Nguyễn Thanh Hoàng
Dừng
chân trên bến khi chiều nắng chưa phai
.. Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay .. Nếp sống vui tươi
nối chân nhau đến nơi đây .. Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi,
Sàigòn ơi .. Ngựa xe như nước trên
đường vẫn qua mau .. Người xa thăm
bến câu chào nói xôn xao.. Phố xá thênh
thang đón chân tôi đến chung vui .. Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn
ơi, Sàigòn ơi ..
Sàigòn
đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi! Bài nhạc của
Y Vân. Tôi đoán ông cảm tác nó khi di cư vào tới thủ đô
của miền Nam. Ông viết bài nhạc bằng cảm nghĩ chân thật
của một người lần đầu tiên đặt chân tới Sàigòn hoa
lệ. Ông ghi lại vào ký ức vài hình ảnh bắt mắt: một
chiều nắng chưa phai với muôn tà áo tung bay, dĩ nhiên là
của phái nữ, phố xá thênh thang nhộn nhịp ngựa xe như nước
áo quần như nêm. Một nếp sống vui tươi chào đón người
di dân mới. Y Vân đã nói giùm cho hằng triệu người di dân
khác đến Sàigòn từ khắp nẻo đường đất nước. Thi sĩ
Bàng Bá Lân vừa vào Sàigòn cũng yêu thích tâm tình và nếp
sống của người Sàigòn và cảnh đẹp miền Nam ngay qua nhiều
bài thơ của ông, trong đó có những câu như: Yêu xe thổ
mộ xôn xao, Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê;
hoặc: Tôi yêu nắng lóa châu thành, Trận mưa ngắn ngủi,
gió lành hiu hiu. Thật vậy, Sàigòn chợt nắng chợt mưa,
phố phường lúc bấy giờ nhộn nhịp với tiếng vó ngựa
lóc cóc trên mặt đường nhựa của những chuyến xe thổ
mộ lót chiếu chạy các tuyến lộ trình Sàigòn ra khắp các
vùng ngoại ô. Tôi cũng là dân di cư trong khoảng thời điểm
đó. Người di cư đến từ miền Bắc, miền Trung, và họ
cũng đến từ đồng bằng sông Cửu long như câu hát
Anh
từ đồng quê đến; Tôi từ miền cát lên .
Sàigòn
đẹp lắm! Đúng hay sai? Đẹp hay xấu là tùy theo
quan niệm riêng của mỗi người, một câu nghe hoài. Hình ảnh
đứa con bao giờ cũng đẹp trong lòng một người mẹ, một
câu khác nữa. Nhưng đối với đa số thi nhạc sĩ đã từng
gắn bó với Sàigòn, họ ưa thích xem Sàigòn như người tình
hơn, vì chỉ có yêu người tình mới đê mê,thắm thiết,
mãnh liệt, nồng nàn, da diết, lâu dài, suốt cả cuộc đời.
Họ thích gọi Sàigòn bằng một tiếng "em" rung cảm.
Tôi
chết nhát, không dám gọi Sàigòn bằng em. Tôi sợ các vong
hồn tiền nhân Sàigòn vặn cổ. Họ là những nhà tiên phong
khai phá từ xứ Quảng miền Trung gồm các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi
vào đây lập nghiệp dưới thời các chúa Nguyễn từ đầu
thế kỷ thứ mười tám; hoặc là những thuyền nhân người
Minh hương (vì thế mới bị gọi là Ba Tàu) đến từ hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa (cũng lại Quảng nữa!).
Họ là những Ông Lãnh, Bà Chiểu, Thị Nghè, Đỗ Hữu Phương,
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trịnh Hoài Đức, Hui Bòn
Hỏa, Nguyễn An Ninh, Lê Quang Định, Võ Tánh, Trương Tấn Bửu,
Võ Di Nguy, Cha Cả Bá-Đa-Lộc, v.v.
Vong
hồn tiền nhân Sàigòn linh thiêng nhứt là Lê văn Duyệt. Nếu
ông không linh thiêng thì tại sao người dân Sàigòn xây lăng
mộ ông lớn nhất, tôn thờ ông như một vị thần và hằng
năm cúng lễ ông đông nhất để khấn nguyện xin ông phù
hộ. Nếu bạn dám vỗ ngực tự hào xưng là dân Sàigòn thứ
thiệt thì ít nhứt một lần bạn phải đến viếng thăm lăng
Tả Quân Lê Văn Duyệt vào một ngày đầu năm để hái lộc,
để bị khói nhang xông cay chảy nước mắt trong lúc chờ
người yêu làm một quẻ bói xăm. "Lăng Ông", "Vườn Ông Thượng",
không cần phải kể tên, người ta cũng biết "ông" là ai.
Cái oai, cái vía của ông vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng
người dân Sàigòn và đã trở thành bất tử, mặc dầu ông
mất từ lâu lắm, năm 1832.
Tuy
Sàigòn ngày nay bị đổi tên, nhưng đối với người dân
Sàigòn, làm sao ông Hồ Chí Minh được tôn kính bằng ông
Lê Văn Duyệt. Là Tổng trấn thành Gia Định dưới triều
vua Minh Mạng, dưới trướng còn có đứa con nuôi Lê Văn Khôi
gốc người Nùng dũng mãnh, còn có ông Hoành, ông Trấm hầu
cận, Lê Văn Duyệt tỏ ra là một nhà hành chánh giỏi tài
tổ chức và quản trị, có đủ uy danh và đức độ, ai ai
cũng nể vì, kể cả mấy ông vua Cao-Miên thuở đó. Với cây
gươm Thượng-phương-kiếm của vua trao cho quyền tiền trảm
hậu tấu, ông thẳng tay chém đầu kẻ tội, dù người đó
là Huỳnh Công Lý, cha vợ của vua, ông cũng không tha. Ông
có công lớn trong việc mở mang bờ cõi, xây dựng và phát
triển Sàigòn. Trong khi triều đình Huế khắc khe áp dụng
chính sách bài ngoại và bế môn tỏa cảng, ông đón nhận
di dân nước ngoài, khuyến khích thương mãi và giao dịch,
một mặt duy trì an ninh trật tự
xã hội. Ông đáng được gọi là Người Sài Gòn Số Một.
Sàigòn thu hút dân tứ xứ đến sinh cơ lập nghiệp kể từ
đó và tiếp tục phát triển.
Nhưng
danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Đông - Le Perle de l’Extrême Orient,
The Pearl of the Far East - mà Sàigòn có được vào đầu bán
thế kỷ hai mươi phải nhìn nhận là do công của người Pháp.
Sau khi toàn cõi miền Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp
vào năm 1859, người Pháp muốn đặt nền móng hành chánh lâu
dài nên ra sức canh tân thành phố Sàigòn, thiết kế đô thị
theo kiểu mẫu kiến trúc Aâu châu trong suốt 80 năm cho đến
trước khi Đệ Nhị Thế Chiến. Sàigòn thu hút đầu tư của
giới kinh doanh kỹ nghệ Pháp cùng với sự đóng góp của
kiều dân gốc Hoa, Ần, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Ái Nhĩ Lan,
Mã Lai, và nhiều nước khác nữa. Sau khi thực dân Pháp hoàn
toàn rút chân ra khỏi Việt Nam vào năm 1954, nhiều công ty
tư nhân của Pháp vẫn còn tiếp tục làm ăn
ở Sàigòn: Denis Frères, Mitchelin, B.G.I., Mélia, Bastos, v.v.
Tuy
cách xa bờ biển gần một trăm cây số nhưng Sàigòn được
xem như là một hải cảng có nhiều ưu điểm chiến lược
và lý tưởng vì mọi tàu bè viễn dương thời đó đều vào
được. Sàigòn cũng mang đầy đủ đặc tính tiêu biểu của
những thành phố cảng khác trên thế giới như Marseille, New
Orleans, Montreal, Thượng Hải; là nơi dân giang hồ tứ chiến
dừng chân. Họ thuộc đủ mọi thành phần, từ những bậc
vương tôn công tử lắm bạc tiền cho đến những tay anh chị
khét tiếng thuộc xã hội đen, những con buôn thủ đoạn nắm
bắt thời cơ làm giàu, ăn chơi hưởng thụ, thích ứng và
hài lòng với đời sống mới, xin chọn Sàigòn làm quê hương
và gởi nắm xương tàn nơi đó.
Hai
mươi tám năm qua rồi, tôi chưa nhìn thấy lại Sàigòn; hai
mươi tám năm cách trở giữa tôi với thành phố mà nơi đó,
tôi đã trãi qua lứa tuổi hoa niên thơ mộng và đáng nhớ
nhất của cuộc đời mình. Hai mươi tám năm, một nửa phần
đời đã qua, dài hơn phần đời còn lại. Hai mươi tám năm
sống trên xứ lạ, tâm tư thật nhiều nhớ nhung, vọng tưởng,
thật nhiều hồi ức và hoài niệm về thành phố thân yêu
đó. Hai mươi tám năm dõi mắt hướng về, lắng tai ngóng
đợi, cố thu thập mọi diễn tiến xảy ra nơi vùng đất
cũ, nơiõ đã in dấu biết bao kỷ niệm vui buồn.
Tôi
bước chân đến thành đô Sàigòn lần đầu tiên vào mùa
bãi trường và nghỉ hè năm 1950, khi quái kiệt Trần Văn Trạch
hay hát Con chim hòa bình đang đau nặng, Ngày và đêm càng
thêm lo lắng. Thằng bé nhà quê sáu tuổi như bị thôi
miên trước Sàigòn hoa lệ, rực rỡ ánh đèn, dập dìu xe
cộ. như đi lạc vào trong một thế
giới mới lạ của chuyện thần tiên. Phố xá thênh thang
đón chân tôi đến chung vui. Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi,
Sàigòn ơi! Suốt mấy tháng cuối hè năm ấy, tôi mải
mê tiếp nhận những kinh nghiệm mới mẻ, đẹp đẽ và hấp
dẫn đầy những hình ảnh và âm thanh quyến rũ, quyến rũ
đến nỗi tôi quên cả nhớ nhà, nhớ bà ngoại, nhớ mẹ
và đứa em nhỏ. Quyến rũ đến nỗi ba tháng trôi qua một
cái vèo, và đã đến lúc tôi phải từ giã Sàigòn lần đầu
tiên trong bịn rịn luyến tiếc. Không luyến tiếc làm sao
được khi tôi đã được chiêu đãi như một hoàng tử bé
trong suốt quãng thời gian đó. Tôi chỉ có vui chơi, dạo xem
các thắng cảnh của thành phố, ăn
ngon mặc đẹp, và tham dự vào những thú tiêu khiển giải
trí thời thượng của cả người lớn nữa.
Lúc
bấy giờ tôi chưa hiểu lý do tại sao tôi lại được cha
tôi cưng chiều như vậy và tôi cũng chẳng cần đi tìm một
sự giải thích. Mãi về sau, khi đã trưởng thành thêm, tôi
mới chứng ngộ được đầu đuôi sự việc. Tôi xin kể sau
đây.
Vì
lý do an ninh và kinh tế, cha tôi một
mình rời quê Mỹ Tho lên Sàigòn tìm công ăn việc làm, trong
khi mẹ tôi và anh em tôi ở lại quê ngoại. Ông tìm được
việc ngay, thư ký kế toán cho Nhà Đèn Chợ Quán, tức nhà
máy điện của đô thành. Thỉnh thoảng ông đáp chuyến xe
lửa Sàigòn-Mỹ tho (dài bảy mươi hai cây số, mất hai tiếng
rưỡi đồng hồ) về quê thăm gia đình, mang theo nhiều quà
cáp cho tất cả mọi người trong nhà, thường là các loại
kẹo bánh Pháp như chocolat Nestlé ổ chim, bánh hộp Bisquit,
Lu, bơ Bretel, fromage La Vache Qui Rit con bò cười. Hè năm đó,
ông không về mà chỉ nhắn tin gọi tôi lên thăm ông. Ông
thu xếp với một người quen làm tài xế xe hàng chở dừa
cho tôi quá giang lên Sàigòn, xong ông đến vựa bán dừa của
người quen ở Chợ Cầu Muối đường Kitchener (sau nầy là
đường Nguyễn Thái Học) đón tôi về nhà trọ ở khu Nancy
(Chợ Quán). Đó là lần đầu tiên tôi đi xe điện chạy tuyến
đường Sàigòn-Chơ ïlớn dài sáu cây số và cũng là tuyến
đường xe điện độc nhất của thành phố Sàigòn. Sau khi
đã định cư ở xứ cờ lá phong, trong mấy năm cuối của
thập niên 70, tôi đi làm mỗi ngày trên đường Queen St., thành
phố Toronto, cũng bằng xe điện streetcar, y như hai mươi
tám năm trước đó ở Sàigòn.
Về
đến nhà trọ, cha tôi giới thiệu tôi với một phụ nữ
trẻ khoảng độ hai mươi tuổi, bảo tôi gọi là Dì Ngân.
Dì Ngân là người thành phố, tuy không đẹp lắm nhưng tánh
tình dan dĩ, tự nhiên, tự tin, hoạt bát, vui vẻ. Dì gọi
tôi bằng con nghe ngọt xớt, xoa đầu tôi, cặp cổ tôi, bẹo
má tôi, xem tôi như một món đồ chơi. Dì chăm sóc tôi chu
đáo, mua sắm quần áo, giầy dép mới cho tôi. Dì nấu ăn
khéo, làm cơm ngon, mua thức ăn đắt tiền như tôm càng rim,
thịt bò xào dưa cải, canh nấm đông cô. Dì Ngân có một
người chị làm đào cải lương đoàn hát Hoa Sen của Bảy
Cao, cứ vài ba đêm lại dắt tôi di coi cải lương ở rạp
hát Nguyễn văn Hảo trên đại lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo).
Vãng hát, cha tôi và dì Ngân còn dắt tôi đi ăn "xíu dề",
cữ ăn khuya theo thói quen của người Tàu Chợ Lớn, ở "La-Cai"
(Lacaze, tức đường Nguyễn Tri Phương), thường là món cháo
hoa ăn kèm hột vịt muối hoặc hột vịt bắc thảo ở một
quán người Tàu, rồi mới về nhà.
Những
ngày cận Tết Trung Thu, tôi được dắt vô Chợ Lớn dạo
phố, mua bánh, mua đèn. Cuối tuần, cha và dì dắt tôi đi
dạo vườn Bờ-Rô (do chữ Pháp "pelouse", sân cỏ, theo
như sự giải thích của nhà văn Sơn Nam trong quyển bút ký
Người
Sài Gòn), tức Vườn Tao Đàn, coi người ta chơi
boules
(học
giả Vương Hồng Sển trong tác phẩm Sàigòn Năm Xưa
gọi môn chơi thể thao nầy là "quần lăn"), một trò chơi
thảy những trái banh bằng sắt cỡ vừa lòng bàn tay. Lúc
khác nữa, tôi được dắt đi bát phố Catinat, Charner, Bonard
(các đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi sau nầy), xem phòng
trưng bày xe hơi ô tô có các hiệu Citroen, Peugeot, Traction,
xem xi-nêù, ăn kem, mua bánh kẹo Pháp ( Thật
không ngờ năm mươi năm sau, ngày nay tôi vẫn còn mua fromage
hiệu La Vache Qui Rit ăn lai rai). Còn nữa, tôi được dẫn vô
khu giải trí Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, Kim Chung ở Sàigòn
coi thiên hạ cờ bạc, trường đua Phú Thọ coi đua ngựa và
coi thiên hạ đánh cá ngựa, người nào thua cháy túi thì coi
như bị ngựa đá. Một tình yêu mến như lời hát câu ca.
Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa. Sống mãi trong
tôi, bóng hôm nay sẽ không phai. Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn
ơi, Sàigòn ơi.
Sàigòn
một thời được tặng cho danh xưng Hòn Ngọc Viễn Đông kể
cũng không ngoa. Tuy Sàigòn không đồ sộ bằng những thành
phố lớn ở Bắc Mỹ, không cổ kính bằng những thành phố
ở Ấu Châu, nhưng Sàigòn duyên dáng mỹ miều với những
con đường rợp bóng cây, những công trường ngã năm, ngã
sáu, ngã bảy đầm ấm nhộn nhịp, những dinh thự, phố xá
và nhà ốc có nét kiến trúc yêu kiều. Sàigòn có một nền
kinh tế phồn thịnh, nằm sát vựa lúa trù phú miền đồng
bằng sông Cửu Long. Bến cảng Sàigòn có hải xưởng bảo
trì và chỉnh trang tàu bè, là cửa
ngõ mậu dịch với thế giới, là trạm tiếp vận cho hai nước
Cao Miên và Lào. Tuyến đường hỏa xa dự định nối liền
Sàigòn-Nam Vang chỉ mới thực hiện đoạn đầu đến Mỹ
Tho đãø phải bị đình chỉ khi sự vận chuyển bằng xe hàng
dễ khả thi hơn và đường hàng không lần lượt phát triển
mạnh mẽ. Tâm tình người Sàigòn xề xòa, không quá bon chen
đua đòi, có làm có ăn, cầu vừa đủ xài và luôn luôn mở
rộng tấm lòng đón nhận dân mới đến.
Sau
khi đã trở lại làng quê Long Bình Điền, quận Chợ Gạo
để bắt đầu năm học mới, tôi tỉnh bơ nói ra cảm nghĩ
thật của mình về cha tôi, về cô tình nhân của ông là dì
Ngân, về những ngày vui của tôi ở Sàigòn. Tôi nào biết
điều đó đã làm cho mẹ tôi, ngoại tôi buồn lòng rất nhiều.
Mỹ Tho cách Sàigòn chỉ có 72 cây số, sự giao-thông thuận
tiện, có xe lửa, xe đò, xe lô chạy suốt ngày, tuy gần mà
xa. Hèn chi tôi hay nghe cha tôi ngâm nga mấy câu thơ:
Cúc
mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ
Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết
thơ thăm hết nội nhà,
Trước
thăm phụ mẫu, sau là thăm em.
Hoặc:
Mười
giờ tàu lại Bến Thành,
Xúp-lê
vội thổi, bộ hành xôn xao.
Tôi
cũng hay nghe mấy câu hát ru con:
Đèn
Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn
Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu.
Anh
về anh học chữ nhu,
Chín
trăng em đợi, mười thu em chờ.
Học
chữ nhu, phải chăng ý nói hiền bớt lại, đừng nóng nảy
cộc cằn, đừng mắng chửi em, đừng bạt tai em; hay chữ
nhu do "chữ nho" nói trại ra, điều nầy hoàn toàn tôi không
được rõ.
Tôi
lên Sàigòn lần thứ nhì để định cư luôn vào cuối năm
1953 cùng với mẹ và em tôi. Tôi định khoe với đứa em trai
chiếc xe điện chạy trên đường rầy, ở trên mui có cái
đuôi dài móc dính lên giây điện, mỗi lần xe chạy, cái
đuôi xẹt ra ánh sáng nghe lạch tạch. Nhưng xe điện đã bị
dẹp mất tiêu! Cha tôi mua một căn nhà trong hẽm 192 đường
Đề Thám cho gia đình ở, đồng thời vẫn duy trì "phòng nhì"
với dì Ngân trong khu Nancy. Lúc ấy cha tôi bắt đầu làm việc
cho ngân hàng Banque Franco-Indochinoise trên đường La Somme, đại
lộ Hàm Nghi; ông có sắm một chiếc xe Mobilette để đi làm
mỗi ngày ở Chợ Cũ. Sau đó khá giả hơn nhờ có cao trào
chuyển ngân qua Pháp, cha tôi sắm một chiếc xe hơi hiệu Fiat
của Ý để đi chơi xa, về quê Mỹ Tho hái mận hồng đào,
đi tắm suối Trị An ăn canh chua lá vang, tắm biển Gò Công
ăn gột vịt lộn, biển Vũng Tàu, Long Hải, đi Đà Lạt đồi
thông, Nha Trang cát trắng, Ban-Mê-Thuột đất đỏ.
Xóm
192 Đề Thám là một xóm lao động, đa số dân cư trong xóm
là phu phen, thợ thuyền, bạn hàng buôn bán lẻ. Cha tôi nằm
trong thiểu số có ít vốn liếng chữ nghĩa, đi làm mặc áo
sơ-mi trắng, ôm cặp-táp, nên được lối xóm kêu bằng thầy
Tư, vì mẹ tôi thứ tư. Nhà trong xóm là nhà dãy san sát nhau,
trệt, lầu lẫn lộn, có một vài gia đình người Tàu sống
hòa thuận với chòm xóm người Việt.
Xóm
lao động dĩ nhiên là đông đúc và ồn ào, suốt ngày nghe
đủ loại những tiếng rao hàng. Một ông Tàu không rành rẽ
tiếng Việt, đầu đội một cái nia lớn, vai đeo khung chân
ghế xếp cất tiếng rao: "Bánh bò bánh tiêu bánh bò .Dầu-chá-quải
bánh bò .Bánh bò lá dứa nước dừa .Mại dô mại dô
.". Một ông Tàu khác gánh cần-xé đi mua đồ lạc-xon
rao:"Ve chai .Ai có xon nhôm nồi đồng hư bể bán hôn
." . Một ông Tàu khác mặc áo có nhiều túi
rộng phình, đi tay không rao: "Vàng vụn bạc vụn bán hôn.
Răng vàng hư, đồng hồ bể bán hôn". Có ông gánh nồi
nước bốc khói, tiết kiệm lời rao, hoặc ngượng nói tiếng
Việt không rành, chỉ lắc một cái trống nhỏ nghe lung tung,
người ta cũng biết ngay đó là ông thợ nhuộm. Ông mài dao
thì quơ một xâu dài có nhiều miếng sắt móc dính với nhau;
khi quơ?phát ra tiếng kêu reng rẻng. Hai
cha con ông bán mì thì chỉ cần gõ thanh gỗ "cắc cụp". Vui
nhất là ông Tàu bán thuốc trừ gián, chí, rệp:"Thuốc
chí trừ chí, thuốc rệp trừ rệp". Một lần người ta
hỏi mua một gói thuốc trừ rệp, ông Tàu lục túi dết kiếm
một hồi rồi lấy đưa ra. Người mua thắc mắc, "Sao tui
mua thuốc rệp mà ông đưa thuốc chí?",
ông Tàu đáp tỉnh bơ:"Thuốc chí chừ dệp cũng lược mà
hầy lớ!"
Người
Việt bán hàng rong ít khi di chuyển mà chỉ thích quây quần
lại một chỗ nhất định ở đầu hẽm, trước trường học,
trước rạp hát, là những nơi có đông người qua lại. Số
người đi dạo vào tận xóm trong qua từng nhà có một chị
bán chè với tiếng rao trong trẻo lảnh lót Ai ăn chè bột
khoai nước dừa đường cát hôn .nghe êm tai vô cùng. Ngoài
ra còn có một chị bán sương sa hột lựu, một bà xỏ lỗ
tai, một bà cắt lể, một ông vác hơi, một ông đấm bóp
và mấy chú nhỏ bán cà-rem cây mang trên vai cái bình thủy
nặng nề. Một cây cà-rem béo ngon lúc bấy giờ giá chỉ có
năm cắc bạc và một tô hủ tiếu hai đồng. Những người
bán dạo nầy dần dần giải nghệ hoặc cải tiến theo thời
gian, theo sự biến đổi của luật tuần hoàn và theo sự đào
thải của luật cung cầu.
Hằng
ngày, tôi đi học ở trường tư thục Tiên Long, đường Cô
Bắc cho đến hết lớp Đệ Tứ; sau đó học tiếp các lớp
đệ tam, nhị, nhất trường Hưng Đạo của thầy Nguyễn văn
Phú (Cống Quỳnh), trường Trường Sơn của thầy Nguyễn Sỹ
Tế (Lê văn Duyệt), trường dạy Anh-ngữ của thầy Trần
Việt Anh (Đinh Tiên Hoàng, Đakao). Tôi đi học ở Sàigòn trong
mười một năm liền, rớt tú tài một mấy keo, tú tài hai
thêm mấy keo nữa vì ham mê văn nghệ hơn là ham học các môn
toán, lý hóa, vạn vật. Sư tổ chuyên trị thi rớt là Trần
Tế Xương (1869-1907) thi hương tám lần mà vẫn rớt có phán
rằng Mai không tên tớ, tớ đi ngay. Giỗ tết từ đây nhớ
lấy ngày. Tội nghiệp ông tú Vị Xuyên sinh bất phùng
thời, có bằng tú tài mà không có Trường Võ Bị Thủ Đức
để mà kiếm cái lon chuẩn úy le lói chơi, đành sống trong
cảnh nghèo, làm thơ chua và mất sớm. Thi rớt, làm đúng theo
lời sư phu, tïôi đi ngay thật. Tôi đi ngay vào rạp hát xuất
permanent
ngồi suốt buổi sau khi không thấy tên mình trong danh sách
thí sinh trúng tuyển. Vui chi khi chàng trai hỏng thi, .Khóc
như cô thiếu nữ lúc bước đi về nhà chồng .Tôi đâu
có khóc, mà cũng không thể khóc như cô dâu về nhà chồng.
Cô dâu buồn trong chốc lát rồi sẽ được vui nhiều, chớ
người trượt vỏ chuối ở trường thi thì .buồn vào hồn
không tên, thức giấc nửa đêm, thấy buồn sao là buồn!
Những
ngày nghỉ (nhiều
lắm!), tôi lội nát quận nhì, quận nhứt, lan lên tới quận
ba. Những con đường Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Lefèvre,
Yersin, Calmette của quận nhì, tôi lội bộ qua đó đều đều
để bắn me bằng giàn ná thun, để ăn vặt bò viên, bánh
ướt tôm khô chả lụa, gỏi đu đủ bò kho, bò bía, phá lấu,
mực luộc. Tôi đi coi "xiné"ù các rạp Khải Hoàn, Thanh Bình,
Rex, Kinh Đô, Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Majestic, Long Phụng, Casino
Sàigòn, Moderne Tân Định. Gần nhà nhất là rạp Đại Quang
ngay đầu hẽm 192, Đề Thám. nhưng
tôi chê vì rạp nầy chuyên hát phim Tàu, xem mặt cô đào Lý
Lệ Hoa mãi củng chán. Xa hơn chút nữa có rạp hát Đại Nam
trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Rạp nầy xịn lắm, với màn
ảnh đại-vĩ-tuyến, ghế nệm và có máy lạnh đàng hoàng.
Đường Cô Giang gần Chợ Cầu Muối có rạp Diên Hồng, bên
Bến Vân Đồn thuộc quận tư có rạp Nam Tiến tệ hệ quá,
nước đái khai rùm, chỉ đi coi một lần là dội ngược,
không trở lại lần thứ hai.
Thuở
đó tôi mê coi phim chiếu bóng lắm. Phim Pháp chẳng có bao
nhiêu, tôi chỉ nhớ phim Khỉ Đột Xin Chào Le Gorille Salue
Bien do tài tử Lino Ventura đóng, một số phim khác có hề
"mặt ngựa" Fernandel , có kép đẹp Alain Delon, có các đào
đẹp Catherine Deneuvre, Claudia Cardinale, Brigitte Bardot, v.v. Đa
số là phim Mỹ với các tựa phim bằng chữ Pháp mới tức
cười, chẳng hạn như Le Soleil Se Lèves Aussi Mặt Trời Vẫn
Mọc, Vallée de la Mort Thung Lũng Tử Thần, L’Auberge
au Sixième Bonheur Quán Trọ Lục Phúc, L’Homme au Colt d’Or
Dũng
Sĩ Súng Bá Vàng, Le Pont de la Rivière Kwai Cầu Sông Kwai,
Bonjour la Tristesse Buồn Ơi Ta Chào Mi, Le Jour le Plus Long
Ngày
Dài Nhất, v.v…
Tôi
cũng mê coi cải lương nữa, thành thử ra học dốt là phải!.
Rạp Nguyễn văn Hảo ở ngay góc đường Trần Hưng Đạo với
Đề Thám, rất gần nhà, tôi đi bộ không đầy mười phút,
là rạp tôi coi thường trực. Rạp nầy thiết kế bên trong
theo kiểu hí viện Aâu châu, cũng có hai từng balcon hình vòng
cung, hai đầu vòng cung có các khu ngồi ngăn riêng cho khách
xộp. Hai tuồng cải lương "Đoàn Chim Sắt" và "Mộng Hòa Bình"
của đoàn hát Hoa Sen diễn cả tháng, tôi xem không biết là
mấy lần. Tôi mê sự mới lạ của kỹ thuật điện ảnh,
ánh sáng, âm thanh, cơ giới, mà ông bầu Bảy Cao với đầu
óc sáng tạo, tiên phong đem áp dụng vào sân khấu cải lương.
Tôi khoái coi ông thợ vẽ affiche bằng bột màu ngồi khòm
lưng làm việc ngay một góc trước rạp. Về nhà, tôi cũng
bắt chước kẻ ô vuông một tấm hình trong tạp chí rồi
cọp-py lại trên một tờ giấy trắng lớn hơn.
Sau
rạp Nguyễn Văn Hảo là Ngã Tư Quốc Tế góc đường Đề
Thám và Bùi Viện, một khu vực thiết thân của giới nghệ
sĩ, là nơi gặp gỡ của các ông bầu, soạn giả, họa sĩ
vẽ phông, ký giả săn tin, và các tay làm áp-phe văn nghệ
... Gọi đó là Ngã Tư Quốc Tế cũng xứng đáng, vì chỉ
trong vòng tròn với đường bán kính vài cây số, có ba rạp
hát cải lương và bốn rạp chiếu bóng thường tổ chức
đại nhạc hội thi ca vũ nhạc kịch vào dịp cuối tuần hoặc
vào những ngày lễ lớn. Đại nhạc hội nào càng có nhiều
hề, tôi càng khoái đi xem. La Thoại Tân bô trai giả bộ anh
khờ ngây thơ, Túy Hoa xí xọn, Thanh Việt chuyên đóng vai đầy
tớ, Thanh Hoài hiền ngoan vô tư, Khả Năng chàng ngốc vai u
thịt bắp , Tùng Lâm mỏ chuột ma
lanh, Xuân Phát lên mặt dạy đời, Hoàng Mai nổi nóng gây
sự, Phi Thoàn õn ẹo như lại cái, Văn Chung cười băm lăm
con dê hết xẩy. Nằm lọt trong cái vòng tròn đó là đường
Bùi Viện, nổi tiếng là nơi tập trung những quán nhậu thuần
túy đặc sản quê hương, và một quán cơm bình dân tự-phục-vụ
self-service
theo
kiểu một cafeteria nằm ngay góc đường của ngã tư. Cuối
Đề Thám về hướng Bắc là ngã ba đường Phạm Ngũ Lão,
bản doanh của nhiều tòa soạn nhật báo, tuần báo, tạp chí.
Phía bên kia đường rầy xe lửa là đường Lê Lai với rạp
Thành Chung của đoàn Kim Chung, với nhiều cửa hàng cung cấp
nhiều mặt dịch vụ khác nhau. Bến xe đò đi lục tỉnh Nguyễn
Cư Trinh, Ga Xe Lửa và Chợ Bến Thành cũng nằm trong vòng tròn
đó.
Suýt
soát hai mươi năm sống ở Sàigòn, tôi hay la cà ở cái ngã
tư đầy cám dỗ nầy. Ban đầu, tôi mê mẩn những giọng
hát lời ca ngọt ngào như mía hấp hoặc tài diễn xuất lôi
cuốn như nam châm của Út Bạch Lan, Thành Được, Thành Công,
Kim Cương, Ngọc Giàu, Văn Chung, Ngọc Nuôi, Việt Hùng, Bích
Thuận, Bích Sơn, Bạch Tuyết, Hùng Cường
. Dần dần, tôi mơ mộng một thần tượng Thanh Nga tài
sắc vẹn toàn. Tôi đã từng lén ra hậu trường để coi Thanh
Nga sắm tuồng, thoa son dồi phấn. Đám tang của nghệ sĩ Năm
Nghĩa, thân phụ của Thanh Nga, diễn ra trên đại lộ Trần
Hưng Đạo, tổ chức lớn lắm, người đi rất đông, tôi
cũng có xem. Dĩ nhiên sau nầy khi đã vào lính và đã lập
gia đình, tôi chỉ còn mơ mộng đến Ngã Tư Quốc Tế qua
hình ảnh mấy món nhậu gà xối mỡ, cua rang muối, bò lúc
lắc, lươn um xả, đùi ếch chiên bơ, tôm gỏi ngó sen, đầu
cá hấp, và mấy chai bia 33, bia con cọp mà thôi.
Đại
lộ Trần Hưng Đạo là một trong những con đường huyết
mạch, là trục giao thông chính nối liền Sàigòn với Chợ
Lớn. Lề đường hai bên rất rộng, được che mát bởi hai
hàng cây cao vút, thân to lớn, thẳng đứng, nhánh xòe mang
nhiều trái có hình thù giống dái ngựa (?) nên cây bị đặït
luôn cho cái tên khó nghe đó. Nghe vậy mà không phải vậy,
vì theo tôi nhận thấy, thành phần nào của loại cây nầy
cũng dễ thương hết. Tôi đã từng say sưa ngửa mặt dang
tay hứng đón những cơn mưa hoa vàng đổ xuống trong khi gió lay
lá reo xào xạc. Đến mùa trái khô, những trái hình quả lê
hay quả bơ màu nâu láng năm cánh nở bung ra rớt xuống lề
đường, tức thì cả đống hột có cánh đơn đồng loạt
bay, vừa bay vừa quay mòng trông giống như một màn đổ bộ
của đoàn quân nhảy dù lơ lửng trên không. Nhà phố hai bên
rất khang trang, sầm uất, có nhiều cơ sở thương mãi, trường
học công lập, hí viện, nhà thương, cơ quan chính phủ, giáo
đường. Nhà thờ Tin Lành Sàigòn (nằm ngay góc Trần Hưng
Đạo/Đề Thám) cũng là nơi tôi hay la cà vì ham vui, nhất
là vào dịp lễ Giáng Sinh, được nghe ban hợp ca hát liên
tiếp nhiều bài êm ả lỗ tai vô cùng (Đêm đông lạnh
lẽo, Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá,
nơi máng lừa). Tôi từng vào bên trong thánh đường ngồi
chăm chú nghe rao giảng đạo của Đức Chúa Trời, được
phát cho mấy tập bài giảng có nhiều hình vẽ rất đẹp.
Lễ
Quốc Khánh 26/10 hằng năm dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa
nhiều lần được tổ chức trên con đường nầy với khán
đài danh dự được dựng lên trước trường nam tiểu họcTôn
Thọ Tường. Tiếng trống, tiếng kèn của các ban quân nhạc
vang vọng vào tận nhà tôi nghe rất rõ. Bài hát Suy Tôn Ngô
Tổng Thống với những câu Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
. Cứu đất nước, thề tranh đấu cho tự do đã
bị bọn trẻ trong xóm tôi sửa lời lại là Ai bao năm từng
lên gối nơi be sườn . Cú cái cốc
ngồi chong ngóc trong cầu tiêu! Sân trường Tôn Thọ Tường
rộng lắm, được dùng làm nơi tổ chức hội chợ triển
lãm hàng nội hóa mấy lần, có sân khấu và chương trình
ca nhạc sống giúp vui. Tôi đã nghe ca sĩ Việt Ần hát bài
Hận Đồ Bàn ở đấy. Sân trường nữ tiểu học Phan Văn
Trị có trồng mấy cây chuối, cả bầy dế cơm làm ổ dưới
gốc, tôi bắt mấy chục con cho ông hàng xóm dồn đậu phọng
chiên nhậu chơi. Một lần khác, cà cuống bay về ngã tư nầy
rất nhiều lúc ban đêm quần theo ánh đèn đường sáng quắc
và đâm đầu rớt xuống dưới chân cột điện, tôi lượm
đem về cho mẹ tôi nướng để giầm vô nước mắm pha lấy
mùi thơm. Trường Phan Văn Trị vào ban đêm biến thành Trường
Bách Khoa Bình Dân Học Vụ dành cho học sinh người lớn trau
giồi kiến thức văn hóa cho nên nhộn nhịp với đèn đuốc
sáng trưng vui lắm.
Cạnh
rạp hát Đại Nam có lò bánh mì Vạn Kim của người Tàu hầu
như mở cửa suốt ngày đêm. Bánh mì ổ kiểu Pháp và kiểu
Ý xuất phát từ lò nầy ra nổi tiếng ngon nhứt Sàigòn. Tôi
hay ra lò bánh mì nầy mua vài ổ nóng hổi mới ra lò thơm
phức đem về ăn với vịt quay, xá xíu mà cha tôi đã mua ở
Chợ Cũ. Vừa bước vào cửa và đứng ở quầy đặt hàng
và trả tiền, tôi có thể nhìn thấy sau vách ngăn thấp có
gắn kính trong suốt bên trên, những người thợ toàn là thanh
niên trẻ đang nhanh nhẹn làm việc. Họ làm việc hầu như
suốt ngày đêm vì bất cứ giờ nào tôi lội bộ ngang qua
đó cũng đều thấy. Họ mặc áo thun trắng, bụng quấn tạp-dề
trắng, đầu đội nón nồi trắng, cả nước da của họ nữa
cũng trắng luôn vì dính đầy bột mì và vì luôn luôn làm
việc không có ánh nắng mặt trời. Họ làm việc trong im lặng,
hai tay cử động lẹ làng thoăn thoắt nhồi nhồi nắn nắn
mấy cục bột rồi dùng một cây que thật dài bằng gỗ giống
y như mái chèo để đưa bột vào lò gạch, bên dưới lửa
than cháy đỏ rực.
Xin
mời bạn đọc một văn sau đây nói về con đường Trần
Hưng Đạo trích trong quyển tùy bút Thành Phố Trong Hồi
Tưởng của Trần Hồng Châu, bút hiệu của giáo sư
Nguyễn Khắc Hoạch, người từng giữ chức Khoa trưởng Đại
học Văn khoa Sàigòn trước 1975:
“Tôi
vốn có duyên với đường Trần Hưng Đạo. Đổi nhà mấy
phen vẫn quanh quẩn trong lưu vực của dòng Trường giang thành
phố đó. Tôi trầm ngâm nhìn ngoài bản đồ Sàigòn và trong
tâm tư để xác định những điểm "cao", những địa linh
rải rác khắp dọc "sông". Đường Đồng Khánh hay Trần Hưng
Đạo nối dài, vùng các khách sạn Đồng Khánh và Thiên Hồng-Arc
en Ciel-nhất định phải là hẽm Vu-sơn, Vu-giáp trong Tình sử
và Đường thi. Lòng đường bỗng dưng co hẹp lại, nhà cao
tầng san sát, rập rình lớp lớp ngựa xe, từng hồi chao đảo,
từng hồi nhấp nhô nhưsóng nước Trường giang bị kẹp chặt
giữa hai sườn núi đá chênh vênh. Luôn luôn âm u sương khói
phủ, khói phù dung và phạn điếm giống như những nét mịt
mùng, đậm nhạt, rất thủy mặc của vùng cao-nguyên Tứ-xuyên,
đầy lam sơn chướng khí và màu sắc u huyền. Luôn luôn chìm
trong mênh mông màn khói thuốc lá thơm và hoang tưởng mùi
phấn hương của nhạc chiều luân vũ, gần bên những Tân-Đào-Viên,
những Bá-Lạc-Đài, những Đại-Thế-Giới của một thuở
nào. Đây là nơi đã từng đốt cháy hơn một cuộc đời,
đất hứa của những cảm giác lạ, những giấc mơ tình ái
có nhiều mây và mưa trong vương quốc của nữ thần huyền
thoại. Đây là nơi, đúng như trong những diễm tình tiểu
thuyết cổ điển, ta có thể lên ngôi hoàng đế một đêm,
để sớm mai lại lủi thủi đi bên lề đường, cô đơn,
như một Mại-du-lang đa tình, hay một thư-sinh chưa trọn giấc
kê vàng sau buổi lạc đề thi ngoài cửa khuyết.
Đi
xa hơn nữa tới vùng Nancy, mang tên con gái êm đềm của một
vang vọng tình cảm, là đường Cộng-Hòa, mà tôi tạm gọi
là sông Tương chảy vào Trường-giang.”
Tác
giả Trần Hồng Châu còn nói rất nhiều nữa (
bảy trang giấy) về con đường Trần Hưng Đạo mà ông
ví nó như một con sông chính có nhiều nhánh phụ chảy vào.
Ông nhắc đến phía "hạ lưu" của dòng sông Trần Hưng Đạo
có cái xóm Đề Thám của tôi với rạp hát Nguyễn văn Hảo,
Ngã Tư Quốc Tế, một cách ưu ái.
Ông gọi đó là "một vùng Giang, Triết phồn hoa", "một
trong vài tụ điểm của những người đẹp Sàigòn, một trong
vài vương quốc của phụ nữ đô thành, của những cái gì
đem lại một tấm linh hồn yểu điệu, nồng thắm cho trái
tim miền Nam". Ông khen cái khúc phố tôi ở có nhiều người
đẹp, điều đó đúng, vì thằng bé mười mấy tuổi là tôi
trong những năm cuối của thập niên 50 đã rong chơi cuối
trời quên .học
làm chứng cho ông. Tôi đoán chắc ông đã nhiều lần lân
la ở phòng trà ca vũ nhạc Tháp Ngà (Tour d'Ivoire) nằm cùng
một dãy với rạp Nguyễn Văn Hảo. ở đó thì khỏi nói,
là nơi tụ họp của bao nhiêu ca sĩ tân nhạc thời danh như
Kim Tước, Mỹ Thể, Bạch Yến, Bích Chiêu, Khánh Ngọc, người
đẹp, quần áo đẹp, xe hơi đẹp, dân chơi cũng đẹp. Trai
thanh và gái lịch nói cười rộn rã. Tiếng kèn saxophone, trombone,
trumpet từ các cửa sổ trên lầu thoát ra vọng xuống đường
mê hoặc. Những bóng đèn đủ màu chớp nháy chạy vòng khung
bảng hiệu vũ trường nằm thẳng đứng càng làm cho môi son,
má phấn, tóc mây trở nên thêm huyền hoặc. Gió mát của
trời đêm thoảng mùi nước hoa Channel No. 5 mân mê tà áo gợi
ngất ngây. Một vùng phồn hoa. Đúng quá phải không Người
Tân Định?
Thật
ra cái gì cũng có mặt trái của nó. Người ta thường có
quan niệm văn chương thì phải hoa mỹ, bàn rộng khai triển
mặt tốt và lượt bỏ những nét tiêu cực. Thành phố Sàigòn,
dẫu mà khó thương, cũng vẫn là thành phố tôi đã lớn lên,
đã sống, đã yêu, đã nuôi dưỡng tôi khôn lớn. Những nét
xấu của nó không ít, nhất là cái xóm Đề Thám, rồi đến
xóm Khánh Hội đã mang tiếng rất nhiều. Hai nơi đó có đầy
đủ hết những tệ đoan của xã hội. Đề Thám có đĩ điếm,
hút sách, cờ bạc, rượu chè. Vĩnh Hội có du đãng, trộm
cướp, đá cá lăn dưa. Đã nói Sàigòn là thành phố có đầy
đủ đặc tính của một thành phố bến cảng tất nhiên phải
hiểu cái tốt và cái xấu cùng hiện hữu song hành bên nhau.
Tôi không ca ngợi cái xấu, nhưng tôi cũng không nhắm mắt
chối bỏ sự có mặt của nó. Xã hội nào cũng có mặt phải
thắp sáng hào quang và mặt trái bị tránh né bỏ quên. Một
thành phố tân tiến ở Bắc Mỹ cũng không ra khỏi ngoại
lệ nầy, cũng có khu sang trọng, khu bình dân, cũng có những
vấn nạn khó giải quyết và tệ đoan xã hội.
Thành
phố nước văn minh tân tiến có lường gạt kiểu tinh vi hiện
đại; Sàigòn chậm tiến lường gạt kiểu cò con. Dọc theo
tường ngăn ga xe lửa Sàigòn đầu đường Phạm Ngũ Lão,
vào những năm cuối của thập niên 1950, tôi thấy có mấy
người Thượng người Mường, gia tài chỉ có một cái gùi,
ngồi xổm bán thuốc dân tộc gia truyền trị bệnh tầm bậy
và tà ma. Tôi bị họ níu lại một lần. Tuy nói tiếng Việt
không rành bằng một giọng khó nghe, nhưng họ rất kiên trì
giảng giải về mức công hiệu của thuốc. Trước hết, họ
kêu hoặc ngoắc một khách bộ hành dừng lại rồi làm giọng
như thương hại như thế nầy: "Chà! Cậu em đang bị bịnh
nặng lắm đó! Da xanh, mặt mụn, cổ ốm cao nhòng! Dương
khí đi đâu mất hết! Di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, linh tinh!
Hay là bị thư bùa ngải gì rồi! Lại đây, lại đây. Tui
có thuốc nầy hay lắm! Ma lai trên rừng mà còn phải chịu
thua! Có năm đồng thôi. Uống vô bảo đảm một tháng sau
là hết! Không hết lợi đây tui trả tiền lại!" Dù trước
đó chưa xanh mặt nhưng nghe họ phán xong, tôi cũng phải xanh
vì sợ. Định bỏ đi thì bị níu lại: "Tui chỉ muốn cứu
người làm vui, nếu cậu không có năm đồng thì trả tui hai
đồng cũng được, miễn là cậu hết bịnh!".
Thằng nhỏ vốn cả nể nên mất toi hai đồng cho yên thân.
Gói thuốc thì quăng luôn xuống cống. Mấy ngày sau đi ngang
qua đó thì các thầy thuốc "dân tộc ít người" kia cũng đã
chuồn đi chỗ khác! Đọc phóng sự Hà Nội Lầm Than của
ký giả Trọng Lang, tôi mới biết nơi chốn thủ đô ngàn
năm văn vật cũng có mặt những người Mường ngồi vĩa hè
xóm Khâm Thiên bán thuốc trị bệnh kín cho các gái nhẩy nghèo.
Trên
khúc đường Đề Thám giữa Trần Hưng Đạo và Cô Bắc có
mấy tiệm may áo dài sát liền nhau, khách hàng thuộc phái
đẹp dập dìu. Nhà may Hạnh Dung rất nổi tiếng trong giới
nghệ sĩ cải lương. Bà chủ có hai cô con gái tên Hạnh và
Dung, trạc tuổi tôi. Tình nhân của bà chủ là nghệ sĩ Thành
Công, hay đến đó lắm. Mỗi ngày đi học, tôi bắt buộc
phải đi ngang qua tiệm may, chạm mặt hoài. Một lần không
biết vì lý do gì, em trai của tôi và em trai của Hạnh và
Dung đánh lộn. Bạn trai của Hạnh cũng nhào vô chơi đòn
hội chợ. Em tôi chạy về nhà kêu tôi tiếp cứu. Tôi nổi
máu anh hùng, quên mất tấm thân ròm, cùng em tôi chạy trở
lại chiến trường hỏi tội "bọn côn đồ" và đấm đá
một trận với thằng bạn trai đáng ghét của Hạnh. Sau đó
tôi mới biết nguyên nhân chỉ vì em tôi đi ngang qua tiệm
may và bị bọn chúng chọc ghẹo, em tôi tức quá đáp lại
vỏn vẹn hai tiếng "công ngủ", thế là bị đánh!
Tưởng
như vậy đã yên, ai dè sau đó ít lâu, một bữa bọn tôi
ba đứa gồm có chú Mười tôi, thằng Kiệt em tôi và tôi
đi học lội bộ về ngang qua đó, lại có chuyện xảy ra.
Ba chị em Hạnh, Dung đi học trường Tây cũng vừa về tới
nhà bằng xế hộp Peugeot 403. Hạnh Dung mặc đồ đầm bước
xuống xe, tôi mới đưa mắt liếc một cái thì con chó berger
từ
trong tiệm may phóng ra sủa mừng bọn chủ. Chú Mười tôi
(chú út, nhỏ hơn tôi mấy tháng) thích chọc chó hơn là ngó
gái nên dậm chân giả bộ gừ gừ. Con chó quay qua, thằng
em tôi sợ chó cắn nên chạy, hai chú cháu cũng chạy luôn,
thế là con chó chạy theo và ngoạm vô ống giò của tôi một
phát rách da chảy máu, báo hại tôi phải nghỉ học ngày hôm
sau để cha tôi chở đi viện Pasteur chích ngừa bịnh dại.
Tôi bị lụi kim vô bụng cả chục mũi, đau còn hơn chó cắn.
Ngã
tư Đề Thám - Cô Bắc có hai tiệm nước (bán cà-phê, hủ
tiếu) chéo góc nhau tây-bắc và đông-nam, góc tây-nam là phông-tên
nước công cộng, góc đông-bắc có trường tư-thục Tiên-Long.
Trường nầy rất có uy tín, với ban giáo-sư tên tuổi giàu
kinh nghiệm, cỡ tuổi ba mươi mấy trở lên, phân nửa đã
già. Pháp văn lúc bấy giờ vẫn còn là sinh ngữ chánh; thầy
Đồng văn Nam với dáng người hom hem xổ tiếng Pháp nói với
học trò, bắt học trò quỳ gối lia chia nhưng vô cùng tận
tụy với nghề nghiệp, luôn luôn tự đánh máy bài giảng
(cours) trên giấy pelure phát cho học trò. Tôi ngồi gõ
keyboard
bài
viết nầy mà hình dung lại cảnh ông phải lụm khụm đánh
máy chữ nhiều lần, mỗi lần từng xấp sáu tờ giấy mỏng
có lót xen kẽ năm tờ giấy than được dùng đi dùng lại,
tôi thấy tội nghiệp cho ông quá. Thầy Hồ Công Mến dạy
hóa học cũng là kỹ sư ở Pháp về, đầu tóc bạc phơ, luôn
luôn thắt cravate mặc complet màu ngà giống như
một Trần Văn Hương. Thầy Lê Thọ Xuân cao gầy dạy Sử
Địa là một học giả vừa dạy học vừa làm quản lý nhà
in Maurice in sách cho nhà xuất bản Phạm Văn Tươi nên thân
với học giả Nguyễn Hiến Lê, khuyên học trò chúng tôi nên
mua cuốn bút ký phóng sự Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười
của Nguyễn Hiến Lê mà đọc. Thầy Tư Mã Lộ dạy Việt
văn chắc cũng gần sáu chục, mặt đen, mang kính cận dầy,
rất ngọt ngào với đám học trò, gọi đứa nào cũng bằng
con hết. Thầy Phong dạy vật lý tương đối còn trẻ, dáng
dấp cao lớn khỏe mạnh. Thầy Đông lai Tây, trắng trẻo,
mắt sâu, tóc dợn sóng, dạy Anh-văn sinh-ngữ hai bằng quyển
L’Anglais Vivant, sau đó mới đổi qua English for Today theo chương
trình mới của Bộ Giáo Dục. Thầy Trần Hiếu Trung
dạy vẽ phát họa bằng bút chì, thật chậm và thật kỹ,
mỗi tuần chỉ có một giờ làm tôi sốt ruột. Tôi chỉ lo
kẽ ô hình mấy minh tinh Doris Day, Linda Blair, Vivien Leigh, Debbie
Raynold, Audrey Hepburn, Jayne Mansfield, và cóp-pi lại bằng màu
nước để tặng cho tụi bạn gái trong lớp. Thầy dạy nhạc
là nhạc-sĩ Văn Lương, tác giả của những bản nhạc Tía
Em, Má Em, Anh Đi Giữa Trời Xuân, Thao Thức, Nhìn Theo Xe Hoa,
Tiếng Hát Trên Ngàn, Giấc Mơ Không Đến Hai Lần, Tình Không
Biên Giới, Người Yêu Của Tôi, Yêu Không Nói, Em Vẫn Là
Hoa Khôi Thành Phố, Trăng Với Tuổi Trẻ, v.v... Thầy Văn Lương
nhỏ con, vậy mà ông lái một chiếc Harley Davidson đồ sộ,
máy nổ rầm rầm, đúng là nghệ sĩ chịu chơi; trong khi những
ông thầy khác đi dạy bằng xe tắc-xi, xe xích-lô đạp, xe
Mobilette mà thôi.
Dường
như trường Tiên Long là một ổ cách mạng, một tiểu tổ
đảng phái hay một chi nhánh hội kín làm chính trị, vì cứ
lâu lâu lại có một ông thầy biến mất, lâu lâu lại có
công an mật vụ xuất hiện ở văn phòng nói chuyện với ông
hiệu trưởng rất nghiêm trọng. Một vài thằng bạn trong
lớp rõ chuyện nói với tôi là "thầy A, thầy B vô nằm trong
Chí-Hòa rồi!" Tôi là đứa vô tư, đầu óc đơn giản, ham
chơi hơn ham học, ham làm chuyện nhỏ hơn chuyện lớn, cho
nên tôi không mấy quan tâm đến việc làm ngoài lớp học
của mấy ông thầy. Lắm lúc nghĩ lại, tôi nhận thấy việc
học hành của tôi gặp nhiều lận đận một phần do tôi
khăng khăng nghe theo lời khuyên của các thầy. Thầy khuyên
tôi theo ban Toán, trong khi tôi chỉ khá các môn sinh ngữ và
văn chương, giống như mấy câu thơ Xuân Diệu tự nói về
mình trong tập Thơ Thơ "Hãy biết rằng anh lúc ở trường,
Rất tồi toán pháp, khá văn chương. Chàng trai đi học nghe
chim giảng, Không thuộc bài đâu, ấy sự thường". Lớp
học không có cửa sổ; tôi không có nghe chim giảng. Tôi chỉ
mê văn chương thôi. Tôi nghĩ nếu tôi thi ban C từ đầu thì
tôi đã đậu. Nhưng tôi đã ngoan cố thi ban B mới trợt vỏ
chuối dài dài.
Vỏ
chuối hay vỏ dưa hấu cùng với đủ loại trái cây khác trong
Chợ Cầu Muối lúc nào cũng nhiều, lối đi trong chợ lúc
nào cũng lầy lội trơn trợt. Một thằng bạn cùng lớp học
dốt hơn tôi sống luôn nơi vựa trái cây trong chợ. Nó tên
Các, chị nó tên Anh. Hai chị em học cùng lớp mấy năm đệ
lục, ngũ, tứ với tôi. Chị nó có cái mỏ trớt nên nói
tía lia, đúng là con gái buôn bán, lanh lợi vô cùng. Thằng
Các và chị nó đều ngủ ghế bố. Ba Má nó thì ngủ trên
một cái sạp thấp chủm, trên sạp lại có treo một cái võng.
Chiều tan học, Các hay rủ tôi theo về vựa nó ngồi ké bên
mép sạp đánh cờ tướng ăn củ sắn non,
cam, quít, mận, ổi xá lị. Mỗi lần mẹ tôi cần mua trái
cây để cúng hoặc ăn tráng miệng,
tôi giành mua, ba má thằng Các bán rẻ cho tôi.
Mặt
tiền Chợ Cầu Muối xây ra đường Nguyễn Thái Học, cũng
là một đại lộ với bóng cả cây già. Tháng cậïn Tết,
các vựa dưa hấu cất lấn ra chiếm hết lề đường, và
lan dài ra gần tới Trần Hưng Đạo. Đối diện với Chợ
Cầu Muối là Trường Trung Học Tư Thục Bồ Đề ba tầng
lầu chiếm một góc của ngã tư Nguyễn Thái Học với Nguyễn
Công Trứ. Kế bên trường Bồ Đề là trường dạy nhạc
của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, tiếp theo là một dãy tiệm chạp
phô bán đồ khô của người Tàu, lâu lâu bị đám học trò
nghịch ngợm đi ngang qua bóc một nhúm tôm khô hay mấy quả
táo tầu đựng trong các bao bố để sát lề đường. Đường
Nguyễn Thái Học chấm dứt ở ngã ba Bến Chương Dương dưới
chân Cầu Ông Lãnh và Chợ Cá.
Tôi
không nhớ lý do tại sao có nhiều lần tôi lội vô Chợ Cá
nhầy nhụa nầy. Nhưng tôi dám chắc một điều là không phải
tôi đi cua đào, mặc dầu tôi biết rành câu ca dao "Trai
khôn tìm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba
quân". Tôi lội vô Chợ cá Cầu Ông Lãnh chắc là chỉ
vì theo một thằng bạn học nào mua cá, hoặc là để thỏa
tính phiêu lưu thôi. Tôi xuống các ghe chành chở đầy cá
từ Biển Hồ ở Nam Vang về đậu san sát mấy hàng dưới
con rạch Bến Nghé để cung cấp cá cho các vựa chánh bán
sĩ trong chợ. Từ đó cá được lựa ra và chứa trong những
thùng tròn lớn bằng thiếc để phân phối lại cho các bạn
hàng buôn bán lẻ. Cá ở Biển Hồ to lớn hơn cá ruộng đồng
Tiền Giang quê tôi. Nhiều con cá lóc bự bằng cổ chân người
lớn, một bàn tay cầm không giáp vòng. Mỗi ghe cá chứa hàng
mấy ngàn con dưới lòng ghe có ba ngăn, bên trên lót ván làm
sàn có chừa nắp làm chỗ thòng vợt xuống vớt cá. Con nào
con nấy khi được vớt lên đều sứt đầu vỡ trán chứng
tỏ chúng không ngừng tung mình tìm cách thoát thân.
Trong
loạt bài phóng sự kể chuyện thăm lại Sàigòn dịp đầu
năm 2001, tác giả Nguyễn Tường Phong có kể sinh hoạt buổi
sáng sớm của khu lao động đó như sau:
“Với
lòng phấn khởi, tôi tà tà thả bộ (từ khách sạn đang trú
ngụ) ra khu Cầu Ông Lãnh tìm ly cà phê buổi sáng xem dân tình
thế sự. Trên hè đường, lác đác vẫn còn một vài bạn
hàng căng ghế nằm ngủ trước những khu cửa tiệm mở cửa
trễ. Trái cây sắp vào mùa, chiếc xe ba bánh của cặp vợ
chồng trẻ bên đường chất lớp lớp những trái măng cầu
xiêm trên lớp rạ tỏa mùi thơm ngát. "Mua đi anh Hai, mười
lăm ngàn một ký." Chị vợ mời.
Nhìn
những trái măng cầu xanh tươi chín mộng, có trái hơi nứt
ra khoe thớ thịt trắng phau. Tôi nuốt nước miếng: "Dạ cám
ơn" rồi hướng về ngã tư Ký Con, Nguyễn Thái Bình. Chao ơi,
thật đúng Sài Gòn năm xưa của tôi. Thiên hạ, đa số là
dân lao động thợ thuyền, dân làm ăn, xe ôm... đầy trên
các bàn thấp quanh những sạp đồ ăn và các xe cà phê trên
vỉa hè. Tôi xà xuống chọn cái ghế trống giữa đám đông
ngay sau một trạm sửa máy xe nơi góc đường gọi một ly
cà phê sữa nóng.
"Nóng
đấy nhé cô hàng, thật nóng cho tôi." Sự thật là tôi phải
giữ gìn mồm miệng trong khi ăn uống
để tránh cảnh ôm quần mà chạy. Không tuyệt vời nhưng
đúng ý, tôi cảm thấy vị cà phê trong hơi nóng còn đang
bốc khói. Xem nào, trước mặt tôi là sạp "cơm bụi." Năm
ngàn đồng một dĩa cơm gồm hai nửa cái giò heo kho tàu, trái
trứng "vzịt" và một gắp đầy đồ chua rồi chan thêm nước
mắm pha kiểu Sài Gòn ngòn ngọt cay cay.”
Hình
ảnh vài bạn hàng căng ghế nằm ngủ vào năm 2001 thật chẳng
khác với hình ảnh tôi chứng kiến gần nửa thế kỷ trước
của hai chị em thằng bạn học tên Các sống trong vựa bán
trái cây Chợ Cầu Muối. Sau trận hỏa hoạn cuối năm 1979
Chợ Cầu Muối được xây dựng lại khang trang hơn và ngăn
nắp hơn, nhưng dường như nếp sinh hoạt và đời sống của
người dân quanh chợ vẫn không thay đổi. Xe ba gác đã thay
cho xe thổ mộ, nhưng con người lao động, lời gọi chào,
lối xưng hô, hàng quán bên vĩa hè, ly cà phê, dĩa cơm bình
dân vẫn như dạo nào, thật đúng là Sàigòn năm xưa của
tôi như tác giả Nguyễn Tường Phong đã thốt lên.
Đợt
di cư 1954 mang vào Sàigòn cho tôi nhiều bạn mới và thầy
mới. Giọng nói khác và một số từ ngữ lạ chẳng những
không gây ra một khó khăn trở ngại nào mà còn làm cho cuộc
nói chuyện tăng thêm phần hứng thú và vui nhộn. Tôi có mấy
đứa bạn học, bạn cùng sở làm người Bắc gia đình định
cư ở Thị Nghè, Bàn Cờ, Hòa Hưng, Lăng Cha Cả. Một điều
khiến cho tôi kinh ngạc là trong số bạn đó có đứa cũng
nghịch ngợm, phá phách, ham chơi và chịu nhậu như tôi vậy.
Sàigòn
có một cái "flea market" lớn lắm. Đó là khu Dân Sinh trên
đường Yersin, cách Chợ Cầu Muối chỉ một "block" đường.
Vào những năm đầu của cuộc di cư của đồng bào miền
Bắc, khu Dân Sinh tràn ngập quần áo cũ để mặc vào mùa
đông ở các xứ lạnh. Tôi ngạc nhiên quá đỗi khi thấy
hàng đống áo choàng bằng lông thú bự sự cồng kềnh quá
khổ. Tôi đoán chừng số hàng nầy là quà tặng của các
cơ quan từ thiện và cứu trợ từ các nước Aâu Mỹ. Sau
nầy, khi sự hiện diện của quân đội Mỹ ngày một gia tăng
ở Việt Nam, khu Dân Sinh là nơi hàng quân dụng thặng dư tràn
ngập, món gì cũng có, trừ súng đạn. Gọi là quân dụng
thặng dư cho nó lịch sự chớ thật ra, đó là hàng nhảy
dù, hàng lậu, hàng ăn cắp từ các kho tiếp liệu của Mỹ
hoặc hàng quân-tiếp-vụ của QL.VNCH. Tôi lui tới cái "chợ
rận" nầy cũng năm bảy lần, lúc thì mua một cái "field jacket",
lúc thì một đôi "botte de saut" tân trang có may "fermeture" bên
hông, ghế bố cá nhân, mùng, võng bằng giây dù rất bền
chắc.
Gần
ngã ba Yersin với Bến Chương Dương có một ngôi chùa Minh
Hương thật cổ kính được dựng lên từ khi những người
Hoa đầu tiên đến vùng đó lập nghiệp, mặt tiền xây ra
sông, trước sân chùa có hồ nuôi rùa, có vòng rào bao bọc.
Không kể vùng Chợ Lớn, trong phạm vi Sàigòn, người Hoa tập
trung ở quận nhì đông hơn cả. Nhân vật nổi tiếng là Chú
Hỏa, tức Hui Bòn Hỏa. Ông ta là một tay tài phiệt làm chủ
nhiều đất đai nhà cửa vào bậc nhất ở Sàigòn, cũng giống
như một Donald Trump của thành phố Nữu Ước. Dinh cơ của
ông ta như một lâu đài có tường rào bao bọc chiếm nguyên
một khu đất nằm lọt trong các đường Nguyễn Văn Sâm, Hồ
Văn Ngà, Yersin và Ký Con, gần nhà xuất bản Tinh Hoa Miền
Nam sau đó đã dời về đường Trần Hưng Đạo. Ngôi dinh
thự Chú Hỏa xây trên gò đất cao giữa vườn, chung quanh
có cây cối, phía sau có một ngôi nhà phụ nhỏ hơn. Hồi
đó tôi hay đi ngang qua đó thấy ngôi nhà lúc nào cũng vắng
vẻ im lìm. Tôi nghe người ta đồn một người con gái của
Chú Hỏa bị bịnh điên, phải nhốt riêng ở cái nhà phía
sau đó.
Trên
Bến Chương Dương hai bên ngã ba Calmette là Công Trường Diên
Hồng tức trụ sở Thượng Nghị Viện và Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam. Sát mé sông trước Công Trường Diên Hồng có
một cái parkette nho nhỏ sạch sẽ, có băng ghế xi măng,
chiều chiều ra đó hóng mát cũng khoái lắm. Từ đó nhìn
lên cây cầu Calmette hình vòng cung đen xì thấy cũng hay hay.
Vào buổi nước lớn, bọn trẻ con hay leo lên cầu rồi plongeon
phóng mình xuống nước vừa hò hét om sòm. Tôi cũng là một
tay thích tắm sông, nhưng thà chịu khó đạp xe đạp lên Bình
Nhâm tắm nước trong veo mát lạnh chớ tôi không khi nào có
can đảm tắm sông Ông Lãnh đầy rác rưởi. Tuy nhiên, khúc
sông Ông Lãnh từ cầu Công Lý trở ra phía sông Sàigòn tương
đối cũng đã sạch sẽ hơn vì không có ghe thuyền, chợ búa
bừa bãi nữa.
Gần
cầu Khánh Hội chỗ ngã ba sông Ông Lãnh nhập vô sông Sàigòn
có Cột Cờ Thủ Ngữ và Hội Quán Thể Thao Trượt Nước
có cái tên Tây Cercle Nautique Saigonais có sân thượng patio che
dù, dân tây đầm ngồi dựa ngửa hướng mắt ra thương cảng
Sàigòn, dõi nhìn những chiếc ca nô hors-board kéo theo
dân chơi trượt nước rẽ sóng, vừa uống bia vừa hóng gió.
Thủ Ngữ là từ Hán Việt, nếu dịch sát nghĩa đen là dùng
ngôn ngữ bằng cách ra dấu tay. Nhưng thật ra người ta dùng
cờ vải đủ màu và hình thể để làm hiệu cho các tàu bè
theo quy luật hàng hải. Qua cầu Khánh Hội là con đường mang
tên vị tướng Trịnh Minh Thế tử trận trên cầu trong một
trận đánh giữa quân đội quốc gia với quân phiến loạn
Bình Xuyên năm đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Đây
là lãnh thổ Quận Tư với thương cảng Sàigòn, với các dãy
nhà kho mênh mông và với huyền thoại về những tay anh chị
đâm thuê chém mướn xóm đường Tôn Đản. Nghe thì ghê vậy
chứ tôi chưa hề gặp một tay mặt rằn giết người không
gớm tay nào cả trong suốt bảy năm sống vùng đó.
Cha
tôi quan niệm có làm việc thì phải có hưởng thụ. Cuối
tháng lãnh lương, ông hay đưa gia đình đi ăn
cơm thố ở Chợ Cũ, nhà hàng Đồng Khánh trong Chợ Lớn,
bò bảy món ở quán Bảy Lọ (góc ngã ba Cống Quỳnh - Bùi
thị Xuân). Quán nầy nguyên là một ngôi biệt thự nhỏ nằm
ở góc đường, sân trước có rào, đặt mươi cái bàn, khách
ngồi ghế xếp, nhưng đông khách vì nấu ngon. Cha tôi cũng
đưa gia đình đi ăn nhà hàng Arc-en-Ciel, Parc-au-Lac rộng lớn,
có sân lộ thiên lót gạch, trang trí các chậu sứ cây kiểng
uốn hình chim thú. Cuối tuần đi làm ra, ông hay ghé Chợ Cũ
mua thịt heo quay, hoặc vịt quay, hoặc xá xíu cùng với vài
ổ bánh mì tây mang về nhà ăn thay
cơm thường ngày. Vì vậy, anh em chúng tôi trong gia đình cũng
bị lây nhiễm triết lý sống đó, có khi lạm dụng, hưởng
thụ hơi nhiều. Thành tích hưởng thụ của riêng tôi không
lấy gì làm ghê gớm. Tôi hay đạp xe đạp đi câu cá ở vùng
ngoại ô: đi An Lạc, Bình Chánh, Phú Lâm câu cá rô, cá trê
vàng, cá lóc; đi Phú Xuân Nhà Bè bắt cua, bắt còng; đi gần
hơn ra cầu Bình Lợi câu cá ngác, tôm càng; siêng nữa thì
lên tuốt Bình Nhâm Bình Dương tắm suối tắm sông, bẻ mía
và ăn trái cây đã đời.
Tôi
cũng mê sưu tầm tem một thời gian dài. Khởi đầu, tôi trầm
trồ ngắm ngía những con tem cha tôi mang về từ sở làm. Dần
dần, tôi đạp xe đạp ra Passage Eden để la cà hàng giờ nơi
tiệm tem lớn Philatelique gần bên tiệm sơn mài Thành Lễ.
Lần nào ra đó, tôi cũng dốc hết tiền túi ra để mua tem,
album tem, kính rọi, kẹp gắp tem. Vào những ngày có phát hành
tem đầu tiên, tôi ra Bưu Điện chực chờ và chen lấn với
đám đông một cách hứng thú để mua phong bì in saün từ
những người bán lẻ, xong rồi mua mấy bộ tem mới tinh từ
các guichet bưu điện, xong lại cẩn thận dán tem lên phong
bì cho ngay ngắn, và cuối cùng đến các bàn xin đóng cho cái
dấu "Ngày phát hành đầu tiên".
Sau
nầy, khi "tiện nội" đã vào làm việc ở Nha Viễn Thông của
Tổng Cục Bưu Điện, tôi đã có một "tay trong" đắc lực
lo hộ mua vài bộ tem phát hành đầu tiên đó. Địa chỉ Nha
Viễn Thông, số 3 đường Nguyễn Hậu bên hông Bưu Điện
Sàigòn đã đi vào thiên tình sử với những buổi Em tan sở
về .Đường mưa rầm rập . (thay vì Em
tan trường về .Đường mưa nho nhỏ . của Ngày Xưa Hoàng
Thị). Những ngày đó của những năm 1967 - 1973, có một anh
chàng lính văn phòng gầy gò đậu chiếc xe Yamaha (sau đổi
qua Honda dame) bên lề đường đầy lá me bay trên con đường
Nguyễn Hậu ngắn ngủn để ngóng chờ bóng dáng người yêu
trong chiếc áo dài thướt tha xuất hiện nơi đầu bậc thềm
cao vào giờ tan sở.
Thuở
chúng tôi mới quen nhau vào năm 1961, nàng ở với người cậu
ruột trên đường Gia Long. Khu vực nầy thuộc Quận Nhứt
gồm toàn những biệt thự kín cổng cao tường. Cậu nàng
là một sĩ quan hải quân cao cấp ở gần tư dinh của đại
tướng Lê văn Tỵ. Nhà cậu nàng có nuôi hai con vượn trắng
bị cột giây xích thả trên cành cây ngoài vườn. Mỗi lần
tôi dừng chiếc vélo solex trước cổng và hồi hộp bấm chuông
là hai con vượn nhảy nhót tưng bừng và hú lên inh ỏi vang
tiếng trong vòm cây làm cho tôi càng khớp hơn. Vài năm sau,
nàng lại dọn về ở nhà người chú mãi trên đường Hoàng
Hoa Thám, Gia Định. Cuối tuần đi gặp nàng, chuyến đi của
tôi xa hơn và dài thêm. Đề Thám, đại lộ Trần Hưng Đạo,
đại lộ Hàm Nghi, Bến Chương Dương, đường Đinh Tiên Hoàng
thăm thẳm qua Đakao, ngang qua lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt, thêm
một đoạn dài trên đường Hoàng Hoa Thám ngang qua đền thờ
Hai Bà Trưng, mừng quá, tôi đã đến nhà nàng! Hoàng Hoa Thám.
Quả là định mệnh. Tên đường chất chứa tên hai đứa.
Tên tôi chất chứa tên nàng. Con đường xưa em đi
.cũng là con đường vu qui vào
năm 1965. Nàng rời nhà ở đường Hoàng Hoa Thám để về nhà
tôi ở đường Đề Thám, thì cũng chỉ là tên của một người,
vị anh hùng chống Pháp trên suốt 25 năm và từng được mệnh
danh là Hùm thiêng Yên Thế.
Tôi
là một con dế mèn thích phiêu lưu, tuy chỉ là phiêu lưu vặt
quanh khu xóm, quanh thành phố trong vòng vài tiếng đồng hồ
cuốc bộ bằng bộ giò ống điếu của tôi. Tôi từng vừa
cõng vừa dắt mấy đứa em đi Hội Chợ Thị Nghè năm 1958,
cũng may buổi chiều lo về sớm, nếu không thì có thể bị
đám đông đè chết trên cầu Thị Nghè. Tối hôm đó nghe
tin tức trên radio, tôi mới biết là tai nạn đã xảy ra khi
hai đám đông từ hai đầu cầu dồn nhau lại gây hỗn loạn
khiến cho lan can cầu sập, người ta lớp bị đạp nghẹt,
lớp lọt xuống sông, chết mấy chục mạng. Mỗi khi bắt
được tin nóng hổi có biến cố xảy ra, tôi dọt ra khỏi
nhà liền. Năm 1954, tôi dắt em tôi đi coi biểu tình do những
người Bắc mới di cư vô Sàigòn tổ chức. Mục đính ï của
họ là phản đối sự có mặt của một phái đoàn Cộng Sản
Bắc Việt đến Sàigòn tham dự cuộc họp với Ủy Ban Quốc
Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Cuộc biểu tình đã bắt đầu
từ ngày hôm trước nơi khách sạn Majestic cuối đường Tự
Do với Bến Bạch Đằng. Bây giờ nó xảy ra trước một trụ
sở góc đường Trần Hưng Đạo - Nguyễn Khắc Nhu, gần khu
nhà tôi. Tiếng hô lớn của đoàn thanh niên sinh viên người
Bắc biểu tình qua các loa phóng thanh đã lôi kéo tôi, một
thằng bé tò mò thích phiêu lưu. Dịp đó, tôi bị nếm mùi
lựu đạn cay khi cảnh sát đô thành đến giải tán đám biểu
tình. Không chuẩn bị trước, anh em tôi lãnh đủ, chạy về
nhà trong ràn rụa nước mắt và nước mũi, suýt nữa có cả
nước gì khai khai!
Đường
Lê Lợi có nhiều điểm nóng đầy hấp lực đối với học
sinh trung học Sàigòn. Từ Chợ Bến Thành đến trụ sở Hạ
Nghị Viện về phía bên trái có nhà sách Khai Trí, là cửa
hàng sách lớn nhất nước. Gần đến góc Nguyễn Huệ có
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, sáng sủa mát
mẻ lịch sự, ta vào đó để được phát cho một quyển tạp
chí Thế Giới Tự Do in trên giấy tốt và đầy hình ảnh
màu. Nếu bạn có tiền rủng rỉnh trong túi và có người
yêu đi bên cạnh thì cứ băng qua đường tạt vào quán kem
Givral cho người đẹp ngồi nghỉ chân; nếu không thì hãy
vòng lại trên đường Lê Lợi đến ngã tư Pasteur kêu hai
ly nước mía Viễn Đông có thêm quít cũng được; nếu đói
thì làm tạm một ổ bánh mì tiệm Thanh Bạch cạnh đó, xong
tha hồ tạt vào những sạp bán sách cũ, bán bài nhạc, bán
thiệp, bán lịch, có đủ loại tạp chí sách báo tiểu thuyết
chữ Anh, chữ Pháp lựa mua vài món tặng cho nàng để làm
kỷ niệm một chuyến dạo phố Bonard. Trước khi chia tay nhau,
nếu nàng có rủ bạn tạt qua tiệm Bảo Hiên Rồng Vàng sau
chợ Bến Thành để mua một cân chả quế, năm ba cái bánh
cốm, bánh dầy thì bạn cũng hãy vui vẻ chiều nàng như hai
câu ca dao Chiều em anh hết sức chiều. Như chàng Đinh San
họ Tiết đã chiều nàng Phàn Lê Huê. Trên đường Tự
Do có tiệm Thái Thạch chuyên bán rượu bánh nhập cảng từ
các nước Ấu châu toàn là sản phẩm thượng hạng đắc
tiền. Những năm cha tôi còn khá giả, ông hay mua rượu bánh
ở tiệm nầy. Đến đời tôi, lương lính chẳng có bao nhiêu,
cho nên tôi xin về nguồn.
Sàigòn
có nhiều công trường. Không hiểu tại sao thuở đó ai bày
gọi các tụ điểm của nhiều ngả đường là công trường.
Nghe hai chữ công trường, tôi cứ bắt nghĩ đến những chỗ
con người bị cưỡng bức lao động khổ sai. Nhưng không,
các công trường ở Sàigòn rất đáng yêu, là nơi bạn học
ngồi ăn vặt và tán láo, nơi con
trẻ vui đùa, và nơi các đôi thanh niên thiếu nữ tình tự.
Công trường Diên Hồng trên Bến Chương Dương có gió sông
mát mẻ, công trường Duy Tân cây già bóng mát bất tử trong
một bài hát của Phạm Duy; công trường Mê Linh với bức
tượng Hai Bà Trưng bị tai tiếng là được tạc tạo bằng
đường nét của hai mẹ con bà cố vấn Ngô Đình Nhu và Ngô
Đình Lệ Thủy; công trường Lam Sơn xuất hiện nhiều nhất
trên các kiểu bưu thiếp Sàigòn và cả trong các album ảnh
gia đình của người dân Sàigòn; công trường Quách Thị Trang
tức Bùng Binh Chợ Bến Thành Sàigòn vinh danh một nữ sinh
Phật tử chết vì đạo nạn trong một cuộc biểu tình bị
đàn áp. Đầu đường Lê Lợi cạnh công trường Quách Thị
Trang có bót cảnh sát Lê Văn Ken, rất tiếc tôi chẳng biết
gốc gác của cái tên đó, không chừng là tên của một vị
bạn dân bỏ mình vì công vụ. Một lần tôi bị đạo chích
thuỗm mất chiếc xe đạp hiệu St. Laurent khi tôi vào tiệm
Minh Phát ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực để
mua mấy bản nhạc mới ra lò tặng người yêu. Tôi đến bót
cớ. Dù dượng ba (chồng của cô ba tôi) đang làm xếp phó
cảnh sát Quận Nhì, chiếc xe đạp phần thưởng đậu bằng
tiểu học của tôi một đi không trở lại.
Bây
giờ đã quen với hình ảnh gồ ghề của cảnh sát Bắc Mỹ,
chợt nhớ lại hình ảnh của những nhân viên cảnh sát công
lộ ở Sàigòn, tôi thấy những người bạn dân của Sàigòn
hiền khô thật dễ thương và vui vui nữa. Họ mặc đồng
phục trắng ủi hồ mang găng tay trắng, đứng trên một cái
bục tròn bằng cái thùng phuy cắt đôi rồi úp lại cũng sơn
trắng. Miệng ngậm cái tu huýt của trọng tài đá banh, họ
vừa thổi còi vừa không ngớt giăng hai cánh tay ra hiệu để
điều khiển dòng xe cộ nườm nượp vì ngả tư đường phố
Sàigòn hồi đó chưa có đèn lưu thông. Người bình dân không
gọi mấy ông bạn dân nầy bằng tên chính thức là cảnh
sát công lộ; họ gọi bằng một cái tên nôm na "nhiều ấn
tượng" là cảnh sát chim bay cò bay! Tôi nghĩ công việc của
họ mệt lắm chớ không phải chơi vì phải múa may quay cuồng
trong nhiều tiếng đồng hồ dưới nắng chan chan. Vào ban đêm,
họ cũng làm việc chim bay cò bay, hai
tay cầm hai cây que dạ quang. Đôi lần bị họ chặng hỏi
thẻ căn cước và thẻ đăng bộ xe, tôi không sợ bằng gặp
trooper trên xa lộ xuyên bang, vì tôi có thể năn nỉ cảnh
sát phe ta xí xóa chớ mấy ông cớm Mỹ mang kính đen biên
giấy phạt răm rắp không có năn nỉ gì hết!
Máu
lãng tử trong người rộn rã, Óc phiêu lưu hối hả lên đường
, ngày 11/11/1960, tôi và chú út tôi, hai thiếu niên 16
tuổi, đèo nhau trên chiếc xe đạp theo đường Công Lý ra
trước Dinh Độc Lập coi biểu tình ủng hộ đảo chánh. Trên
đại lộ Thống Nhứt, đoàn biểu tình hàng ngàn người căng
biểu ngữ dàn hàng ngang từ hướng Nhà Thờ Đức Bà đang
tiến tới trước cổng Dinh trong khí thế rất hăng say. Chú
cháu tôi cũng nhập vô đám biểu tình, cũng hô theo các khẩu
hiệu. Bỗng súng nổ ào ào hàng loạt không dứt. Mọi người
tán loạn, lớp chạy núp vào gốc cây hai bên công viên, lớp
nằm lại. Tôi cúi đầu nằm sấp xuống lộ. Khi tiếng súng
đã dứt, tôi bò dậy thì không thấy chú tôi đâu cả, đôi
dép tôi cũng mất, tay chân bị trầy sướt mấy chỗ vì chen
lấn xô đẩy trong đám đông. Có nhiều người chết hoặc
bị thương. Tôi lo tìm chú tôi một hồi nhưng vẫn không thấy,
đành hối hả vừa đi vừa chạy về nhà, lòng tràn đầy
lo lắng, không biết phải ăn nói
làm sao với cha tôi đây. May quá, từ đầu đường hẻm, tôi
đã thấy chiếc xe đạp của chú tôi dựng trước nhà. Bước
vô nhà, tôi thấy chú tôi còn nguyên vẹn hình hài, đang ngồi
uống xá xị. Hú vía! Chú tôi tử trận ở Tây Ninh năm 1973
khi chưa tròn 29 tuổi.
Năm
1961, chúng tôi lại chứng nào tật nấy, đạp xe ra phi trường
Tân Sơn Nhứt đi đón Phó Tổng Thống Hoa kỳ Lyndon B. Johnson
qua Sàigòn, vì tò mò thôi. Chúng tôi cũng đi coi đám tang đại
tá Hoàng Thụy Năm, sĩ quan liên lạc trong Ủy Hội Kiểm Soát
Quốc Tế bị Việt Cộng ám sát ném xác xuống sông Sàigòn.
Kể từ đó, tình hình chiến sự bắt đầu leo thang khắp
nơi trong nước, mấy lần về quê thăm ông bà ngoại, tôi
không dám ở lại ban đêm nữa. Tình hình chính trị ở Sàigòn
cũng bất ổn, sinh ra nhiều biến động.
Năm
1963, Sàigòn có biểu tình liên miên. Phật tử phản đối
lịnh của chính quyền cấm treo cờ Phật giáo. Ngày 11 tháng
6 năm đó, tôi ngơ ngẩn dừng xe lại trên đường Lê Văn
Duyệt khi thấy đám đông ngăn cản giữa lộ, cách vài chục
thước là cảnh hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Phản
ứng giây chuyền, việc cấm treo cờ đưa đến biểu tình,
tự thiêu; tự thiêu đưa đến việc phong tỏa khám xét chùa
chiền, bắt bớ sư sãi; đàn áp tôn giáo đưa đến đảo
chánh, đảo chánh mà thành công thì trở nên cách mạng. Tháng
tám, sinh viên học sinh Sàigòn xuống đường biểu tình rầm
rộ, chánh quyền ra lịnh đóng cửa tất cả các trường đại,
trung-học, công cũng như tư. Biểu tình vẫn tiếp tục diễn
ra, hàng ngàn sinh viên học sinh bị bắt. Mỗi lần tôi bước
ra khỏi nhà là mỗi lần mẹ tôi năn nỉ: "Con ơi, đừng có
biểu tình nghe con." Tôi "dạ" cho có lệ rồi dọt lẹ ra đường.
1/11/1963,
ngày cách mạng, tôi đã 19 tuổi, càng lớn càng đâm ra hoang
mang trước thời cuộc, ai phải, ai quấy không biết đường
nào mà rờ. Tôi lại ra đường nghe ngóng, quan sát, bất chấp
lời cảnh giác trên làn sóng phát thanh, yêu cầu đồng bào
hãy ở yên trong nhà, đừng ra ngoài đường, để tránh mọi
sự đáng tiếc có thể xảy ra. Mọi sự đáng tiếc đã xảy
ra hết rồi thì còn gì nữa để mà tránh. Hai anh em ông tổng
thống bị giết. Có sự rạn nứt trong hàng ngũ các tướng
lãnh. Binh sĩ hoang mang, dân chúng hoang mang. Việt cộng mừng
thầm trong bụng, rảnh tay đánh phá và giết hại phe ta nhiều
hơn. Kinh tế bị ảnh hưởng, vật giá leo thang, con buôn đầu
cơ tích trữ, người tiêu thụ nghèo càng khốn đốn hơn.
Năm
đó, nếp sống trung lưu của cha tôi cũng đã chấm dứt; chấm
dứt từ khi Bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu hoàn toàn làm chủ hệ
thống kinh tài, nắm hết trong tay dịch vụ chuyển ngân cùng
nhiều ngành kinh doanh khác. Cha tôi mất việc ở ngân hàng,
quay sang thử thời vận hùn hạp làm ăn riêng với vài người
bạn đồng sự cũ trong một thời gian và bị thua lỗ, sau
nầy phải bán xe rồi bán nhà. Mỗi tuần, cha tôi không còn
rủ tôi đi xem xổ số kiến thiết quốc gia ở rạp Thống
Nhứt nữa. Nhưng ông dễ gì quên bài hát gắn liền với tên
tuổi của quái kiệt Trần văn Trạch, bạn học cũ của ông
ở Mỹ Tho. Thỉnh thoảng ông vẫn hát: "Kiến thiết quốc
gia giúp đồng bào ta xây đắp muôn người được nên cửa
nhà... Tô điểm giang san qua bao lầm than ta thề kiến thiết
trong giấc mộng vàng... Triệu phú đến nơi chỉ mươi đồng
thôi mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi... Kiến thiết quốc
gia giúp đồng bào ta, ấy là thiên chức của người Việt
Nam". Tôi nghe vậy rồi nghĩ đến hoàn cảnh của những
người mê cờ bạc mà tan nát cửa nhà bèn lén hát nho nhỏ:
"Kiến thiết quốc gia khiến đồng bào ta tan nát cửa nhà
nghèo xơ mấy hồi." (Xin lỗi chú Trạch). Cũng may, ông
xin được việc làm ở phòng kế toán cho hãng dệt DACOTEX
và dọn về cư xá Vĩnh Hội bên kia Cầu Ông Lãnh.
Đầu
năm 1964, tôi nhận được lệnh động viên lên đường nhập
ngũ. Mẹ tôi ngỡ ngàng rưng lệ.
Cha tôi khuyên con nên cố gắng. Người yêu tôi thề nguyền
một dạ thủy chung và vững một niềm tin chờ đợi một
ngày về. Mãn khóa huấn luyện và tốt nghiệp ra trường,
tôi trình diện đơn vị mới ở Nha Trang. Tôi tạm xa chiếc
nôi tình thương Sàigòn. Hai năm sau, tôi hát bài Anh Về Thủ
Đô. Tôi được thuyên chuyển về Sàigòn làm lính kiểng.
Lúc bấy giờ, gia đình tôi đã dọn về xóm Vĩnh Hội thuộc
quận tư.Sàigòn Thứ Bảy
ngàn hoa trên đường . Lòng mình cứ
tưởng mùa xuân yêu đương . Đời
tôi năm tháng phong sương, dầm mưa dãi nắng biên cương. nay
tôi về kiếm người tôi thương . Sàigòn Thứ Bảy còn ai
mong chờ . Một người lính trẻ về
thăm kinh đô . Người lính chiến
ấy là tôi . Lần đi khi nắng đang vơi
.gói trọn nỗi thương cuộc đời.
Máy bay vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt là tôi vui
quá, trong đầu nghe như có tiếng hát của Thanh Phong đang trình
bày một bài nhạc quen thuộc của Anh Bằng. Tôi tiếp tục
được làm người Sàigòn, hít thở bụi Sàigòn, bây giờ
còn có thêm mùi sình của con kinh Bến Nghé (thường được
quen gọi là sông Cầu Ông Lãnh) vào lúc nước ròng, mùi rau
cải ún thối của Chợ Cầu Muối, mùi khăm khắm của vựa
làm mắm trên Bến Vân Đồn. Tôi tắm nắng dội mưa Sàigòn,
có cả mưa pháo kích hỏa tiễn 122 ly của Việt cộng từ
miệt Tân Quy bên kia con Sông Tẻ bắn bừa bãi vào Quận Tư,
miễng ngói bay rào rào trên căn cư xá C. 9 Vĩnh Hội. Tôi chia
sớt ngọt bùi đắng cay với Sàigòn, bằng lòng đóng vai một
chứng nhân trung kiên của Sàigòn bên lề lịch sử.
Tết
Mậu Thân 1968, người lính kiểng cũng phải cầm súng chiến
đấu bảo vệ đơn vị đồn trú và bảo vệ Sàigòn, nơi
đó có vợ, có con, có cha, có mẹ của mình đang sống trong
kinh hoàng sợ hãi. Một lần nữa, người lính kiểng có dịp
chạm mặt và giao tranh với quân địch Việt cộng trong một
trận đụng độ ở cấp trung đội, đẩy lui toán xâm nhập
của cộng quân trong khu đường Khổng Tử, Chợ Lớn. (Chùa)
Nghĩa Nhuận Hội Quán gần Cầu Ba Cẳng cấp tốc trở thành
trại tiếp cư che chở cho mấy trăm đồng bào tị nạn. Tôi
có mặt trong toán bảo vệ an-ninh cho Chùa, một toán lính văn
phòng trói gà không chặt nhưng may mắn được đặt dưới
quyền chỉ huy của đại-úy Nghiêm, một sĩ quan đầu đã
bạc và từng có nhiều kinh-nghiệm chiến trường. Lợi dụng
ưu thế bố trí trên lầu cao và yếu tố bất ngờ, chúng
tôi đồng loạt khai hỏa và tung lựu đạn vào toán cộng
quân đang chạy lúp xúp bên hông hãng xà bông Trương Văn Bền,
gây cho chúng một số thiệt hại nhân mạng và tịch thu một
số vũ khí. Phe ta chỉ có hai người bị thương, một nặng
một nhẹ.
Thành
phố Sàigòn thân yêu ngập tràn trong khói lửa. Khu Bàn Cờ
Nguyễn Thiện Thuật thành bình địa. Khu Khổng Tử Chợ Lớn
nát tan. Khu Vĩnh Hội Quận Tư tôi ở cũng nếm mùi hỏa tiễn.
Những hôm về nhà ngủ, tôi dằn gối một quả lựu đạn
M.26 lén mang về từ đơn vị và một khẩuSmith
& Wesson của ông dượng người Mỹ cho tôi làm của riêng.
Tôi định bụng nếu Việt cộng vào nhà thì tôi bắt buộc
phải chơi liều.
Bấy
giờ, gia đình tôi cư ngụ trong Cư Xá Vĩnh Hội thuộc Quận
Tư. Hàng ngày đi làm bằng chiếc xe gắn máy Yamaha, tôi chạy
một đoạn Bến Vân Đồn, qua cầu Calmette, qua bùng binh Sàigòn,
theo đường Lê Văn Duyệt đi miết qua khỏi ngã sáu Trần
Quốc Toản, quẹo trái vào cổng trại Biệt Khu Thủ Đô. Suốt
gần bảy năm trời, tôi đã đi làm qua lộ trình đó, bị
đụng xe mấy lần mang thẹo và cũng đã từng chứng kiến
tận mắt cảnh người chết trên vũng máu giữa lộ. Khoảng
cuối năm 1969, toàn thể khu Chợ Cầu Muối bị hỏa hoạn
thiêu rụi, cháy suốt cả ngày, hai chiếc trực thăng Chinook
của quân đội Mỹ luân phiên nhau múc nước sông gần Cầu
Ông Lãnh phụ chữa cháy. Tôi xách máy ảnh ra đứng ở hành
lang cư xá chụp hết cả một cuộn phim 36 bô trước sự hứng
chí hò hét của thằng con trai đầu lòng ba tuổi. Nó bị hình
ảnh máy bay mê hoặc kể từ đó. Ngày nay, nó không bỏ sót
một cái Air Show hàng năm nào quanh vùng Toronto này cả: Hamilton,
Buffalo, London, Winsor, chụp cả đống hình đủ loại máy bay.
Sàigòn
là nơi có rất nhiều cơ quan hành chánh và đơn vị quân sự
của Việt Nam Cộng Hòa mà tiền thân nguyên là các doanh trại
của quân đội viễn chinh Pháp, cho nên có kiến trúc giống
nhau: Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Bộ Tư Lệnh BKTĐ, Bộ Tư Lệnh
CSQG, Bộ Tư Lệnh TQLC, v.v... Chu vi các doanh trại nầy có tường
dầy bao bọc (nên thường được gọi là thành: thành Ô-Ma,
thành Cộng-Hòa), có nhiều cổng chánh, cổng phụ dẫn ra đường
phố; trong thành là những dãy lầu hai tầng, dài khoảng năm
chục thước, một mặt có hành lang rộng, có lan-can bằng
sắt rắn chắc, nền lót gạch hoặc xi-măng, thềm cao, chính
giữa và hai đầu dãy có bậc thang. Phòng ốc thoáng mát vì
có trần nhà cao, cửa cái và cửa sổ rộng ở hai đầu phòng.
Biết
bao đêm ứng chiến đơn vị, tôi giăng mùng nơi hành lang thoáng
mát, nằm ngắm ánh trăng lung linh qua lá cành cây bã đậu
bên khẩu súng Carbine M.2 tự động, nghĩ đến những thằng
bạn học đang xông pha nơi chiến trận: Nguyễn Mộng Thu, Võ
văn Sang, Lâm văn Mỹ, Nguyễn Sĩ, Thái Văn An, Trần Tán Xuất,
Trần Cao Siêu. Xuất là em của nhạc sĩ Y Vân và nhạc sĩ
Y Vũ (tác giả của bản nhạc Tôi Đưa Em Sang Sông). Bút hiệu
của nó là Y Phong, bay bướm và quậy dữ hơn tôi nhiều. Nó
kể bố nó chọn tên trước cho bốn anh em của nó là Thanh
Long Xuất Động. Nó nhằm đứa co trai thứ ba trong gia đình,
phải lãnh cái tên Xuất tiền định! Siêu là em của đại
tá Biệt Động Quân Trần Cao Lầu, rất nhanh nhẹn tháo vát,
lo lắng giúp đỡ cho bạn bè và đồng đội tận tình. Có
đứa như Nguyễn Sĩ, hoa tiêu trực thăng, lập được nhiều
chiến công ngoài mặt trận, được bầu làm Chiến Sĩ Xuất
Sắc về thủ đô dự Ngày Quân Lực 19/6, tôi thì ở trong
ban tổ chức và tiếp đón phái đoàn; chúng tôi gặp nhau vui
mừng biết mấy. Thế rồi chỉ một tuần lễ sau khi trở
lại đơn vị chiến đấu, bạn tôi đã đền xong nợ nước.
Vì
nhu cầu công vụ, trong thời gian bảy năm làm lính kiểng ở
Sàigòn, tôi có nhiều dịp vào Bộ Tổng Tham Mưu, Phòng Nhứt,
Trung-Tâm Khai-Thác An-Bài Điện Tử, Trường Sinh-Ngữ Quân-Đội,
Bộ Quốc Phòng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Cục Tâm-Lý-Chiến,
Bộ Ngoại Giao. Những văn nghệ sĩ quân đội mà tôi có dịp
làm việc chung đơn vị là Duy Năng, Tạ Tỵ, Hoàng Ngọc Liên,
Tô Kiều Ngân , Nguyên Vũ (Vũ Ngự
Chiêu), Nhật Tiến, Nguyễn Đức Quang, Trần Phạm Vũ (Nguyễn
Thượng Tiến), Nguyễn Tấn Lộc. Lộc là tác giả của nhiều
bản nhạc hùng ca quen thuộc thường nghe trên đài phát thanh
quân đội như Bình Long Anh Dũng, Trị Thiên Oai Hùng. Lộc cũng
có tài viết phóng sự rất hay và nhanh như máy.
Vì
đơn vị tôi đồn trú trong địa phận Biệt Khu Thủ Đô,
sau Tết Mậu Thân, mỗi tuần một lần, tôi được phân công
phải tham dự một toán tuần tiểu hỗn hợp của Quân Vụ
Thị Trấn với sự góp mặt của Quân Cảnh và Cảnh Sát.
Xe Jeep của toán tuần tiểu chạy qua những đường phố Trần
Quốc Toản, Trương Minh Giảng, Lý Thái Tổ, Nguyễn Tri Phương,
thỉnh thoảng dừng lại xét hỏi những người đáng khả
nghi. Đêm Sàigòn giờ giới nghiêm lặng lẽ chịu đựng bất
trắc. Ống liên hợp máy truyền tin sè sè âm thoại. Ánh đèn
điện hắt hiu soi lòng đường phố vắng. Người lính thao
thức băn khoăn cho thân phận và quê hương, thầm hỏi cuộc
chiến nầy sẽ đi về đâu và cho đến bao giờ?
Nhưng
do số phận đưa đẩy, tôi rời Sàigòn giữa năm 1973 để
đi phục vụ một nhiệm sở ngoại giao ở ngoài nước và
đã mất luôn lối về kể từ đó. Mặc dù trí nhớ hao mòn
theo tháng năm, những kỷ niệm xưa còn sót lại là phần đã
được đãi lọc trong vắt ngọt ngào tinh chất, mỗi lần
hồi tưởng là mỗi lần thấy lòng rưng rưng.
Dù
đang sống trong lòng Bắc Mỹ, bất cứ lúc nào tôi cũng có
thể nghĩ đến Sàigòn. Ngày nắng ấm tôi nghĩ xem có nóng
bằng Sàigòn không, mẹ già mỗi ngày đi chợ đầu ngõ có
đang lau những giọt mồ hôi lấm tấm không. Ngày đông rét
buốt tôi nghĩ đến cái nóng của Sàigòn ngày nào mỗi trưa
ở sở nằm lên mặt bàn làm một giấc. Mưa gió mù trời
sao tôi không thấy vui như những ngày tôi lội lõm bõm và
tắm mưa ngoài đường phố Sàigòn. Trăng chênh chếch trên
bầu trời vào một đêm lái xe đi làm về chỉ gợi nhớ một
vầng trăng Sàigòn lung linh soi gác trọ. Ngồi nhà hàng Tây
uống một chai bia ướp lạnh, tôi nhớ thay bàn nhậu quán
vỉa hè Sàigòn xôn xao tiếng nhai chóp chép hòa lẫn tiếng
nói cười ồn ào, thỉnh thoảng lại chêm năm ba tiếng chửi
thề khoái trá. Quả thật ngày tháng cũ đã qua, nơi chốn
cũ đã xa, còn chăng là những bài thơ, bài nhạc ru hồn: Sàigòn
ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời
. Sàigòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời .Giờ
còn đây, những kỷ niệm sống trong tôi, những nụ cười
nát trên môi .những giọt lệ ôi sầu đắng
. Vĩnh biệt Sàigòn, bài hát của Nam Lộc làm
não lòng bao nhiêu người Sàigòn lưu vong. Sàigòn ơi, mùa
nắng ấm còn vương trên đường? Đường ngày xưa, mưa có
ướt ngập lối người về? Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống
công viên, bóng người còn bước nghiêng nghiêng hay đang khóc
thương cho người đi... Tôi muốn có, muốn nghe tất cả
những bài thơ, bài nhạc nói lên tâm tư sầu lắng thương
nhớ Sàigòn. Tôi vụng về ăn nói,
bày tỏ cảm nghĩ trên giấy cũng khó đối với tôi; thôi
thì hãy nghe và hãy đọc thơ và nhạc của người vì vần
điệu vốn dễ thấm nhập rung cảm. Tôi giờ như con thú
hoang lạc đàn . Từng ngày qua, từng
phút sống quên thời gian . Kiếp tha
hương, lắm đau thương, lắm chua cay,.tôi
gọi tên em mãi thôi . Thôi thì hãy bắt chước mọi người
tâm nguyện rằng một ngày đẹp trời nào đó, tôi sẽ về
Sàigòn, dù chỉ một lần, trước hồi chung cuộc của đời:
Sàigòn
ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về .
Người tình ơi, tôi xin giữ trọn mãi lời thề. Dù thời
gian có là một thoáng đam mê, Phố phường ngập ánh sao đêm,
nhưng tôi sẽ không bao giờ quên .
Nam
Lộc, người cùng với Trường Kỳ, đã từng bị một bài
báo của Cộng sản trong nước gọi là hai tên C.I.A. nằm vùng
ở miền Nam trước 1975, cũng đã toại nguyện lời thề là
đã trở về thăm lại Sàigòn. Người nhạc sĩ may mắn đó
đã có dịp nhìn lại phố phường xưa, tay bắt mặt mừng
bạn cũ, nhất là được ghé qua quán ăn của Bà Cả Đọi
để hồi tưởng đến những bữa ăn thuần túy quê hương
đậm đà tình dân tộc gồm có canh mồng tơi, cà pháo, ốc
giả ba ba, thịt kho, trứng đúc. Trường Kỳ quả quyết viết
một câu trong loạt bút ký Một Thời Nhạc Trẻ như
sau: "Tôi dám chắc một điều là quí đọc giả ở Sàigòn,
dù đã ghé tới quán nầy hay chưa, cũng đã từng nghe đến
tên Bà Cả Đọi, là một cái tên đã đi vào lịch sử đớp
hít và đã từng được báo chí nhắc nhở tới nhiều trong
các bài viết vào cuối thập niên 60". Có một bài nhạc
khác về Sàigòn mang tựa đề Sàigòn Bây Giờ Buồn Không
Em của Song Ngọc, được trình bày qua giọng ca mê hoặc
của Lệ Thu: “Sàigòn bây giờ buồn không em? Và em còn
hong tóc bên thềm? Em còn đợi chờ ngoài hiên vắng?.Em
còn gội nắng trong sân trường? Đường nào anh trở về bên
em? Hàng me ngày xưa chắc ngỡ ngàng? Anh còn để lại một
chút nắng. Anh còn gợi đó một tình yêu. Hơn một lần anh
hứa sẽ quay về. Hơn một năm, ngày ấy vẫn xa xôi. Nghe cuộc
tình hai đứa mãi xa vời . Ôi thời
gian nhuộm tím cuộc đời thêm. Giờ này sao ngủ mộng không
vui? .Người đi thì thương nhớ đã nhiều
. Nhưng người ở lại buồn nuối tiếc
. Bao giờ mình biết được gặp nhau.”
Vĩnh
biệt Sàigòn là đề tài được ưa chuộng nhất trong các
bài thơ bài nhạc. Nỗi nhớ niềm thương Sàigòn có thể chất
ngất choáng ngộp và ray rứt khôn nguôi dằn vật mãi, nhưng
thật ra hình ảnh kỷ niệm sâu đậm ghi khắc trong tim không
nhiều, quanh đi quẩn lại cũng chỉ là mưa với nắng, là
con đường, vỉa hè, hàng cây, là ghế đá công viên, một
tà áo, một đôi mắt. Những hình ảnh xem ra vô cùng đơn sơ
đó lại có tác dụng mãnh liệt làm cho chúng ta điêu đứng
ngẩn ngơ khờ người, là dấu hiệu của điều thường được
gọi là khủng hoảng tâm thần. Ta sống ở một thành phố
có nhiều tiện nghi vật chất hơn Sàigòn nhưng ta vẫn cảm
thấy xa lạ, trống vắng, cô đơn, lẻ loi, lo lắng, chán chường,
mệt mỏi, thiếu thốn. Ta vẫn mơ ước về thăm lại Sàigòn,
vì đó mới chính thật là thành phố yêu quí thân quen của
ta:
“Chiều
nay tôi lang thang nơi xứ người .Chợt nghe ngậm ngùi thương
nhớ quê hương . Sàigòn đó, tôi
ra đi một buổi sáng mưa rơi .Tàu rời bến, mang theo bao niềm
vương vấn .
Mẹ
ru câu ca dao khi bé dại .dù thời gian qua rồi tôi vẫn chưa
quên .Từng đường phố tôi đi qua đầy hình bóng thân yêu,
ngàn lời nói vang trong tim .Ôi Sàigòn của tôi
..
Nhưng
hôm nay xa cách muôn trùng .tôi
gọi quê hương, nước mắt tuôn trào .
Đâu
sông Hương soi mái tóc thề .Đồi thông in bóng trong sương
mù .Và Sàigòn còn đâu nữa bao tà áo phất phơ bay
.
Hoài
hương mênh mang trong giấc mộng .mà thời gian trôi dần nghe
xót xa thêm . Người nào biết trong
tâm tư của kẻ mất quê hương .
Dù ngàn kiếp, tôi luôn mơ, ôi Sàigòn của tôi. ..” (Sàigòn
Của Tôi, Phan Kiên)
Nhạc
sĩ Lam Phương, một con người Sàigòn thâm niên hơn, nhiều
gốc rễ hơn với thủ đô Miền Nam, dĩ nhiên niềm đau xa
nhà của ông cũng thống thiết hơn, bài nhạc Sàigòn Ơi
Vĩnh Biệt của ông chan hòa nước mắt: Vĩnh
biệt Sài Gòn
“Sàigòn
ơi, xin giã từ em . Thành phố yêu
ơi, xa cách muôn đời .Biết tìm đâu, và còn tìm đâu công
viên nào đưa ta vào cơn mê tình ái .Một thoáng mưa bay sầu
dâng tê tái, nép nhau chờ, chờ đến bây giờ .Chờ tỉnh
cơn mê mới hay rằng ta vĩnh biệt nhau .
Nhớ
ơi là nhớ từng lời yêu .Cuộc tình nồng
. Những đêm lạnh lẽo sầu hoài hương về ngập lòng
. Dòng nước mắt nầy gởi về cho cố nhân .Thương
quá khi em chờ mong . Cuộc tình thì
theo cơn lốc bay .Cuộc đời thì, giờ đôi tay trắng
. Biết bao giờ và đến bao giờ trở lại quê hương
. Hay muôn đời anh vĩnh biệt em.”
Hàng
ngũ thi nhạc sĩ Sàigòn từng "khóc cười theo mệnh nước
nổi trôi" và đang sống tha hương còn nhiều lắm. Họ không
thể nén tiếng lòng nên sáng tác cho đời nhiều bài thơ bài
nhạc nữa. Nguyễn Mạnh Trinh có Thơ Cho Buổi Mai Sàigòn
với
những câu:
Thành
phố đó em nắng phai tóc úa
Nợ áo cơm xuôi ngược mãi một đời
Có nhớ lại những ngày còn nhung lụa
Nghe nát nhàu manh áo đẫm mồ hôi
Thành phố của ta lẽ nào vĩnh biệt
Đến ngày nào phất phới một ngọn cờ
Đường nẽo sẽ thay tên hàng chữ viết
Vinh danh người đem tổ quốc vào mơ
Đường hoa bướm tuổi thơ rộn tiếng cười
Trời Việt Nam xanh mắt ngời vời vợi
Bài quốc ca đón mặt trời vang dội
Ta trở về thành phố dấu yêu ơi.
Nợ áo cơm xuôi ngược mãi một đời
Có nhớ lại những ngày còn nhung lụa
Nghe nát nhàu manh áo đẫm mồ hôi
Thành phố của ta lẽ nào vĩnh biệt
Đến ngày nào phất phới một ngọn cờ
Đường nẽo sẽ thay tên hàng chữ viết
Vinh danh người đem tổ quốc vào mơ
Đường hoa bướm tuổi thơ rộn tiếng cười
Trời Việt Nam xanh mắt ngời vời vợi
Bài quốc ca đón mặt trời vang dội
Ta trở về thành phố dấu yêu ơi.
Luân
Hoán trong bài thơ Viết Trên Đường Rời Việt Nam có
những tiểu đoạn nhắc đến Sàigòn là thành phố tạm trú
trong thời gian chờ làm thủ tục đi định cư ở nước ngoại
như sau:
Đã
sáu tháng ta vào đây tạm trú
Tập làm người khách lạ của quê hương
Ngày mấy bận đi về đường Lê Lợi
Đêm mấy lần quanh quẩn phố Hùng Vương
Từ Bà Chiểu lang thang vào Chợ Lớn
Từ An Đông trôi nổi đến Bến Thành
Đường mấy ngã đã thay tên đổi họ
Cây mấy hàng sao chưa đổi màu xanh.
Tập làm người khách lạ của quê hương
Ngày mấy bận đi về đường Lê Lợi
Đêm mấy lần quanh quẩn phố Hùng Vương
Từ Bà Chiểu lang thang vào Chợ Lớn
Từ An Đông trôi nổi đến Bến Thành
Đường mấy ngã đã thay tên đổi họ
Cây mấy hàng sao chưa đổi màu xanh.
Sàigòn
của Thanh Nam dĩ nhiên không thể nhạt phai sau bảy năm xa lìa
nơi xứ người, khi mà Một năm người có mười hai tháng,
Ta trọn năm dài một tháng Tư, biến cố đau thương ấy
cứ hiển hiện thường trực trong suy tưởng:
Tháng
Tư thoắt bảy năm tròn,
Bảy năm hình ảnh Sàigòn chưa phai
Bảy năm cơn ác mộng dài
Con tàu viễn xứ trôi hoài mỗi đêm
Sàigòn ôi những thân quen
Nhịp xe chợ sớm, ánh đèn hẽm khuya
Vang trong hồi tưởng não nề
Tiếng mưa pháo kích bốn bề thủ đô
.
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nỗi buồn nào cũng mang tên Sàigòn.
Bảy năm hình ảnh Sàigòn chưa phai
Bảy năm cơn ác mộng dài
Con tàu viễn xứ trôi hoài mỗi đêm
Sàigòn ôi những thân quen
Nhịp xe chợ sớm, ánh đèn hẽm khuya
Vang trong hồi tưởng não nề
Tiếng mưa pháo kích bốn bề thủ đô
.
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nỗi buồn nào cũng mang tên Sàigòn.
Nguyễn
Đình Toàn qua Sàigòn Niềm Nhớ Không Tên quả phải cảm thấy
một nỗi mất mát lớn lao và đau xót khi tên chính thức của
Sàigòn bị tướt đoạt:
Sàigòn
ơi, ta mất người như người đã mất tên, như dòng sông
nước cuộn quanh bùn, như người đi cách mặt xa lòng, Ta nhủ
thầm, em có nhớ không..
Sàigòn
ơi, đâu những ngày thành phố xôn xao, trong niềm vui tiếng
hỏi câu chào, Sáng đời tươi thắm vạn sắc màu, Nay còn
gì đâu …
Ai
ra đi nhớ hàng me già, Khu công viên hoa vàng tượng đá
. Thôi hết rồi mộng ước xa xôi, theo dòng đời trôi
…
Sàigòn
ơi, đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi, tay cầm tay nói nhỏ
câu gì . Đâu quày hoa quán nhạc đêm
về, đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly
.
Sàigòn
ơi, thôi hết rồi những ngày hát bên nhau, Đâu Phạm Duy với
tình ca sầu. Mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu. Còn gì đâu
.
Ai
ra đi nhớ hàng me già, khu công viên hoa vàng tượng đá. Ta
tiếc thời âu yếm xa xưa, Nay còn gì đâu. ..
Sàigòn
ơi, ta mất người như người đã mất tên, như hàng cây lá
đỏ trông tìm, Mặt trời soi dáng nhỏ dịu hiền, đang ngậm
ngùi trên môi lắng im ...
Sàigòn
ơi, ta mất người như người đã mất tên, như mộ bia đá
lạnh hương nguyền, như trời xa đã bỏ đất liền, còn gì đâu
..
.
Khi
màn đêm buông xuống, kẻ tha hương trăn trở giấc ngủ, bóng
tối xoa mềm suy tư, tâm hồn lắng đọng, kỷ niệm bồng
bềnh hiện về, lan tỏa tràn ngập hình ảnh quá khứ. Trầm
Tử Thiêng viết bài nhạc Đêm Nhớ Về Sàigòn như sau:
Đêm
nhớ về Sàigòn, thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi, những
con đường thèm đôi chân vui đã bao lâu chờ đợi
. Đường êm nghe quá khứ trong sâu, Đường chia ly vẫn
ngóng tin nhau, . Tình lẻ loi canh thâu
..
Đêm
nhớ về Sàigòn, tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa, ánh đèn
vàng nhạt nhòa đêm mưa, ai sầu trong quán úa. Bóng mẹ hiền
mờ mờ bên song,mắt người
tình một trời mênh mông, gợi bao nhiêu cho cùng ...
Yêu
me một khối tình quê,yêu
em từng bước tình si, đêm đêm mộng thấy đường đi đường
về . Ta như cậu bé mồ côi, cố vui cuộc sống nhỏ nhoi,
cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn, để đêm đêm nhớ về
Sàigòn, thấy mình vừa trở lại quê hương, đã gặp người
một trời yêu thương, cho lòng thêm chút ấm. Thấy bạn bè
thèm ngồi bên nhau, nhắc chuyện người, chuyện đời thương
đau, tình chia trong đêm sầu …
Sàigòn
không có lăng tẩm uy nghi, non xanh nước biếc như Huế. Sàigòn
không có đền đài cổ kính, di tích lịch sử như Hà Nội.
Sàigòn chỉ là một thành phố vươn lên từ vùng đất sình
lầy nhưng đầy sức sống luôn luôn mở rộng vòng tay chào
đón người mới. Có người chỉ ghé lại Sàigòn một thoáng;
có người tạm trú một thời gian ngắn hay dài; có người
những tưởng ở Sàigòn cho đến cuối đời nhưng lại phải
bỏ đi khi giặc chiếm. Sàigòn đã cưu mang họ. Bù lại, họ
đã đổ mồ hôi, nước mắt, và có khi cả máu để xây dựng
và bảo vệ Sàigòn. Vận nước ngả nghiêng, Sàigòn mất.
Nhiều đứa con của Sàigòn từ giã thành phố thân yêu ra
đi trong vội vã hoảng hốt, trong muôn vàn đớn đau cắt ruột.
Nguyệt Ánh viết:
Tôi
thấy rồi Sàigòn trong ngày giặc đến, Bối rối xôn xao Bến
Bạch Đằng .người
chen lên người. Rồi người đi, rồi biệt ly, rồi sầu bi,
nối theo nhau xa dần thành phố u ám. ..
Tôi
thấy rồi Sàigòn buồn lắm em ơi .Phố xá tan hoang nên trời
buồn giăng mây sầu . Bên giáo đường,
bên trường xưa, bên hè phố nối lên nhau xác người nằm
chật trên thềm.
Tôi
thấy rồi Sàigòn trong ngày giặc đến
. Là người hay là thú? Cường đạo hay giải phóng?
Từ rừng sâu về cướp tự do, từ rừng sâu về cướp ấm no
. Bắt bớ dân lành, nhốt tối tháng ngày thảm thương
.
Tôi
thấy rồi Sàigòn buồn lắm em ơi .
Mắt ngấn lệ rơi, nhìn trời tìm hướng xa vời
. Trên phố dài, bên hàng cây, trong chiều vắng nối
theo nhau từng kỷ niệm làm cơn đau dài
.
(Sàigòn
Buồn Lắm Em Ơi)
Mưa
Sàigòn còn buồn không em . Ta tìm
đâu ngày cũ êm đềm . Những con
đường ngập nước mưa đêm . Từng
quầy hoa, ghế đá công viên .
Nắng
Sàigòn còn ấm không em . Hai hàng
cây bóng ngả bên thềm . Nắng
ban mai xanh mầu mắt biếc . Gió ban
chiều làm tóc em bay .
Mưa
Sàigòn, ôi mưa Sàigòn .Bờ đại dương nghe mình chờ ngóng
. Ta ra đi mất lối quay về .
Rồi chiều mưa ai đón đưa em .
Mưa
bên nầy buồn lắm em ơi . Riêng mình
ta lê bước trên đời .Giãi ngân hà ngăn cách đôi nơi
. Từng giọt mưa nhưnước mắt rơi
.
Nắng
bên nầy buồn lắm em ơi . Một mình
ta lê bước trên đời . Nắng nơi
đây cũng là nắng ấm . Nhưng ấm
sao bằng nắng ấm quê hương .
(Mưa
Sàigòn Còn Buồn Không Em)
Nhạc
sĩ Hoàng Thi Thơ cũng góp công để lại cho đời bài nhạc
Đêm
Qua Mơ Thấy Sàigòn sau đây:
Hôm
qua mơ thấy Sàigòn . Tôi về trong
lòng rộn rã . Đi về thăm lại thành xưa
. Tôi đi tim những bồi hồi .
Đi tìm nhữn gì ngày đó . Cho vừa
nỗi lòng hằng mơ . .
Bao
năm xa cách Sàigòn . Tôi về đôi
hàng lệ ứa . Khi nhìn đô thành ngày xưa
. Tan hoang xơ xác nào ngờ .
Tiêu điều trên đường ngày cũ .
Tiêu điều trong lòng người xưa ..
Thôi
rồi giấc mơ tàn . Tôi nằm tôi
nhớ vu vơ . Mơ rồi giấc mơ tàn
. Tôi nằm tôi tiếc ngẩn ngơ .
Ai ngờ tôi như là . Như là em bé
ngây thơ .. Mơ rồi giấc mơ tàn
. Tôi ngồi tôi khóc như mưa .
.
Hôm
qua mơ thấy Sàigòn . Tôi về mưa
chiều tầm tã . Đi tìm thăm người
tình xưa . Tôi đi, đi tới Bàn Cờ
. Không ngờ em còn ở đó .
Không ngờ em còn chờ tôi . .
Ôm
tôi em khóc từng hồi . Đau buồn
mối tình ngày ấy . Sao đành ai làm
lìa tan . Ôm em tôi khóc sụt sùi
. Đôi người đôi dòng lệứa .
Đôi người đôi lòng cùng đau . .
Cũng
như Trầm Tử Thiêng, bây giờ chắc là Hoàng Thi Thơ, người
nhạc sĩ tận tụy cả cuộc đời cho nghệ thuật này đã
mãn nguyện rồi khi vừa nằm xuống trên cõi đất tạm dung
và hồn ông có thể tiêu diêu bay về với cố hương.
Dường
như bất cứ bài nhạc nào viết về Sàigòn mà một khi đã
được trình bày qua giọng ca liêu trai của Khánh Ly cũng đều
trở nên truyền cảm có tác dụng xoáy tận tâm hồn người
nghe. Bài Sàigòn Ơi Ta Sẽ Về của Trần Lãng Minh nằm
trong số những bài nhạc để đời đó mà người Sàigòn
ra đi luôn luôn trân quí:
Nhớ
hôm nào một buổi ta xa em . Không
gian sầu, mây cũng bâng khuâng tiễn đưa
. Gió gợn lòng buồn, ôi khúc nhạc chia ly, ôi cung sầu
ai bi, ôi lệ nhòa ra đi . .
Sàigòn
ơi, xa em ta mang đời viễn xứ . Trả
lại em bóng dáng con phố xưa .
Và tình yêu xanh tháng ngày muôn thuở ..
Sàigòn
ơi, ta xa em mất rồi .Và từ đây, rong trôi đời ta tháng ngày
. Và từ đây, nghìn trùng đời ta trong tiếc nhớ
.. Đời rộng bước chân, ôi đã là dang dở
..
Sàigòn
ơi, giữ hộ ta mái tóc yêu . Biết
bao giờ, ta về con sông xưa . Chốn
êm đềm nơi cũ mang bao thiết tha .
Mắt ngời niềm chờ, ta sẽ về bên em, thôi ngừng gót phiêu
du, bao năm rồi xa nhau . .
Nhớ
nhung đầy, những ngày xuôi trên vai .
Với cơn mộng đưa lối ta đang thoáng mơ
. Giấc mộng ngày về, ta sẽ về bên ai, trong chiều
đón đôi tay, trong mắt rưng lệ cay ..
Sàigòn ơi
. Sàigòn ơi . Giữ hộ ta cuộc đời
. Giữ hộ tình tôi ..
Một
Thoáng Sàigòn của Bảo Phúc và Vũ Tuấn Bảo, Sàigòn
Chỉ Vui Khi Các Anh Về của Bảo Chương, Cho Một Thành
Phố Mất Tên của Hoàng Ngọc Ẩn và Phạm Thành, Sàigòn
Vĩnh Biệt Tình Ta của Hoàng Ngọc Ẩn và Song Ngọc, v.v.
Có bài được cảm tác ngay khi tác giả còn trong ngục tù
cộng sản, hay trong trại tị nạn. Đa số được viết ra
ở nơi định cư an toàn, đầy đủ
tự do. Chính vì điểm tương phản đó mới làm cho ta chạnh
lòng liên tưởng đến Sàigòn trong hiện tại lầm than cơ
cực để rồi hoài niệm nhớ thương một thời dĩ vãng. Ta
chỉ nghe, chỉ biết các sáng tác đã được phổ biến. Còn
biết bao sáng tác khác rải rác đó đây chưa được giới
thiệu trình làng và góp nhặt đầy đủ. Hoặc là kỷ niệm
chỉ luôn luôn chôn chặt đáy lòng. Rồi giai đoạn của lớp
người Sàigòn cũ như bạn, như tôi sẽ qua đi. Chừng đó
hoài niệm của bạn, của tôi cũng bị chôn vùi theo lớp bụi
thời gian. Sàigòn đã ba trăm năm tuổi, đã trãi qua bao nhiêu
thế hệ. Thêm một lần nữa, lịch sử Sàigòn lại sang trang.
nguồn: http://thuduc-ontario.ca/vannghe/saigoncuatoi.html#T
Đọc thêm:
SÀI GÒN ME THAY LÁ...! http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/sai-gon-me-thay-la.html
SÀI GÒN XƯA- KẺ LƯU ĐÀY
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/oi-sai-gon-xua-ke-luu-ay-sai-gon-mot.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét