- Feeds:
Cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng
tháng 9-2010
Tình hình đất nước VN hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt. Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của ĐCSVN từ 34 năm nay, nước VN thống nhứt hiện là một trong 10 nước nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống trị của TQ.
Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất Nước và Mất Dân Tộc VN đang ló dạng trên quê hương thân yêu của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và Mất dân tộc” giống như tôi. (Đinh Quang Anh Thái/Người Việt, “Mất dân tộc còn tệ hơn mất nước”, Người Việt số 8616 ngày 10 tháng 7, 2009, California, Hoa kỳ).
Nội dung bài thuyết trình của tôi hoàn toàn căn cứ vào các sự kiện cụ thể, các sách báo đứng đắn, các sử liệu chính xác và các nguồn tin khả tín của TQ.
Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, Cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận định chính xác về tương lai của nước VN. Trong quyển sách biên khảo rất công phu tựa đề “Chính Đề VN”, tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt CS (nước VN Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước VNCH), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước VN sẽ lệ thuộc TQ. Lời tiên đoán nầy của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và ngoài nước.
I – Nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh VN.
Hai cuộc chiến tranh VN kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thế giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của TQ đối với các nước trong bác quốc liên quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa trong thế kỷ 19. Thua kém các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc cộng sản Liên Xô và TQ đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi.
Riêng tại VN, Liên Xô và TQ đã sử dụng một cán bộ cộng sản đệ tam quốc tế từ năm 1924 là HCM để tiến hành chiến tranh đánh phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á. Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhứt đất nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ vì quyền lợi của họ. Trong hai cuộc chiến tranh VN, vai trò và ảnh hưởng của TQ lớn hơn Liên Xô vì các lý do sau đây :
1) Giáp giới VN, TQ là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với VN. Nhưng TQ đã mất ảnh hưởng đối với VN từ giữa thế kỷ 19. Giúp đỡ cho ĐCSVN tiến hành chiến tranh sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho TQ tái lập ảnh hưởng đối với VN .
2) Để tránh đụng chạm với Pháp, Liên Xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền HCM; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho TQ viện trợ ĐCSVN đánh Pháp nhưng từ chối viện trợ trực tiếp cho HCM. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền HCM năm 1950 và viện trợ dồi dào cho ĐCSVN về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự, binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân đội Pháp”. Giải phóng quân TQ còn chủ động tham gia các trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất khê và Điện biên phủ dưới quyền chỉ huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho ĐCSVN chiếm được nửa nước VN. (Xem tập tài liệu “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự TQ Viện Trợ VN Chống Pháp”, Nhà Xuất bản Lịch sử ĐCSTQ, Bắc Kinh, 2002) Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến năm 1975, TQ đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt điều động xuống chiến trường miền Nam VN. Liên Xô chỉ viện trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.
3) Từ khi từ Moscowa về Diên An (thủ đô của Hồng quân TQ) năm 1938 đầu quân Mao Trạch Đông, HCM đã tận tình phục vụ TQ nhiều hơn Liên Xô vì Ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của một nhân vật Tình báo Tàu trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN, HCM đã gia nhập ĐCSTQ. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ đã thi hành công tác của một đảng viên do ĐCSTQ giao phó. Ngoài viên chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn thương thuyết của TQ về ranh giới mới trên đất liền và biển cả giữa TQ và VN còn đe dọa TQ sẽ công bố các cam kết bí mật của HCM với ĐCSTQ để làm tiêu tan sự nghiệp (legacy) của HCM và ĐCSVN.
II – Tham vọng bá quyền của Trung Cộng và các hành động bán nước của ĐCSVN.
Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc VN, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước VN. Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ hiện nay, VN là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến nay, người Tàu luôn luôn xem nước VN là một quận, huyện của TQ. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước VN chúng ta đã phải hứng chịu nhiều đau khổ và tủi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm 938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã nhắc nhở người VN chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN chống lại âm mưu thôn tính của TQ với sự tiếp tay của bọn tay sai bán nước là ĐCSVN.
Trong thời đại ngày nay, TQ đã áp dụng một chiến lược thôn tính VN rất tinh vi và hiểm độc. Để thực hiện dễ dàng tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ, người Tàu cần phải phá tan tinh thần đoàn kết của người VN và tiêu diệt sinh lực của dân tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nầy, ĐCSTQ đã sai khiến HCM và ĐCSVN liên tục tiến hành chiến tranh trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước VN, giết chết cả chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ, thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng VN của TQ đã thật sự bắt đầu từ năm 1950 với kế hoạch viện trợ cho HCM và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị trí chiến lược trọng yếu của VN và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp ủy đảng để sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính VN. Đồng thời với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, TQ đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn chiếm lãnh thổ VN thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của HCM, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của TQ đã đạt nhiều kết quả trong âm mưu đô hộ VN. Theo lịnh của TQ, HCM và ĐCSVN đã đả kích chủ nghĩa quốc gia dân tộc là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, HCM và ĐCSVN đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kể lãnh thổ do tiền nhân chúng ta dầy công xây đắp và bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của HCM và ĐCSVN cần phải được phơi bày ra trước ánh sáng để lịch sử và các thế hệ trẻ VN sanh sau năm 1975 cùng thế giới văn minh phán xét :
1) Chuyển nhượng cho TQ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Do quyết định của HCM và bộ Chánh trị ĐCSVN, Thủ tướng nước VN Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ xác định chủ quyền của nước nầy trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của VN Cộng Hòa (miền Nam tự do) vì nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân TQ tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân VN Cộng Hòa chận đánh ngày 19-01-1974 để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ VN, Hà Nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn. Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà Nội đã chứng minh HCM và ĐCSVN luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của ĐCSVN đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho TQ và đền đáp ơn nghĩa của TQ đã giúp đỡ HCM và ĐCSVN lên ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc VN sau chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng TQ Vi Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đẩy HCM và ĐCSVN tích cực phục vụ TQ, mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á, tiến chiếm biển Đông (South China Sea), đặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con đường đi ra hải phận quốc tế của VN và kiểm soát giao lưu hàng hải quốc tế giữa Thái bình dương và Ấn độ dương. Quyết định chuyển nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ chứng tỏ ĐCSVN là chủ nhân thật sự của đất nước VN có quyền cho không hay bán một phần lãnh thổ mà không cần phải thông báo Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn. Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào có thể thâu hồi quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã .
2) Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho TQ.
Lần đầu tiên trong lịch sử VN, đảng Cộng sản là một nhà cầm quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình Luật do Nguyễn Trãi soạn thảo có một điều khoản phạt tử hình người dân bán đất thuộc quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân. Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh-Phạm văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với thiên triều Bắc kinh, ĐCSVN đã chuẩn bị một cống phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến TQ một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa coi như trả một phần món nợ viện trợ của TQ trong cuộc chiến tranh VN lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người VN vô tội. Cống phẩm nầy đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại biên giới Việt Hoa ngày 30-12-1999 theo chỉ thị của Lê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của ĐCSVN đã bị Bắc kinh sai khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước nầy đã chuyển nhượng cho TQ trên 1.000 km2 đất liền ở biên giới Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thổ VN một số địa danh quan trọng như phía Bắc Sa Pa, ải Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản VN đã cùng với TQ tổ chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc biên giới mới có lợi cho TQ.
3) Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin).
Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như sau: VN: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, TQ đòi phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh hưởng của TQ, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 để đáp ứng yêu sách của TQ nhưng chỉ muốn xin lại 6% mà thôi. Theo hiệp ước mới nầy, VN mất 14.000 km2 biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoãn của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, Thủ tướng Chu Dung Cơ của TQ, người thay thế Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho VN cộng sản 2 tỷ Mỹ kim dưới hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được TQ xem như tiền mua một phần biển của VN trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là Cộng sản VN đã bán biển cho TQ để lấy 2 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ quyền lợi của quốc gia VN bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản VN đã trì hoản đến năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với ĐCSVN để nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biển trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội VN cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức Mạnh sẽ là Tổng Bí thư ĐCSVN. Nông Đức Mạnh là hậu duệ của HCM được TQ hậu thuẫn mạnh mẽ để tiếp nối sự nghiệp bán nước của cha y .
4) Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả.
Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Bắc Việt” của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN vẫn chưa thỏa mãn tham vọng thôn tính VN của TQ. Bộ Chánh trị ĐCSVN lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho TQ 22.000 (hai mươi hai ngàn) km2 biển VN từ Quảng Ninh đến Quảng Ngãi dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả giữa hai nước TQ và VN. Đáp ứng yêu cầu của TQ, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 để giao cho TQ trọn quyền kiểm soát và khai thác biển Đông nằm trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN ở phía Bắc Quảng Ngãi (vĩ tuyến 15). Căn cứ vào hiệp ước nầy, TQ đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của VN, bắn giết và bắt phạt ngư dân VN vi phạm các biện pháp hành chánh của họ, xua đuổi hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với VN cộng sản thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của VN. Nhà cầm quyền cộng sản VN không dám phản đối TQ để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và ngư dân VN .
Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với TQ năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản VN xem như một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn. Hiệp ước nầy đã mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt Nam dưới 12 hải lý.
Để chánh thức hóa sự chuyển nhượng vĩnh viễn cho TQ quần đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngãi), nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã không đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 và tuyên bố không có tranh chấp trong vùng biển nầy (vì đã chuyển nhượng cho TQ).
5) Tại 18 tỉnh giáp ranh TQ, CSVN đã cho thuê khoảng 300.000 hecta đất rừng miễn phí đến 50 năm, nhường đất biên giới Trà Cổ cho TQ thuê xây dựng sân gôn và các công trình dịch vụ trên mảnh đất địa đầu Trà Cổ đẹp nhất với chiều dài tới 3 km, lại phải dời cả đồn biên phòng, chùa chiền để cho TQ thuê trong 50 năm. CSVN cố tình hay ngu dốt cho thuê dài hạn những vùng đất địa đầu giáp liền với một TQ tham lam lúc nào cũng dã tâm nuốt chửng VN, biết bao vùng đất biên giới đã bị TQ chiếm đoạt, thậm chí ở Vũng Tàu – Côn đảo cũng thấy cột mốc «Thổ địa giới tiêu», rõ ràng sẽ tiềm ẩn biết bao bất trắc về an ninh, thế mà người ta lại có thể nhắm mắt ký và ký.
Đâu có thể đơn giản cho rằng những người cán bộ lãnh đạo kia quá đần độn ngu dốt, không hiểu biết gì hết hoặc là vì lợi lộc quá lớn, lòng tham không thể chối nổi nên nhắm mắt ký bừa ? Hay đã có một chủ trương do TQ áp đặt ?
Ông Ngô Đức Thọ nói về cách ứng xử của báo chí VN với việc TQ tuyên truyền kích động, thù hận với VN : “Tôi không tin rằng các bạn không động lòng trước bầu không khí quái quỷ bài xích VN bên kia ải Bắc…Thông tin về những ngôn từ hành động lếu láo của những kẻ đó cho toàn dân ta biết thì có lỗi gì đâu mà phải kiêng kỵ ?… Các báo chí VN cố tình bưng bít, giấu giếm không cho dân biết những giọng điệu và hành động của kẻ hiếu chiến…. Chừng nào giọng điệu hung hăng ấy loang rộng ra đủ nóng thì chẳng còn chữ vàng nào nữa để mà ôm hôn”. (Thuấn Nghiêu – HT Mạng Bauxite VN)
6) Trung Cộng hiện nay có một chiến lược đi thuê đất, mặt biển dài hạn (30-50-99 năm) nhiều nơi trên thế giới mà VN là một địa chỉ béo bở và khá dễ dàng. Diện tích mặt nước ven bờ từ Quảng Ninh, vào đến Khánh Hòa, Ninh Thuận, Vũng Tàu, Kiên Giang, Phú Quốc đang được chuyển nhượng cho tư nhân trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các bãi tắm ven biển rất đẹp ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Quốc, cũng được giao cho các doanh nhân trong và ngoài nước tự khoanh vùng hoặc thuê dài hạn. Nhiều đoạn bờ biển trở thành bất khả xâm phạm không chỉ với các du khách mà còn ngay cả với người địa phương. Doanh nghiệp thuê diện tích rộng nhất, lâu năm nhất là công ty ngọc trai của Đài Loan, hoạt động tại Nha Trang, với trên 440 hecta. TQ được quyền sử dụng mặt bằng vùng biển Bắc Cam Ranh, để tiến hành xây các khu nghỉ mát, resort,… đến 30-50 năm. Các ngư phủ VN khi ra khơi kiếm sống, gặp nạn ngoài biển, bị dám mở miệng. Một ngư dân ở Nha Trang nói : “Mình yêu nước thầm lặng, chứ phát biểu ra như dùng truyền đơn, đi biểu tình, nói này kia thì mình không được quyền nói, chỉ nói bằng ánh mắt thôi, ngao ngán lắm. Ở Nha Trang đã có quá nhiều công ty thuê bãi biển, nên khi người dân muốn ra đó thì khó khăn lắm, phải băng qua mặt bằng do người ta sử dụng, nếu người ta không thích cho dân đi qua thì họ có quyền giăng hàng rào, người ta cấm. Những khắc khoải, ưu tư, sầu não thì ít khi dám biểu lộ, nói ra không có lợi gì cho mình.”
Về việc CSVN, “hết cho thuê rừng, lại cho thuê biển”, từ Hà Nội, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế, nguyên cố vấn của CS Hà Nội nhấn mạnh : “Bãi biển rất đẹp ở miền Trung, miền Nam ở Hạ Long, nhà đầu tư nước ngoài họ độc chiếm. Ở một số nơi người dân trong nước gặp khó khăn khi đi tắm ở bãi biển của mình, họ phải đi quá xa, … họ được một số ưu đãi, như là được xây dựng khu nghỉ dưỡng, khu resort, ngay sát bờ biển và họ độc chiếm nơi đó, không thuê phòng của họ thì không vào được. Nếu nhà nước VN không suy xét cẩn trọng thì cả một dân tộc phải trả giá rất đắt trong hiện tại và mãi về sau. (Nguồn RFA). (2 số 5-6 là phần bổ sung của BBT theo báo chí của VN và RFA gần đây).
7) Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần.
Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, TQ đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung phần, một vị trí chiến lược sanh tử của VN. Sau khi khống chế các vùng biển của VN ở phía Đông, TQ có khả năng thành lập một khu tự trị của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung phần ở phía Tây và tách rời nước VN ra hai miền để làm suy yếu sức mạnh của dân tộc VN. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho TQ thôn tính và Hán hóa VN với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản VN hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, VN đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc lần thứ hai.
Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề TQ khai thác bô xít trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cấp nước tiêu dùng cho dân cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hậu quả tai hại nầy sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dân tộc VN. Mặc dầu có sự chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, ĐCSVN vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của viên chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam “tiền đã trao, cháo phải múc”.
III – Âm mưu sáp nhập nước VN vào TQ và Hán hóa dân tộc VN.
Tham vọng thôn tính VN của TQ đã được bộc lộ rõ rệt trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày 03-07-2009. Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam đã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau :
– Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai.”
– “Hợp kết TQ-VN có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc.”
– “Trong tình thế hiện nay, VN không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.”
– “Việc VN trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận, huyện của TQ, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”
– “Sự lựa chọn (giữa TQ và Hoa kỳ) chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí VN tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, TQ vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có VN nhập vào, TQ đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.”
– “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nầy là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng.”
– “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.
– “Một khi VN đã nhập vào TQ thì vùng Tây nguyên của VN là của chung nước ta.”
– “Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc”.
– “Trong thời đại hiện nay…., sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu.”
– “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị”.
Trong khi tổng kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu họ Lương còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến HCM và Nông Đức Mạnh, nguyên văn như sau :
1) “ TQ và VN là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là HCM) trong lễ tuyên thệ gia nhập ĐCSTQ. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: TQ và VN như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể”.
2) “Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì ? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc TQ”.
Nông Đức Mạnh là con tư sinh của HCM đã có với người nữ cán bộ hộ lý tên Nông Thị Ngát bí danh Nông Thị Trưng trong thời gian ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Bằng năm 1940. Nói tóm lại, nếu bản tổng kết cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN sẽ được TQ thực hiện nay mai với sự cộng tác của các Thái thú TQ trong ĐCSVN thì nước VN sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, Dân tộc Việt sẽ bị Hán hóa và trở thành một dân tộc thiểu số trong đế quốc Cộng sản Trung Hoa giống như Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Hồi Cương dưới quyền thống trị của Hán tộc. Đồng bào người Việt ở trong nước và ngoài nước có lưu ý đến các vụ nhà cầm quyền TQ thẳng tay đàn áp và giết người dã man đã và đang xảy ra tại Tây Tạng và Tân Cương hay không ?
Đứng trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân VN mới có đủ sức mạnh cứu nước và dân tộc ra khỏi đại họa thống trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản Hán tộc. Đã đến lúc toàn dân Việt ở trong và ngoài nước phải dũng cảm đứng dậy liên kết chiến đấu đập tan họa nội xâm và họa ngoại xâm, thành lập nền Đệ Tam Cộng Hòa VN trên nền tảng dân chủ pháp trị để bảo vệ sự sinh tồn của Tổ quốc và Dân tộc VN.
ghi lại từ: BaoToQuoc.com
Nguồn: https://vinhdanhcovang.wordpress.com/2011/02/28/nguy-c%C6%A1-m%E1%BA%A5t-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-va-m%E1%BA%A5t-dan-t%E1%BB%99c-vi%E1%BB%87t-nam/
tháng 9-2010
Tình hình đất nước VN hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt. Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của ĐCSVN từ 34 năm nay, nước VN thống nhứt hiện là một trong 10 nước nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống trị của TQ.
Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất Nước và Mất Dân Tộc VN đang ló dạng trên quê hương thân yêu của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và Mất dân tộc” giống như tôi. (Đinh Quang Anh Thái/Người Việt, “Mất dân tộc còn tệ hơn mất nước”, Người Việt số 8616 ngày 10 tháng 7, 2009, California, Hoa kỳ).
Nội dung bài thuyết trình của tôi hoàn toàn căn cứ vào các sự kiện cụ thể, các sách báo đứng đắn, các sử liệu chính xác và các nguồn tin khả tín của TQ.
Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, Cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận định chính xác về tương lai của nước VN. Trong quyển sách biên khảo rất công phu tựa đề “Chính Đề VN”, tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt CS (nước VN Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước VNCH), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước VN sẽ lệ thuộc TQ. Lời tiên đoán nầy của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và ngoài nước.
I – Nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh VN.
Hai cuộc chiến tranh VN kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thế giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của TQ đối với các nước trong bác quốc liên quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa trong thế kỷ 19. Thua kém các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc cộng sản Liên Xô và TQ đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi.
Riêng tại VN, Liên Xô và TQ đã sử dụng một cán bộ cộng sản đệ tam quốc tế từ năm 1924 là HCM để tiến hành chiến tranh đánh phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á. Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhứt đất nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ vì quyền lợi của họ. Trong hai cuộc chiến tranh VN, vai trò và ảnh hưởng của TQ lớn hơn Liên Xô vì các lý do sau đây :
1) Giáp giới VN, TQ là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với VN. Nhưng TQ đã mất ảnh hưởng đối với VN từ giữa thế kỷ 19. Giúp đỡ cho ĐCSVN tiến hành chiến tranh sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho TQ tái lập ảnh hưởng đối với VN .
2) Để tránh đụng chạm với Pháp, Liên Xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền HCM; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho TQ viện trợ ĐCSVN đánh Pháp nhưng từ chối viện trợ trực tiếp cho HCM. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền HCM năm 1950 và viện trợ dồi dào cho ĐCSVN về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự, binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân đội Pháp”. Giải phóng quân TQ còn chủ động tham gia các trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất khê và Điện biên phủ dưới quyền chỉ huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho ĐCSVN chiếm được nửa nước VN. (Xem tập tài liệu “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự TQ Viện Trợ VN Chống Pháp”, Nhà Xuất bản Lịch sử ĐCSTQ, Bắc Kinh, 2002) Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến năm 1975, TQ đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt điều động xuống chiến trường miền Nam VN. Liên Xô chỉ viện trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.
3) Từ khi từ Moscowa về Diên An (thủ đô của Hồng quân TQ) năm 1938 đầu quân Mao Trạch Đông, HCM đã tận tình phục vụ TQ nhiều hơn Liên Xô vì Ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của một nhân vật Tình báo Tàu trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN, HCM đã gia nhập ĐCSTQ. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ đã thi hành công tác của một đảng viên do ĐCSTQ giao phó. Ngoài viên chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn thương thuyết của TQ về ranh giới mới trên đất liền và biển cả giữa TQ và VN còn đe dọa TQ sẽ công bố các cam kết bí mật của HCM với ĐCSTQ để làm tiêu tan sự nghiệp (legacy) của HCM và ĐCSVN.
II – Tham vọng bá quyền của Trung Cộng và các hành động bán nước của ĐCSVN.
Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc VN, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước VN. Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ hiện nay, VN là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến nay, người Tàu luôn luôn xem nước VN là một quận, huyện của TQ. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước VN chúng ta đã phải hứng chịu nhiều đau khổ và tủi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm 938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã nhắc nhở người VN chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN chống lại âm mưu thôn tính của TQ với sự tiếp tay của bọn tay sai bán nước là ĐCSVN.
Trong thời đại ngày nay, TQ đã áp dụng một chiến lược thôn tính VN rất tinh vi và hiểm độc. Để thực hiện dễ dàng tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ, người Tàu cần phải phá tan tinh thần đoàn kết của người VN và tiêu diệt sinh lực của dân tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nầy, ĐCSTQ đã sai khiến HCM và ĐCSVN liên tục tiến hành chiến tranh trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước VN, giết chết cả chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ, thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng VN của TQ đã thật sự bắt đầu từ năm 1950 với kế hoạch viện trợ cho HCM và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị trí chiến lược trọng yếu của VN và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp ủy đảng để sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính VN. Đồng thời với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, TQ đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn chiếm lãnh thổ VN thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của HCM, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của TQ đã đạt nhiều kết quả trong âm mưu đô hộ VN. Theo lịnh của TQ, HCM và ĐCSVN đã đả kích chủ nghĩa quốc gia dân tộc là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, HCM và ĐCSVN đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kể lãnh thổ do tiền nhân chúng ta dầy công xây đắp và bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của HCM và ĐCSVN cần phải được phơi bày ra trước ánh sáng để lịch sử và các thế hệ trẻ VN sanh sau năm 1975 cùng thế giới văn minh phán xét :
1) Chuyển nhượng cho TQ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Do quyết định của HCM và bộ Chánh trị ĐCSVN, Thủ tướng nước VN Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ xác định chủ quyền của nước nầy trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của VN Cộng Hòa (miền Nam tự do) vì nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân TQ tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân VN Cộng Hòa chận đánh ngày 19-01-1974 để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ VN, Hà Nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn. Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà Nội đã chứng minh HCM và ĐCSVN luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của ĐCSVN đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho TQ và đền đáp ơn nghĩa của TQ đã giúp đỡ HCM và ĐCSVN lên ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc VN sau chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng TQ Vi Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đẩy HCM và ĐCSVN tích cực phục vụ TQ, mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á, tiến chiếm biển Đông (South China Sea), đặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con đường đi ra hải phận quốc tế của VN và kiểm soát giao lưu hàng hải quốc tế giữa Thái bình dương và Ấn độ dương. Quyết định chuyển nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ chứng tỏ ĐCSVN là chủ nhân thật sự của đất nước VN có quyền cho không hay bán một phần lãnh thổ mà không cần phải thông báo Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn. Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào có thể thâu hồi quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã .
2) Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho TQ.
Lần đầu tiên trong lịch sử VN, đảng Cộng sản là một nhà cầm quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình Luật do Nguyễn Trãi soạn thảo có một điều khoản phạt tử hình người dân bán đất thuộc quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân. Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh-Phạm văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với thiên triều Bắc kinh, ĐCSVN đã chuẩn bị một cống phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến TQ một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa coi như trả một phần món nợ viện trợ của TQ trong cuộc chiến tranh VN lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người VN vô tội. Cống phẩm nầy đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại biên giới Việt Hoa ngày 30-12-1999 theo chỉ thị của Lê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của ĐCSVN đã bị Bắc kinh sai khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước nầy đã chuyển nhượng cho TQ trên 1.000 km2 đất liền ở biên giới Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thổ VN một số địa danh quan trọng như phía Bắc Sa Pa, ải Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản VN đã cùng với TQ tổ chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc biên giới mới có lợi cho TQ.
3) Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin).
Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như sau: VN: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, TQ đòi phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh hưởng của TQ, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 để đáp ứng yêu sách của TQ nhưng chỉ muốn xin lại 6% mà thôi. Theo hiệp ước mới nầy, VN mất 14.000 km2 biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoãn của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, Thủ tướng Chu Dung Cơ của TQ, người thay thế Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho VN cộng sản 2 tỷ Mỹ kim dưới hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được TQ xem như tiền mua một phần biển của VN trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là Cộng sản VN đã bán biển cho TQ để lấy 2 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ quyền lợi của quốc gia VN bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản VN đã trì hoản đến năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với ĐCSVN để nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biển trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội VN cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức Mạnh sẽ là Tổng Bí thư ĐCSVN. Nông Đức Mạnh là hậu duệ của HCM được TQ hậu thuẫn mạnh mẽ để tiếp nối sự nghiệp bán nước của cha y .
4) Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả.
Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Bắc Việt” của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN vẫn chưa thỏa mãn tham vọng thôn tính VN của TQ. Bộ Chánh trị ĐCSVN lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho TQ 22.000 (hai mươi hai ngàn) km2 biển VN từ Quảng Ninh đến Quảng Ngãi dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả giữa hai nước TQ và VN. Đáp ứng yêu cầu của TQ, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 để giao cho TQ trọn quyền kiểm soát và khai thác biển Đông nằm trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN ở phía Bắc Quảng Ngãi (vĩ tuyến 15). Căn cứ vào hiệp ước nầy, TQ đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của VN, bắn giết và bắt phạt ngư dân VN vi phạm các biện pháp hành chánh của họ, xua đuổi hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với VN cộng sản thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của VN. Nhà cầm quyền cộng sản VN không dám phản đối TQ để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và ngư dân VN .
Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với TQ năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản VN xem như một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn. Hiệp ước nầy đã mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt Nam dưới 12 hải lý.
Để chánh thức hóa sự chuyển nhượng vĩnh viễn cho TQ quần đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngãi), nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã không đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 và tuyên bố không có tranh chấp trong vùng biển nầy (vì đã chuyển nhượng cho TQ).
5) Tại 18 tỉnh giáp ranh TQ, CSVN đã cho thuê khoảng 300.000 hecta đất rừng miễn phí đến 50 năm, nhường đất biên giới Trà Cổ cho TQ thuê xây dựng sân gôn và các công trình dịch vụ trên mảnh đất địa đầu Trà Cổ đẹp nhất với chiều dài tới 3 km, lại phải dời cả đồn biên phòng, chùa chiền để cho TQ thuê trong 50 năm. CSVN cố tình hay ngu dốt cho thuê dài hạn những vùng đất địa đầu giáp liền với một TQ tham lam lúc nào cũng dã tâm nuốt chửng VN, biết bao vùng đất biên giới đã bị TQ chiếm đoạt, thậm chí ở Vũng Tàu – Côn đảo cũng thấy cột mốc «Thổ địa giới tiêu», rõ ràng sẽ tiềm ẩn biết bao bất trắc về an ninh, thế mà người ta lại có thể nhắm mắt ký và ký.
Đâu có thể đơn giản cho rằng những người cán bộ lãnh đạo kia quá đần độn ngu dốt, không hiểu biết gì hết hoặc là vì lợi lộc quá lớn, lòng tham không thể chối nổi nên nhắm mắt ký bừa ? Hay đã có một chủ trương do TQ áp đặt ?
Ông Ngô Đức Thọ nói về cách ứng xử của báo chí VN với việc TQ tuyên truyền kích động, thù hận với VN : “Tôi không tin rằng các bạn không động lòng trước bầu không khí quái quỷ bài xích VN bên kia ải Bắc…Thông tin về những ngôn từ hành động lếu láo của những kẻ đó cho toàn dân ta biết thì có lỗi gì đâu mà phải kiêng kỵ ?… Các báo chí VN cố tình bưng bít, giấu giếm không cho dân biết những giọng điệu và hành động của kẻ hiếu chiến…. Chừng nào giọng điệu hung hăng ấy loang rộng ra đủ nóng thì chẳng còn chữ vàng nào nữa để mà ôm hôn”. (Thuấn Nghiêu – HT Mạng Bauxite VN)
6) Trung Cộng hiện nay có một chiến lược đi thuê đất, mặt biển dài hạn (30-50-99 năm) nhiều nơi trên thế giới mà VN là một địa chỉ béo bở và khá dễ dàng. Diện tích mặt nước ven bờ từ Quảng Ninh, vào đến Khánh Hòa, Ninh Thuận, Vũng Tàu, Kiên Giang, Phú Quốc đang được chuyển nhượng cho tư nhân trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các bãi tắm ven biển rất đẹp ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Quốc, cũng được giao cho các doanh nhân trong và ngoài nước tự khoanh vùng hoặc thuê dài hạn. Nhiều đoạn bờ biển trở thành bất khả xâm phạm không chỉ với các du khách mà còn ngay cả với người địa phương. Doanh nghiệp thuê diện tích rộng nhất, lâu năm nhất là công ty ngọc trai của Đài Loan, hoạt động tại Nha Trang, với trên 440 hecta. TQ được quyền sử dụng mặt bằng vùng biển Bắc Cam Ranh, để tiến hành xây các khu nghỉ mát, resort,… đến 30-50 năm. Các ngư phủ VN khi ra khơi kiếm sống, gặp nạn ngoài biển, bị dám mở miệng. Một ngư dân ở Nha Trang nói : “Mình yêu nước thầm lặng, chứ phát biểu ra như dùng truyền đơn, đi biểu tình, nói này kia thì mình không được quyền nói, chỉ nói bằng ánh mắt thôi, ngao ngán lắm. Ở Nha Trang đã có quá nhiều công ty thuê bãi biển, nên khi người dân muốn ra đó thì khó khăn lắm, phải băng qua mặt bằng do người ta sử dụng, nếu người ta không thích cho dân đi qua thì họ có quyền giăng hàng rào, người ta cấm. Những khắc khoải, ưu tư, sầu não thì ít khi dám biểu lộ, nói ra không có lợi gì cho mình.”
Về việc CSVN, “hết cho thuê rừng, lại cho thuê biển”, từ Hà Nội, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế, nguyên cố vấn của CS Hà Nội nhấn mạnh : “Bãi biển rất đẹp ở miền Trung, miền Nam ở Hạ Long, nhà đầu tư nước ngoài họ độc chiếm. Ở một số nơi người dân trong nước gặp khó khăn khi đi tắm ở bãi biển của mình, họ phải đi quá xa, … họ được một số ưu đãi, như là được xây dựng khu nghỉ dưỡng, khu resort, ngay sát bờ biển và họ độc chiếm nơi đó, không thuê phòng của họ thì không vào được. Nếu nhà nước VN không suy xét cẩn trọng thì cả một dân tộc phải trả giá rất đắt trong hiện tại và mãi về sau. (Nguồn RFA). (2 số 5-6 là phần bổ sung của BBT theo báo chí của VN và RFA gần đây).
7) Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần.
Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, TQ đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung phần, một vị trí chiến lược sanh tử của VN. Sau khi khống chế các vùng biển của VN ở phía Đông, TQ có khả năng thành lập một khu tự trị của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung phần ở phía Tây và tách rời nước VN ra hai miền để làm suy yếu sức mạnh của dân tộc VN. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho TQ thôn tính và Hán hóa VN với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản VN hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, VN đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc lần thứ hai.
Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề TQ khai thác bô xít trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cấp nước tiêu dùng cho dân cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hậu quả tai hại nầy sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dân tộc VN. Mặc dầu có sự chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, ĐCSVN vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của viên chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam “tiền đã trao, cháo phải múc”.
III – Âm mưu sáp nhập nước VN vào TQ và Hán hóa dân tộc VN.
Tham vọng thôn tính VN của TQ đã được bộc lộ rõ rệt trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày 03-07-2009. Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam đã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau :
– Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai.”
– “Hợp kết TQ-VN có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc.”
– “Trong tình thế hiện nay, VN không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.”
– “Việc VN trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận, huyện của TQ, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”
– “Sự lựa chọn (giữa TQ và Hoa kỳ) chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí VN tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, TQ vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có VN nhập vào, TQ đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.”
– “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nầy là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng.”
– “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.
– “Một khi VN đã nhập vào TQ thì vùng Tây nguyên của VN là của chung nước ta.”
– “Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc”.
– “Trong thời đại hiện nay…., sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu.”
– “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị”.
Trong khi tổng kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu họ Lương còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến HCM và Nông Đức Mạnh, nguyên văn như sau :
1) “ TQ và VN là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là HCM) trong lễ tuyên thệ gia nhập ĐCSTQ. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: TQ và VN như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể”.
2) “Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì ? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc TQ”.
Nông Đức Mạnh là con tư sinh của HCM đã có với người nữ cán bộ hộ lý tên Nông Thị Ngát bí danh Nông Thị Trưng trong thời gian ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Bằng năm 1940. Nói tóm lại, nếu bản tổng kết cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN sẽ được TQ thực hiện nay mai với sự cộng tác của các Thái thú TQ trong ĐCSVN thì nước VN sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, Dân tộc Việt sẽ bị Hán hóa và trở thành một dân tộc thiểu số trong đế quốc Cộng sản Trung Hoa giống như Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Hồi Cương dưới quyền thống trị của Hán tộc. Đồng bào người Việt ở trong nước và ngoài nước có lưu ý đến các vụ nhà cầm quyền TQ thẳng tay đàn áp và giết người dã man đã và đang xảy ra tại Tây Tạng và Tân Cương hay không ?
Đứng trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân VN mới có đủ sức mạnh cứu nước và dân tộc ra khỏi đại họa thống trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản Hán tộc. Đã đến lúc toàn dân Việt ở trong và ngoài nước phải dũng cảm đứng dậy liên kết chiến đấu đập tan họa nội xâm và họa ngoại xâm, thành lập nền Đệ Tam Cộng Hòa VN trên nền tảng dân chủ pháp trị để bảo vệ sự sinh tồn của Tổ quốc và Dân tộc VN.
ghi lại từ: BaoToQuoc.com
Nguồn: https://vinhdanhcovang.wordpress.com/2011/02/28/nguy-c%C6%A1-m%E1%BA%A5t-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-va-m%E1%BA%A5t-dan-t%E1%BB%99c-vi%E1%BB%87t-nam/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét