy Trương Văn Sương và nhiều tù binh khác còn bị ẩn giấu bí mật trong rừng sâu, vùng biên giới Việt-Trung - Lào của CSVN, khi trao đổi tù binh HO,HR với định cư tại Hoa Kỳ, và giải thể trại tù binh cải tạo VNCH.
Yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ giám sát, thi hành vi phạm trắng trợn HĐ Paris/73, của phía CSBV ngày 30-4-1975, để trả lại sự công bằng tự do, dân chủ cho Miền Nam VNCH.
      Nay kính đơn
   Trân trọng kính chào
    October 5,2012-
    Huỳnh Mai St.8872 
    Bh. Dạ Lệ Huỳnh
 Mai Nguyễn Huỳnh
5 Tháng 10 2012 lúc 21:18 ·

Chúng tôi là tù binh chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản Việt Nam,đồng kính gởi thỉnh nguyện thư đến Hội Đồng Bảo An LHQ và Quốc tế Nhân Quyền Human Rights Watch...

Xem thêm
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2012/10/thinh-nguyen-thu-hoi-ong-bao-lhq.html

BÍ MẬT – Sáp Nhập Việt Nam vào Trung Quốc

Tướng CSVN xin tỵ nạn chính trị tại HK và tiết lộ âm mưu bán nước cho Tàu Cộng

 2c  
Tướng Cộng Sản Việt Nam Hà Thanh Châu đã xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 8-4-2013 và tiết lộ âm mưu bán nước cho Trung Cộng

Thỏa Hiệp ngầm 05-07-2020 là ngày thực hiện đợt I sáp nhập nước Việt Nam vào Trung CộngHình ảnh có liên quan

TS KERBY ANDERSON NGUYỄN
10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn “xin tỵ nạn chính trị”, sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là “du học sinh” ở tiểu bang này.
Bốn ngày sau, qua trung gian của 1 “viên chức” cao cấp Hoa Kỳ, ông trao cho chủ bút Tạp Chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu “tối mật”, có liên quan đến sự sống còn của nước Việt nam, dự trù sẽ đăng tải cuối năm 2013. Tập tài liệu này, do người anh vợ của ông, Thiếu Tướng H.T.T. làm Chính Ủy Tổng Cục 2, dưới thời Tổng Cục Trưởng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI mang bí số ML887, ghi âm những cuộc họp bí mật của các nhà lãnh đạo Việt Nam: Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh và Trung Cộng: Giang Trạch  Dân (sinh năm 1926), Lý Bằng, Lương Quang Liệt, Diệp Tuyển Ninh, Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu… tại Thành Đô, thảo luận các thỏa hiệp sát nhập nước Việt Nam vào lãnh thổ “Trung Quốc”.Chúng tôi (tác giả bài viết này), hiện làm “bỉnh bút” cho tờ Foreign Policy Magazine, nên được phổ biến bằng Việt ngữ, giới hạn, trong vòng thân hữu.
Thật ra, các cam kết “giao nước Việt Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng  tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….”
Ngày 14-09-1958, ông Hồ chỉ thị Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “công hàm” giao đứt quần đảo Hoàng Sa cho Mao Trạch Đông. Lê Duẩn (tên thật Lê Văn Nhuận: 1907-1986) chết ngày 10-07-1986, ông Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) lên nắm chức Tổng Bí Thư, tức khắc nối lại bang giao với Trung Quốc bằng 1 câu nói để đời trong lịch sử: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng “.
Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (đang mắc bệnh ung thư) bay qua Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ 92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phát họa rõ ràng hơn 1 chương trình “sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc” qua chiến thuật “Hoà Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai có quyền biết đến” với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm.
GIAI ĐOẠN I  : Ngày 15-07-2020 : QUỐC GIA TỰ TRỊ.
GIAI ĐOẠN II : Ngày 05-07-2040 : QUỐC GIA  THUỘC TRỊ.
GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060 : Tỉnh lỵ Âu Lạc.
Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu.
Thời gian này, tiếng Việt là ngôn ngữ phụ, tiếng tàu là ngôn ngữ chính. Một chút lịch sử về “Âu Lạc”: “Thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, ông Thục Phán, thủ lãnh của bộ tộc Âu Việt, là một trong những bộ tộc của Bách Việt ở về phía Bắc Văn Lang đã cùng Hùng Vương thứ 18 đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Tần. Sau khi thắng quân Tần, vua Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán, sát nhập lãnh thổ của người Âu Việt và Lạc Việt vào một, lập nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương, Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính vào năm 206 trước Tây Lịch”.QUY CHẾ KHU TỰ TRỊ: Sau đây xin mời quý vị nghe lại cuộn băng nhựa của Tổng Cục 2 Việt nam với lời lẽ bề trên, trịch thượng của người Tàu, ban mệnh lệnh, giáo huấn, dạy dỗ, răn đe cấp lãnh đạo Việt Nam phải làm những gì suốt 60 năm dài “tịch thu” nước Việt Nam từng bước một: “Âm thầm, Lặng lẽ, Từ từ như tằm ăn dâu. Khéo như dệt lụa Hàng Châu. Êm như thảm nhung Thẩm Quyến…” theo thể thức “diễn tiến hoà bình”. Làm cách nào  để cho người Việt Nam và dư luận quốc tế nhìn nhận rằng, người Tàu không “cướp nước Việt” mà chính người Việt Nam tự mình  “dâng nước” và tự ý đồng hóa vào dân tộc Trung Hoa.
Tại Thành Đô, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh xin xỏ Đặng Tiểu Bình: Nhờ Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được chính quyền, mới thắng đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn Trung Quốc to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước Việt Nam đề nghị Trung Quốc xóa bỏ các hiểu lầm, các bất đồng đã qua. Phía Việt nam sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chí Minh dày công xây dựng trong qua khứ. Việt Nam sẽ tuân thủ đề nghị của Trung Quốc là cho Việt Nam được hưởng “quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Tây… Để kịp chuẩn bị tâm lý nhân dân và giải quyết các bước cần thiết cho việc gia nhập vào đại gia đình dân tộc Trung Quốc, xin cho thời hạn chuyển tiếp sát nhập là 60 năm: 1990-2020. 2020-2040. 2040-2060. (còn tiếp)
Đính kèm là tài liệu Việt Nam: Tỉnh hay Khu Tự Trị?
http://bacaytruc.com/index.php?option=com_content&view=article&id=3098:tng-csvn-xin-t-nn-chinh-tr-ti-hk-va-tit-l-am-mu-ban-nc-cho-tau-cng&catid=34:din-an-c-gi&Itemid=53
 Xem tiếp: https://haiz00.wordpress.com/2015/02/20/bi-mat-sap-nhap-viet-nam-vao-trung-quoc/ 


Xóa Bỏ Việt Nam Trên Bản Đồ Thế Giới - Trung Quốc Đã Thực Hiện Đến Đâu

 https://youtu.be/NqTXPCAfmJc



TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ DO ĐÁNH MẤT- P.3  VIỆT NAM CỘNG HÒA TRỞ LẠI...!!   
https://youtu.be/B-uyV2Aubcg
  
 
= * = Việt Nam Cộng Hòa Trở Lại (3) - Giải Pháp Việt Nam Cộng Hòa cho Hoàng Sa và Trường Sa - Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích Qui Quang 11 tháng trước xin các cô chú...
Xem tiếp: http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/06/tim-lai-gia-tri-tu-do-anh-mat-p3.html

TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ DO ĐÁNH MẤT- P.4
GIẢI THỂ CỘNG SẢN VIỆT NAM BẰNG CÔNG PHÁP QUỐC TẾ LHQ
 
    https://youtu.be/1HumgiKL48E
   = * = MINH SƠN LÂM || Giải thể cộng sản Việt Nam bằng công pháp quốc tế - 6 https://youtu.be/WO-vOGNYKCg Xuất bản 6 thg 5, 2017 Minh
Sơn Lâm thực hiện vide...
Xem tiếp: http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/06/tim-lai-gia-tri-tu-do-anh-mat-p4.html

 

TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ DO ĐÁNH MẤT- PHẦN KẾT
  HIỆP ĐỊNH PARIS 1973- CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ HÒA BÌNH VIỆT NAM  
 PARIS_1 https://waymy0778.files.wordpress.com/2017/01/cropped-16174682_752966968188537_6498332538264289102_n.jpg
                       
   = * = VC xin "ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN" năm 1973 https://youtu.be/sFdxhVxoEbw Mai Nguyễn Huỳnh 2 năm trước QUÂN CSBV ĐẦU HÀNH VÔ ĐIỀU KIỆN- ĐỒNG MINH HOA KỲ & QL.VNCH- 197...
Xem têếp: http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/06/tim-lai-gia-tri-tu-do-anh-mat-phan-ket.html


Hãy cùng nhau hãnh diện mình là công dân Việt Nam Cộng Hòa!
 

Sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa nằm ở tình thương dân tộc và văn hóa! 
Với năm tháng, chiếc xe tăng T54 ủi sập dinh Độc lập vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 sẽ nằm bất động như mộtđống sắt vụn vì dân tộc Việt Nam không cần chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê, mà ngược lại dân tộc này đang cần thấy ngày quật khởi thật sự của Việt Nam Cộng Hòa, một sự quật khởi từ cõi vô tri để tìm về nhận thức, một sự quật khởi từ hung ác để tìm về tình thương dân tộc đầy thánh thiện, một sự quật khởi của những người con Việt Nam từ gông xiềng độc tài để lấy lại tư do dân chủ và công bằng. 
Bốn mươi ba năm, CSVN đang hấp hối và lần đầu tiên, ngày Quốc Hận năm nay cho chúng ta thấy sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa không còn là một hy vọng, một giấc mơ mà là điều đang đến, sẽ đến và không còn có thể cản lại được nữa! 
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! 
“In front of the Yellow flag, we believe!” 
Hãy cùng nhau hãnh diện mình là Công dân Việt Nam Cộng Hòa! 
01.05.2018
Nguyễn Trọng Dân

Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/hay-cung-nhau-hanh-dien-minh-la-cong.html




          Viết về đề tài trên theo lời yêu cầu, chúng tôi xin trình bày vài bước đi trong lộ trình đi tìm cách giải quyết – tức là các giải pháp trung gian – rồi sau đó tiến đến các giải pháp pháp lý để giải quyết, trong hoà bình, vấn đề cốt lõi sau cùng là tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và các nước khác về các quần đảo, tài nguyên dầu khí, ngư nghiệp, và thềm lục địa tại Biển Đông và về vấn đề tự do lưu thông hàng hải và khai thác tài nguyên ngoài biển .          

Vấn đề chủ quyền các tài nguyên trên liên quan đến các quyền lợi mà các quốc gia liên hệ tại Á châu , và các dân tộc của họ, không thể từ bỏ dễ dàng– vì chẳng khác gì có kẻ cướp vào nhà đòi lấy tài sản và vợ mình mà mình chịu để yên. Các cường quốc ở xa như Hoa Kỳ (qua lời ngoại trưỏng Clinton) cũng đã phải tuyên bố gần đây là vấn đề Biển Đông (trong đó Mỹ chú trọng đến lưu thông hàng hải và khai thác dầu khí) là nằm trong quyến lợi quốc gia (national interest) của Mỹ, sau khi thấy Trung Quốc tuyên bố và hành động theo kiểu muốn làm bá quyền tại Biển Đông. Ngay cả Việt Nam, sau nhiều năm cố gắng nhẫn nhịn thái độ hung hăng của Trung Quốc vì hy vọng vào 16 chữ  vàng (đến chỗ dẹp cả biểu tình của thanh niên yêu nước chống Trung Quôc–Trần Mạnh Hảo, nhà thơ , đã than giùm họ: "tôi yêu ước mà sao tôi bị bắt !"), thì nay cũng đã tìm lối thoát sự đè nén, bắt nạt của Trung Quốc mà nhiều năm qua họ đã thể hiện qua các hành vi quân sự ,như chiếm đảo 1988, hay áp đảo tâm lý, như đe dọa các hãng dầu có khế ước khai thác tại vùng biển Việt Nam, đơn phuơng cấm dân chài Việt Nam đánh cá và bắt giữ họ đòi tiền chuộc, vẽ đường chữ U (Lưỡi Bò) nhận vơ 80% Biển Dông, phản đổi Việt Nam cùng Mã Lai xác định chung trong một hồ sơ tại Liên Hiệp Quốc về thềm lục địa nối dài . Việt Nam tìm lối thoát khi tạo đưọc một "cú" ngọan mục vào lúc làm chủ toạ hội nghị ASEAN tại Hà Nội vào tháng 7,2010 và lôi kéo được 12 nước ASEAN yêu cầu Hoa Kỳ xác định lập trường quyền lợi quốc gia của Mỹ tại Biển Đông, mời tàu chiến Mỹ đi ra đi vô Việt Nam, và đang chuẩn bị xây dựng thể chế hợp tác chặt chẽ hơn với các nước khác, trong đó có Mỹ,trong chính sách ngoại giao đa phương, đưa vào việc nghị trình bản thảo Bá Cáo Chính Trị trong Đại Hội Đảng 2011.
         
Chúng tôi xét theo quan điểm dân tộc Việt Nam để đưa ra mấy đề nghị sau đây–và nếu chúng tôi nói tới quyền lợi của các quốc gia khác ở Á Châu chung quanh Biển Đông (Trung Quốc, Đài Loan, Phi luật Tân, Mã Lai, Brunei, Nam Dương, Singapore) hay các quốc gia dùng đường hàng hải hay có quyền lợi kinh tế hay an ninh ở Biển Đông ( Mỹ, Nhật , Đại Hàn, Ấn, Nga) thì cũng là nói tới gián tiếp thôi.
         
Xin đề nghị 3 loại giải pháp: củng cố nội lực, ngoại giao đa phương và vận dụng luật pháp quốc tế.

1.  Tuân theo ý nguyện của nhân dân để có nội lực chính trị và quân sự nhằm đối phó với áp lực của Trung Quốc.
           
Chính Trung Quốc, về mặt chính thức qua thông cáo của Bộ Ngoại Giao  thì vẫn nói gịong ôn hòa (thí dụ gần đây chỉ nói về biển đảo mà không nói gì về đường Lưỡi Bò nữa), nhưng về dư luận nội địa thì  lại  thả lỏng cho  dân chúng, qua báo chí , Internet, hay các bài của các học giả giáo sư bàn về Biển Đông, nói và viết với giọng bá quyền và đe dọa chiến tranh với Việt nam, có lẽ với mục đích để cho một số lãnh đạo Việt nam sợ mà không đẩy mạnh củng cố quân lực hay ngoại giao đa phuơng , nhằm phản ứng kịp thời khi Trung Quốc thình lình đánh úp vài hải đảo, theo lối tầm ăn rỗi.
         
Vì lẽ đó, chính Việt Nam cũng phải tìm thế nhân dân để có sức mạnh quân sự và chinh trị. Vì khí thế nhân dân sẽ làm cho Trung Quốc nể sợ mà chùn tay lại và nếu có chiến tranh thực thì đó là một hình thức "Hội Nghị Diên Hồng" trong thời đại mới để tham khảo ý kiến toàn dân chiến đấu. Phải thả lỏng cho báo chí phát biểu và nhân dân biểu tình xác nhận mạnh mẽ chủ quyến về các đảo (Hoàng sa, còn Trương Sa thì có bao nhiêu đảo, chính phủ sẽ nói sau--–xin xem lý do nói phía dưới đây), về quyền khai thác tài nguyên trên thềm lục điạ và vùng kinh tế độc quyền, kể cả bênh vực việc đánh cá của dân chài.
         
Trong kiến nghị ngày 22 tháng 4, 2008 của 122 nhân vật  ở trong và ngoài nưóc, dưới hình thức thư ngỏ gửi các nhà cầm quyền Việt Nam, h trách móc rằng :Nhà nước Việt Nam đã tỏ ra không nghiêm túc xét định những kiến nghị quan trọng đã nêu và tỏ ra bất lực trước nghĩa vụ bảo toàn lảnh thổ quốc gia trước  quyết định của Trung Quốc thành lập thành phố cấp huyện Tam sa, trong đó lại bao gồm cả hai quần đảo máu thịt của Tổ Quốc Việt Nam chúng ta là Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động ngang ngược này của Trung Quốc rõ ràng đã coi khinh tình hữu nghị mà Việt Nam chúng ta đã nỗ lực khôi phục và vun đắp trở lại trong suốt hơn một thập kỷ qua. Sự kiện này đã làm cho nhiều người Việt Nam chúng ta khi biết tin hết sức bức xúc, phẫn nộ và đau xót. Không kể gái trai, già trẻ, địa vị, chính kiến đã có nhiều tiếng nói cá nhân, nhiều cuộc biểu tỏ tập thể công khai đã vang lên từ khắp nơi, trên mạng Internet, báo chí, trên đường phố, trong và ngoài nước. Rất khó hiểu, cho đến nay tất cả các vị lãnh đạo cao cấp và các cơ quan cao cấp nhất trong hệ thống lãnh đạo, quản lý đất nước từ Quốc hội, Chính phủ,… đều chưa bày tỏ thái độ một cách chính thức và rõ ràng đối với vấn đề Tổ Quốc đã bị Trung Quốc xâm lấn và tuyên bố thôn tính.” Họ viết tiếp là các câu phản đối  của Chính phủ Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa  hoàn tòan không đủ và  đã xúc phạm lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam khi gọi những cuộc biểu tình trong trật tự để phản đối Trung Quốc là ‘những cuộc tụ tập không được phép’. Đặc biệt cần nhấn mạnh những nhân viên an ninh Bộ Công An đã có những hành xử thô bạo, sách nhiễu cuộc sống của những người biểu tình ôn hòa xiển dương lòng yêu Tổ Quốc Việt nam là những hành vi trái pháp luật, làm tổn thương truyền thống đoàn kết quật cường chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Những hành động ngày càng ngạo mạn của chính quyền Trung Quốc gần đây đối với Việt Nam liệu có phải là hậu quả từ sự phản ứng quá nhún nhường của phía Việt Nam chúng ta? Việc ngăn cản nhân dân phản đối kẻ xâm lược lại càng làm cho dã tâm thôn tính của chính quyền bành trướng ngoại bang thêm táo tợn? Bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào cũng đều đang đau đớn với những câu hỏi này! Trong khi đó chỉ bằng hai cuộc biểu tình của giới trẻ Việt nam trước đại sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc vào ngày 09 và 16 tháng 12 năm 2007 đã làm cho giới lãnh đạo Trung Quốc phải xuống thang bằng việc tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) ngày 19 tháng 12, 2007 phải đưa ra việc phủ nhận về ý định thành lập thành phố Tam Sa.”

           Giải pháp chúng tôi đề nghị để lòng yêu nước của toàn thể dân tộc có thể hỗ trợ chính quyền trong việc bảo vệ đúng mức và sáng suốt quyền lợi quốc gia ngoải Biển Đông (kiên định bảo vệ quyền lợi cốt lõi của dân tộc nhưng cũng mềm dẻo, hòa bình và  khéo léo về ngoại giao—theo câu của ngoại trưởng Talleyrand của Napoléon: “dans la diplomatie, jamais trop de zèle”[trong ngoại giao,không bao giờ nên quá khích]) thì phải làm  thế nào để toàn dân tin tưởng vào lương tâm ái quốc thực sự của giới chức cầm quyền, không có sự dè dặt hay nao núng nào. Và muốn thế, thì trong giới các nhà cầm quyền, nên áp dụng thủ tục bỏ phiếu kín trong các quyết định trong Đảng và Quốc Hội về các vấn đề gay go đối với Trung Quốc để không ai sợ bị lộ diện chống Trung Quốc rồi bị tình báo Trung Quốc ám hại, hoặc Trung Quốc cũng không có thể rải qúa nhiều tiền mua chuộc lương tâm của đa số người trong Đảng hay Quốc hội mà không lộ liễu ra công luận và làm sự mua chuộc hết hiệu lực, vì phải đối đầu với trào lưu ái quốc rất mạnh trong dân tộc. Một thí dụ về bỏ phiếu kín khiến các đại biểu quốc hội có thể mạnh dạn bỏ phiếu theo sự hiểu biết và lương tâm, là việc quốc hội bác bỏ dự án đường xe lửa cao tốc khi chưa hoàn chỉnh. Trong hàng ngũ một số lãnh đạo đã có một sự e sợ Trung Quốc—như thư ngỏ của 122 nhân vật trong nước đã nói tới—vì lãnh đạo muốn chống Trung Quốc còn ngại là sẽ bị lãnh đạo khác dựa vào Trung Quốc tìm cách lật đổ địa vị--bằng biểu quyết-- trong Đảng và trong chính phủ. Sự dựa vào Trung Quốc này của một phần lãnh đạo hiện nay, khác hẳn sự nhất trí trong Đảng chống Trung Quốc sau chiến tranh Trung -Việt  nó khiến Đảng và Quốc Hội đồng tâm ghi thêm vào Hiến Pháp  1980 điều khoản coi “bá quyền Trung Quốc” là kẻ thù “xâm lưọc”. (Trái lại, người dân thường không sợ mất vị trí công việc của mình mà trở thành thất nghiệp, khi tỏ thái độ chống bá quyền Trung Quốc) . Khi các đại biểu trong Quốc Hội, hay trong Đảng, biết là vùng Biển Đông—theo một ước tính,tuy chưa chắc chắn-- vào năm 2020  có thể đóng góp vào 55% tổng sản lượng quốc gia và 55-60% hàng hoá xuất cảng thì họ sẽ càng quyết tâm bảo vệ tài nguyên của tổ quốc hơn, khi sự biểu quyết của họ được thi hành bằng bỏ phiếu kín. Dĩ nhiên về các vấn đề mà người dân cần biết lập trường khi bỏ phiếu của các đại biểu quốc hội về các vấn đề không có đe dọa đến tính mạng của họ, thì vẫn dùng thủ tục bỏ phiếu công khai (giống như roll call ở quốc hội các nước dân chủ, và cũng đúng tôn chỉ “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”).

2. Theo đuổi mạnh mẽ chính sách ngọai giao đa phương để có sự hỗ trợ quốc tế chống bá quyền Trung Quốc, xích lại gần các cường quốc khác như Nga, Nhật, Âu châu, Ấn Độ và nhất là Mỹ.

           Ngay từ thời chính phủ Bush, trong chuyến du hành của Thủ Tướng Việt Nam qua Mỹ, Tổng Thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung  Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ"  và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh".
         
Thế mà Việt Nam vẫn chậm chạp trong việc xích gần Tây Phương. Trong hội thảo về Biển Đông tại Đại Học Yale ngày 18/11/2009  , ông cựu đại sứ Việt nam Nguyễn Trung, từng gần với các nhà ngoại giao Việt Nam rất dè dặt về Trung Quốc như Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ, và là nguyên  cố vấn thủ tướng, có nói là ôn lại lịch sử thương nghị tay đôi với các nước thì tuy Việt Nam thành công với Indônêxia và Mã Lai, ông thấy bi quan cho một giải pháp sau cùng đối với Trung quốc. Nhung chúng tôi có đưa ra câu hỏi là tại sao Việt Nam không đẩy mạnh đa phương hóa ngọại giao để có đối lực với Trung Quốc, thí dụ thực hiện sự cộng tác tập trận hải quân với Mỹ theo đề nghị của chính phủ Bush, thì đuợc biết là Việt Nam vào lúc đó mới chỉ dè dặt chấp nhận tập việc cùng Mỹ cấp cứu ngộ nạn và tìm xác người trên biển.
         

         
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và các quốc gia vùng Đông Nam Á có dịp để phát triển thêm nữa khi Tổng thống Barack Obama tổ chức cuộc hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại New York vào ngày 24 tháng 9  năm 2010, để bàn chuyện hợp tác kinh tế và an ninh--kể cả trong Biển Đông-- bên lề phiên họp thường niên của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tin của Associated Press (19/9/2010) cho biết Dự thảo Tuyên bố chung Mỹ -ASEAN tái xác nhận nguyên tắc tự do hàng hải và giao thương trong Biển Đông, ổn định khu vực, và tôn trọng luật quốc tế mà chống lại việc sử dụng hay đe dọa võ lực để giành chủ quyền ở Biển Đông, và Phụ tá Bộ Trưởng Ngọai giao Campbell và Giám Đốc Vụ Á Châu Bader trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ cũng báo cho các đại sứ ASEAN trong phiên họp chuẩn bị cho Hội nghị Thượng Đỉnh Mỹ-ASEAN, là Trung Quốc có vẻ ôn hòa hơn trong các buổi gặp gần đây, đồng ý bàn về nguyên tắc các bên phải tuân theo trong Biển Đông sau khi họ cắt nghĩa là giải pháp hoà bình tôn trọng luật quốc tế mà Ngọai Trưởng Clinton nói tới tại Hà Nội tháng 7  không ám chỉ riêng về Trung Quốc mà áp dụng cho mọi quốc gia tranh quyền.
          Bà Hillary Clinton cũng đã đến dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, diễn ra vào cuối tháng 10,2010 tại Hà Nội. Sau đó, Tổng Thống Barack Obama sẽ dự cuộc họp thượng đỉnh Đông Á lần tới tại Indonesia năm 2011. Cuộc họp thượng đỉnh Đông Á quy tụ những quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand. Năm nay, các nước ASEAN đã quyết định mời Hoa Kỳ và Nga tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á để thảo luận về những hồ sơ như an ninh, thương mại, môi trường. Theo một số nhà ngoại giao, sự tham gia của Mỹ và Nga vào hội nghị sẽ là đối trọng cho vai trò áp đảo của Trung Quốc trong khu vực này.
          Bản Tuyên Cáo Chung Mỹ-ASEAN (bản chính thức sau cùng) ngày 24 tháng 9, 2010 tuy có bỏ bớt mấy chữ trong Dự thảo “chống lại sự sử dụng hay đe dọa võ lực để giành chủ quyền ở Biển Nam Trung Hoa” nhưng vẫn duy trì cái ý chính là phải theo đuổi giải pháp hòa bình, tức là có lên án gián tiếp việc dùng hay đe dọa võ lực, đề cao nguyên tắc giải quyết hòa bình-- vì điều 18 có ghi các nguyên tắc " hòa bình và an ninh vùng, an ninh trên biển, giao thương không bị cản trở [ám chỉ việc khai thác dầu khí và thương mại], tự do hàng hải theo luật quốc tế, Luật Biển của Liên Hiệp Quốc  và các luật hang hải quốc tế khác, gỉai quyết hoà bình các tranh chấp. Rồi điều 19 lại còn khen ngợi Nga và ASEAN về sự ủng hộ Vùng phi nguyên tử ở Đông Nam Á [đây là 'đá giò lái' nói ám chỉ căn cứ tầu ngầm nguyên tử của Tàu ở Yulin]. Điều 23 lại cũng ám chỉ Mỹ bênh vực các nước ASEAN chống Trung Quốc làm cạn giòng nước sông Cửu Long, khi nói về dự án tiến hành Sáng Kiến Mỹ-ASEAN về Hạ Lưu Mekong. Rồi lại có một loạt các cơ chế giữa Mỹ và ASEAN để thực hiện các mục tiêu trên như (1) Mỹ sẽ họp về quốc phòng với ASEAN  trong Buổi Họp Mở  Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN (ASEAN Defense Ministers Meeting Plus, ADMM+ ) vào tháng 10 năm 2010 (các điều 2,22) và tham khảo giữa các bộ trưỏng của Mỹ và ASEAN (điều 9); (2) Sẽ có những khuyến nghị của Nhóm Nhân vật Siêu Đẳng ASEAN và Mỹ, đưa ra cho đến cuối năm 2011 (điều 3); (3) Mỹ tham dự với cấp cao là ngoại trưởng và Tổng Thống, họ sẽ đi họp tháng 10 ở Hà nội và Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á năm 2011 (điều 5,25). Tóm lại, Mỹ và ASEAN muốn xây dựng tiếp trên căn bản đã đạt tại "hội nghị lịch sử ở Singapore năm 2009"và" tiếp tục các chương trình cho tới năm 2015" (điều 6). Tuy Tuyên Bố Chung không nhác đến chữ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa), nhưng trong thông cáo báo chí  của Tòa Bạch Ốc sau đó, nhân nói về bữa tiệc giữa Tổng Thống Obama và các lãnh tụ ASEAN, thì lại nhắc đến chữ South China Sea: "Tổng Thống và các lãnh đạo cũng đồng ý về tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp theo đường lối hòa bình, tự do hàng hải, ôn định khu vực, và tôn trọng luật quốc tế, kể cả trong Biển Nam Trung Hoa".  
          ASEAN cũng  tuyên bố là đang thương lượng với Trung Quốc để có một tuyên ngôn chi tiết hóa việc thi hành cái bản "Tuyên Bố về Cách Ứng xử (Declaration of Conduct)  trên Biển Đông" năm 2002. Ngày 30 tháng 9,2010 Đại sứ Trung Quốc tại Phi luật Tân cho hay là đã bắt đầu thương thuyết với các nước Đông Nam Á nhắm tới việc thỏa thuận về một Qui tắc Ứng sử (Code of Conduct), có hiệu lực bó buộc, để đối phó với các vụ tranh chấp lãnh thổ,lãnh hải trong vùng Biển Đông.
           Ngày 24 tháng 9 năm 2010, Giáo sư Thayer của Úc cho biết là Trung Quốc đã phủ nhận không hề chính thức nói Biển Đông là quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc. Cựu Đại sứ Mỹ Stapleton Roy cũng nói trong một cuộc hội thảo ở Center for Strategic and International Studies ở Washington, D.C. là không có một văn kiện chính thức nào nói về quyền lợi cốt lõi này, tuy các tài liệu các học giả hay các bài trên báo chí hay mạng Internet có nói. Việc vẽ đường lưõi bò (chữ U) đòi quyền trên 80% Biển Đông cũng không có trong văn kiện chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, mà chỉ có trong các bài của các tư nhân (xin xem đọan dưới đây). Và ngay trong Hội Nghị về Biển Đông tại Saigon ngày 11/11/2010, các học giả Trung Quốc bị các học giả quốc tế chất vấn, cũng lúng túng không trả lời thế nào là quyền lợi cốt lõi, hay thế nào là căn bản pháp lý của đường hình chữ  U.   Có lẽ Trung Quốc áp dụng chính sách thả quả bong bóng thử thách các nước ASEAN , để nếu các nước này e sợ, Trung Quốc sẽ lấn tới, theo chiến lược "mềm nắn, rắn buông". Nếu bị phản đối thì Trung Quốc lại dừng lại
           Về lập trường Việt Nam muốn đa phương hoá nền ngọai giao và dựa nhiều hơn vào việc Mỹ quay trở lại Đông Nam Á thì ta thấy trong hội thảo ở trụ sở Quốc hội Mỹ tháng 9,2010, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Lê Công Phụng, cho biết rằng Việt Nam ủng hộ việc Hoa Kỳ quyết định quay lại Đông Nam Á và Đông Á:"Việt Nam mạnh mẽ ủng hộ chính sách ngoại giao của Mỹ là quay lại Đông Nam Á và Đông Á. Như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã nói, Hoa Kỳ quay lại khu vực này để tiếp tục hiện diện chứ không rút đi. Chúng tôi ủng hộ chính sách đó."
         
Câu hỏi cần nêu ra là lời ông Đại Sứ Việt Nam có phản ảnh khuynh hướng ở cấp cao nhất tại Việt Nam không?  Dự thảo Báo cáo Chính trị cho Đại Hội Đảng 2011 cho ghi rõ mục tiêu tăng cường hợp tác với các nước chung quanh Biển Đông và Thái Bình Dương: "giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương."

Theo giáo sư  Úc Carl Thayer chuyên nghiên cứu về Việt Nam, thì lãnh đạo Việt Nam có hai khuynh hướng: một muốn mở rộng quan hệ quốc tế, liên hệ với nhiều quốc gia; một muốn nể nang, liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc hơn nước khác (gọi là nhất biên đảo), nhưng cũng theo GS Thayer, trước khuynh hướng chống Trung Quốc của nhân dân, nhóm thân Trung Quốc này hình như cũng phải đồng ý phải tìm con đuờng quốc phòng khác dựa vào quan hệ đa phương, không thể chỉ dựa hay tin vào Trung Quốc.

Vì Trung Quốc tăng ngân sách quốc phòng 500% từ 1997 cho đến nay, phát triển rất mạnh hải quân, củng cố căn cứ hải quân Yulin ở nam Đảo Hải Nam với chỗ đậu cho nhiều chiến hạm lớn và tầu ngầm kể cả tầu ngầm phóng đầu nguyên tử và hàng không mẫu hạm mà họ đang trong giai đoạn xây dựng, cải tiến phi trường tại Hoàng Sa và đài radar tại Fiery Cross Reef ở Trường Sa, cho nên trong liên hệ đa phương với các cường quốc bạn, nhất là Mỹ , là nước đã thấy sự đe dọa của hải quân Trung Quốc đối với sự đi lại của Hạm Đội 7 (thí dụ nhu vụ quấy nhiễu tàu  Impeccable của Mỹ), thì Việt Nam phải tìm cách nhờ họ giúp canh tân hải quân (chiến hạm chạy mau và tầu ngầm) và không quân (máy bay oanh tạc và trực thăng võ trang) để  có thể  tiếp cứu mau chóng các hải đảo.  Quân lực mạnh sẽ là biện pháp ngăn ngừa (deterrence) đối với Trung Quốc, như câu châm ngôn "muốn có hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh". Hơn nữa, phải liên minh, hay phối trí--nếu ngại dùng chữ liên minh-- với Mỹ để cùng tuần hành với Hạm Đội 7, bảo vệ người Mỹ và tài sản Mỹ trên các dàn khoan dầu trong các dự án hợp tác khai thác với Việt Nam, và tiến hành các cuộc tham khảo về an ninh và chính trị với Mỹ, theo như Thông Cáo Chung của Tổng Thống Bush với Thủ Tướng Dũng tháng 6 năm 2008. Giáo sư Taylor Travel tại  Massachusetts Institute of Technology, nghiên cứu 24 vụ tranh chấp biên giới trong 60 năm của Trung Quốc, thấy là TQ sẽ không sử dụng võ lực nếu đứng trước một cường quốc—trái lại năm 1974 và 1988 đã tiến đánh Việt Nam để chiếm nốt Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa. Tóm lại, phải cứng rắn thì Trung Quốc mới ngừng lại--vì từ trước đến nay họ vẫn theo chính sách "mềm nắn, rắn buông".
          Chắc lãnh đạo Việt Nam cũng ý thức rằng phải củng cố khả năng chiến đấu bảo vệ hải đảo là vì một khi đã để mất hải đảo thì hành quân chiếm lại gần như không thể thực hiện được vì cường quốc Trung Quốc sẽ củng cố hải đảo bằng đủ các khí giới tối tân và các biện pháp tàn bạo và Việt Nam dù có dùng chiến thuật biển người cũng không làm được, vì không phải là đất liền. Số tử vong của các chiến sĩ cố chiếm lại đảo sẽ lên quá cao—như có thể thấy qua kinh nghiệm đau đớn của quân đội Mỹ trong Thế chiến II, khi vất vả chiếm lại dần dần các đảo trên Thái Bình Dương từ tay quân đội Nhật (chết nhiều đến nỗi Mỹ sau đó ném bom trải thảm trên đất Nhật để trả thù).
           Mặt khác, để theo đuổi mục đích đấu tranh hoà bình, dựa vào dư luận quốc tế, trong Hội Nghị tại Hà Nội ngày 12/10 /2010 của các bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng--tức là có thêm sự tham dự của 8 nước đối tác khác như Mỹ, Trung  Quốc, Nhật, Nga, Đại Hàn, Ấn Độ, Úc và Tân Tây Lan, Thủ Tưóng Nguyễn Tấn Dũng, với tư cách nước chủ tịch, có sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á, đã kêu gọi giải quyết trong hòa bình các vấn đề tranh chấp ngoài biển, theo luật quốc tế, nhất là Luật Biển năm 1982, và trong sự tôn trọng độc lập và chủ quyến mỗi nước, dù Biển Đông không có trong chương trình nghị sự -- và chi tiết hoá các quy tắc ứng xử đã tuyên bố trước đây (Declaration of Conduct) thành các nguyên tắc của  một bộ  luật cưỡng hành (Code of Conduct). Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Gates cũng kêu gọi như vậy, và nhấn mạnh đên giải pháp đa phương. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 5 vừa kết thúc ngày 30/10/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tái xác định lập trường của Hoa Kỳ: “Hoa kỳ xem quyền tự do lưu thông hàng hải và hoạt động thương mại trên biển không hạn chế thuộc phạm vi quyền lợi quốc gia của mình. Khi xảy ra tranh chấp lãnh hải, chúng tôi cam kết giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, trên cơ sở thông lệ quốc tế ». Nếu người Việt nào trong nước hay tại hải ngoại còn nghi ngại không biết sự ủng hộ của Mỹ đối với Việt Nam có trường cửu hay là tuỳ giai đoạn và quyền lợi thay đổi của Mỹ theo thời điểm Đảng Dân Chủ hay Đảng Cộng Hòa cầm quyền, thì thiết tưởng nên nhớ đến lời tuyên bố của Cựu Tổng Thống Dân Chủ Bill Clinton  tại Đại Học Ngoại Thương ở Hà Nội trong tháng 11,2010 và của một cựu ngọai trưởng của mấy tổng thống Đảng Cộng Hoà trước đây,và nay vẫn là cố vấn lớn của Đảng này, nói với một đại diện có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng trong tháng 11,2010 (nguồn tin riêng, chúng tôi không tiện nói tên cả hai người), là chính sách ủng hộ Việt Nam là chính sách của Lưỡng Đảng. Ngoại trưởng Indonesia, một nước không có tranh chấp biển đảo ở Biển Đông đã tuyên bố như sau về biển Đông khi hội nghị kết thúc ở Việt Nam : “ Không nên có chỗ cho chính trị vũ lực và chính sách ngoại giao pháo hạm. Tất cả phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình” Nga cũng đã quay trở lại Việt Nam với một hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, và một thoả thuận dành cho doanh nghiệp Nga khôi phục lại quân cảng Cam Ranh thành một căn cứ hậu cần quốc tế cho cả thương thuyền lẫn pháo hạm


3. Dùng luật pháp quốc tế theo truyền thống và trong các hiệp định và công ước mà Việt Nam và Trung Quốc đã ký, nhấn mạnh mọi chuyện tranh chấp phải giải quyết theo luật pháp, trong hoà bình, không có đe dọa hay sử dụng võ lực

LUẬT PHÁP VỀ THỀM LỤC ĐỊA

          Thềm lục điạ đã được định nghĩa rõ rệt theo các tiêu chuẩn địa dư và địa chất rõ rệt trong Công Uớc  Liên Hợp Quốc 1982 về Luật Biển, và phạm vi tính từ bờ biển đi ra xa như thế nào đã rõ trong luật, Việt Nam không cần nói cũng có chủ quyền.
           
Chỉ còn vấn đề thềm lục địa nới rộng thì Việt Nam cũng đã làm thủ tục đăng ký, đặc biệt đã nộp hồ sơ chung với Mã Lai về khu vục thềm lục điạ hai nước trùng nhau.
           
Uỷ Ban Liên Hợp Quốc lo việc đăng ký thềm lục địa mở rộng cũng không phải là trọng tài giải quyết tranh chấp, vì việc bất đồng ý kiến của các quốc gia cận duyên về biên giới thềm lục địa nới rộng phải do các bên liên hệ thương lượng với nhau để giải quyết. Vì thế, ngoại giao song phương hữu nghị của Việt Nam với Trung Quốc trong vấn đế thềm lục địa trùng nhau tại Vịnh Bắc Bộ và phiá bắc Biển Đông vẫn phải tiến hành.
  

LUẬT PHÁP VỀ QUYỀN KHAI THÁC NGHỀ CÁ CỦA DÂN CHÀI VIỆT NAM
         
          Việt Nam cần đòi hỏi mạnh mẽ việc thực thi Hiệp định Nghề cá đã ký với Trung Quốc và Hiệp Uớc Quốc Tế.  Trung Quốc đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Cộng Tác Nghề Đánh Cá ngày 25/12/2000 ký kết giữa Trung Quốc và Việt Nam và Hiệp Định của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, trong việc kỳ thị đối với dân chài Việt Nam, xua đuổi, đánh đập họ và vi phạm quyền tư hữu của họ, mà cho các dân chài các nước khác được hưởng quyền trú chân trốn bão, vốn có từ lâu trong lịch sử loài người và quy định trong các văn kiện luật quốc tế, nhất là Hiệp Định Liên Hợp Quốc 1982.
Trắng trợn vi phạm điều 12 Hiệp định Nghề cá nói trên, theo đó, hai nước đã lập ra vùng đệm (buffer zone) ở ngoài lãnh hải của mỗi nước (territorial sea), để nếu các thuyền đánh cá nhỏ của một nước đi lạc vì lầm lẫn vô lãnh hải của nước kia, thì nước kia sẽ cảnh cáo và ra lệnh cho các thuyền đó đi ra mà không bắt giữ, mà cũng không dùng võ lực. Nếu có điểm gì tranh chấp, thì điều 12 cũng nói là phải đưa  ra Uỷ ban  Hỗn hợp Việt Trung về Nghề cá trong Vịnh Bắc Việt nếu có điều gì ngoài chuyện đánh cá (thí dụ như  trốn bão chẳng hạn). Uỷ ban này phải quyết định phân xử theo lối đồng thuận giữa hai bên Việt Trung.  Vậy Trung Quốc đã vi phạm về mặt thủ tục luật pháp quy định ngay  trong Hiệp định Trung Quốc đã ký, coi rẻ người Việt Nam và nhà nước Việt Nam.
Trắng trợn vi phạm về mặt nội dung điều 15 và 16 Hiệp định Nghề cá, theo đó khi dân chài và thuyền đánh cá một nước bị tai biến khẩn cấp (distress or other emergencies) trong khu lãnh hải của nước kia thì nước kia  nhiệm vụ phải cứu giúp và che chở; và khi dân chài và thuyền một nước tìm cách trốn bão, thì có quyền trú ẩn trong lãnh hải nước kia. Ghe thuyền đánh cá một nước có quyền hàng hải, có quyền đi qua vô hại (innocent passage).
          Trung Quốc trắng trơn vi phạm Hiệp định Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, điều 292, theo đó một nước duyên hải chỉ có thể bắt giữ ghe thuyền và thuỷ thủ nước khác trong một số trường hợp giới hạn, thí dụ đánh cá bất hợp pháp, sau khi lên tầu và khám xét để thấy có bằng chứng vi phạm, và  phải mau chóng thả, sau khi bắt đóng tiền thế chân hay bảo đảm khác (luật quốc tế định như vậy để tránh sự lạm dụng quyền thi hành luật của nước duyên hải).   
          Nếu không thả sớm, hoặc không đưa ra xét xử trong tòa án quốc nội hay cơ quan xét xử nào khác (thí dụ Uỷ ban Hỗn hợp trong Hiệp định Việt-Trung nói trên), thì trong vòng 10 ngày (Hiệp định Liên Hợp Quốc quan niệm đây là thủ tục khẩn cấp --accelerated procedure), quốc gia của người dân chài bị bắt giữ có thể đưa ra, hay uỷ quyền cho chủ ghe thuyền đưa ra, trước Toà án Quốc tế Luật Biển (International Tribunal of the Law of the Sea) về việc bắt giữ qúa lâu này. Tòa án đó phải giải quyết khiếu nại ngay, không được trì hoãn, và định số tiền thế chân để thả người ta ra.
          Việc cho trú ngụ khi gặp bão không phải là vấn đề gay go về tranh chấp chủ quyền, thì không có gì phải nể Trung Quốc qúa, sẽ mang tiếng là không thương người dân chài vô sản, vô tội, thua kém cả người nước ngoài như một đại tá hải quân Nga cũng đã lên tiếng, trong dịp Tầu Nga Panteleyev viếng thăm Đà Nẵng tháng 6 năm 2009, chỉ trích Trung Quốc cấm đóan tầu đánh cá Việt Nam và nói Nga sẵn sàng giúp đỡ họ. 
           Phải đem ra toà án về luật biển của Liên Hợp Quốc. Và người dân chài có thể làm việc này và dĩ nhiên cần nhờ một luật sư chỉ dẫn cho họ. Điều nên nhớ là họ phải được sự uỷ quyền của nhà nước Việt Nam

LUẬT PHÁP VỀ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ

          Có lẽ chính Trung Quốc đã thấy việc xác nhận chủ quyến trên 80% Biển Đông bằng Đường Lưỡi Bò, mà nguồn gốc chỉ là bản đồ do hai cá nhân vẽ năm 1914 và 1947 (Hu Jinjie và Bai Meichu), là không có căn bản pháp lý nào, nhất là nếu chiếu theo Luật Biển 1982, cho nên bây giờ không thấy Trung Quốc nói tới trong giác thư gần đây nhất của Bộ Ngoại Giao. Trong
hội nghị về tranh chấp biên giới biển (maritime boundary disputes) tại  Houston, Texas  ngày 21 tháng 4 năm 2010, do các hãng dầu Mỹ bảo trợ, sau khi phái đòan Việt Nam trình bày qua lời Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Biên giới Nguyễn Hồng Thao về quan điểm xác nhận chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông theo đường lối cộng tác hoà bình và nêu cao luật quốc tế, thì phái đòan Trung Quốc nói về lập trường Trung Quốc về các hải đảo, rồi nói về Đường Lưõi Bò, rằng khi hai nhà địa dư Trung quốc vẽ đường đó, không ai phản đối, và còn nói qúa đáng là họ cảnh cáo các hãng dầu khí Mỹ khi tới South China Sea (Biển Đông) thì phải tuân theo "luật Trung Quốc" . Với tư cách người Mỹ gốc Việt ở Mỹ, chúng tôi thấy có nhiệm vụ lên tiếng trước lập trường lấn lướt đó, vì chắc ông chủ tọa và các luật sư và hãng dầu Mỹ "không nỡ" phản bác huỵch toẹt, vì họ đóng vai chủ nhà trong hội nghị và cũng ngại làm mất mặt đại diện Trung Quốc để còn kinh doanh làm ăn bên Trung Quốc. Trước hết, chúng tôi yêu cầu ông chủ tịch phiên họp là luật sư Thomas Johnson của văn phòng Covington & Burling ở Hoa Thịnh Đốn (đã cố vấn cho Việt Nam vào thời gian ông Võ văn Kiệt là thủ tướng) xác nhận là đúng, cái ý kiến khởi đầu chúng tôi nêu ra là mọi tranh chấp trên đại dương là phải theo Luật Biển 1982, trừ khi Luật đó không rõ thì áp dụng các quy tắc luật quốc tế truyền thống mà các quốc gia đã thi hành trong nhiều thế kỷ. Sau đó, chúng tôi đã bác bỏ lập trường Trung Quốc với các bằng chứng lịch sử về chủ quyến của Việt Nam ở các hải đảo. Vì lúc đó chỉ đủ thời gian nói vắn tắt vài điểm, nên chúng tôi sẽ  quảng diễn rõ hơn dưới đây. Rồi chúng tôi cũng bác bỏ đường Lưỡi Bò sau khi nêu ra là Luật quốc tế truyền thống cũng như Luật Biển 1982 không có điều khỏan nào công nhận đường Lưỡi Bò để xác nhận chủ quyền trên đại dương; không những thế, điều  89 của Luật Biển 1982 nói tới “việc đòi chủ quyền trên đại dương là vô giá trị” (invalidity of claims of sovereignty over the high seas) . Chúng tôi hỏi thêm:  liệu Hạm Đội 7 của Mỹ có phải xin phép Trung Quốc mỗi lần đi qua khu vực Đường Lưỡi Bò hay không? và liệu Tổng Thống Mỹ lại có thể nào không giám làm nhiệm vụ hiến định là phải bênh vực quyền lợi và sinh mạng người Mỹ trên các giàn khoan dầu khí khi hợp tác khai thác chung với các nước Đông Nam Á trong khu vực Đường Lưỡi Bò hay không? Đại diện Trung Quốc không trả lời.
         
Bắc Kinh rất ít khi hay là không giám đưa ra chi tiết về căn bản pháp lý của Đường Lưỡi Bò, mà chỉ xác nhận hàm hồ, là tất cả phần lớn Biển Đông, khoanh trong Đường Lưỡi Bò, là của Trung Quốc từ “thời tiền sử” và vẽ ra trên bản đồ “một đường chu vi lịch sử về chủ quyền” thâu tóm 80% Biển Đông, thâu tóm cho Trung Quốc hầu như là tất cả mọi thứ trong đó--biển đại dương, các đảo, đáy biển. Đường chu vi này đi xuyên qua các khu vực giếng dầu đang sản xuất ngay gần Sarawak, qua một số giếng dầu Việt Nam đã khám phá, và chiếm một phần lớn các khu Natuna có trữ lượng khí đốt của Indonêxia. Học giả Wain nói rằng “đường chu vi lịch sử về chủ quyền” này bị các chuyên gia độc lập về đại dương cho là quá lố lăng, có lẽ vì thế mà Bắc Kinh không muốn bàn công khai về nó.  Ông Valencia thuộc East West Center (Hawaii), nay ở Trung Tâm Woodrow Wilson, nói là đường chu vi ấy chẳng có căn cứ gì trong luật quốc tế thời hiện đại. Nhà học giả Mã Lai về đại dương Hamzah ví cái sự đòi chủ quyền này như cái Mệnh Lệnh Giáo Hoàng lố lăng và nông nổi năm 1493 đem chia các đai dương trên trái đất ra cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tại Hội nghị ở Houston tháng 4,2010 nói trên, cũng có luật gia Mỹ nói đùa là: Nếu Trung Quốc đòi chiếm đại dương ở Biển Đông bằng Đường Lưỡi Bò, thì Mỹ cũng sẽ có thể đòi hết Gulf of Mexico về cho mình, tước bỏ quyền của Mexico và Cuba và các nước ở Trung Mỹ.

LUẬT PHÁP VỀ CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

        Cần dựa vào luật pháp quốc tế để đòi hỏi sự công nhận chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, tuy phạm vi chủ quyền Việt trên bao nhiêu đảo ờ Trường Sa thì chưa ấn định rõ, sẽ cần thuơng thảo sau với các nước Đông Nam Á .
       
          Luật quốc tế truyền thống, đã được công nhận qua nhiều thế kỷ và có trứơc Hiệp Ước Luật Biển 1982, nói về chủ quyền đối với một miền đất như sau: một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành sử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành sử chủ quyền liên tục.
        

          Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì  Việt Nam đã xác nhận và hành sử chủ  quyền trên Hoàng sa và Trường Sa (tuy phạm vi hành sử ở Trường sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974  Việt Nam Cộng Hòa  phản đối, sau đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (nay là Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam) kế quyền của Việt Nam Cộng Hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state)cũng  phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa  và rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 (gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam) và các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa  không thể bị coi là đã sói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành sử chủ quyền.
          Vì bài này nói về khiá cạnh luật pháp của chủ quyền, và sẽ chỉ nói vắn tắt tới các sự kiện trong lịch sử về việc Việt Nam tuyên nhận và chiếm hữu chủ quyền về các đảo như là bổ xung cho luận cứ pháp lý, cho nên ở đây  chỉ xin tóm tắt về các sự kiện đó mà chúng tôi, khi viết một bài phân tích tổng quát và khuyến nghị chính sách và nghị trình như thế này(general analysis & policy and agenda  recommendations),theo kiểu một bài phân tích trong tập san Foreign Affairs, thì không muốn ghi  nhiều chú thích tỉ mỉ về mỗi sự kiện đó, làm chia trí độc giả, và do đó chỉ xin lưu ý độc giả là, quí vị, như chúng tôi, có thể tìm ra nhiều bài viết và sử liệu giá trị, cung cấp bởi các nhà nghiên cứu sử , thí dụ như Tập San Sử Địa xuất bản trước 1975,luận án và bài viết của ông Nguyễn Nhã, Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông v.v., nhất là với phương tiện như “Google” trên mạng Internet.
          Trong khi vào năm 1898 Tổng Đốc Quảng Châu không nhận trách nhiệm xử lý về một vụ đắm và cướp tầu, viện lý do là quần đảo Tây Sa là những đảo bị bỏ rơi, không sáp nhập vào quận nào của Hải Nam, thì Việt Nam đã có khoảng 30 tư liệu về chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa,  suốt từ đời các Chuá Nguyễn tới đời Nhà Nguyễn (Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toàn tập An Nam Lộ 1686, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn 1776; Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú 1821, Hoàng Việt Địa Dư Chí 1833, Đại Nam Thực Lục Chính Biên Tiền Biên, đệ nhất đến đệ tam kỷ, 1848,1864 và 1879; Châu Bản Triều Nguyễn (đặc biệt tập tấu của bộ công ngày 12 tháng 12, năm Minh Mạng 17, tức là năm 1836, có nói đến việc sai đội thuỷ binh Phạm Hữu Nhật  ra Hoàng Sa cắm mốc và đặt bia chủ quyền, việc này thành lệ hàng năm, như nói trong Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, 1851) , Đại Nam Nhất Thống chí, 1882, 1910.
          Có ý kiến rằng chứng cớ lịch sử về chủ quyền Việt Nam thời vua chúa trước thời Pháp cai trị, đối với HS thì đã quá rõ, nhưng về Trường Sa thì không rõ, thí dụ có ý kiến rằng Phủ Biên Tạp Lục nói Chúa Nguyễn phái Biệt Đội Bắc Hải "đi du lịch" đến Bắc Hải (Trường Sa) và Côn Lôn để thu lượm các hải vật là không rõ ràng xác lập chủ quyền Việt Nam. Nhưng theo thiển ý, khi có một cuộc hải trình của một biệt đội tên là Bắc Hải do nhà nước sai phái (state expedition), và đặt dưới quyền giám sát của một biệt đội nhà nước khác là Biệt đội Hoàng Sa, thì phải giải thích đó là một cuộc hải trình của nhà nước, vì nếu chỉ là tư nhân du lịch thì không có sự đặt tên và sắp xếp hệ thống quân giai như vậy. Đến đời vua Ming Mạng, khoảng sau năm 1838 khi quốc hiệu đổi thành Đại Nam, thì có cuốn Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ nói đến "Vạn Lý Trường Sa" và nó có giá trị bằng chứng lịch sử để xác lập lần nữa chủ quyền Việt Nam (mặc dầu cuốn này không phải do vua ra lệnh làm ra--không phải là "khâm định"-- mà có lẽ do một số đại thần trong Quốc Sử Quán làm)  và từ đó, Trường Sa, hay ít ra là đa số các đảo trong quần đảo đó mà Việt Nam đã chiếm (trừ những đảo quá xa Việt Nam và gần Phi, Mã Lai, Indonêxia,Borneo hay Brunei) không còn là đất vô chủ (terra nullius) theo luật quốc tế nữa, mà đã có Việt Nam xác lập chủ quyền.
           Trong khi đó tại Trung Quốc, Thích Đại Sán viết Hải Ngoại Ký Sự năm 1696 nói chúa Nguyễn sai thuyền ra khai thác Vạn Lý Trường Sa; và tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc đều xác định đảo Hải Nam là cực nam biên giới phía nam Trung Quốc và không hề vẽ Tây Sa và Nam Sa.  Sau này Trung Quốc cứ nói mà không có bằng chứng, hay bịa đặt, là họ đã khám phá các hải đảo, khi thì nói là vào đời Tống, khi thì nói là vào đời Hán. Trong các cuốn chính sử hay địa dư rất dầy và nhiều quyển của Trung Quốc đều không nói gì về việc Trung Quốc khám phá hay quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, thí dụ như không có sự nhắc nhở bàn luận nào về các quần đảo này trong Khâm Định Đại Thanh Nhất Thống Chí (theo sự nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Ngọc trình bày ở Học viện Ngọai Giao 2009), hay Thanh Sử Cảo hoặc Đại Thanh Nhất Thống Bản Đồ ( theo sự nghiên cứu của ông Hồ Bạch Thảo đăng trên báo mạng Diễn Đàn 12/2009). Luật quốc tế qui định là khám phá mà không kèm theo việc hành sử chủ quyền quản lý liên tục thì cũng không tạo ra chủ quyền quốc gia. Một thí dụ là khi nhóm người Pilgrims đến Massachusetts trên tầu Mayflower vào năm 1620, thì một người Pháp, ông Champlain, trước đó, từ năm 1604 đến 1606, đã từ khu vực Nova Scotia (Canada) đến khám phá Maine và Massachusetts, vẽ bản đồ cho các khu vực đó và gọi là New France (Nước Pháp Mới), in trong cuốn sách “Voyages” xuất bản năm 1613. Nhưng vua Pháp không hỗ trợ cho công cuộc quản lý chủ quyền mà ông Champlain đã tuyên bố cho nưóc Pháp. Rút cục, các vùng đất này trở thành thưộc địa của Anh Hoàng và hai tiểu bang của Mỹ sau đó.
          Tài Liệu của Tây Phương như nhật ký trên tầu Amphitrite, năm 1701. sách của Chaigneau (1769-1825), linh mục Taberd (1833) đều nói vua Gia Long khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa năm 1816.
          Nhưng nhà cầm quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương lơ là trong một thời gian việc xác nhận chủ quyền trên HS và TS của nước bị bảo hộ An Nam. Chỉ đến  năm 1909 khi có cuộc khảo sát trái phép Hoàng sa của Tổng Đốc Quảng Đông, và báo chí báo động  thì nhà cầm quyền Pháp mới hành động thực thi chủ quyền, như việc Viện Hải Dương Học Nha Trang khảo sát Hoàng Sa 1925 và lập đơn vị hành chánh quận Hoàng Sa năm 1932.
            
          Riêng về Trường Sa, thời Pháp thuộc, Pháp cũng chỉ ghi được có 6 đảo, và cũng không biết tòan thể quần đảo có bao nhiêu đảo, nhưng năm  1933 có cử một hạm đội nhỏ ra gắn các chai đụng văn bản xác lập chủ quyền vào cột xi măng xây trên mỗi đảo, kéo cờ Pháp lên. Cao Uỷ Pháp cố vấn cho chính phủ Bảo Đại, cũng như Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại coi Trường Sa là lãnh thổ Pháp, ngay cả vào sau này, trong thời gian chính phủ Ngô Đình Diệm, đã tuyên bố vào năm 1956 là cả Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Pháp, khiến chính phủ Ngô Đình Diệm phẫn nộ. Nhưng thực ra thì Pháp trước đó, qua nghị định số 4762 ngày 21-12-1933 của thống đốc Nam Kỳ Krautheimer,  đã  sát nhập Trường Sa vào Bà Rịa, Nam Kỳ, là thuộc địa Pháp. Như vậy có thể nói khi Pháp trả thuộc địa Nam Kỳ cho Việt Nam, thì theo nguyên tắt thừa kế quốc gia, Trường Sa đã thuộc chủ quyền Việt Nam. Năm 1938, Pháp lập bia chủ quyền và trạm vô tuyến ở đảo Itu-Aba.
         
          Như vậy cho đến khi kết thúc Thế chiến I I, việc thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh thuộc địa An nam, tuy muộn màng, nhưng không gặp phản đối của nước nào.
         
          Việc tranh chấp chủ quyền sảy ra nhiều hơn từ các năm sau Thế Chiến II, giữa một bên là Pháp (nhân danh Việt Nam), Việt nam và bên kia là Trung Hoa Dân quốc và Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 1946, Quân đội Nhật rút khỏi  Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp  trở lại và Cao Uỷ Đông Dương D'Argenlieu cử chiến hạm l'Escarmouche ra đảo Hoàng Sa (Pattle); nhưng Trung Hoa Dân Quốc cử 4 chiến hạm đến Trường Sa. Pháp phản đối và yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm mà họ không rút. Năm 1949, chính phủ Bảo Đại được lập ra và hoàng thân Bửu Lộc khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hải đảo. Khi lục địa Trung Quốc rơi vào tay Mao, quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Hoàng Sa và ngày 14/10/1950 Pháp chính thức chuyển giao quyền về Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại, đại diện bởi Thủ Hiến Trung Phần, trong buổi lễ tại Hoàng Sa. Tại Hội Nghị San Francisco 1951 có 51 quốc gia tham dự để ký hoà ước với Nhât, ngoại trưởng Liên sô Gromyko đưa ra bản tu chính để nói Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung  Hoa đối với Hoàng Sa, nhưng Hội nghị bác. Khi Thủ Tướng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam thì không có đại biểu nào trong Hội nghị phản đối. Tuy Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không tham gia Hội Nghị, ngoại trưởng Chu Ân Lai ra thông báo về dự thảo Hiệp ước là Trung Quốc đã có các quyền lâu đời về các quần đảo. Nhưng thực tế là vào năm 1950 và sau đó, tại Hoàng Sa và Trường Sa chỉ còn quân trú phòng của chính phủ quốc gia Việt Nam,tuy cũng có những sự cố như Đài Loan có gửi tầu chiến đến đảo Itu Aba vào năm 1956.
          
          Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam quy định là HS và TS ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đạt dưới quyền quản lý hành chính của  chính quyền Miền Năm.
         
          Từ 1956 đến 1975, có nhiều cuộc lấn chiếm của các bên. Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu của Việt Nam Cộng Hòa khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa và quân đôi Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng  các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, trong đó có  đảo Hoàng Sa (Pattle) và một số  đảo chính của quần đảo Trường Sa và Tổng Thống Diệm ký sắc lệnh quy định Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa mà tên mới là Phước Tuy.  Nhưng tháng 10, 1956 hải quân Đài Loan chiếm đảo Itu-Aba là đảo lớn nhất ở Trường Sa. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chiếm đảo Phú Lâm (Boisê), đảo lớn nhất của Hoàng Sa. Săc lệnh 1961 của Tổng Thông VNCH sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sáp nhập Trường Sa vào xã Phước Hải, tỉnh  Phước Tuy--nhưng tháng 1.1974 Trung Quốc tuyên bố việc sáp nhập ấy là lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc, và VNCH bác bỏ lời tuyên bố đó.
        
          Ngày 15/1/1974, Trung Quốc điều động hải quân (mà ngụy trang là tầu đánh cá)  có phi cơ yểm trợ. VNCH gửi đến Hoàng Sa các tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, khu trục hạm Trần Khánh Dư, và hộ tống hạm Nhật Tảo, cho tóan biệt hải đổ bộ lên hạ cờ Trung Quốc. Súng nổ trên đảo Duncan và một đảo khác. Ngày 16/1/1974, VNCH  bác bỏ luận cứ của Trung Quốc và  xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo. Cuộc hải chiến sảy ra ngày 19/1/1974. Chiến hạm Nhật Tảo bị bốc cháy rồi chìm, một số chiến hạm bị hư hại và một số binh sĩ Việt Nam bị bắt hay mất tích; nhưng Trung Quốc bị chìm hai chiếc chiến hạm và cháy hai chiếc. Mỹ không can thiệp mặc dầu được yêu cầu.
           
          Sau đó đại biểu VNCH tố cáo Bắc Kinh tại hội nghị luật biển ở Caracas và hội nghị khác. Ngày 14/2/ 1975, Bộ Ngoại Giao VNCH công bố Sách Trắng về  Hoàng Sa và Trường Sa.
         
          Cuộc chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ hải quân VNCH trong cuộc hải chiến năm 1974 (mà ngày nay trong nước Việt Nam cũng phải công nhận là những người ái quốc mà không gọi là nguỵ quân) cùng vói các lời phản đối của chính phủ VNCH ngay sau đó và năm sau, là những đóng góp quan trọng cho việc xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, chiếu theo luật quốc tế đã nói, " liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền".
         
          Sự đóng góp này càng quan trọng để chống lại luận cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn Công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng để nói rằng ông Đồng đã công nhận chủ quyền Trung quốc trên các lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc nói ông Đồng ra công hàm ủng hộ Trung Quốc, tiếp theo lời tuyên bố của Chu Ân Lai xác nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc và cách tính chiều rộng lãnh hải từ lục địa và các hải đảo. Nhưng có thể bác luận cứ của Trung Quốc như sau : (a) quan trọng nhất, Hiệp Định Geneva trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa  phải thuộc thẩm quyền chính phủ Miền Nam Việt Nam, và chính phủ này cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974, còn ông Đồng, chỉ đại diện miền Bắc Việt Nam lúc đó, không có thẩm quyền tuyên bố gì về Hoàng Sa và Trường Sa vào thời điểm đó; (b) Một bản tuyên bố (declaration) không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là  Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế (Điều 38 Quy chế Toà Án  Quốc Tế không công nhận lời tuyên bố trở thành luật quốc tế) và do đó không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc như luật quốc tế. Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Đối với quốc gia của nhà ngoại giao đã ra tuyên bố suông, thì quốc gia ấy có thể coi đó như lời tuyên bố vô tội vạ của một chính khách, nhứt là quốc gia ấy vẫn còn có tư cách để ký hiệp định ràng buộc, với sự phê chuẩn của quốc hội, thì lời tuyên bố là thừa, vì quốc gia đã có thể dùng biện pháp ký hiệp định để nói rõ ý định của mình ; (c) Và dù có ký hiệp định ràng buộc về Hoàng Sa và Trường Sa đi nữa , thì cũng có thể hủy bỏ hiệp định đã ký theo luật quốc tế   (theo nguyên tắc rebus sic stantibus, tình trạng thay đổi thì thay đổi luật),và cũng như theo luật hiến pháp của một nước;  ở Việt Nam thì theo điều 84 Hiến Pháp,  quốc hội có quyến hủy bỏ hiệp định đã ký kết nếu thấy hiệp định không còn thích hợp với quyền lợi quốc gia. (d) Xét về nội dung, công hàm của ông Đồng được giải thích lại bởi nhiều giáo sư luật và ông Lưu Văn Lợi , cố vấn  bộ Ngoại Giao Việt Nam, nói rằng Công hàm đó chỉ nói công nhận 12 hải lý lãnh hải mà ông Chu Ân Lai tuyên bố cho Trung Quốc, chứ không nói công nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.  Sau này, Việt Nam sau khi thống nhất cũng xác nhận lại quan điểm là Việt Nam vẫn có chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa trong nhiều văn kiện, dùng lại cả các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam Cộng Hoà tại miền Nam đã đưa ra.  

          Giữa một bên là Trung Quốc vẫn nói tới tình hữu  nghị với Việt Nam và vài quốc gia Đông Nam Á, và một bên là Việt Nam thống nhất  sau 1975, vẫn tiếp tục tranh chấp về chủ quyền trên các quần đảo. Trong các năm 1978,1979,1980, 1981, 1982, 1984,  1988,1990, 1991, Việt Nam đã đưa ra các bằng chứng xác lập chủ quyến tại Hoàng Sa và Trường Sa (sách trắng 1979 và  1981 dùng lại nhiều tài liệu của VNCH ), bác bỏ các lập luận của Trung Quốc và Phi luật Tân và Mã Lai, và phản đối, nhất là năm 1988 khi Trung Quốc tiến chiếm mấy đảo đá ngầm và giết hại các lính hải quân Việt Nam (20 bị thương và chết, 74 mất tích) dù họ  không mang khí giơí vì chỉ đi tiếp tế cho bạn đồng đội. Cũng trong năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm nhiều bãi đá ngầm. Và đến năm 1989 họ đặt bia chủ quyền trên các bãi đá ngầm đó (điều này không được luật quốc tế công nhận).

          Cũng trong năm 1988, Việt Nam phản đối Quốc hội Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam, và lại công bố sách trắng. Năm 1989, Trung quốc chiếm thêm một số đảo nhỏ. Năm 1990, cho nhiều tầu quân sự, tầu kháo sát và tầu đánh cá đến tại Trường Sa và Việt Nam phản đối. Năm 1991, bình thương hoá ngoại giao. Sau năm bình thường hoá ngoại giao với Trung Quốc, mỗi khi Trung Quốc vi phạm thềm lục địa,vùng đặc quyền kinh tế, thì Việt Nam đều phản đối. Đến năm 1994 lại phải phản đồi sự vi phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế bởi Trung quốc nhân vụ Crestone.
          
          Tuy chế độ Việt Nam hiện nay có ra các bản tuyên bố hay bạch thư, phản đối các hành động lấn chiếm của Trung Quốc, để bảo vệ chủ quyền, nhung có vài vụ trong quá khứ đáng bị phê bình là qúa yếu khi đối diện với Trung Quốc: không phản đối gì khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa 1974, hoặc cấm sinh viên , thanh niên biểu tình chống Trung Quốc mấy năm gần đây; hay lời tuyên bố không suy nghĩ chín mà ủng hộ Trung Quốc của Ông Phạm Văn Đồng vào năm 1958.
         
          Riêng về con số đảo tại quần đảo Trường sa (các đảo trải rất rộng và rất xa nhau) mà Việt Nam có thể đòi (con số hiện nay là 29 hay 21, tùy theo đã trừ đi mấy đảo đá ngầm đã bị Trung quốc lấn chiếm xây nhà và căn cứ, tổng cộng Trung Quốc chiếm 16 đảo) còn lại bao nhiêu đảo khác do các nước khác nữa đã chiếm và thực sự nắm giữ, như Đài Loan (1), Phi (7 ), Mã Lai (1-2), Nam Dương (2), --thì phạm vi của chủ quyền Việt Nam phải bàn lại kỹ hơn trong sự thương lượng với các nước ấy để có một mặt trận thống nhất của ASEAN đương đầu với Trung Quốc.  Để tránh sự phản đối của Trung Quốc, vốn tham lam nhận vơ tất cả Trường Sa, là "sao Việt Nam tự nhận quyền ban phát chủ quyền cho các nước hay sao, mà dám nói đảo này đảo kia thuộc các nước ASEAN ?" và một cách để tạo thành một thế liên minh với các nước ASEAN để đưong đâu với Trung Quốc, thì phải khách quan công nhận cho ASEAN những đảo nào mà họ đã chiếm ngụ lâu đời và Việt Nam chưa hề lui tới, và Việt Nam  chỉ nên tuyên bố một cách mập mờ vào lúc này theo kiểu ngoại giao khôn khéo là: chủ quyền Trường Sa thuộc về Việt Nam, mà phạm vi chưa xác định vì chưa nói đến chủ quyền của các nước khác, nhưng quy tắc ứng xử là giữ nguyên trạng mà không lấn chiếm, và luôn luôn tìm giải pháp hoà bình, theo luật quốc tế.
           
Các đảo Hoàng Sa đã thực tế mất về Trung Quốc, và có thể là Trung Quốc đi tìm dầu khí phiá bắc Biển Đông không thấy có dầu mà  chỉ có nhiều các cục kim lọai (nodules) dưới lòng đáy biển (như Hãng thăm dò Geophysical Service, Inc. đã cho văn phòng luật sư của chúng tôi tại Saigon trước 1975 biết), và ngay từ trước 1975, các hãng dầu thăm dò ở Biển Đông mà chúng tôi làm luật sư đại diện, như CalTex, Mobil, Marathon, Shell, Sun Oil, đều hướng về phía nam Biển đông--vùng Trường Sa--để xin thầu các lô khai thác-- cho nên chắc là Trung Quốc hướng lòng tham của họ về tài nguyên (nhất là dầu khí rất cần cho kinh tế của họ) ở vùng Nam Biển Đông, tức là  vùng rộng lớn của Trường Sa. Trung Quốc, giữa thập niên 1990, không hề tìm ra một giếng dầu lửa nào trong số 80 đến 100 giếng dầu trong Biển Đông, trong khi đó thì Việt Nam, vào thời ấy, mỗi năm sản xuất  35 triệu thùng dầu thô từ các khu tranh chấp ở phía nam Biển Đông. Hiện nay, nhu cầu dầu lửa của Trung Quốc lại tăng gấp bội vì nền kinh tề phát triển mạnh. Việc bảo vệ qưyền lợi quốc gia của Việt Nam ở phía nam Biển Đông, vùng Trường Sa, trong sự tôn trọng hoà bình và luật quốc tế, thì ngoài sự chuẩn bị thế mạnh nội lực, như nói ở trên, còn phải có sự ủng hộ của nhiều nước Đông Nam Á cùng với các cường quốc khác, nhất là Mỹ để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc. Ngoài việc toan sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào một huyện tỉnh Hải Nam, năm 2007 và 2008, Trung Quốc cố ép hãng dầu BP của Anh và Exxon-Mobil của Mỹ phải rút lui khỏi việc làm ống dẫn khí trong vùng biển Vũng Tầu và thăm dò lô khai thác mới trong thềm lục địa Việt Nam ở phía nam Biển Đông. Theo tin ngày 23 tháng 7, 2008 của Tờ báo South China Morning Post thì các nhà ngoại giao của Trung Quốc tại Thủ Đô Mỹ Washington D.C. đã liên tục vận động với công ty ExxonMobil của Mỹ, yêu cầu ngưng cộng tác với Việt Nam trong dự án khai thác dầu lửa ở Biển Đông Hải, vì cho rằng hai phía Việt Nam và ExxonMobil đã cộng tác trong nhiều năm trước đây nhằm thăm dò trữ lượng dầu để tiến đến việc khai thác trong tương lai.  Việc Trung Quốc vận động này sảy ra cả nhiều tháng trước cuộc gặp gỡ giữa Thủ Tướng Nguyễn  Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush ở Mỹ tháng 6, 2008  trong đó Bush tuyên bố Mỹ bảo đảm an toàn lãnh thổ cho Việt Nam.  Nhưng trong tháng 7, 2008 thì những vận động ngầm này mới được công khai hóa bởi nhiều báo Trung Quốc. Theo đài BBC thì tờ Văn Hối  ở Hồng Kông, phản ảnh quan điểm của nhà nước Trung Quốc, đã cho đăng một bài báo với những lời lẽ nặng nề, rằng: "Việt Nam đã làm lộ rõ mong muốn thực hiện ước mơ khai thác dầu ở Nam Hải, nhờ sự giúp đỡ của một công ty Mỹ”… " và lợi dụng sự hung hăng của Mỹ trong vụ này"   nhắc lại câu nói của Đặng Tiểu Bình hồi  năm 1979 là "dậy cho Việt Nam một bài học" để đưa ra lời đe dọa: "Trung Quốc cần giảng cho Việt Nam một bài học về thế nào là đồng thuận".  ExxonMobil  phản ứng  cứng rắn hơn  so với British Petroleum (BP) hồi năm 2007 (BP tạm ngưng), tuyên bố rằng chưa ký hợp đồng khai thác nào với Việt Nam, nhưng khu vực mà ExxonMobil nhắm hợp tác thăm dò và lượng giá đều nằm trong vùng lãnh hải của Việt Nam.

Trong vùng Trường Sa phía nam Biển Đông, Trung quốc đã có một chủ trương "được đằng chân [Hòang Sa] thì lân đằng đầu [Trường Sa]" như ta thấy trong bao nhiêu hành động lấn át trong nhiều năm từ trước cho tới nay, ngay cả với nước Việt Nam cùng theo một chủ thuyết trị nước.  Tháng 10/1987 hải quân Trung Quốc tập trận lớn ở vùng Trường Sa. Tháng 03/1988 quân đội Trung Quốc tấn công chiếm giữ 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, làm thương vong nhiều chiến sĩ Việt Nam. Năm 1989 Trung Quốc chiếm thêm một số đảo Trường Sa. Ngày 25/02/1992 Trung Quốc công bố đạo luật về lãnh hải, xác định chủ quyền đối với toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa. Tháng 05/1992 Trung Quốc cho công ty Crestone thăm dò dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam, trong một khu gọi là Wan’ An Bei, cạnh mỏ dầu Đại Hùng. Tháng 07/1992 Trung Quốc chiếm đóng thêm một số hòn đảo Trường Sa để hỗ trợ công ty Crestone. Năm 1993 một cuốn sách xuất bản tại Trung Quốc đã công bố chiến lược “nhanh chóng…đánh đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa” (tức Trường Sa ). Năm 1994 Trung Quốc tuyên bố giành chủ quyền tại mỏ dầu Thanh Long (Blue Dragon) của Việt nam, nhắc lại là khế ước giữa Việt Nam và Mobil là vi phạm chủ quyền Trung Quốc và còn dùng hải quân chặn không cho tầu Việt Nam tiếp liệu cho một dàn khoan.
.
CẦN CHUẨN BỊ HỒ SƠ PHÁP LÝ ĐỂ ĐƯA RA TÒA ÁN QUỐC TẾ HAGUE, TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN VÀ ĐẠI HÔỊ ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC, VÀ NGAY CẢ HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HIỆP QUỐC, NẾU CÓ VI PHẠM ÀO ẠT QUYỀN DÂN CHÀI.
           
       Việc chuẩn bị hồ sơ pháp lý có lợi là, dù có gặp quyền phủ quyết của Trung Quốc tại Hội đồng Bảo an hay việc Trung Quốc không ưng thuận nhận thẩm quyền Toà án quốc tế, thì hồ sơ đầy đủ  của Việt nam cũng là một khí giới đánh động dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam , trước các cơ quan chính trị quốc tế hay báo chí, truyền thông và đại chúng,  vì Việt Nam, vốn yếu hơn Trung Quốc về quân sự, cần vận dụng pháp luật là khí giới tốt nhất của kẻ yếu nhưng có lẽ phải.
            Các cơ quan tài phán
          Tòa án Quốc Tế tại Hague, Hà Lan.  Tòa này có hai loại thẩm quyền: (a) thẩm quyền nhiệm ý, để đưa ra các bản ý kiến khuyến cáo (advisory opinions) do Liên Hợp Quốc hay các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc yêu cầu cung cấp; và (b) thẩm quyền bó buộc (compulsory jurisdiction), chiếu theo điều khoản nhiệm ý (optional clause) mà quốc gia liên hệ đã chấp nhận, để yêu cầu Toà đưa ra các phán quyết có hiệu lực bó buộc để giải thích các hiệp định, hay quyết định về một vấn đề quốc tế pháp hay vấn đề có sự việc vi phạm thỏa ưóc quốc tế hay không, và bồi thưòng nếu có vi phạm.
Nếu Trung Quốc ký nhận điều khoản nhiệm ý công nhận thẩm quyền bó buộc của Tòa án Quốc tế, thì Việt Nam có hy vọng thắng và bó buộc Trung Quốc phải thi hành án, với các lập luận và căn bản pháp lý chắc chắn về chủ quyền của Việt Nam trên các hải đảo (theo quốc tế pháp truyền thống về khám phá và quản lý liên tục). Còn nếu cường quốc đó ngang ngạnh không nhận thẩm quyền bó buộc của Toà án, thì chỉ có thể xin một ý kiến khuyến cáo của Tòa án. Việc xin ý kiến khuyến cáo này, Việt Nam có thể nhờ Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, trực tiếp hay gián tiếp qua Hoa Kỳ và một số quốc gia ven Biển Đông, nhưng nếu Trung Quốc đe dọa dùng quyền phủ quyết ở đó, thì có thể nhờ một cơ quan của Liên Hợp Quốc như Uỷ Ban Pháp Luật hay ngay cả Đại Hội Đồng.
          Toà án Quốc tế về Luật Biển (Internatinal Tribunal for the Law of the Sea ITLOS, thành lập 1997) và Uỷ Hội Quốc Tế về Ranh Giới Thềm Lục Địa cũng là những cơ quan có thể xét về mặt pháp luật các tranh chấp về quyền lợi ngoài biển cho Việt Nam.
          Các cơ quan chính trị
          Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc:  là cơ quan mà Việt Nam có thể vận dụng dư luận quốc tế để có sự ủng hộ qua các nghị quyết (resolutions) với đa số quốc gia ủng hộ, Trung Quốc không phủ quyết được. Trong lịch sử Liên Hợp Quốc, đã rất nhiều vấn đề gay go được giải quyết bằng nghị quyết có tính khuyến nghị của Đại Hội đồng.
          Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Việc đưa vấn đề tranh chấp  ra Hội đồng Bảo an thì còn gặp khó khăn khác là chỉ có thể đưa ra nếu có đe dọa hoà bình và an ninh thế giới trong vùng Biển Đông, nghĩa là sắp hay đã có nổ súng xung dột. Nhưng một trường hợp khác mà các lực lượng hay tổ chức phi chính phủ, với quốc gia hội viên, có thể vận dụng Hội đồng Bảo an, là khi có sự vi phạm nhân quyền ào ạt (massive violations of human rights); thí dụ như khi quyền sống của đa số dân chài Việt Nam trên Biển Đông (tức là có vi phạm nhân quyền ào ạt và thô bạo) thì đó là cơ hội đưa vấn đề ra Hộì đồng Bảo an.
          Các cơ quan vùng như các hội nghị các cấp của ASEAN. Đây các diễn đàn để lôi kéo sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã lôi kéo đươc các nước ASEAN trong tháng 7 tại Hà Nội và  tháng 9 tại New York là một thí dụ về việc vận dụng chính trị và pháp luật để đối phó với cường lực của bá quyền. Việt Nam có thể  đưa ra quan điểm của mình,  ra các hội nghị cấp cao ASEAN cộng, trong đó có thể gồm thêm các cường quốc Mỹ, Nga, Trung Quốc và các nước khu vực như Ấn Độ, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn. 
Nguồn: Tác giả-Tạ văn Tài


Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là chiến lược “Toàn cầu hóa của các cường quốc”: Toàn cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
Thiện Ý
Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/tham-canh-cuoi-cung-ket-thuc-mot-qua.html

Người dân VN vô cảm, hèn nhát, trách nhiệm thuộc về ai nước nếu mất?

Tình hình chung và ý thức của người dân 
Trước tình thế dầu sôi lửa bỏng, đất nước sắp mất về tay giặc Tàu phương Bắc, mà đa số người dân VN, từ trí thức đến giới bình dân, từ đạo đến đời, thờ ơ lãnh đạm như không biết gì, hoặc có biết mà vẫn trơ trơ không nhúc nhích! Hoặc vì họ mải mê lo miếng cơm manh áo, hoặc họ không quan tâm, hay có quan tâm nhưng chẳng biết mình phải làm gì, do sợ “đụng chạm” đến nhà cầm quyền, sợ bị bắt bớ hay gây khó khăn cho công việc làm ăn!
Các vị lãnh đạo các tôn giáo thì cũng vin cớ “tu hành không lo việc chính trị” mà bỏ mặc thời cuộc nhiễu nhương cho “người đời”! Chùa nào, nhà thờ, dòng tu nào bị nhà nước lấy thì những vị trụ trì tại đó tự lo! Giới trí thức cũng tìm sự yên ổn cho riêng mình, chỉ còn lại chí ít người có tâm mới còn gắn bó với dân nước đôi phần! 
Nhiều người dân thì sớm tối lo làm ăn sinh sống, thậm chí còn tiếp tay với bọn giặc xâm lăng để đầu độc dân tộc Việt bằng cách buôn bán hàng hóa độc hại của Tàu cộng vì lợi nhuận, dù họ biết rất rõ! Còn những người ở miền quê, những người không có cơ hội tiếp cận với những nguồn tin tức “lề dân” thì càng mù tịt về thời sự! 
Thật đau lòng! Sự thể như thế này vì đâu? Ai là người có trách nhiệm? Và chúng ta phải làm gì? Đó là những vấn nạn phải giải quyết gấp rút, nếu chúng ta không muốn bị mất nước và làm nô lệ Tàu trong chỉ một năm tới! 
Tại sao nhiều người VN bây giờ mê muội và hèn nhát? 
Ý thức về lòng yêu nước, trách nhiệm với non sông, với thế hệ tương lai, và bổn phận bảo vệ tổ quốc, đồng bào, tôn giáo…, chỉ có được do một nền giáo dục đúng đắn đem lại. Nhưng đã gần 80 năm ở miền Bắc và 43 năm ở miền Nam, bao thế hệ già trẻ chúng ta bị CS tuyên truyền nhôì nhét cho về chủ thuyết tam vô: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo, thậm chí còn tiêu diệt lòng yêu nước, để quảng bá chủ nghĩa “quốc tế vô sản”. Tà quyền CSVN hiện đang bán nước cho Tàu cộng, họ đã dùng thủ đoạn tuyên truyền man trá và áp đặt, nào VN với Tàu là “tình đồng chí môi hở răng lạnh”, nào “4 tốt 16 chữ vàng”, nào là “chống Tàu không tốt”…! Nhiều người dân đã phản kháng kịch liệt những luận điệu bán nước thô bỉ này, nhưng kẻ cầm quyền đã dùng bạo lực, nhà tù, giết chóc, khủng bố, đối với những người có tinh thần yêu nước và dấn thân phục vụ! Hiện có hàng trăm hàng ngàn tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, là những người bất đồng chính kiến với tà quyền, chống Tàu để bảo vệ đất nước, khiến đã làm tan biến hết tình yêu tổ quốc thiêng liêng cao đẹp trong lòng người dân! Nền giáo dục vô đạo của CS đã gieo rắc tính ích kỷ, tham lợi, cùng với việc họ tạo nên cảnh đói nghèo tràn lan, khiến đại đa số người VN bây giờ trở nên hèn nhát và vô cảm, chỉ biết lo cơm áo gạo tiền, lo nhà cửa xe cộ, lo sống hưởng thụ mà không còn biết đến trách nhiệm với quốc gia xã hội! Còn nền giáo dục đầy nhân bản của miền Nam trước 1975 thì đã nhạt nhòa với thời gian, nhiều người cũ đã bỏ nước ra đi, kẻ ở lại thì già yếu, người trẻ sinh ra sau khi mất nước thì bị CS nhồi nhét cho những tư tưởng vô thần duy vật, và ảo tưởng rằng chế độ CS là ưu việt, là “thiên đường trần gian”, nên trở thành u mê chẳng khác dân Bắc Hàn, cứ tưởng mình đang sống hạnh phúc nhất thế giới! 
Tóm lại, do sự bị bưng bít và tuyên truyền xảo trá, do nghèo đói ít học, do không được giáo dục những giá trị đạo đức như lòng yêu thương vị tha, tinh thần trách nhiệm, lý tưởng cao đẹp, và do sợ hãi quá mức, mà dân VN ngày nay mới ra đê hèn vô cảm như vậy! 
Các “trí thức XHCN” cũng chỉ được học một ít kiến thức què quặt phiến diện, chứ có bao giờ họ được trau dồi về nhân cách, nhân bản, đạo đức, nghĩa khí, sự hướng thượng! Ngay cả giới tu hành trong chế độ CS cũng được đào tạo trong khuôn khổ giáo dục đó! Nếu không có một tâm hồn cao thượng khác thường, thì họ cũng sẽ trở thành những người hèn yếu, thiếu trách nhiệm, thích an thân thủ phận, thậm chí ích kỷ chỉ biết mình, chỉ lo cho giáo xứ, chùa chiền của mình. Nếu có dịp tìm hiểu, chúng ta sẽ giật mình khi thấy động lực tu hành của không ít người, họ chọn đi tu như một nghề để kiếm sống, và để có được một vị thế cao trọng hơn những người khác! Với động lực đó, họ sẽ không dám dấn thân vì sợ vuột mất cái địa vị và quyền lợi đang có! Thật đau lòng khi phải nói lên thực trạng này, vì chúng ta cũng là người có tín ngưỡng, mà phải nhìn thấy sự sa sút đạo đức ở những người dẫn đường cho mình! Bởi thế cũng không lạ khi xã hội xuống dốc, với lối sống vị kỷ hẹp hòi, kém cỏi về tâm hồn, và vô cảm trước cái khổ của bao người cũng như của đất nước! Tại sao thời trước năm 1975 tại miền Nam, dù nhiều người học cũng ít, nhưng họ có lý tưởng lớn, nghĩa khí cao? Đó là nhờ một nền giáo dục đầy nhân bản và tâm linh, từ gia đình đến học đường đều cố gieo rắc tình thương yêu, ý thức trách nhiệm và lòng bao dung. Trong xã hội bây giờ muốn tìm tiến sĩ, giáo sư thì nhiều như rác, nhưng muốn kiếm một người có trách nhiệm cao, có lòng quảng đại bao dung và hiến thân cho đời thì rất hy hữu hiếm hoi, và trước mắt đa số quần chúng, họ bị coi như những kẻ dở hơi, khờ dại, ăn cơm nhà vác ngà voi! Cá nhân chủ nghĩa phổ biến đến độ khó mà có sự đoàn kết nhất tâm lo việc chung, ở cộng đồng người trong nước cũng như ngoài nước! Ai cũng chỉ có cái TÔI là số một, nếu hòa mình với mọi người thì sợ mình mất nổi, mất lợi, mất tiếng! Thời xưa nếu có biến loạn thì toàn dân nổi lên đồng tâm chống giặc để bảo vệ làng xóm, quê hương, còn ngày nay giặc đã vào nhà, đang cỡi cổ đè đầu, đang đem cả nước cả dân đi bán cho Tàu làm nô lệ, thì mọi người cúi đầu cam chịu, hay ngồi yên chờ vào rọ, hoặc thấy chưa ảnh hưởng tới mình thì thây kệ! Ôi! Thật khốn cho đất nước, và thật nhục cho dân tộc VN ta! 
Nhận định về những cá nhân, nhóm, tổ chức làm “cách mạng” hiện nay 
Trước tình thế sĩ phu què cụt, anh hùng vắng bóng, dân chúng u mê yếu hèn, và các tôn giáo vô trách nhiệm, thì nước mất nhà tan là chuyện phải đến! Cũng còn chút may mắn, là còn có những người không thể ngồi yên trước cảnh xã hội vô pháp, nhiễu nhương, và nô lệ gần kề, nên họ đã lên tiếng. Đó là những cá nhân “tự phát” ở cả trong và ngoài nước, lên tiếng về những bất công, nghịch lý cũng như cảnh giác cho dân việc bán nước của tập đoàn cầm quyền CS, và đưa những tin tức thời sự nóng bỏng để cảnh tỉnh sự u mê của người dân, sự ngủ quên của tôn giáo và trí thức, bằng những livestreams của cá nhân hay của nhóm! Nhiều người đầy thành tâm nhiệt huyết, nhưng cũng lẫn lộn xen vào những kẻ muốn lợi dụng việc nước để tô điểm, giới thiệu, phô trương cá nhân, từ những lối phục sức, những cách nói năng phản cảm! 
Nhưng nếu chỉ với tư cách cá nhân thì những người thiện chí này sẽ làm được gì, nếu họ không quy tụ lại, hợp quần để gây sức mạnh, và thành một khối duy nhất, có một người tài ba lãnh đạo, theo một đường lối chung thống nhất? Cá nhân tự phát thì sẽ dễ dẫn đến sai lầm vì trăm người trăm ý, ai thích sao nói vậy, ai muốn gì làm nấy, dù họ có đầy thiện chí, nhưng không được hướng dẫn và phân công phân nhiệm bởi một lãnh đạo có tài, đức. Thậm chí có người dùng lời chửi bới khiếm nhã làm vũ khí chống cộng, hoặc dùng những lời trù ẻo, tụng niệm mà văng tục, hỏi thần thánh nào nghe nổi họ và theo ý của họ mà tiêu diệt cái ác, kẻ bạo tàn? “Khai dân trí” hay “u mê hóa dân trí”, mà kéo lôi dân tin vào những lời trù dập rủa thả để CS sẽ bị triệt tiêu sao?! Có người đưa cái tôi lên làm tâm điểm bất khả xâm phạm, ai mà dám “xúc phạm” thì sẽ… biết tay, sẽ lãnh hậu quả! Họ không nhận ra rằng hình thức đó sẽ rất phản cảm, chỉ làm thiệt hại cho các phong trào tranh đấu, và làm giảm giá trị của cá nhân họ! Nếu có lôi cuốn được người nghe, thì chỉ là một số người bình dân đang quá khổ đau bức xúc, cho họ cơ hội xả stress, chứ không thể làm một cuộc đổi thay đất nước! Không ai đi làm cách mạng bằng cách xưng cái tôi độc tôn của mình ra mà lôi kéo thuyết phục được người cùng chí hướng! Không một cuộc cách mạng nào phải dùng đến những câu nói thô tục bẩn thỉu mới đạt được mục tiêu! Cũng không có “nhà cách mạng” nào phải ăn mặc hở hang khoe thân mình khi nói chuyện với công chúng, để kêu gọi lòng yêu nước thương nòi! Làm như thế vô tình hạ thấp giá trị công việc ta làm, biến việc quốc gia đại sự thành chuyện tư riêng, và không khỏi khiếm lễ với người nghe mình! Những người muốn làm chính trị vì ái quốc, hãy nhìn xem gương của những người đi trước, gần nhất với chúng ta như Cô Giang, Cô Bắc là những thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, những vị nữ anh hùng này đã vì nước quên thân mình, lau phấn son đi tô điểm sơn hà, sánh vai cùng nam nhi bôn ba mà cứu quốc! 
Nói thế không có nghĩa là chúng ta không trân trọng những cá nhân tham gia việc nước theo lòng tự nguyện, nhưng chỉ xin các vị hãy điều chỉnh một chút phong cách nói nang cử chỉ và trang phục của mình khi làm livestream, nếu quý vị muốn được kính trọng. Trong công cuộc chung, cũng rất cần có sự góp mặt của những nhà ái quốc tự phát này, để “trăm hoa đua nở”, trăm bàn tay cùng khuấy động một sự yên tĩnh đáng sợ, như trong đêm trường tịch mịch, của tình thế nguy nan hiện nay! 
Ngoài ra, cũng không thể quên nhắc đến những tinh hoa, những con yêu của đất nước, là những người trẻ có nghĩa khí, đầy lòng ái quốc và can đảm dấn thân, nhưng họ chưa hội đủ điều kiện về tuổi tác, về kinh nghiệm đấu tranh, về khả năng lãnh đạo và tổ chức, nếu họ chỉ một thân một mình, hay chỉ là một nhóm nhỏ nhoi! Ai ai cũng phải xót xa rơi lệ khi nhìn thấy em Nguyễn Viết Dũng một mình giơ cao ngọn cờ vàng, chụp lấy hình Dinh Độc Lập, hay dừng bên đường bờ kênh Hoàng Sa để hô lên những ước nguyện tâm huyết của mình, rồi chụp hình tung lên mạng! Ai mà không động lòng và hận tủi, khi thấy Hoàng Đức Bình với thân hình gầy yếu mỏng manh, bị bọn CA CS lôi ra khỏi xe và bắt đi hành hạ, chỉ vì em lên tiếng cùng với giáo dân Hà Tĩnh để phản đối Formosa xả độc! Ai có thể cầm lòng được khi nhìn Mẹ Nấm và hai con nhỏ đơn độc trên bãi biển, mẹ con đều dương biểu ngữ “HS-TS-VN!”, “Formosa cút khỏi VN”, hay Trần Thị Nga tay ôm ba đứa con nhỏ mà đi tranh đấu cho công lý tự do thay cho toàn dân, thay cho cả những nhà trí thức, và cả những vị lãnh đạo các tôn giáo mang danh là cứu đời! Họ là những người sẵn sàng hy sinh thân mình để mong tìm tự do, công lý cho tổ quốc, cho dân tộc, nhưng họ không thể làm nổi một mùa xuân, với những cánh én đơn độc như vậy! Thử hỏi họ có quy tụ được sức mạnh của toàn dân để lật đổ bạo quyền, đánh tan quân xâm lăng và bảo vệ được đất nước không? Nếu như lòng dân muốn theo thì theo ai? Ai lãnh đạo? Vũ khí đâu? Dân phải làm gì? Khi nào làm? Làm thế nào? Và ai sẽ bảo vệ cho dân nếu bị bọn cầm quyền đàn áp tấn công? 
Các tôn giáo, trí thức phải dấn thân, các tổ chức chính trị cần hợp lực để cứu quốc! 
Phân tích như thế để thấy sự thiếu vắng trầm trọng người lãnh đạo dân trong cuộc cách mạng cứu quốc này! Toàn dân đang mỏi mòn mong đợi ngày đêm, đến phải đổ lệ xót đau vì bặt hơi tăm cá những người tài đức và nhiệt thành dấn thân! Hỡi các vị anh hùng cứu quốc, các vị ở đâu, sao không ra mặt, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt không có! Suy đi nghĩ lại, kẻ làm việc đó không ai ngoài các vị lãnh đạo các tôn giáo và giới trí thức. Thiên thời, địa lợi đã sẵn, hỡi những người dân cần, dân chờ, hãy can đảm mà xuất đầu lộ diện, kẻo khi dân đã mỏi mòn kiệt sức, thì các vị có vực dậy cũng không được! Chỉ sợ khi các vị xuất đầu lộ diện, thì không còn niềm tin trong dân chúng, và đất nước đã tan đi trong tay quân thù! 
Các trí thức và các lãnh đạo tôn giáo cần phải được trang bị thêm một trái tim yêu thương, một lòng yêu nước, và một tinh thần quả cảm, một ý chí vững mạnh để dấn thân hành động. Và trước hết, các vị cần phải mở miệng, bất cứ ở nơi nào có thể, dù số người nghe ít hay nhiều, để nói cho dân về lịch sử haò hùng của dân tộc Việt, giảng dạy về lòng yêu nước và trách nhiệm của mọi công dân đối với tổ quốc, với giáo hội, xã hội, với tha nhân, cùng tình trạng nguy nan hiện tại. Chính các vị phải can đảm cất cao lời công chính, rao truyền sự thật, lẽ phải, nếu không thì VN bị mất nước, người dân bị nô lệ là không thể tránh khỏi! 
Chúng ta hãy “ôn cố tri tân”, hãy nhìn về quá khứ để biết việc phải làm trong hiện tại. Thời Pháp thuộc, các phong trào tranh đấu dành độc lập đã rất rầm rộ khắp mọi miền đất nước, và họ biết phân chia trách nhiệm cho từng nhóm, như cụ Phan Chu Trinh đã lập phong trào Duy Tân để khai dân trí, nâng cao ý thức cho người dân hầu hỗ trợ cho những lực lượng phục quốc bằng vũ lực. Cụ Phan Bội Châu đã thành lập phong trào Đông Du để đưa nghĩa quân ra nước ngoài học hỏi và vận động cho những phong trào hành động bằng quân sự, chính trị ở trong nước. Ngoài ra còn có phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục chuyên khơi dậy lòng yêu nước trong dân; nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì dùng văn chương, tiểu thuyết, để nâng cao dân sinh dân trí… Tất cả những trí tuệ và sức lực của các nhà trí thức đều phối hợp quy tụ lại để chuẩn bị và hậu thuẫn cho những nhóm dùng quân sự như Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, phong trào kháng chiến của Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) và nhiều nhóm nghĩa quân khác. Than ôi! Khi trước đất nước lâm nguy thì có hàng triệu trí thức ra tay, sĩ phu cả nước cùng vùng dậy xua đuổi giặc mà bảo vệ non sông, còn giờ này nước mất nhà tan cận kề rồi, mà trí thức VN lại ngủ mê và vô trách nhiệm, để gánh nặng non sông cho tuổi trẻ như Phương Uyên, Nguyễn Viết Dũng, Hoàng Bình, hay cho những thiếu phụ trẻ bên mình còn hai ba đứa con nhỏ mà đi đấu tranh như chị Quỳnh, chị Nga, trong khi các đấng nam nhi “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” lại rúc trong xó nhà, hay la cà các quán xá, các trà đình tửu điếm mà say sưa, hỏi có thể như vậy được không? Các “đấng mày râu” là cha, là chồng, là chú, là cậu, là bạn trai, anh trai hoặc em trai…, có dám để cho kẻ “nữ nhi thường tình” thay mình gánh vác giang san, như Hoàng Thanh Trúc đang lưu vong tại Mỹ, đã được đức lang quân cho phép và ủng hộ cho cô chuẩn bị làm một cuộc “cách mạng khỏa thân” của phụ nữ, để kêu gọi mọi người cũng như quốc tế lưu tâm giúp VN thoát khỏi Tàu cộng! Người chồng đáng quý của cô là một người Mỹ, đã đọc một đoạn tâm thư tự xưng là “rể nước Việt”, trước cảnh đất nước bị lâm nguy, anh đã đồng lòng với vợ để cứu nguy đất nước bằng tất cả những gì họ có thể, kể cả phải đem tấm thân mà dâng hiến cho tổ quốc VN! Nếu việc này xảy ra, những đấng “rường cột quốc gia” là con ruột của Mẹ VN sẽ có dịp so sánh tinh thần trách nhiệm với con rể xứ lạ, và còn “đổi ngôi” với phụ nữ, thay vì “cát đằng núp bóng tùng quân”, thì bây giờ “tùng bách” núp bóng cát đằng! 
Tại sao một nông dân chân lấm tay bùn như Cấn thị Thêu, lại dám một mình hiên ngang quát mắng bọn chó săn cướp đất của dân? Tại sao chỉ là một người phụ nữa ít học với hai đứa con còn tuổi ăn chơi, mà họ quy tụ được đông đảo đồng bào đến đầy nhà để cùng lên kế hoạch đấu tranh, trong khi các quý ông với đầy bằng cấp tiến sĩ, giáo sư thì miệng mở không ra, tay chân bất động, dùng “trí cao hiểu rộng” được bao thế hệ bồi đắp cho, chỉ để đi kiếm sống, mưu danh lợi nhỏ nhoi ích kỷ? Hỡi ôi VN tôi thời thế kỷ 21 văn minh tiến bộ là như vậy sao?! Xin hãy cho chúng tôi trở về với thời sơ khai lập quốc, để chúng tôi có những anh hùng, liệt nữ, để chúng tôi đi theo và tôn thờ, còn hơn phải sống với các đại gia, đại phu vô hồn vong bản hôm nay! Thế hệ này của chúng ta thật đúng là một thế hệ ăn tàn phá hại, và ăn cướp tương lai của các thế hệ mai sau, khi để lại cho con cháu một đất nước tan hoang với một đống nợ chất chồng, nhất là để cho nước VN phải xóa tên trên bản đồ thế giới! 
Thiết nghĩ những livestreams của các cá nhân lấy tên là “khai dân trí”, thực ra chỉ là những thông tin về một vài sự việc xảy ra, kèm với lời bình phẩm của cá nhân, không thể đủ để khai mở trí tuệ cho dân, mà việc lớn lao này phải do giới trí thức, giới lãnh đạo tôn giáo! Muốn làm việc “khai dân trí” phải có mục tiêu, có bài bản, có trình tự, từ giáo dục nhân bản cho đến gáo dục tình tự dân tộc, lòng yêu nước, trách nhiệm với tha nhân, xã hội, với non sông nòi giống, và từ đó kích lên tinh thần quả cảm, dấn thân, hành động… Phải có cả một chương trình, có nhân sự đủ trình độ để thực hiện chương trình đó, và có phương tiện phổ biến các tin tức nóng sốt đến người dân. 
Xin góp ý với các phong trào, tổ chức tranh đấu ở quốc nội cũng như quốc ngoại: thật thất vọng cho người dân chúng tôi, khi thấy các tổ chức chính trị lớn bé trong cũng như ngoài nước, ở hải ngoại còn có cả chính phủ lưu vong nọ hay lâm thời kia, mà người phát ngôn thì nói năng chưa chuyên nghiệp, chưa rõ ràng lưu loát, ai có khả năng gì thì dùng nấy, muốn nói gì tùy ý, người nghe không muốn nghe, thì làm sao quý vị thuyết phục được lòng dân? Lập được một chính phủ mà không có một tờ báo, một chương trình thông tin cho đại chúng, thì dân làm sao biết được các vị đang làm gì, định làm gì mà ủng hộ các vị? Khả năng ngôn ngữ, phương tiện thông tin thời nay là những mũi nhọn, là điều kiện tối thiết cho sự thành công, mà các vị còn không biết tận dụng thì đạt kết quả e khó khăn lắm, dù việc làm của các vị có tốt! Tại sao các vị không lấy kinh nghiệm từ CS, họ chỉ có lừa dối, không cần sự thật, không có lẽ phải, nhưng biết lạm dụng thông tin, ngôn ngữ mà họ lừa bịp, ru ngủ được hàng triệu người dân? Chúng ta có lẽ phải, sự thật, tại sao chúng ta lại thua CS? Chung quy là các vị thiếu những quân sư có tài! 
Các phong trào yêu nước, tổ chức cách mạng… ở ngoại quốc xin hãy đoàn kết và thống nhất lại, cùng tìm một hướng đi, cùng có một con đường hành động, chứ không thể xẻ nhỏ thành năm bè bảy phái mà thành công được! Có quá nhiều nhóm, nhiều tổ chức thì người dân biết theo ai, bỏ ai? Xin quý vị hãy vì nước vì dân thật lòng, bằng cách kết hợp thành một khối, có một bộ đầu não tài giỏi làm tham mưu, cùng tìm ra một con đường, có chung một tiếng nói, và kết hợp với người trong nước. Các vị thì giữ nhiệm vụ vận động quốc tế, thông tin và hỗ trợ cho trong nước, thêm kiến thức về luật pháp, khoa học, sáng kiến cho người trong nước, phân công phân nhiệm với trong nước để hành động, thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công trong việc xóa bỏ CS và giải phóng đất nước, chống quân xâm lăng Tàu cộng. Nên bớt đi những buổi hội họp, phô diễn hình thức, nhất là những tỵ hiềm, đánh phá và phê phán nặng nề lẫn nhau, chỉ làm lợi cho kẻ thù, và kéo dài sự khổ đau của người dân trong nước. Các vị đang sống ở nơi bình yên, nhưng cũng đừng vì thế mà mê mải an vui tự tại, không để tâm đến tình trạng dầu sôi lửa bỏng trong nước. Một năm, mười năm với quý vị không là gì, nhưng với người đang bị gông cùm xiềng xích CS thì một ngày dài bằng cả trăm năm, “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, xin các vị hiểu cho! 
Xin cúi đầu tạ tội với Mẹ VN, vì chúng con đã không làm tròn được bổn phận của người con, trước tình thế nguy nan của Mẹ! 

Xem tiếp:   
TỰ DO!!- DÒNG SỐNG NGHIỆT NGÃ...MÁU XƯƠNG VNCH- P.2
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/tu-do-dong-song-nghiet-ngamau-xuong.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét