Miền Ðất Cuối
Minh Vũ
Ðể tưởng nhớ các bạn SVSQ Ðồng Ðế-Nha Trang đã vĩnh viễn ở lại “Miền đất cuối” của quê hương.
Dạo đó khoảng năm 1973, tôi theo đơn vị đi hành quân ở khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Bạc-liêu và Cà-mau thuộc vùng 4 chiến thuật. Nơi nầy hoang vu, toàn là đầm lầy nước mặn, những bãi sình non và rừng cây mắm ngút ngàn…Dân cư thưa thớt, đi gần cả buổi mới gặp được một gò đất cao có vài căn nhà lợp lá dừa nước, nghèo nàn, trống trước trống sau, bên hông của mỗi căn nhà thường thường có một hay hai cái lu chứa nước mưa để uống; thỉnh thoảng gặp được một xóm nhà chừng vài chục cái, thường thường là tọa lạc gần nơi ngã ba hay bên bờ các con sông, con kinh lớn, nơi đó có một hai cái quán cóc bán tạp hóa trông thiếu thốn èo uột..
Dân vùng nầy sống bằng
nghề nông, câu tôm cá và bắt cua, phương tiện di
chuyển của họ là chiếc xuồng ba lá nhỏ
để len lỏi trôi nổi tới lui ở những
đường nước, nơi những mương
rạch chật hẹp; có khi họ dùng một miếng ván
mỏng khoảng ¼” chiều dầy, 1’ chiều ngang và dài
độ 3’. Ðàn ông mặc chỉ có chiếc quần
đùi cởi trần, phụ nữ mặc áo bà ba màu bùn
đen ngắn tay, mặc quần đùi, có khi quần dài
săn vén lên hơn khỏi đầu gối, một bên
vai đeo cái giỏ đựng cá đan bằng nan tre,
họ đứng bám chân vào miếng ván và uốn mình
lấy thế để cho miếng ván luớt đi qua
những bải bùn non rộng lớn mênh mông trông giống
như dân các xứ lạnh trợt tuyết mùa Ðông.
Bọn lính tráng chúng tôi
đầu đội nón sắt, vai mang ba lô, mang súng
đạn, di chuyển qua những bãi sình, chân bước
từng bước nặng nề, không thể mang giầy
boot da cổ cao như lính ở các miền khô ráo
đồi núi cao nguyên mà mang giầy vải buộc dây,
cổ thấp hoặc giầy map làm bằng vải nylon
nhẹ, không hút nước; vậy mà đi qua những bãi
bùn có khi giở chân lên ..chiếc giầy bị lún sình không
chịu lên theo! Càng cố dầm mình xuống nước
tìm chiếc giầy thì lại càng tạo cơ hội
tốt cho đám đỉa trâu bu lại hút máu. Ðỉa ở
đây nổi tiếng nhiều như bánh canh, con nào
cũng to hơn ngón tay cái, màu nâu xám, con thì màu đen, hai bên
hông có viền lằn vàng óng ánh; anh nào đẹp trai, hào hoa
phong nhã được khoảng ba, bốn nàng đỉa
đeo theo thì không tài nào trách khỏi…xây xẫm mặt mày!
Lính đi hành quân vùng nầy phải chấp nhận
thương đau, phải chấp nhận hiến máu và
tắm sình như cua trong hang; bùn sình non bám vào áo quần,
gặp nắng lên khô lại ví như mình đang mặc
bộ giáp sắt.
Sông rạch chằng chịt,
dân chúng di chuyển đó đây theo những thủy lộ
lớn nhỏ. Quân di chuyển bằng xuồng ghe thì
dễ bị VC phục kích tấn công, những
đường nước cạn khi thủy triều
xuống không thể dùng xuồng ghe tàu thuyền, dân
địa phương sáng chế ra một loại
xuồng gắn máy đuôi tôm chiều ngang nhỏ, nhưng
có chiều dài để len lỏi, lao lách đi qua các con
rạch chật hẹp gọi tên là “vỏ vọt”
hay “tắc ráng”, nhưng lắm lúc tắc ráng cũng
không thể hoạt động được khi
nước quá cạn. Lính đi trên bờ đất thì
sợ đạp lôi, đạp mìn bẫy, đạp
lựu đạn của VC gài. Hể nghe một tiếng
nổ “ùm” vang lên là ..chắc
chắn có người đạp mìn hay là bị
vướng lựu đạn. Bị nặng thì…giã từ
quân nhân, giã từ vũ khí, giả từ cuộc
đời ngay tại chỗ, còn nhẹ thì ..gởi
tặng lại miền đất cuối một hay hai
chân hoặc là một tay, một mắt. Khổ sở và
tội nghiệp, đau lòng khi nhìn thấy cả người
lính bị thương mất một phần thân thể
đang oằn oại đau đớn rên la lẫn
người lính còn lành lặng đang cố gắng è
ạch khiên bạn đồng đội của mình trong
hoàn cảnh, địa thế khó khăn tới một chỗ khô ráo đủ điều kiện cho
phi cơ trực thăng tải thương đáp
xuống được để bốc thương binh
và xác chết. Có khi thường đã chết trước
khi được trực thăng đến bốc!
Khu vực rừng U-Minh là căn cứ
địa sầm uất của Việt Cộng (VC),
rừng rậm, đầm lầy và hiểm trở,
nơi ấy để dưỡng quân và là hậu cần
tiếp tế hơn là đánh đấm, ngoại trừ
khi bị quân ta tấn công. Các đơn vị VC ít khi nào
đụng độ với quân ta ở cấp đơn
vị lớn cỡ Trung đoàn,
thường thường là chạm nhau ở cấp
Tiểu đoàn và Ðại đội. Binh sĩ người
Việt một số ở những miền khác bị
động viên vào quân đội được
điều động đến đây, một số là
người dân địa phương có cả người
Việt gốc Miên vào lính được phục vụ
gần nguyên quán; thỉnh thỏang các binh sĩ
người
Việt gốc Miên nói chuyện với nhau bằng
tiếng “nước ngoài” mình nghe không hiểu gì hết!
Lợi dụng địa
thế sẵn có,VC đánh du kích nhiều hơn là trận
địa chiến, lối đánh nầy gây …nhức đầu cho quân ta vì nó đa
hình đa dạng, mình không biết địch ở
đâu, khi nào là VC, khi nào là dân thường và ta có thể
bị họ tấn công bất cứ lúc nào, bất cứ
nơi đâu và bằng đủ mọi cách. Mình là
người Việt Nam
mà còn không biết nổi VC trá hình lúc ẩn lúc hiện, thì
thử hỏi quân đội đồng minh của các
nước sang Việt-nam làm sau mà biết nổi …lúc nào VC
là dân và lúc nào dân là VC ..!?
Một lần nọ đơn
vị tôi bắt được hai người tù binh VC,
tôi bảo người lính mở trói, tôi móc bao thuốc lá
ra hút và chìa bao thuốc ra mời hai người tù binh; tôi
vừa quay lưng đi thì nghe có tiếng súng nổ, quay
lại, tôi nhìn thấy một trong hai người tù binh
đang oằn oại trên vũng máu, còn người kia thì
đang bị hai người lính đè người
xuống đất. Lợi dụng lúc được
cởi trói, một trong hai người tù binh đã toan
giật quả lựu đạn đang mang trên mình
của một anh lính đang đứng gần đó
định cho nổ tung. Có lúc đơn vị của tôi
bắt sống được vài anh du kích VC, họ bị
trói thúc ké, hai cùi chỏ bị buộc ra phía sau lưng,
đi chân đất, mặc quần đùi, người
mặc áo, người ở trần, mặt mày sưng vù …
Tôi nhìn mà cảm thương cho họ, nhưng tôi không
thể giúp gì được! Chiến tranh..phải
lạnh lùng và có lúc..mình cũng phải tàn nhẫn nữa
..! Chỉ tội thương cho người dân quê
hiền lành chất phát là nạn nhân muôn đời cho
thời cuộc loạn ly của đất nước.
Ở những nơi xa xôi
hẻo lánh, gần cuối đường quê hương
bùn mềm nầy có nhiều người chưa hề
được nhìn thấy bóng đèn điện, trong khi
loài người đang sống trên cùng một mảnh
đất chỉ cách nơi đây vài chục cây số
ở các nơi khác đã và đang hưởng tiện nghi
vật chất hơn, ở nơi xứ sở khác đã
và đang có một đời sống văn minh vật
chất hiện đại sung túc từ lâu, họ đã
phóng người đi thám hiểm lên đến mặt
trăng. Ði đến những nơi khỉ ho cò gáy
nầy mới chứng kiến tận mắt cái nghèo
khổ của người dân quê, họ sống cùng
cực thiếu thốn hơn sự tưởng
tượng của mình. Có nhiều gia đình còn
đống khố bằng bao bố hay vật dụng khác
có được. Chiến tranh đã tạo nên những
vùng đất của quê huơng tuy gần ..mà xa xôi
thăm thẳm không ai muốn đi tới, không ai muốn
biết và để ý đến. Những con người không
được may mắn sinh ra và lớn lên ở nơi
đó cũng bị quên lãng như những bải
đất hoang vu bùn sình họ đang ở. Tôi gặp
một gia đình hai vợ chồng chỉ có một
bộ quần áo bà ba màu đen quí nhất, thay phiên với
nhau chỉ mặc vào những dịp quan trọng như
đi đó đây, còn con cái thì mình trần cả ngày hì
hụp ngụp lặng nơi những chổ có
nước để bắt tôm cá ..Cuộc sống
của họ thật là đơn giản, ngày hai bữa
chỉ lo được no bụng.
Bùa ngải, tin hay không tin?
Một lần hành quân bắt được
đám người tình nghi VC. Trong đám có một cụ
già để râu càm dài đến ngực, khi
được tra hỏi, cụ khai là cư dân cư
ngụ vùng nầy đã lâu và là “Thầy bùa lỗ ban”. Ban 2
của Tiểu đoàn (ban Quân báo) nghe vậy bèn trình
lên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng (TÐT), lúc đó
tôi là sĩ quan hành quân của Tiểu đoàn. T/tá TÐT
của tôi còn trẻ, ông 32 tuổi, vì muốn tò mò tìm
hiểu thật giả ra sao, ông bèn ra lệnh cho lính
dẫn ông cụ tới để ông tra hỏi. Ðứng
hiện diện tại đó ngoài tôi ra còn có mặt một
vài sĩ quan khác cùng một số lính tráng theo bảo
vệ.
T/tá TÐT hỏi liền khi
vừa gặp ông cụ:
-Ông già .. ông là Thầy bùa
lỗ ban hả? Bùa phép gì của ông linh ứng thế nào
..ông có thể làm cho tôi xem được không?
Ông già đáp lời ngay:
-Trình Thiếu tá, nếu ông
muốn xem thì tôi xin làm cho ông xem ..
Nói đoạn ông cụ
đảo mắt nhìn quanh khu vực chỗ chúng tôi đang
đứng. Không có gì cả, ngoại trừ vài miếng lá
tạm bợ dùng che cái nhà tắm dã chiến gần bờ
sông. Ông cụ xin phép được đi đến nhà
tắm gần bờ sông. T/tá TÐT đồng ý và phái một
người lính đi theo ông đến nhà tắm.
Bọn tôi đứng im
lặng theo dõi xem ông cụ làm gì...
Ông đến cái cửa nhà
tắm lấy ngón tay trỏ vẽ vẽ chi đó một
vài cái, đoạn lăm răm nói gì đó, không ai nghe
được. Năm phút sau ông trở lại đứng
trước mặt chúng tôi và nói:
-Nào ..bây giờ tôi muốn T/tá
cho một người mang nước vào trong đó
tắm, khi trở ra T/tá và các ông sẽ thấy có những
điều lạ, tôi không nói trước.
T/tá TÐT bán tin, bán nghi, ông nhìn sang
chúng tôi như muốn dò hỏi ý, không thấy có ai lên tiếng, ông xoay
qua người lính đi theo ông cụ lúc nãy và ra lệnh:
-Thằng Tín, mầy lấy cái
thùng xuống sông sách nước vào tắm cho tao coi ..
Tín dạ, vâng lệnh thi hành.
Tín vào xối nước tắm độ vài phút thì mở
cửa trở ra… mình trần không mặc quần áo! Tín
giậct mình quay trở vào.., rồi lại đi trở ra
như cũ. Tín cứ lập đi lập lại
nhiều lần như vậy..
Ông
cụ từ từ đi dến nhà tắm dùng ngón tay
trỏ vẽ vẽ chi đó và lăm răm khấn
vái..Tín trở ra khỏi cửa nhà tắm lần nầy có
mặc quần đùi.
-Thằng Tín đến đây.
T/tá TÐT lên tiếng ra lệnh.
-Dạ! Tín đáp lời và
tiến đến trước mặt chỗ ông TÐT và chúng
tôi đang đứng ..
T/tá TÐT lên tiếng
hỏi:
-Tại sao mầy cởi
truồng đi ra vào nhà tắm vậy..Giỡn mặt
hả?
-Dạ..thưa T/tá ..em
nhớ ..em có mặc quần
mà ..,khi ra khỏi cửa nhà tắm mới biết mình
chưa mặc quần, em trở vô mặc quần lại
..rồi khi ra khỏi cửa mới thấy chưa
mặc quần ..em trở vô mặc quần lại ..
chớ em đâu dám giỡn mặt Thiếu tá và các sĩ
quan ở đây ..
Ông cụ nhìn anh lính tên Tín
rồi quay sang hỏi T/tá TÐT:
-T/tá có muốn cho một
người khác vào nhà tắm nữa không ?
Một ông Hạ
sĩ người Việt gốc Miên đứng gần
đó giơ tay tình nguyện:
-Xin phép T/tá cho tôi đi ..
-Ðược rồi, mầy vào
thử xem. T/tá gật đầu chấp thuận.
Anh Hạ sĩ lấy cái thùng
xuống cây cầu gỗ cạnh mé sông múc đầy thùng
nước và đi vào nhà tắm, miệng tươi
cười nhìn đám người đang quan sát có vẻ
tự tin. Một lúc sau anh trở ra, khoe cái thân hình ..mốc khến đen thui đen
thủi không một mảnh vải che...và cũng lập
đi lập lại những động tác của anh lính
tên Tín lúc nãy. Ông cụ lại vẽ vẽ và lăm răm
khấn cho anh trở ra được che lại.
Lần nầy thì T/tá TÐT ra
lệnh cho ông Thượng sĩ tên Mân, một
người thân tín của ông lấy cái thùng múc nước
vào nhà tắm. Thượng sĩ Mân trong vài phút sau
cũng…khoe của quí đi ra đi vào, tạo cho mọi
người đang có mặt đứng nhìn có
được những trận cười hả hê….
Ông cụ cũng phải
đến cứu Thượng sĩ Mân. Xong ông đến
trước mặt T/tá TÐT hỏi:
-Nào ..bây giờ T/tá có muốn
thử không?
T/tá TÐT không trả lời ông mà
ông quay sang hỏi mọi người đang đứng:
-Sao, quí vị sĩ quan ..có ai
muốn ..thử không ?
Nghe im lặng, không có ai lên
tiếng. Ông vừa cười, vừa chửi thề bâng
quơ nho nhỏ, đoạn nói với Thầy bùa lỗ
ban:
-Ông già, tôi tin ông có bùa, nhưng
mà ông đừng có dùng bùa ngải để hại
người. Tôi tha cho ông đi.
Ông già cám ơn, cáo từ và quay
lưng đi.
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh
Thanh niên ở những miền
khác của đất nước bị ngọn gió chinh
chiến cuốn đến xứ nầy ai cũng lo xa
mang theo thuốc xức tránh muỗi cắn, tránh
đỉa đeo. Tôi cũng có lần bị thiên hạ hù
rằng muỗi ở xứ cuối đường quê
hương to bằng ..con gà mái! Muỗi kêu như sáo
thổi, đỉa lội như banh! Mà quả có thật
là muỗi kêu như sáo thổi. Muỗi con nào con nấy to
bằng hạt lúa và có màu vàng nâu. Hành quân vào những vùng
sâu, ban đêm mắc màn (mùng) ngủ mà lỡ thò tay ra
khỏi màn thì muỗi bu đầy như phủ lên tay lớp
sơn màu vàng nâu đậm, dùng bàn tay kia vuốt tay bị
muỗi đeo một cái thì cảm thấy..nhớt
nhợt và từ màu vàng nâu xậm đổi sang
nước sơn màu máu đỏ!
Tôi có tính..sợ đỉa, cho
nên tôi lúc nào tôi cũng có một người lính đi sau
lưng để kiểm soát “quân phong quân kỷ” nhìn
từ lưng cho tới chân để bắt đỉa.
Lội
dưới nước, đỉa đeo nhiều khi mình
không có cảm giác, phần tâm trí lo tập trung đề
phòng địch quân phục kích tấn công, vả lại
đỉa đeo bám vào quần áo lính vải dầy
cũng khó mà hút máu được, trừ khi đỉa
chui vào ống quần và ..từng bước từng âm
thầm đi ngược lên miền thượng. Ðang
đi mà cảm thấy ..ngứa ngứa ở đâu
đó, phản ứng tự nhiên là thò tay gãi gãi nơi
chổ ngứa, nếu ngón tay có cảm giác chạm
phải cái khố u nho nhỏ và mềm mềm.., đích
thị là đỉa đang bám! Nếu đang ở
dưới nước thì phải rán gồng mình hiến
máu chờ leo lên được bờ đất mới
..tuột quần ra bắt đỉa. Mấy anh chàng
..sợ đỉa như tôi, sợ đỉa hơn
sợ..con gái, khi biết mình đang bị đỉa
đeo thì quýnh quán đi nhanh tìm chổ khô ráo như gà
mắc đẻ và tuột quần với một tốc
độ...phi thường để bốc con
đỉa ra khỏi thân thể của mình. Nhiều khi
gặp con đỉa loại chằng ăn, không bám ở
những chổ dễ thấy mà chui vào những vùng
..bất khả xâm phạm khiến cho kẻ bị
hiến máu không tài nào tìm ra, phải khổ sở nghiêng mình
đủ các thế để nhờ bạn đồng
đội bắt đỉa dùm, tôi nhìn mà không thể nín
cười được! Cũng may cho tôi, chưa có
lần nào biểu diễn các các màn sexy..nóng bỏng và không
lấy tiền như vậy cho thiên hạ xem.
Khổ cho thân lính bộ binh
miền sình lầy sông rạch, mỗi lần đi hành
quân bước ra phải dầm mình cả ngày dưới
nước. Những ngày tháng nắng thì đỡ rét,
gặp phải những tháng gió bấc cuối năm
trời lạnh, 4giờ sáng đã chuẩn bị cơm
nước ăn cho no bụng rồi mang ba lô nón sắt
súng đạn bắt đầu di hành; đường
hành quân phải lội nước, vượt qua sông
rạch, qua những bải sình rồi lại lên bờ
quần aó ướt đẫm, gặp gió hiu hiu thổi
..lạnh rùng mình! Tôi đi hành quân ngoài bộ quần áo
lính, đầu đội nón sắt, còn mặc thêm
chiếc áo giáp nặng trình trịch, mỗi lần từ
dưới nước bò lên bờ, nước thấm vào
áo giáp nặng cả vài kí lô. Tôi không gồng gánh theo ba lô và
đầy đủ cấp số đạn dược
như các binh sĩ khác mà cũng cảm thấy
muốn…lết bánh! Sau nầy tôi điếc không sợ
súng nữa, không mặc áo giáp, đầu chỉ
đội nón sắt và khoác lên mình chiếc áo ba-dờ suy
để che gió lạnh. Ông Thượng sĩ quân y
thấy vậy tặng cho tôi một hộp thuốc viên
calcium, mỗi sáng trước khi xuất hành tôi uống vào
hai viên để chóng lạnh.
Thà chết
giữa rừng mai …
Nhưng bị đỉa
cắn, bị muỗi cắn chỉ trong chốc lát thì
mình lấy lại bình thường, còn tỉnh táo
để mỗi lần có phép còn biết đường
đi về thăm nhà, chớ bị ..con gái xứ nầy
“cắn”..là hết biết đường về nhà!
Ði hành quân trong rừng sâu thì
bị đỉa đeo, muỗi đeo theo cắn. Ðóng quân
ở nơi những chổ có nhà dân chúng hoặc là lâu lâu
được nghỉ dưỡng quân mò về chơi
nơi Thị trấn có chợ búa, không khéo giữ mình
sẽ bị các cô gái..cắn cho một vết đau
ngọt ngào thấu tận tới tim…
Mấy ông Quan trẻ tuổi
đi chinh chiến miền xa lúc nào cũng hấp dẫn
không những đối với các cô gái mà còn
được cảm tình luôn cả những người
lớn tuổi. Các cô hảnh diện được có
bạn, người yêu hoặc chồng là sĩ quan. Các ông
các bà nhà có con gái đến tuổi cặp kê hảnh
diện trong tương lai được làm ông bà già
vợ của Quan, cho nên khi đặt chân đến vùng
đất nầy tôi đã được nghe câu nói
truyền khẩu vừa triêu chọc các cô gái:
-“Thà chết giữa rừng
mai, còn hơn chết trong tay cánh gà “
Rừng mai: có ý ám chỉ cấp Sĩ
quan, đeo bông mai theo cấp bực.
Cánh gà: là các anh
Hạ sĩ quan từ Trung sĩ trở lên đeo cấp
bực giống như chữ V bên tay áo trái có hình dạng
như cái cánh gà bị chặt trước khi bỏ vào
nồi nước xôi luộc chín để ..nhậu.
Em nào gặp Quan, mắt cũng chớp lia chớp
lịa, đi đứng sửa tướng làm dáng
để mong được lọt vào mắt xanh của
mấy ông Quan trẻ ngơ ngác lâu ngày hành quân miệt mài
trong rừng rậm ít khi thấy bóng đàn bà. Các Quan già
cũng ..ké được
những “hường nhan” dư thừa của đám Quan
trẻ. Các em không cần biết Quan có người yêu, có vợ
con hay chưa, cứ lăn xả vào vòng tay của Quan và
vui sướng được ..dẫy chết giữa
rừng mai, rồi sau đó
tới đâu thì tới! Kết quả là vùng nầy
đã sáng tác ra một bài hát sửa lời nhái theo bài
nhạc “Những đồi hoa sim” của nhạc sĩ
Dũng Chinh mà không biết ai là tác giả?
“Những đồi hoa Sim..,
Ôi những đồi hoa Sim..
tím chiều hoang biền biệt …
vào chuyện ngày xưa nàng yêu
ông Thiếu úy có bầu nên ..phá thai …”
Không biết ông Thiếu úy nào
đã… .
Một số các Quan trẻ đến
từ thành phố, ở rừng lâu ngày đã quên đi mùi
thơm son phấn của thành thị hay vì vướng
bụi quân hành và mãi mê quanh quẩn với rừng lá
thấp,
với bùn sình lầy lội của kẻ lãng du
đời sương gió ở “cuối con
đường quê hương bùn mềm …thương
những chiều nắng dọi bờ sông ..” rồi có mặc cảm thành thị đã quên
mình rồi, nên an phận chuộng nét đơn sơn
mộc mạc của miền đồng chua nước
phèn đỏ. Gọi là nước phèn đỏ là vì nhúng
mình xuống nước đôi ba ngày, bộ quần áo
sẽ đổi sang màu vàng nâu xậm, màu phèn ..
Có một lần ông
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tư lệnh Quân Ðoàn IV
đến thăm đơn vị tôi, ông nhìn thấy chúng
tôi từ Quan tới Lính người nào cũng ..vàng khè
từ chân tới ngực! Ông đã lưu ý nói với
người sĩ quan tùy viên việc nầy. Một
tuần sau khi ông Tướng viếng thăm, chúng tôi
được cấp phát thêm quân trang mới.
Người yêu của Lính
Tôi có người bạn tên Phát, lúc
trước học ở Khoa Học có “đào” học bên
Sư Phạm trông nõn nà đẹp đẽ. Chàng và nàng yêu
nhau ra rít thuở còn đi học. Sau khi Phát bị
động viên đi lính, nàng thường xuyên có mặt
trong đám thân nhân đến quân trường gặp gỡ
người yêu. Khi Phát ra trường đổi đi
đơn vị tác chiến, họ ít khi gặp nhau,
chỉ liên lạc qua thư từ….
Một lần dừng quân
nơi ở xóm nhỏ xa xôi, Phát bị thôn nữ tên Nở
cắn và ..Phát cắn lại trả đũa. Nở
tự nguyện trở thành tù binh tình ái, thỉnh thoảng
trốn gia đình đến thăm Phát ở nơi
đóng quân của đơn vị tôi, hai người chia
sẻ gói cơm xấy, hộp cá mòi quân tiếp vụ,
đêm tối chất chung võng, sống với nhau như
vợ chồng.
Tôi và Phát thân nhau, cùng đơn
vị và.. cùng quê, thằng ở Sàigòn, thằng ở
Hốc Môn-Gia Ðịnh. Hai thằng ở khác Ðại Ðội.
Những ngày không có công tác hay đi hành quân, hai đứa
thường gặp nhau ngồi tán dóc, nói chuyện
trời trăng mây nước cho đỡ buồn
đời lính trận xa nhà.
Có lần tôi tò mò hỏi Phát
chuyện yêu đương:
-Mầy định bắt cá
hai tay hả..?
Phát kéo thuốc lá một hơi
dài, thở phì nhả khói vừa nói:
-Không! Lần tới về phép
tao dẫn Nở theo ra mắt ông bà già tao ..
Tôi hỏi Phát:
-Còn con Liên ..mầy tính sao?
Phát trầm buồn, đưa
mắt nhìn về hướng lô cốt chằng chịt
hàng rào kẻm gai một lúc .rồi chậm rải thố
lộ tâm sự của mình:
-Tao yêu Liên lắm, nhưng ..Liên
giờ..chỉ là cái bóng thôi! Nở mới thật sự
là vợ của tao, vì Nở đã thấy con người
và cuộc đời thực của tao, cuộc sống
thực của tao..Nở đã yêu những cái hiện có
của tao và chấp nhận chia sẻ cuộc đời
sương gió với tao rất thực thà, không so đo,
cân nhắc…
-Mầy có lần nào cầu hôn
với Liên chưa?
-Lúc trước còn đi
học và sau khi vào quân trường tao cu ũng có ý
định nầy, nhưng
sau đó tao dẹp ..không
nghĩ tới nữa.
-Vì sao?
-Hồi xưa thì khác, bây giờ
thì khác. Tao không nói xấu đám con gái ở thành phố,
nhưng mầy cũng phải công nhận là họ.. khi yêu
thì đi tìm những chàng trai hào hùng, có đủ nét phong
sương phong trần để thỏa mãn những
mộng mơ và .. chỉ để cặp tay dạo
phố thôi, chớ lấy chồng thì cô nào cũng tìm
mấy anh chàng nước da trắng bóc, mặt.. búng ra
sữa, dân được miễn dịch vì mọi lý do,
có bằng cấp, có nghề nghiệp vững vàng
để ..” Một bước lên xe hơi, em
khỏi phí cuộc đời” còn như nếu lấy
Lính.. thì cũng là lính “tác chiến trong thành phố”, lính
Không Quân, Hải Quân, Cảnh Sát, lính lúc nào cũng mặc
quần áo ủi hồ láng coóng chớ ngu sao mà chịu làm
hòn vọng phu hoá đá, hay là theo chồng đến những nơi
như vầy, đêm ngủ
nằm ghế bố, nằm võng nhà binh. Phát ngẩu
hứng làm bài thơ con cóc ngâm nga:
Sống hùng sống mạnh, sống hỏng dai!
Dạo phố thì em thích cặp tay
Mũ xanh, mũ đỏ hay
Thần Tiễn
Phi công, Biệt kích mới
đáng tiền ..
Sánh bước cùng chàng
để làm duyên
Dung dăng ..cho thoãi mộng
ước nguyền
Trai hùng trận mạc xa
trường lỡ
Ði mãi không về ..gặp
thuyền quyên!
Lấy chồng ..thì chàng
phải có tiền
Có nhà, việc tốt, có xe riêng
Có quyền, có tước, không
đi lính
Thế mới là duyên, khỏi
phí đời ..
Tuổi xuân phơi phới
chỉ một thời
Làm nàng chinh phụ ..uổng quá
thôi!
Người đi biền biệt, người trông ngống
Hoa tàn nhụy héo tháng năm trôi
..
Nếu lỡ trót yêu chiến
sĩ rồi!
Chỉ yêu, chỉ mộng,
chỉ thế thôi
Người đi ..một
nửa hồn không mất
Một nữa hồn kia
vẫn enjoy ..
Tôi vẫn là tôi của cuộc
đời ..
Tôi vẫn là tôi vẫn thảnh
thơi….
Tôi nghe Phát nói mà chạnh lòng
với cái hiện tại chẳng đặng đừng
phải chấp nhận.
Tôi nói với Phát và cũng
tự an ủi mình:
-Mấy cô ở thị thành
quen ngủ nằm giường nệm êm ái, chỉ
biết có chiếc giường
nệm thôi chớ chưa thử ngủ võng nhà binh. Nằm
đong đưa trên võng nhà binh cũng êm ái bềnh bồng và đê mê lắm…lại
còn được nghe âm thanh của tiếng súng từ xa
vọng lại như
tiếng đàn guitar đi solo, rồi thỉnh
thoảng nghe tiếng nổ ùm ùm của đạn pháo
như tiếng bass đệm…,bản nhạc hòa tấu
nầy đâu phải nơi nào cũng có!
Phát giọng trầm buồn,
chia sẻ tâm trạng với tôi:
-Tao lúc mới ra đơn
vị, tối nằm nghe loại nhạc nầy, tim
đập mạnh, cứ thao thức khó ngủ. Tao
để cây M16 đạn lên nòng kế bên, gài chốt an
toàn với lại dây ba chạc gắn mấy băng
đạn và vài trái lựu đạn đế sẵn
..Giờ thì quen rồi, đêm nào không nghe ..thấy
buồn!
Tôi hỏi Phát:
-Chừng nào mầy đi phép?
-Hai tháng nữa. Tao định
một lần đến thăm Liên, chào giã biệt.
-Mầy nghĩ Liên sẽ
buồn khi chia tay với mầy không?
-Không! Hai đứa xa mặt
đã lâu, tao nghĩ cũng đã xa cách lòng, vả lại
Liên đâu có hứa hẹn chờ tao. Ở thành phố có
biết bao nhiêu thằng nhởn nha nhở nhơ đi theo
em tán tỉnh. Khó tính đến đâu thì trong mười
thằng đi theo ít ra cũng có một thằng trông
bắt mắt coi được hơn chín thằng kia, lúc
mình vắng mặt, nó cứ lết tới lết lui sáng
đưa chiều đón, cứ ca bài con cá sống vì
nước thì làm sao mà em không xiêu lòng? Mình ở xa không có
được cái lợi thế như mấy thằng
ở gần. Không chừng gặp lại Liên, thấy em
đã tay bế tay bồng…
Tôi nói với Phát:
-Mầy có nhiều tưởng
tượng và bi quan quá...
Phát lên giọng quả
quyết;
-Ðó là sự thật. Mình
phải tỉnh táo mà nhìn thấy, nếu không sẽ
khổ vì vỡ mộng sau khi biết được sự
thực phủ phàng nàng đã âm thầm ôm dầm sang
thuyền khác không một lời từ giã …
Tôi cười, vừa nói
với Phát:
-Mình tìm chỗ trao thân gởi
phận trước cho chắc ăn hả?
Phát cười tán đồng ý
kiến:
-Ðúng vậy đó bạn.
Tiền thì có thể san sẻ cho mọi người sài,
nhưng tình thì không được, mà đã vướng vào
tương tư thất tình thì bạn ráng mà ôm sài một
mình.
Phát đã có cách và có chỗ
để giải quyết tình cảm của mình hợp
thời và thực tế với hoàn cảnh hiện có. Tôi
không biết điều nầy có làm cho hắn thật
sự được thoải mái và an ổn trong tâm tư
hay không? Bức bình phong người thôn nữ tên Nở có
đủ sức để chắn được
những trận cuồng phong như bão táp thổi tới
tấp làm cho xiêu vẹo gãy cành cây mơ trong lòng hắn?
Những cơn sóng cao ngất dồn dập cuốn đi
ngôi lầu đài trên bãi cát trong lòng hắn? Hình ảnh yêu
kiều của Liên cùng với chuỗi ngày dài kỷ
niệm của mối tình học trò thơ mộng bỏ
lại thành phố sau khi hắn xếp áo thư sinh từ
giã kinh kỳ, làm bạn với gió sương trên bước đường
quân hành ngày đây mai đó..?
Tôi
liên tưởng đến những tâm tư thầm kín
của mình đang cất dấu trong lòng…
Cả một khung trời
kỷ niệm ngày rời thành phố tôi mang theo trong lòng
không biết mỏi ..cũng
nặng nề chẳng kém chiếc ba lô nhà binh tôi mang trên
vai, không biết rồi đây những ngày sắp
đến sẽ ra sao? Sẽ có một ngày tôi còn
được may mắn đứng ở bến sông nhìn
bóng dáng người thương của mình cầm dầm
“nhảy” sang thuyền khác hay là nàng “phi thân” một cách âm
thầm nhẹ nhàng và êm ái không nghe tiếng động
như các nữ tài tử Hồng Kong đóng phim đánh
chưởng quần áo nai nịt gọn gàn, sau lưng mang
thanh trường kiếm nhún mình một cái toàn thân bay
bổng lên mái nhà..!? Nhảy hay là phi thân, cách nào ..tim tôi
cũng bị trúng phi tiêu có tẩm độc do nàng phóng
ngược lại, chất độc sẽ từ
từ ngấm vào máu và tôi sẽ tha hồ mà rên rỉ,
tận hưởng đau thương, ôm con tim nhỏ máu
mà không ai chia sẻ được với tôi món quà tặng
đặc biệt nầy..
Phát nhìn tôi dò hỏi:
-Nhật-Hạ còn gởi thư
đều cho mầy không?
Tôi thở dài, trả lời
Phát;
-Còn ..nhưng thư viết
rất vắn tắt. Có lúc thì nói đang bận học
thi, có lúc thì nói tại tay đau không viết nhiều
được, có lúc nhờ người chị viết
dùm …
-
…….
Phát làm thinh, móc gói thuốc ra đưa cho
tôi lấy một điếu, nó lấy một điếu
đặt lên môi
đoạn
châm lửa cho tôi và nó. Tôi hít một hơi dài rồi
nhả khói, vừa thả tâm sự với Phát:
-Lần về phép kỳ rồi tao
đến nhà em, hai đứa đi ciné, ăn kem, đi
bát phố..
-Vậy thôi hả ..? Phát hỏi.
-Ừ …
-Có để lại cho em những kỷ
niệm nào đáng nhớ không?
-Ðại khái thôi …
Phát nóng lòng hỏi:
-Mầy nói rỏ chi tiết cho tao nghe có
được không ?
Tôi đáp lời Phát nửa kín nửa
hở:
-Thì ..ai làm sao ..tao làm vậy ..
Phát như bị cuốn vào câu chuyện,
hỏi nhanh:
-Ðịch có phản ứng gì không…?
-Không ..chỉ có du kích bắn lẻ tẻ
bắn cầm chừng cho có lệ ..
-Phe ta có nổ súng không?
-Có.. 1 whisky .. được băng bó
tại chổ.
Phát cười khoan khoái, lên giọng
dạy đời:
-Vậy ..mầy đáng được
thưởng Anh dũng bôi tinh với ngôi sao ..chì. Nhưng mà như vậy không
ổn, địch quân sẽ phục kích đơn vị
bạn để trả thù vì.. đã xung trận, đã
đổ máu, đã ngửi được mùi thuốc súng
mới hăng hơn lúc chưa đụng trận.
Tôi phụ họa thêm:
-Như vậy thì hên cho đơn vị
bạn nào đóng quân gần đó ..
Phát vừa nói vừa cười:
-Hay không bằng hên đó mầy, mấy
thằng lù khù có ông cù độ mạng..
Tôi nói
giọng xụi lơ, vừa thất vọng và tiếc
rẻ với Phát:
-Ðộ mạng hay không độ gì ..thì
tụi nó cũng được vô mánh tốt, chớ
ở hậu phương còn ai
nữa
đâu? Thằng chột mắt đương nhiên
được làm vua ở cái thế giới mù. Trông
được trai, không xức cẳng gãy gọng như
tao với mầy thì đã được Tổng thống
chiếu cố…
* * *
Phu nhân ông Tiểu
đòan trưởng của tôi năm đó đúng muời
tám tuổi. Bà Alfa còn trẻ măng, là nữ sinh học
lớp 11 của trường Trung học Cà-mau. Nghe nói
bị Alfa xỏ mũi dẫn đi năm 17 tuổi!
Từ khi rước
được nàng về dinh, Alfa cất kỷ phu nhân,
gởi về ở nhà làm dâu cho ông bà cụ, còn ..thỉnh thoảng tối
tối nằm chung võng với Alfa nghe ban nhạc “chiến
chinh” hòa tấu thì đã luân
phiên thay đổi có các người yêu của lính.
Lâu lâu bà Alfa hạ cố
đến thanh tra, thăm chồng vào những lúc
đơn vị về nằm dưỡng quân ở
hậu cứ Tiếu đoàn, mấy thằng em theo
hầu Alfa phải làm việc overtime mệt không nghỉ,
dọn dẹp chiến trường không bỏ xót một
manh giáp nào, kể cả một sợi tóc rụng.
Bà Alfa nước da
trắng, gương mặt tròn trĩnh, dáng dấp nữ
sinh qua mái tóc thề thướt tha buông xõa bờ vai,
vẻ mặt trông ngây thơ con gái, phản phất nét e
ấp sẻn lẻn như cảm giác có ai đó biết
được mình đã nếm chút mùi đời.
Cứ mỗi lần phu nhân
đến thăm, Alfa hảnh diện dắt đi
..duyệt binh, chào các sĩ quan tham mưu và binh sĩ trong
tình huynh đệ chi binh, nhưng cặp mắt thì làm
việc không ngừng để đề phòng đám quan
trẻ độc thân ngưỡng mộ phu nhân đang
thầm lặng thả những tia
mắt khó hiểu nhìn ngắm chầm chập…
Alfa tuy
tuổi đời mới ngoài 30, nhưng gương
mặt dầy dạn phong trần, nước da thắm
sương nắng và bụi quân hành trông như ông cụ
non cở năm mươi lấy lên. Ông còn có cái tật
thích ngậm ống vố, chắc là thói quen đã lâu của
các quân nhân tác chiến hút thuốc ban đêm để che
đóm lửa lóe sáng lên cứ mỗi lần hít, nếu
không VC ẩn núp đâu đó nhìn thấy tàn thuốc cháy,
nhắm bắn sẻ ..bể gaó dừa như chơi! Phu
nhân đứng gần ông nhìn giống như hai cha con!
Nhưng Alfa vẫn còn mang tâm hồn của trai mới
lớn. Ông rước đào nhí về nhà làm vợ,
điều đó đủ chứng minh ông chỉ ..trông héo có cái vỏ bề ngoài
chớ mọi thứ bên trong vẫn còn ngon lành. Nhưng có
ai mà biết được những ưu điểm
đó của người đàn ông, các cô gái đa phần
chỉ nhìn đám đàn ông con trai qua diện mạo
mặt mũi với những lời nói ngọt ngào
hứa suông hứa cụi và bộ quần áo bề ngoài.
Alfa hơn được những
thanh niên trẻ khác nhờ.. “xâm mình” và ve áo nhà binh có
cái bông mai bạc nằm hiên ngang trên tấm p-s-p vàng khè bên
dưới. Ông biết đàn hát văn nghệ nghêu ngao,
ông chơi guitar classic 5 ngón một vài bản ruột,
người mới nghe qua cứ tưởng ông là một
nhạc sĩ nhà nghề. Ở hậu cứ của
Tiểu đoàn cũng như lúc đi hành quân, ông luôn luôn có
thằng em kề cận lẽo đẽo đi sau
lưng, không mang súng mà quảy cái thùng đựng cây đàn
guitar và lúc nào cũng lao chùi bóng loáng. Lúc điều quân
đánh giặc, lên máy liên lạc với các Ðại
đội, ông chửi nhoi trời, từ quan tới lính,
Má của thằng nào cũng bị ông ..”làm” láng! Nhưng khi hết
giặc, dừng quân, ông hiền
..như “ông Cha”, nói năng ngọt ngào, ngồi
đánh đàn lủm bủm và thả hết tâm hồn
cất lên lời ca chan chứa qua những bản nhạc
tình ướt nhẹp mà người nghe như có cảm tưởng
ông đang trang trải, đang xì hơi xả bớt cho
đỡ căng phòng cái nỗi lòng thầm kín nào đó,
cho nhẹ người...
Cứ
mỗi lần cầm đàn lên dạo, giọng của ông
khàn khàn nhưng tha thiết:
“Anh vuốt
tóc em,
Anh vuốt
tóc em một lần cuối, một lần cuối cùng
rồi thôi …
Anh ngắm
trăng thanh trên má em xanh..một lần cuối ..,như
những lần đó xa xưa ..
Em khóc bên vai
anh …em khóc bên vai anh
một
lần cuối ..,một lần cuối cùng
Ðể còn
thấy gần nhau lần cuối ..
Một lần
cuối cùng thôi em ơi!
Một lần
cuối cùng thôi em ơi ..!
Thế là mãi
mãi xa nhau
Thế là
nước mắt thương đau
Thế là mãi
mãi ..và mãi mãi tình sầu …”
Bản
nhạc mà ông thường hát nhất, ông hát nhiều
lần, hát hoài đến nỗi tôi nghe thuộc lòng bài
“Một lần cuối” của nhạc sĩ Hoàng thi
Thơ. Ông Trung úy Trưởng ban 3 nghe riết bản
nhạc nầy đâm ra phát chán, ông nói giỡn với tôi:
-Con nào vô
phước làm đào của ông đạo vuốt
..chắc một hai tháng trở thành ni cô, lông tóc rụng
mẹ nó hết ..!
Có khi đã
quá nửa đêm tôi lại nghe ở bên hầm chỉ huy
của ông có tiếng đàn và tiếng than thở văng
vẳng một mình:
“Vết lăn ..vết
lăng trầm…
hằn trên
phiến đá ..nấu thêm ưu phiền.
Như có
lần ..tình buồn hằng dấu chân..
Người
đi phiêu du từ đó chưa thấy về
Quê nhà
rộng đôi cánh tay chờ mong ..
Người
chợt nhớ ..mình như đá .., đá lăn, vết
lăn buồn ….
….. ..
Thôi
..ngủ yên đi con, ngủ đời yên đi con
Che
dấu thân đau dạ mòn …
Ngủ đời yên đi con..,như vết
thương đau ngủ buồn…
…………………..
Rồi
một hôm ..chợt thấy hoang vu quanh mình ..
Tôi và Alfa có cái duyên văn
nghệ! Một bữa nghỉ dưỡng quân ở
căn cứ, tôi xa quê hương nhớ.. đào già, mang
cây harmonica ra làm vài bản cho đỡ buồn, tình cờ
ông đi vòng vòng kiểm soát doanh trại nghe
được tiếng kèn ai oán bèn tìm đến ngồi
nghe. Ông rủ tôi về hầm chỉ huy chổ ông ở,
ông mang cây guitar ra khoe với tôi và biểu diễn cho tôi nghe
một vài bản ruột romantic mà tôi biết. Ông nói
chuyện với tôi rất nhiều về thời trẻ
của ông, ông còn khoe cho tôi biết ông có hai cô em gái hiện
đang học đại học Văn khoa ở Sàigon.
Tôi từ một người
Trung đội trưởng tác chiến được ông
kéo về cho làm Sĩ quan phụ tá hành quân lấp vào
thế chổ cho một sĩ quan tại chức vừa
giã từ quân nhân, giã từ vũ khí trong một cuộc
hành quân chạm địch hồi tháng rồi. Với
chức vụ nầy, tôi lúc nào cũng kề cận, theo
Bộ chỉ huy Tiểu đòan lúc đi hành quân cũng
như lúc về căn cứ đóng quân của Tiểu
đoàn. Tôi ăn cơm chung với ông hằng bữa khi
đi hành quân cũng như lúc nghỉ quân, trừ những
ngày phu nhân của ông đến thăm, tôi viện cớ
.. đi chổ khác chơi để cho ông được
có những giờ phút riêng tư với bà xã, mặc dù
tới bữa ăn ông cho lính đi tìm tôi gọi ơi
ới. Tôi là người được nghe ông hát cũng
như nghe ông chửi nhiều nhất, vì các sĩ quan khác và
lính tráng đâu có ai ở gần bên ông ngoài ông Trung úy
Trưởng ban 3, tôi, ông Trung sỉ Nhất trực máy và
mấy thằng em lính theo phục vụ cơm
nước, sai vặt. Khi ông bực bội chửi
đỗng thiên hạ, tôi và ông Trung úy Trưởng ban 3
nghe dùm người ta đầy lỗ tai.
So về nhan sắc thì Alfa thua
là kể chắc, không sánh được với mấy ông
Quan trẻ tuổi mới vừa nhuốm chút phong
sương bụi chiến chinh, nhưng còn phản
phất nét thư sinh nho nhã .. . Alfa đã từng xông pha
nơi chiến trường và tình trường, kinh
nghiệm ra chiến trận phải nắm vững tình
hình địch và bạn, đánh nhau không phải lúc nào
cũng thắng, lúc nào
cần phải “chém vè”,
lúc nào phải ” bỏ giò lái ”, lúc nào thả trinh sát bò
đến chiếm cứ những yếu điểm quan
trọng, lúc nào ào ạt tấn công chiếm mục tiêu ..và
“trói thúc ké, bịt mắt tù binh”, thế nào cho an toàn
khi bắt được tù binh, vì nếu chỉ sơ ý
lơ đễnh trong một vài giây phút thì hậu quả
khó lường như ông đã từng san sẻ những
kinh nghiệm thực tế đó với tôi và các bạn
lính khác.
Bà Alfa cũng như phu nhân,
người yêu của các Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh
sĩ ở xa lâu lâu đến thăm chồng
thường thường là vào những ngày đầu
tháng để tiện việc sổ sách. Các ông lính vừa
mới lảnh lương hôm trước, hôm sau các bà ùn ùn
kéo tới thăm. Một hai đêm chất chung nằm
ngủ ghế bố nhà binh hay kẽo kẹt chung võng
để trút bầu tâm sự rồi sáng dậy sớm ôm
trọn hồ bao dong mất, trong khi các ông lính vẫn còn
đang ngẩn ngơ cơn mộng du …Lính mừng bà xã,
mừng người yêu xa “biệt kinh kỳ” đổ
đường tới thăm mình có mang theo cái “sự
đời” để trao đổi chuyện đờI;
lính buồn vì quí phu nhân đến thăm chồng lại
cầm theo “cây cờ đỏ”, khiến cho lính phải
đành…phơi “củ cải”, mặt mày nhăn nhó như
khỉ ăn ớt!
“Quân lực Việt Nam Cộng Hòa,
Ðàn ông đi
lính, đàn bà lãnh lương“
Tội
nghiệp cho đám đàn ông đi lính ngày đêm lặng
lội với gió sương với hiểm nguy mà còn
phải lo nuôi vợ nuôi con ở hậu phương.
Lỡ không may hy sinh thân mình đền nợ núi sông, thì
vợ được lảnh 12 tháng lương tiền
tử. Bà vợ già nào có con cái đông thì phải chịu
nheo nhóc nuôi con thờ chồng, quả phụ nào còn son
trẻ, tươi mát, ướt át thì tương lai
bước thêm một bước nữa để tìm
người bạn đời khác.
“Thiếu úy nhìn em ..Thiếu úy cười ..
Em nhìn Thiếu úy …lệ em
rơi,
Chồng em mới chết
Thiếu úy ơi!
Lương 12 tháng , em lãnh
đủ
Lãnh lương rồi mời
Thiếu úy tới chơi.”
Trong hàng ngũ sĩ quan,
cấp quan Thiếu úy có lắm chuyện ..Nào là:“Vào
chuyện ngày xưa… nàng yêu ôngThiếu úy, có bầu nên phá
thai.. !” Rồi .. cũng ông Thiếu úy giàu lòng
thương người châm châm nhìn người quá phụ
còn son trẻ.. cười tình
lúc chồng của người ta vừa mới chết,
khiến cho người ta nóng ran mình mẩy, bước
đi mà ..quíu chân chịu không nổi phải hứa
hẹn: “Lãnh lương rồi mời Thiếu úy
tới chơi”
Quan Chuẩn úy, Thiếu úy được
quí phụ nữ để ý tới nhiều là vì xứng
đôi vừa lứa so với tuổi tác. Ða số quan
Chuẩu úy, Thiếu úy tuổi trong khoảng từ 21
đến 25, gió bụi chiến chinh chưa phủi
sạch được nét thư sinh còn ẩn hiện
phản phất trên gương mặt son trẻ. Là lính
mới, mang súng ống mới, đa số còn độc
thân, còn ôm bầu nhiệt quyết, còn lý tưởng, còn
lãng mạn mộng mơ, còn yêu đương nồng nhiệt
và tha thiết. Lên cấp Trung úy có tuổi đời,
tuổi lính, thịt da đã ngấm gió sương, hơi
lẩn thẩn một chút, thỉnh thoảng không nhớ
mình đã .. bỏ quên cái “nón
sắt” trên bờ lao sậy nào?
“Nòng súng” bắt đầu rỉ sét, đã có chút kinh
nghiệm và ít nhiều đụng chạm với đời.
Có một số đã lập gia đình, tìm được
ông Trung úy nào còn độc thân thì anh đó ít nhất
cũng đã trải qua một hai mối tình dang dở
hoặc đang có người yêu. Bên xứ mình thuở
đó ít nghe ai nói đến tình trạng pê-đê trong lính.
Từ cấp Ðại uý trở lên thì đại đa
số ông nào hoa cũng cắm bình, vợ con đầy
đàn, đầu đầy sạn, không dễ dàng
chớp chớp mắt đưa tình cho Ðại úy mà
được nhận lại như đưa cho
Chuẩn úy, Thiếu úy hay Trung úy; đưa cho Ðại
úy..coi chừng mất luôn cả chì lẫn chày!
Các cô truyền miệng nhau:
“Lấy anh Thiếu úy còn thơ
Anh đi đánh giặc, mình
chờ lên lon
Ba năm chinh chiến anh còn
Trở về mai nở véo von
với đời….”
“Lấy anh Thiếu úy còn thơ
Anh đi đánh giặc mình
chờ lên lon
Lõ mà Thiếu úy không còn ..!
Em thành quả phụ còn son lo gì
…
Thấy anh Trung úy em
thương
Nhưng em ..còn ngại gió
sương cuộc đời..!”
Miền đất cuối thoạt nghe
cứ ngỡ là chỉ có bùn sình muỗi mồng và
đỉa vắt.
Con gái ớ xứ muối ngoài các thôn nữ vì sinh
kế phải dầm sương dãi nắng, bị tàn phá
dung nhan, đa số các cô trắng trẻo dịu dàng
dễ thương và rất văn nghệ đa tình lãng
mạn, có cả một vườn thơ và trong hòan
cảnh nào cũng ..phóng thơ ra cho được. Mơ
cũng thơ, mộng cũng thơ, yêu cũng thơ mà
..chồng chết cũng thơ thẩn..
* * *
Sống hùng, sống mạnh,
sống không dai …
Tôi ra trường mang cái Quay Chảo (lon
Chuẩn úy nhìn giống như cái quay chảo), về
trình diện đơn vị chung với 11 người
bạn cùng khóa. Chưa đến 6 tháng mà đã có 5
người .. quá giỏi,
được đặc biệt lên cố Thiếu úy trước
bạn bè, rồi từ từ tụi nó lũ lượt
kéo nhau lên lon. Một năm rưởi sau, đúng ngày con
kén trở thành tầm, bông búp nở thành hoa theo danh sách chính
thức của bộ Tổng tham Mưu gởi xuống
đơn vị chỉ còn có 3 thằng, 2 thằng còn
đang táy máy với súng đạn, một thằng
ngồi xe lăn, bất khiển dụng vì đã gởi
lại chiến trường sình lầy một chân.
Tôi
may mắn được Alfa kéo về BCH của
Tiểu đoàn, sau hơn sáu tháng nắm Trung đội
trưởng, tôi đã nướng mất 4 thằng em. Ði
theo BCH Tiểu đoàn mỗi lần hành quân, tôi đi
ớ giữa, lính thì cầm súng, còn tôi thi cầm bản
đồ địa bàn và ống liên hơp truyền tin
liên lạc với các đơn vị bạn và các Ðại
đội. Trước sau, phải trái đều có quân,
nếu có chết thì lính chết trước rồi
mới đến tôi, trừ trường hợp bị
pháo rớt nổ ngay BCH, chớ nếu không có lẽ tôi
cũng đã được “ Lên lon giữa hai hàng
nến lung” từ lâu. Cứ mỗi lần xung
trận, các Ðại đội rải quân đi
trước, các ông Trung đội trưởng là những
người cầm quân hứng đạn, cho nên đa
số các Tân sĩ quan mới ra trường nắm Trung
đội, đó là một thử thách nguy hiểm. Ai
vượt qua được trong sáu tháng đầu, không
được tổ quốc ghi ơn tặng cho Anh
Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu và
đặc cách thăng chức cho lên “Cố” là khá rồi,
sau đó rút tỉa kinh nghiệm xương máu, học
hỏi thêm cách né đạn. Nhưng đạn tránh mình
chớ mình đâu có thấy đạn đi
đường nào mà né! Sự hiểu biết và kinh
nghiệm tác chiến học hỏi từ quân
trường chỉ là cơ bản nhỏ nhoi so với
thực tế đầy những tình huống phức
tạp của chiến trường. Người lính nào
cũng thắm nhuần câu: “Quân trường đổ
mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”,
đã gắng công ra sức tập luyện. Tuy nhiên chơi
dao có ngày đứt tay, giỡn với súng đạn
hằng bữa thì cũng gặp ngày súng đạn
giỡn lại với mình ..
Nhớ lần đụng
trận đầu tiên, đạn đi âm thanh nghe véo véo
trên đầu mà tôi cứ như người điếc
không sợ súng, cứ dõng lưng đi tới. Lính tráng
cứ tưởng đâu..gặp người hùng thứ
thiệt! Ông Hạ sĩ Nhất mang máy truyền tin
phải kéo tôi nằm xuống tránh đạn. Rồi
một lần khác, đạn bắn xuống mặt
đất ..xịt bụi lên, tôi lại lom khom
định nằm xuống, xém chút nữa là đạn
xuyên qua nón sắt bể gáo dừa!
Trong chiến tranh, con
người ở hai phía thù địch đã suy nghĩ ra
nhiều phương cách để tiêu diệt lẫn nhau
rất quỉ quyệt và tàn nhẫn không bút mực nào
diễn tả cho hết.. Khi giao tranh nơi chiến
trường đôi bên xử dụng những vũ khí đạn
dược, bom đạn có sức công phá mãnh liệt
hũy diệt nhau cho đến vận dụng mưu
kế sắp đặt mìn bẫy hầm chông, chất
độc hóa học...
Tôi đã nhiều lần
đứng lặng người nhìn những cỗ quan tài
bao phủ lá cờ vàng ba sọc
đỏ.
Bạn bè và những người lính cùng đơn vị
của tôi nằm trong đó an giấc nghìn thu mà
thi
thể kẻ thì mất đầu mất tay, người
banh ruột vỡ lồng ngực, thân thể còn lắm
tấm bùn sình vừa được lấy xác từ
chiến trường về và những người lính
Chung sự tạt nước xối rửa sơ sài
trước khi tẩm liệm. Tôi nhiều lần
đứng lặng, câm họng không thốt nên
được một lời gì để an ủi
những người vợ, người mẹ,
người thân của các bạn bè, chiến sĩ trong
đơn vị hy sinh đền nợ nước.
Lần sau cùng tôi rời
khỏi đơn vị nơi đã để lại cho
tôi nhiều kỷ niệm khó quên, là lần tôi đứng
nghiêm đưa tay run run chào vĩnh biệt trước
linh cửu của Alfa, cấp chỉ huy và cũng là
người anh trong quân đội đã dìu dắt tôi,
kề cận tôi, chia sẻ hiểm nguy, vui buồn
đời lính. Bà Alfa đầu chít khăn tang trắng
đứng ôm đứa con nhỏ còn đỏ hỏn chưa
đầy tháng khóc thút thít ở một góc bên những
tấm liễn và tràng hoa phúng điếu chia buồn cùng
gia đình người quá cố. Tội nghiệp
đứa bé chưa biết mặt cha thì cha của nó
đã ra người thiên cổ.
Giỡn với súng đạn
là điều chẳng đặng đừng! Alfa đã
dầy dạng chiến trường mà cũng không né
được trái đạn B40 của VC lúc hai bên đánh
sáp lá cà, bắn gần khiến cho ông bị mất một
phần thân thể, ra đi bỏ lại các chiến
hữu của mình, bỏ lại người vợ
trẻ và đứa con vừa chào đời chưa
kịp thấy mặt. Trận đó, nếu tôi không đi
phép.. có lẽ tôi cũng đã đi theo Alfa về bên kia
thế giới. Người lính mang cây đàn không đi
theo ông Thầy của mình, tôi thấy anh ngồi ủ
rủ ở một góc bàn gần đó. Một số
sĩ quan lớp chết trận, lớp bị
thương nặng nhẹ, đa số binh sĩ chết
trận và bị thương nặng chở về nằm
la liệt. Thằng Phát thì bị thương nơi tay, tôi
vào Quân Y Viện thăm nó và những người
thương binh trong đơn vị đang nằm
điều trị.
Gặp tôi Phát vui mừng:
-Ê, Hotel .. mầy hên lắm
đó! Nếu không mầy lên lon trước tao là kể
chắc. (tên tôi chữ H, trong đặc lịnh
truyền tin chữ H gọi là Hotel). ÐM ..! Tụi nó tới 2
Tiểu đoàn quyết lòng dứt điểm mình. Tụi
tao xả láng hết kẹo, hết lựu đạn
rồi sáp lá cà múa kiếm như ciné…
Tôi thấy Phát trong giờ phút
nầy mà nó còn giỡn được, nên hỏi đùa
với nó:
-Mầy múa kiếm với VC cái
hả?
Phát cười méo xẹo nói:
-Phải gặp VC cái cũng
đỡ, đâu có kiếm đế đâm tao. ÐM ..,tao
vật lộn với cái thằng chết bằm, nó
để cho tao một nhát .. đau thấy mấy ông
trời! Tao cũng..lịch sự tặng lại nó
một nhát, nó nằm xui cò...
Chợt Phát nghiêm mặt
lại, giọng buồn hỏi tôi:
-Mầy đã xuống Nhà
Vĩnh Biệt chưa?
-…Rồi ..Tôi đáp nhỏ.
Phát nhìn tôi tròng mắt
đỏ hoe, im lặng một lúc rồi nói:
-ÐM ..,kỳ nầy theo ông theo bà
hết ráo! Ðám thằng Trường bên Ðại đội 2
cũng tiêu luôn.. .Tiểu đoàn của mình chắc
phải đi hấp lại..
Tôi im lặng nhìn Phát, mình nó
chỉ mặt có chiếc quần màu xanh lam của bệnh
viện, cởi trần, một cánh tay đang quấn
băng trắng và lõm chõm băng keo dán trên mặt, trên
ngực để che đậy những vết
thương lớn nhỏ vì miểng lựu đạn,
vì lưỡi lê đâm, mà lòng mình quặng đau ..Phát
được trực thăng tìm thấy và mang nó về
cứu sống kịp lúc.
Tôi lo lắng cho Phát, tôi hỏi
nó:
-Mầy có tin cho gia đình
biết mầy vào đây chưa?
-Chưa, tao không muốn,
sợ ở nhà lo.
-Cô Nở có vào thăm mầy
không?
-Có, mỗi ngày từ lúc tao vào
đây.Từ sáng ở tới tối, bịnh viện
đuổi mới về. Nở mới vừa đi mua
thức ăn thì mầy đến.
Thằng Phát cũng
được an ủi khi có người yêu của lính
kề cận chăm sóc, nâng khăn sửa súng, chuyện
trò cho đỡ buồn đời lính xa nhà và trong lúc
gặp hoạn nạn. Cô Nở không may mắn vừa
đưa tay chạm phải cánh mai ..thì hoa mai đã héo úa
thê thảm, nhìn phát chán..không biết cô có nản lòng
không?
Tôi ngồi nhìn mông lung ra cửa
sổ. Hành lang của bệnh viện qua lại những
người thương bịnh binh, kẻ chống
nạng khập khểnh, người đang ngồi trên
xe lăn, người thì đang ngồi cô đơn nhìn
trời hiu quạnh ..Họ đã trở về đây
từ các mặt trận và một số đã gởi
lại vùng đất cuối con đường quê
hương bùn mềm nầy một phần thân thể.
Thằng Phát và đám người kia rồi đây sẽ
được đưa ra Hội Ðồng Giám Ðịnh Y
Khoa phân loại thương phế binh tùy theo cấp
độ tàn phế cho giã từ vũ khí. Còn tôi, không biết
những ngày sắp đến sẽ ra sao .. khi mà tôi ngày
ngày vẫn còn tiếp tục
trao đổi ân thù bằng súng đạn với những
người bên kia khác chiến tuyến?
* * *
Tháng Tư.. dang dở..!
Tôi lái xe honda chở Hoa ra bến xe đò
Bạc-Liêu để đưa nàng đi Sàigon chuyến xe
sớm nhất buổi hôm ấy vào khoảng gần
giữa tháng Tư năm 75, trời vừa hừng đông
sáng, phố xá vẫn còn chập chờn chưa tỉnh
giấc, hơi sương lạnh phủ đầy lên
mặt tôi. Tôi cho xe đi chầm chậm, tay mặt
nắm tay lái, còn tay trái tôi nắm chặt lấy bàn tay
của Hoa đang ôm choàng qua bụng tôi. Hoa ép sát
người vào lưng tôi như để truyền sang cho
tôi hơi ấm..,như để bấu víu, níu kéo thêm hơi hướm hạnh phúc
mà nàng lưu luyến tiếc nuối vì trong khoảnh
khắc ngắn ngủi sắp đến nàng phải
tạm lìa xa tôi …
Hoa thì thầm bên tai tôi,
tiếng nói của nàng thỉnh thoảng bị tiếng
gió ù ù loãng đi, tôi phải hơi nghiêng đầu qua
kề tai mình gần mặt của nàng.
-Anh à, em đi Sàigòn lâu lắm là
một tuần sẽ trở về. Em cố gắng thu
xếp công việc nếu xong sớm em sẽ về
sớm..chớ xa anh..em nhớ anh lắm! Em không muốn
ở trển lâu đâu..
Tôi xiết mạnh bàn tay
của Hoa như thầm nói với nàng tôi cũng có cùng tâm
trạng nhớ thương:
-Em về Sàigòn nhớ ghé
lại nhà anh để thăm gia đình dùm anh nghen, cả
năm rồi anh chưa có phép về thăm nhà.
-Dạ! Dù cho bận rộn cách
mấy em cũng ráng thu xếp ghé thăm để ..ra
mắt gia đình của anh mà ..
Nói xong Hoa cười khúc khích và
tay bóp mạnh vào bụng tôi. Tôi lên tiếng hỏi Hoa:
-Ðịa chỉ nhà của anh
đưa cho em, em đà cất vào bóp rồi hả?
-Dạ ..rồi.
Tôi vẫn còn lo lắng cho Hoa ra
đi giữa lúc tình hình đang trong cơn dầu xôi
lửa bỏng, nhưng vì công việc buôn bán của gia
đình, nàng chẳng đặng đừng phải làm cái
công việc mà nàng vẫn phải làm hàng tháng trước
đó, trước và sau ngày tôi và Hoa gặp nhau; hàng tháng
nàng phải đi Sàigòn để mua thêm hàng hóa và liên lạc với
những dịch vụ có liên hệ đến công ăn
việc làm hiện có. Ðây là lần đầu tiên tôi muốn
trình diện Hoa với gia đình tôi sau thời gian hai
đứa quen nhau. Không như những lần đi Sàigòn
trước đó của Hoa, lần nầy tôi cảm
thấy lo lắng, không yên trong lòng. Tôi dặn dò Hoa:
-Tình hình đang lúc rối ren
lắm, em phải cẩn thận nghen. Nếu mà Việt-cộng
có phá đường, đấp mô hay giật xập
cầu thì em không nên đi, quay trở lại.
-Dạ ..,em biết. Anh an tâm.
Tôi phụ mang cái valise quần áo
và cái giỏ xách tay đựng linh tôm khô, lạp
xưởng, khô cá mặn, đặc sản của xứ
“muối “ Bạc-Liêu mà Hoa mua mang theo để tặng cho
gia đình tôi lúc nàng ghé thăm lên xe và đặt để
vào cái ngăn đựng hành lý, xong tôi ngồi cạnh bên
nàng ở cái ghế trống kế bên chưa có ai ngồi.
Hoa ngả đầu dựa vào vai tôi, tôi hôn lên mái tóc xõa lòa
xòa của nàng, cố thu hút vào buồng phổi của mình
với một lượng chứa tối đa
hương vị quyến luyến yêu thương quen
thuộc để dự trữ cho những ngày sắp
đến, khi vắng nàng. Tôi rời nàng và bước
xuống xe sau nụ hôn môi vội vả mà Hoa e thẹn vì
mắc cỡ, sợ có
người chung quanh nhìn thấy, vì ở cái xứ gần
tận cùng của đất nước, nơi mà chín
mươi tám phần trăm quí bà miệng còn nhai trầu
ngỏm ngoãm, xỉa qua lại cục thuốc rê, khi
giận ai, lấy cục thuốc chọi vào mặt,
nạn nhân sẽ bị
rổ mặt.. mà thấy được một kẻ dám
biểu lộ tình yêu theo kiểu “Tây phương” trước
công chúng, ai cũng tò mò muốn nhìn xem nó thế nào!
Tôi đứng lặng nhìn Hoa đang lẫn
khuất, lao xao trong đám hành khách ngồi trên chiếc xe
đò cho đến lúc xe rời bến. Tôi thấy nàng
như cố gượng ngóng nhìn lại tôi và giơ tay
vẫy nhẹ chào tạm biệt. Tôi vẫy tay chào
lại. Không biết ngồi trên xe chật nức
người chen chúc, Hoa có thấy tôi vẫy tay chào nàng hay
không? Lần vẫy tay chào đó là lần chào vĩnh
biệt! Tôi và Hoa vĩnh viễn xa nhau.
Hoa đi rồi, tôi chợt
buồn, lo lắng cảm thấy luyến lưu mất
mát nàng. Tôi trở lại đơn vị của mình làm
việc. Từ ngày tôi bị thương nhẹ trong
một lần chạm súng với Việt-cộng, nằm
ở bệnh viện Bạc-Liêu, xuất viện tôi
được đổi về phục vụ nơi không
tác chiến ở gần Thị xã. Phố xá Bạc-Liêu
đối với tôi vẫn còn xa lạ, mặc dù vùng
đất cuối con đường quê hương
nầy tôi đã in dấu giầy ở khắp mọi
nơi trên bước đường hành quân.
“Bạc liêu nắng bụi
mưa bùn”
Trong một ngày nắng bụi của
Thị xã Bạc-Liêu, có người lính trẻ đi chinh
chiến miền xa, chiến y và giầy trận đã
vướng bụi đường sương gió, nay
lại vương vấn vướng thêm..bụi hồng
của vùng đất xa lạ.
Tôi gặp Hoa, gia đình nàng có
cửa hàng mua bán ở phố chợ Thị xã Bạc-Liêu
nhân một bữa tôi đến mua vài thứ cần dùng và
vì cảm mến cô bán hàng nên cà kê dê ngỗng cho đến
lúc cô đóng cửa tiệm, tôi tình nguyện dọn
dẹp đóng cửa dùm cô. Cô chủ thấy tôi siêng
năng giỏi dắn, cho nên kể từ hôm ấy cô
đã “chấm” tôi, chọn làm người mở cửa và
đóng cửa hàng cho cô suốt đời ..và tôi, tôi
cảm thấy vui sướng, hạnh phúc được
làm công việc ấy. Tôi cảm thấy mình không còn cô
quạnh nữa, mỗi buổi chiều tôi có
được chỗ dừng chân nơi cái tỉnh lẻ
xa xôi gần cuối dãy đất của quê hương
yêu dấu “Bạc
liêu nắng bụi mưa bùn, dưới sông cá Trốt, trên bờ
Triều Châu”, như hai câu thơ dân
giả mà tôi có lần nghe được khi vừa
đặt chân đến đất nầy. Tôi cảm
thấy ấm lòng, được an ủi nơi xứ
lạ quê người và liên tưởng đến
những viễn ảnh tương lai hạnh phúc tốt
đẹp đang chờ đón mình chớ không như
những ngày đầu mới đến đây, tôi rão
bước lang thang giữa phố chợ, lúc đó, tôi cũng
không biết mình đi đâu và cứ quanh đi quẩn
lại la cà ở nơi các quán cà phê bên vỉa hè, hút vài
điếu thuốc lá lẻ..
Hoa đi Sàigòn được ba
ngày thì quốc lộ 4 bị cắt đứt ở
địa phận tỉnh Long-An, nàng không thể trở
về Bạc-Liêu được, đành phải nán lại
Sàigòn chờ.
Sau khi Tổng thống Dưong
văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh yêu cầu tất
cả quân đội buông súng, tôi cùng chung số phận
như các Quân, Cán, Chính của miền Nam Việt- nam, âm
thầm tự động rả ngũ trong tâm trạng
hoang mang bức xức..
Sáng ngày 30/4/75 bộ đội
và du kích Việt cộng địa phương vào tiếp
thu tỉnh Bạc- Liêu; đàn ông, đàn bà, con nít đi chân
đất, vai mang súng AK lũ lượt kéo nhau tiến
về các cơ quan chính quyền Tỉnh để
“tiếp thu”. Một số dân “Cách mạng 30” tay mang
băng vải màu đỏ đi tới lui để
hướng dẫn đường. Tôi đứng bên
lề đường nhìn làn sóng người hỗn
độn vừa đi vừa chạy vô trật tự
trên con đường chính của Thị xã mà lòng quặn
đau cho một cuộc đổi đời và những
viễn ảnh tương lai đen tối sắp
đến của đất nước nầy không biết
sẽ đi về đâu?
Tôi đến nhà của Hoa
từ giã Mẹ cùng các anh chị em của nàng tôi trở
về Sàigòn. Rạng sáng sớm hôm sau, tôi cùng người
bạn lính đón xe honda ôm đi ra bến xe để
về Sàigòn. Chúng tôi phải nhiều lần xuống xe,
đổi xe, trút bỏ các giấy tờ và đồ
đạc mang theo, chỉ giữ lại tấm căn
cước dân sự để trình cho đám ngườì
đứng dọc đường mang súng AK sét hỏi. Sau
khi qua bắc Mỹ-Thuận vào khoảng 6 giờ chiều
cùng ngày, xe đi một đổi nữa đến Long
Ðịnh- Mỹ Tho thì khúc lộ bị chắn ngang, tất
cả xuống đì bộ. Tôi về đến Sàigòn vào
khoảng rạng sáng hôm sau. Dọc đường đi,
tôi nhìn thấy xác chết nằm ngổn ngang, xác xe cộ
cháy, cảnh đồ đạc vung vãi của
người bỏ của chạy lấy thân.
Gia đình tôi vui mừng
thấy tôi còn sống sót trở về trong cơn biến
loạn.
Sáng hôm sau, cả nhà quay quần
chung quanh chiếc bàn tròn ăn sáng, mẹ tôi như sực
nhớ, bà quay sang tôi nói:
-Hai tuần trước có cô Hoa
..nói là bạn của con ở Bạc-Liêu đến
thăm ba mẹ. Cô bé thật là dễ thương ..
-Dạ đúng, con có nhờ cô
Hoa đến thăm gia đình mình ..
Mẹ
tôi nhìn tôi, bà tiếp lời:
-Con nói thật cho ba mẹ nghe,
con đà có tình ý gì với Hoa chưa để ba mẹ thu
xếp đến gặp gia đình của Hoa.
Không có gì qua mắt
được mẹ của tôi, tôi đành phải thú
thật cho gia đình biết tôi và Hoa đã yêu nhau. Cả
nhà tôi ai cũng tán thành.
Ba tôi đưa ra ý kiến:
-Chờ vài hôm nữa tình hình yên
ổn, ba với con đi Bạc-Liêu.
Tôi
nghe ba tôi nói mà rộn rã trong lòng ..
Tôi đi trình diện với
chính quyền mới theo lệnh ban hành đối với
cựu quân nhân của chế độ cũ,
được ban Quản huấn Thành Phố cấp cho
giấy chứng nhận tạm, tôi chưa dám đi đâu
vì tình hình chưa ổn thì lại có thông báo cho tất
cả các cựu sĩ quan cấp Úy và viên chức chánh
quyền cũ chuẩn bị khăn gói 10 ngày trình diện
đi “học tập cải tạo” để am
tường chính sách của nhà nước. Tôi cũng
như những người cùng chung số phận
chuẩn bị khăn gói trình diện đi “học
tập cải tạo”…và đi luôn không hẹn ngày trở
lại!
Mãi đến mấy năm sau,
khi tôi được Cộng sản phóng thích cho về gia
đình, phải chịu
sự
quản chế của chính quyền địa
phương và không được phép cư trú tại Thành
phố, Thị xã. Lúc nầy gia đình của tôi đã
rời Sàigòn đi về quê, thay gì đi Vùng Kinh Tế
Mới được chỉ định theo kế
hoạch của nhà nước. Tôi về nhà
được ba hôm, nghe ba mẹ tôi thuật lại, cô Hoa
có trở lại Sàigòn tìm tôi một ngày sau khi tôi đi trình
diện “học tập cải tạo” và nàng đã khóc
nức nở, vì đến trễ, không gặp
được tôi. Nhớ đến Hoa, tôi vội vã
viết gởi về người Bạc-Liêu lá thơ
với một hy vọng mong manh nào đó…Tôi nhờ qua
địa chỉ của đứa em chớ không dám ghi
tên họ của mình vì bản thân tôi đang bị
“quản chế” (tù tại chỗ )sợ đám công
an địa phương theo dõi. Gần hai tháng sau, tôi
nhận được lá thư hồi âm gởi từ
Bạc-Liêu:
Anh Minh,
Nhận được thư
của anh em sững sờ, tưởng như mình đang
nằm mơ. Em mừng anh được trở về
sum hợp với gia đình
chấm dứt những ngày anh lang thang khốn đốn,
nhưng nước mắt em tuôn trào…Em khóc! Khóc vì ..anh
trở lại với em ..quá muộn màng!
Em đã mõi mòn đợi
chờ tin anh, em mấy lần trở lại thành phố
để tìm gặp gia đình anh, nhưng gia đình anh
đã dời
chỗ ở đi nơi khác. Em đã khóc rất
nhiều lúc xa anh và đã sống trong niềm hy vọng
mong manh ngày gặp lại anh trong buối giao thời,
ở cái khung cảnh và sinh hoạt cũ..,nhưng vắng
bóng người xưa!
Minh
ơi!…
Chinh chiến đã mang anh
từ một nơi xa xôi đến Bạc- Liêu với em,
mang đến cho em những ngày thật hạnh phúc
của thời con gái mộng mị yêu đương và e
ấp chuyện lứa đôi, được có anh bên em,
rồi ngày thanh bình của đất nước (?)đã
mang anh đi.. vĩnh viễn xa em…! Em đã mất tất
cả, chỉ còn lại trong em cái bóng hình của anh,
một người lính trận hôm nào khoác áo phong
sương, chiến y nhuốm màu đồng chua
nước đỏ. Anh ra đi, bỏ lại cho em
một khung trời kỷ niệm ..cùng những
ước mơ héo hắt theo từng ngày trông ngống tin
anh ..!
Anh Minh ơi, vì hoàn cảnh, em
đã lập gia đình và có một con (bé gái, cháu vừa
tròn 3 tháng), em gởi tặng anh hình con gái đầu lòng
của em.
Minh ơi,
Nếu kiếp nầy mình có
duyên mà không có nợ, thôi đành hẹn nhau kiếp khác nghe
anh. Bạc-Liêu dầu trong cơn nắng bụi hay mưa
bùn trơn trợt, lúc nào và mãi mãi có người con gái
thiết tha yêu chàng lính chiến. Anh đã rũ áo phong
sương đượm thắm bụi đường
của Bạc-Liêu những ngày nắng chứa chan, anh
đã cởi bỏ đôi giầy trận lấm bùn sình
của quê em vào những ngày mưa dầm lầy lội …,
xin anh hãy giữ lại một chút ân tình nầy của em
nghen anh …
Mãi mãi em yêu anh
Hoa
Hỡi người
Bạc Liêu ơi ..! Hỡi cuộc đời dâu bể …
Ôi ..! tháng
Tư dang dở..!
Minh Vũ
Nguồn: http://xaydunghouston.com/TruyenNgan/648-MienDatCuoi.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét