Đó có phải chỉ
là những "rặng cây xanh" đơn thuần, được trồng trong khoảng cách của
hai ngôi mộ? Nếu phóng tầm nhìn quang cảnh chung quanh, rộng hơn, chúng trong
giống như một rừng cây thẳng tấp, hay một đồn điền trồng cây đại thụ với quy mô
lớn (như những đồn điền cao su với những hàng thông ở Long Khánh, hay Nghệ An,
v.v. thời Pháp thuộc). Những "rặng cây xanh" đó có thể là những cây
muồng, còn gọi là cây me tây, như trên mạng letungchau.blogspot.com, "Thượng Nghị sỹ Jim Webb yêu cầu ngưng chương trình trợ giúp
Việt Nam", 23/09/2011, ghi chú bên dưới những hình ảnh về
NtQdBH, được chụp vào khoảng mùa Tết Trung Thu, 09/2011. Điều nầy có thể kiểm
chứng qua hình thân cây muồng từ nguồn Google, được chụp gần với sự phóng ảnh của
hình bên cạnh; cũng như hình lá cây muồng so với ảnh phóng trong hình kế
bên.
Xen lẫn trong
những cây muồng có vài loại cây khác, nhưng tất cả được trồng theo lề lối rõ
ràng, từng hàng song song với hàng mộ phần. Những hàng cây còn non tuổi, trông
cũng "ngây thơ", tươi đẹp một cách hiền hòa, không gây tác hại gì. Với
thân cây nhỏ nhắn, cành lá lưa thưa; cho biết rằng, chúng chỉ được trồng lên
trong khoảng 1/2 năm, nhưng có những khu khác (xem hình bên dưới), thân cây
cao, và đường kính rộng hơn theo thời gian được trồng trước đó. Một gốc rể nhô
lên khỏi mặt đất giữa hàng mộ, cho thấy rằng, những hàng cây già tuổi hơn nầy
là mối đe dọa nghiêm trọng cho những phần mộ gần quanh đó. Vì ai cũng biết, rễ
cây có sức rất mạnh, và cứng chắc; chúng có khả năng len lổi qua chân mộ, vách
mộ, và nâng mặt mộ lên, ngay cả đi xuyên qua vách ván hòm.
Có nghĩa,
không bao lâu nữa, những "rặng cây xanh" nầy chính là những kẻ
"đào phá mộ", không tên tuổi và hợp pháp nhất. Bởi vậy, không ai trồng
cây đại thụ trước mộ phần, nhất là trong một nghĩa trang là điều tối kỵ. Lượng
nước mưa sẽ tích tụ lâu hơn làm phần mộ dễ bị hư hại do đất lún. Đó là chưa nói
đến quang cảnh sẽ trở thành một khu rừng âm u, ẩm thấp, với thảm lá mục rữa,
hoang vắng đến lạnh người. Sẽ không còn hình ảnh nào cho một Nghĩa trang Quân đội,
mà đáng lý ra nó nói lên sự trang trọng xứng đáng cho những người đã quên mình
không vì mục đích cá nhân - dù đó là lý tưởng trái ngược với một số người,
nhưng cũng được số người không ít nhìn nhận. Ngay cả trong vấn đề tâm linh của
người Việt, sự xâm phạm của rễ cây vào xác người quá cố, là một điềm không tốt,
bất an cho gia đình, thân nhân họ.
C. Lòng "thiện cảm" của kẻ chiến thắng
(?):
"Ba mươi lăm năm nhìn lại.
Thời gian đã đủ lâu để những người đang sống thấy thấm thía nỗi đau ngăn cách. Quyết
định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ xem ra đã là một bước tiến khá dài cho
mục tiêu hoà hợp dân tộc, hàn gắn lòng người"
Và mượn lời của nhân vật tên Kha,
tiếp : "Vậy mà có những người không rõ vô tình hay ác ý đến giờ vẫn
cứ lạnh lùng phân biệt"bên này" với"bên kia". Nghe đau
lòng lắm. Mẹ tôi hồi còn sống cũng rất khổ tâm", ông Kha bộc bạch."
Quả thật, người sống đang thấm
thía nỗi đau ! Nhưng thử hỏi lại lòng mình, của một kẻ chiến thắng : "Nỗi
đau thấm thía đó, có phải họ muốn dành cho những kẻ bại trận phải chịu đựng -
không chỉ là hơn 35 năm qua - khi trở lại viếng thăm những nấm mồ của người
thân đã hy sinh trong chiến cuộc, nơi những nghĩa trang bị bỏ quên cho thêm
hoang phế, mà không bao giờ được nhà cầm quyền đương thời chấp nhận sự trùng
tu, dù chi phí hoàn toàn do sự quyên góp mà có ?"
Có lẽ, có một số người mĩm cười
thú vị khi biết rằng có "những người đang sống thấm thía nỗi đau",
và trong số đó là những kẻ cầm bút - viết để được sống còn mà không phải từ bất
kỳ cảm nhận nào của họ, dù phải ngoa ngôn, ngụy tạo, hay sống sượng bịa đặt nhằm
mê muội lòng người ngây ngô.
Và có phải chăng, quyết định dân
sự hóa nghĩa trang quân đội cũ là một đặc ân cho sự hòa hợp dân tộc nhằm "hàn
gắn lòng người", hay đó chính là kế hoạch muốn xóa tan dấu tích lịch sử
dân tộc mà qua đó cũng là một bài học hiển thực - khiến kẻ chiến thắng lo sợ -
cho thế hệ mai sau nghiền ngẫm ?
Vì một khi đã là dân sự hóa, thì
nghĩa trang quân đội không còn được xem là một di tích bất khả xâm phạm. Đặc quyền
đó bị tước đoạt vì những người đã phải hy sinh không bao giờ được xem là tử sĩ,
mà chỉ là những cái chết rất bình thường trong xã hội, không vì bổn phận hay
nghĩa vụ gì cả. Và cho dù những sự hy sinh cao đẹp đó, bị phủ nhận bởi kẻ chiến
thắng, nhưng ít ra, trong số những người còn lại chắc chắn phải nghiêng mình
kính phục với tất cả sự tôn trọng dành cho họ.
Vời một cái nhìn xa hơn, người ta
cũng có thể thấy rằng, một khi nhà nước muốn dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ
được tiến mau hơn, thì chỉ cần "mở cửa" tự do - không thu tiền mua đất
mộ, hay chỉ lấy tượng trưng - vừa được lòng dân, và sự hòa nhập tăng lên rất
mau. Từ đó, không ai không biết hay không nhìn nhận đó là nghĩa trang dân sự. Đến
một thời gian sau, nếu nhà nước cần quy hoạch vùng đất nghĩa trang cho mượn tạm,
thì rất hợp lý và hợp pháp. Dân địa phương sẽ cho người đến lo dời phần mộ người
thân, nhưng những nấm mồ chiến sĩ của chế độ cũ có được mấy ai lo vì gia đình bị
lưu lạc, phân tán, hay bần hàn trong một xã hội phân biệt nhau bằng tờ khai
lích lịch ba đời. Có một nghĩa trang dân sự nào được nhà nước ra Quyết định
trên văn bản, là bất khả xâm phạm không ? Hay có ai đã dám ký xác nhận, một khi
dân sự hóa NtQdBH sẽ được pháp luật bảo vệ vùng đất đó vĩnh viễn không ? Dĩ
nhiên là không ! Ngàn lần là không ! Như vậy, đó không phải là kế hoạch của nhà
nước, vừa xóa được một vết lở, và thu lợi không ít trên vùng đất đó sao ?
Sự "lạnh lùng phân biệt"
"bên này" với "bên kia" là "vô tình hay ác ý",
như ông Kha nào đó nói, quả không sai. Có ai nghĩ rằng, thái độ đó là của kẻ
chiến bại đang mong nhờ đặc ân thiện cảm nào đó của kẻ chiến thắng dành cho họ
không ? Hay kẻ chiến thắng với quyền lực đang có, nên họ có quyền tỏ thái độ
như trên ? Và sự "vô tình hay ác ý" đã và đang được thể hiện qua những
tiến hành thực tế nhất đối với Nghĩa trang Quân đội Biên hòa (NtQdBH), hôm nay.
Và tất nhiên, những điều đó, không thể nghĩ rằng do chính những kẻ bại cuộc,
không quyền lực, nhưng đã có thể gây nên.
Và bài viết đó tiếp: "Đây
là thực tế mà ông Võ Văn Sung, một trong 5 thành viên chính thức của phái đoàn
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tham dự ký Hiệp định Paris đã nhắc tới khi
nói về hoà hợp dân tộc, hàn gắn lòng người.
Trong một bài viết thu hút
đông đảo sự chú ý của dư luận, ông Sung nói rằng:"Ở Việt Nam có đặc điểm là kháng chiến chống
xâm lược nước ngoài kéo dài quá lâu. Riêng ở miền Nam Việt Nam liên miên gần 30
năm và ước tính có đến 90% gia đình Việt Nam có người cả hai bên. Mặt khác chiến
tranh lâu năm cả nước và mỗi gia đình Việt Nam đều chịu nhiều mất mát đau
thương, do đó không có cách nào khác là phải tha thứ cho nhau để xây dựng lại,
vì nếu làm ngược lại thì 90% gia đình Việt Nam phải tiếp tục đau khổ"."
Trước mặt những người đại diện
trong Hiệp định Paris, Võ Văn Sung đã đứng ra lên tiếng về sự "tha thứ
cho nhau" và bày tỏ sự đồng cảm cùng 90% gia đình Việt Nam. Lời kêu gọi
thật là ý nghĩa, và không kém phần thiết tha ! Dường như có cả dân tộc Việt Nam đang sung
sướng mĩm cười trong niềm tự hào về lòng nhân đạo mà họ có được từ lễ giáo Đông
phương, trước những quan khách ngoại quốc. Chắc chắn rằng, sau đó sẽ có những
tràng pháo tay cổ võ, tán thưởng, và khen ngợi dù… điều đó chưa được chứng minh
qua thực hiện, nhưng người ta vẫn mong muốn và hy vọng hơn là chẳng có gì. Đáng
tiếc thay, sự "tha thứ cho nhau" chỉ là một nước cờ chính trị
trong hiện tình năm 1973 cho việc trao đổi tù binh chiến tranh; chớ không phải
là một chính sách được áp dụng sau khi chiến tranh chấm dứt trên hai miền, mà
nhiều người cứ mãi hiểu lầm khi đọc lại câu nói trên. Vì bằng chứng lịch sử gần
đây ghi nhận rằng, 90% gia đình miền Nam Việt Nam phải tiếp tục đau khổ qua
chính sách tập trung học tập cải tạo, qua lao tù nhục hình hạ thấp nhân phẩm,
qua cưỡng bức xây dựng kinh tế mới, qua xã hội phân biệt giai cấp dựa trên tờ
khai lích lịch, v.v. Và nhất là qua sự thi hành bản án cho người chết đang nằm
rải rác trong những nghĩa trang quân đội nói chung, và NtQdBH nói riêng.
Bài viết cũng không quên nhắc đến
lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trước báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao) về sự kiện
ngày 30/04 như sau :
"Ông nói, chiến thắng
tháng Tư năm 1975 là vĩ đại, nhưng Việt Nam cũng đã phải trả giá cho chiến thắng
đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Và đây là câu chuyện khi nhắc lại có
hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương
chung của dân tộc cần đươc giữ lành thay vì tiếp tục làm nó thêm rỉ máu".
Chia sẻ với trăn trở này, ông Lê
Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận tổ quốc TP. Hồ Chí Minh (Mttq Tp HCM )
cũng lưu ý: "Nếu vẫn để căng thẳng kéo dài chắc chắn không mang lại một
chút lợi ích nào về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi, dù thuộc
bên này hay bên kia, trong hay ngoài nước".
Những lời của Võ Văn Kiệt trong
vai trò Thủ tướng (1992-1997) và Lê Hiếu Đằng, Phó chủ tịch Mttq Tp HCM
(1989-2009), dù trong hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng dường như có cùng ý tưởng.
Trong 17 năm đã qua, từ 1975 đến điểm thời gian 1992, và suốt 5 năm nhiệm kỳ của
Thủ tướng Kiệt, cũng không đủ làm lành vết thương đang rỉ máu, nên oán hận nào
đó vẫn cứ trút đổ xuống những nấm mồ chiến sĩ của chế độ cũ_ những người chết
mang bản án nhân dân, và được xét xử lại trong mỗi giai đoạn nhiệm kỳ mới của
Thủ tướng nào đó. Và xa hơn nữa, là thời điểm năm 2009 - khoảng thời gian mà
tác giả Phong Thu trở về thăm viếng NtQdBH_ trong suốt 12 năm sau khi vai trò
Thủ tướng Kiệt chấm dứt, Phó chủ tịch Mttq Tp HCM cũng không đủ sức làm giảm đi
sự căng thẳng đang kéo dài vì sự mâu thuẩn trong hòa hợp hòa giải dân tộc giữa
hai khối người Việt trong và ngoài nước, giữa kẻ vẫn là chiến thắng và kẻ vẫn
phải là chiến bại, dù đã nhiều lần kêu gọi thoáng qua. Nên thực trạng hôm nay,
2011, so với năm 2009, của NtQdBH, dĩ nhiên, càng ngày càng thêm trầm trọng, và
có nhiều biểu hiện cho một di tích lịch sử sẽ biến mất trong một ngày không
xa.
Những bức hình sau đây được so
sánh qua hai thời điểm khác nhau : từ nguồn của tác giả Phong Thu vào khoảng cuối
tháng 12/2009 và từ nguồn trên trang mạng letungchau.blogspot vào khoảng tháng
09/2011, để chứng minh cho sự kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc trong hơn 36 năm
của những người mang tên "chiến thắng".
Và trong đoạn kết của bài viết "Một
ngày tháng Tư thăm nghĩa trang quân đội Biên Hoà", qua lời của nhân vật
tên Kha như sau :
"Xem ra, chẳng có gì quá
khó."Tất cả đều ở cách con người ứng xử thế nào với nhau. Họ có đủ can đảm
và dũng khí, dám vượt lên quá khứ đau buồn hay không?", ông Kha kết thúc
câu chuyện với những người khách lần đầu gặp mặt."
Thoáng đọc qua đoạn kết, như có một
cảm giác chợt rùng mình khi cơn gió trái mùa đi ngang, khiến cơ thể mệt mõi và
nhuốm bệnh làm mất hết "can đảm và dũng khí" để "vượt
lên quá khứ đau buồn", trong khi "ở cách con người ứng xử"
của kẻ chiến thắng luôn là dấu hỏi. Nhưng đoạn kết đó dễ làm người ta xúc động
trong một bài viết "lưu loát văn chương". Dường như điều mà mọi người
muốn biết là bằng chứng hiện thực hơn là những bài viết vu vơ, vô tội vạ, hay
những lời tuyên bố hùng hồn, thậm chí trong ký kết hiệp định hay dùng danh nghĩa
hội viên quốc tế nào đó.
D. Công Ước Genéva và Hiệp Định về vấn đề phần mộ:
- Công Ước Genéva được ký ngày
12/08/1949, Chương III, Điều 120, và Điều 121: nói về trách nhiệm chôn cất
tù binh và bảo vệ phần mộ của các phe lâm chiến.
- Hiệp Định Genéva ngày
20/07/1954, Điều 23 : xác nhận trách nhiệm bảo toàn phần mộ của các tử sĩ
đối phương trong lãnh thổ chiếm đóng.
- Hiệp Định Hòa Bình Paris ký
ngày 17/01/1973, Điều 8 : cũng ghi rõ nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ phần mộ của
tử sĩ phe đối địch.
Để minh xác cho sự thật, chúng ta
thử duyệt qua những trích đoạn trong Công Ước, Hiệp Định nêu trên, để một lần nữa
không-còn-nghi-ngại đó là cách ngụy biện của kẻ thua cuộc bày ra.
1. Công Ước ngày 12/08/1949 :
Đây là Công Ước quốc tế lần thứ
tư định nghĩa một cách rộng rãi về những quyền cơ bản của tù nhân chiến tranh
(dân sự và quân nhân) trong chiến tranh, thành lập sự bảo vệ cho những người bị
thương tích và dân sự trong vùng chiến, kể cả những nầm mồ, hài cốt của người
tham chiến hay không dự phần. Công Ước nầy được những nước là thành viên của
Liên Hiệp Quốc ứng dụng trong thực thi lòng nhân đạo nhằm xoa dịu phần nào những
đau thương, thống khổ, và mất mát trên cả hai phần của con người : vật chất/
(thể chất) và tinh thần. Dù trong chiến tranh, người ta cố gắng bảo vệ lý tưởng
nào đó, nhưng trong đoạn kết, ngay cả kẻ chiến thắng cũng cảm thấy quá mõi mệt
để đeo đuổi nó, khi nhìn lại những xác chết, nấm mồ của bạn-và-thù chưa từng
quen biết.
Nguồn trên trang mạng http://www.icrc.org có đăng toàn bộ Công Ước.
Trong Phần IV: Mức hạn của sự giam cầm, Mục III: Sự tử vong của các tù nhân chiến
tranh, và…
a. Điều 120 có những đoạn như
sau :
"… The burial or
cremation of a prisoner of war shall be preceded by a medical examination of
the body with a view to confirming death and enabling a report to be made and,
where necessary, establishing identity.
The detaining authorities
shall ensure that prisoners of war who have died in captivity are honourably
buried, if possible according to the rites of the religion to which they
belonged, and that their graves are respected, suitably maintained and marked
so as to be found at any time. Wherever possible, deceased prisoners of war who
depended on the same Power shall be interred in the same place.
Deceased prisoners of war
shall be buried in individual graves unless unavoidable circumstances require
the use of collective graves."
Tạm dịch : "… Việc chôn cất
hoặc hỏa táng một tù sẽ được tiến hành sau một cuộc kiểm tra y tế trên thể xác
với sự thẩm định để xác nhận về sự tử vong và cho phép làm bản báo cáo và, khi
cần thiết, xác minh sự nhận dạng
Các nhà chức trách giam giữ sẽ
phải bảo đảm rằng các tù binh, những người đã tử vong trong sự giam cầm, được
chôn cất một cách vinh dự, nếu có thể, theo các nghi thức của tôn giáo của họ,
và phần mộ của họ được tôn trọng, duy trì một cách phù hợp và đánh dấu để có thể
tìm lại được trong bất kỳ thời gian nào. Bất cứ khi nào có thể, những tù binh
quá cố, những người dựa vào cùng chính quyền sẽ được táng cùng một nơi.
Những tù binh quá cố sẽ được
chôn trong những phần mộ riêng lẽ, trừ khi trong hoàn cảnh không thể tránh được,
đòi hỏi phương cách của ngôi mồ tập thể."
Trong trích đoạn của Điều 120 ở
trên, có nhắc đến trách nhiệm của nhà chức trách trong tinh thần nghĩa vụ quốc
tế về sự chôn cất, bảo vệ phần mộ đối phương, và "lòng cao thượng" của
họ nên được thể hiện qua sự tôn trọng những chiến binh quá cố, sự đồng cảm về
tình đồng đội. Và để nhấn mạnh thêm về trách nhiệm chăm sóc phần mộ là của nhà
cầm quyền, phần cuối của Điều khoản viết :
"… Responsibility for the
care of these graves and for records of any subsequent moves of the bodies
shall rest on the Power controlling the territory, if a Party to the present
Convention"
Tạm dịch : "… Trách nhiệm
cho việc chăm sóc các phần mộ và hồ sơ của bất kỳ sự xê dịch xác chết tiếp theo
sau đó sẽ vẫn là của nhà cầm quyền đang kiểm soát lãnh thổ, nếu nhóm đảng tham
gia Công Ước này."
b. Điều 121 có đoạn :
"Every death or serious
injury of a prisoner of war caused or suspected to have been caused by a
sentry, another prisoner of war, or any other person, as well as any death the
cause of which is unknown, shall be immediately followed by an official enquiry
by the Detaining Power
… If the enquiry indicates the
guilt of one or more persons, the Detaining Power shall take all measures for
the prosecution of the person or persons responsible."
Tạm dịch : "Mỗi cái chết
hoặc sự chấn thương nghiêm trọng của tù binh bị xãy ra hoặc nghi ngờ rằng đã bị
gây ra bởi lính gác, tù binh khác, hoặc bất kỳ người nào khác, cũng như bất kỳ
cái chết nào từ nguyên nhân chưa được biết, sẽ phải được theo dõi ngay lập tức
bởi công cuộc điều tra chính thức của nhà cầm quyền."
… Nếu cuộc điều tra chỉ rỏ
tội của một hoặc nhiều người, nhà cầm quyền sẽ phải tiến hành các biện pháp
truy tố cá nhân hoặc những người có trách nhiệm."
Trong Điều 121, nói về
"trách nhiệm" của nhà cầm quyền đối với "cái chết" của tù
binh, dù với lý do nầy hay lý do khác, nhưng đó vẫn là trách nhiệm của họ
!
2. Hiệp định Genéva ngày 20/07/1954, Điều 23:
Đây là một Hiệp Định mà hầu hết
người dân Việt biết đến, vì nó đánh dấu sự chia cắt hai miền Nam-Bắc nơi vĩ tuyến
17, cùng những đoàn người xuôi ngược giữa hai miền trước khi bước vào giai đoạn
"hận thù" nhau, hơn nửa thế kỷ qua.
"In cases in which the
place of burial is known and the existence of graves has been established, the
Commander of the Forces of either party shall, within a specific period after
the entry into force of the Armistice Agreement, permit the graves service
personnel of the other party to enter the part of Vietnam territory under their
military control for the purpose of finding and removing the bodies of deceased
military personnel of that party, including the bodies of deceased prisoners of
war. The Joint Commission shall determine the procedures and the time limit for
the performance of this task. The Commanders of the Forces of the two parties
shall communicate to each other all information in their possession as to the
place of burial of military personnel of the other party."
Tạm dịch : "Trong những
trường hợp mà trong đó các địa điểm mai táng được biết đến và sự tồn tại của
ngôi mộ đã được xây dựng, Tư lệnh Lực lượng của cả hai bên, trong khoảng thời
gian cụ thể sau khi sự ghi nhận danh mục trở nên có hiệu lực trong Hiệp Định
đình chiến, sẽ phải cho phép các nhân viên phục vụ mộ phần của bên kia vào phần
lãnh thổ Việt Nam dưới sự kiểm soát quân sự của họ cho mục đích của việc tìm kiếm
và di chuyển xác của những quân nhân quá cố của bên đó, bao gồm xác của các tù
binh đã mất. Ủy ban Hợp tác sẽ quyết định phương thức và thời hạn để thực hiện
nhiệm vụ này. Tư lệnh Lực lượng của hai bên sẽ trao đổi với nhau tất cả các
thông tin của họ như là nơi chôn cất các quân nhân của bên kia."
Qua Điều 23, có nói về quyền hạn
của nhân viên phục vụ mộ phần vào Nam hay ra Bắc, nhưng phải tuân
theo phương thức và thời hạn của nhà cầm quyền trên miền của họ. Có nghĩa, dường
như nó chỉ có hiệu lực trong thời gian ấn định nào đó, vì khi chiến tranh bùng
nỗ sau 1954, xem như Hiệp Định 54 đã hết hữu hiệu.
3. Hiệp định Paris ký ngày 17/01/1973, Điều 8 :
Và đây cũng là một Hiệp Định được
biết đến với đại đa số dân Việt. Hiệp Định nầy là cả sự hảnh diện của chình quyền
Hà Nội trong thế chính trị khôn ngoan đã buộc Hoa Kỳ lui bước khỏi miền Nam Việt
Nam và trói tay quân lực Việt Nam Cộng Hòa với tên gọi Hiệp Định Đình chiến Hòa
Bình.
"(a) The return of
captured military personnel and foreign civilians of the parties shall be
carried out simultaneously with and completed not later than the same day as
the troop withdrawal mentioned in Article 5. The parties shall exchange
complete lists of the above-mentioned captured military personnel and foreign
civilians on the day of the signing of this Agreement.
(b) The parties shall help
each other to get information about those military personnel and foreign
civilians of the parties missing in action, to determine the location and take
care of the graves of the dead so as to facilitate the exhumation and
repatriation of the remains, and to take any such other measures as may be
required to get information about those still considered missing in
action.
(c) The question of the return
of Vietnamese civilian personnel captured and detained in South Viet-Nam will
be resolved by the two South Vietnamese parties on the basis of the principles
of Article 21 (b) of the Agreement on the Cessation of Hostilities in Viet-Nam
of July 20, 1954. The two South Vietnamese parties will do so in a spirit of
national reconciliation and concord, with a view to ending hatred and enmity,
in order to ease suffering and to reunite families. The two South Vietnamese
parties will do their utmost to resolve this question within ninety days after
the cease-fire comes into effect."
Tạm dịch : "(a) Sự trao
trả quân nhân, thường dân nước ngoài bị bắt của các bên sẽ được tiến hành cùng
lúc và hoàn tất không muộn hơn trong cùng ngày khi quân rút lui, được đề cập tại
Điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những quân nhân và thường dân nước
ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp định này.
(b) Các bên sẽ giúp đỡ lẫn
nhau để có tin tức về những quân nhân và thường dân nước ngoài của các bên
bị mất tích trong trận chiến, để xác định vị trí và chăm sóc các ngôi mộ của
người chết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai quật và hồi hương các bộ
hài cốt, và để thực hiện bất kỳ biện pháp khác như có thể được yêu cầu góp nhặt
tin tức về những người vẫn được xem là mất tích trong trận chiến.
(c) Những câu hỏi về sự trao
trả nhân viên dân sự Việt bị bắt và bị giam giữ ở miền Nam Việt-Nam sẽ được
giải quyết do hai đảng phái của miền Nam Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc của
Điều 21 (b) của Hiệp Định về sự đình chiến ở Việt Nam ngày 20 tháng bảy, 1954.
Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm như vậy trong một tinh thần quốc gia
hòa giải và hòa hợp, với một quan điểm chấm dứt thù hận và thù nghịch, nhằm giảm
bớt đau khổ và đoàn tụ với gia đình. Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm hết sức mình để giải quyết
câu hỏi này trong vòng chín mươi ngày sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực."
Vì đây là Hiệp Định giữa bốn bên
(Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam_ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam hay Việt Minh_, và Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa) nên có những Điều khoản rất dễ làm người đọc hiểu sai, vì đôi
khi cả ba bên được nói đến trong cùng một Điều khoản, hoặc chỉ nói đến 2 bên.
Như trong Điều 23, phần (a) và (b) ứng dụng cho 3 bên (hơn là 4 bên, hay chỉ 2
bên Nam-Bắc), và phần (c) dành cho 2 bên, nhưng chỉ ứng dụng trong miền Nam giửa
2 nhóm thế lực.
Và Điều 23(b) cũng nhắc đến sự
giúp đỡ lẫn nhau giữa các bên trong việc khai quật, hồi hương hài cốt, và chăm
sóc phần mộ. Cũng như tin tức về những người mất tích trong chiến tranh.
Xét qua những Điều khoản trên, đều
có nhắc đến "phần mộ", và tùy theo mục đích của Công Ước hay Hiệp Định
vấn đề đó được nhấn mạnh, hay chỉ sơ sài chi tiết. Cho dù là vậy, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ ngày 20/09/1977 nhưng vẫn cố
tình không thực hiện những Điều khoản trong Công Ước Genéva quốc tế, và Hiệp Định
đã từng ký kết về phần mộ của các tù nhân chiến tranh, hay chiến sĩ đối
phương.
Điều nầy chắc chắn sẽ gây nên trở
ngại cho những cuộc bang giao của Việt Nam với quốc tế, ngoại trừ với khối
cộng sản bé nhỏ. Sự tín nhiệm của nước khác vào Việt Nam trong cương vị là một thành
viên của Liên Hiệp Quốc, sẽ là một dấu hỏi không nhỏ. Nhất là khi NtQdBH - một
nghĩa trang bậc quốc gia của chế độ cũ, còn sót lại - bị xóa mất dấu tích, sẽ
khiến quốc tế có cái nhìn e ngại hơn về lòng nhân đạo của Việt Nam.
Thử nhìn lại một góc cạnh nhỏ
trong bối cảnh sau khi Hiệp Định Paris 1973 đã được ký kết, để có thể phán xét,
ai là kẻ gây nên chiến tranh, trong sự công bằng và sự thật của lịch sử. Theo
Wikipedia, "Le Duc Tho", bản tiếng Anh, có đoạn như sau
:
"Lê Đức Thọ and Henry
Kissinger were jointly awarded the 1973 Nobel Peace Prize for their efforts in
negotiating the Paris
Peace Accords. However, Thọ declined to accept the award, stating, "There
was never a peace deal with the U.S.
We won the war."
Tạm dịch : "(Trưởng ban Tổ
chức Trung ương, Chính khách VNDCCH) Lê Đức Thọ và (Bộ Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ)
Henry Kissinger cùng được trao chung giải Hòa Bình Nobel năm 1973 cho những nỗ
lực của họ trong cuộc đàm phán Hiệp định Hòa bình Paris. Tuy nhiên, Thọ đã từ chối chấp nhận giải
thưởng, nói rằng "Không bao giờ có một thỏa thuận hòa bình với Mỹ. Chúng
tôi chiến thắng."
Và vẫn theo Wikipedia, "Kissinger",
bản tiếng Anh, đã viết : "Tho rejected the award, telling Kissinger
that peace had not been really restored in South Vietnam."
Tạm dịch : "Thọ từ chối
giải thưởng, nói với Kissinger rằng hòa bình chưa thực sự được khôi phục ở miền
Nam Việt Nam"
Qua câu nói của Lê Đức Thọ_ chỉ vừa
sau khi ký xong Hiệp Định_ đã đủ phô diển niềm tự kiêu của kẻ hiếu chiến (xâm
phạm Hiệp Định Paris, nhất là nơi Điều 15) và chỉ mong chiến thắng (tiếp tục vận
chuyển bộ đội, vũ khí Trung cộng, Liên Xô vào miền Nam) hơn là xây dựng nền hòa
bình thực sự như trong bản Hiệp Định mang tên Hòa Bình đó. Có lẽ, cũng vì vậy,
niềm hy vọng mong chờ một đặc ân trong hòa hợp hòa giải dân tộc từ phía nhà cầm
quyền đương thời, cho những phần mộ của chiến sĩ "được nằm yên" trong
NtQdBH, là một điều rất mong manh - chắc không bao giờ là hiện thực. Vả lại Việt
Nam
hôm nay có quá nhiều thay đổi; sức mạnh đồng tiền (đô la) không còn là hư ảo
trong chủ nghĩa xã hội nữa, mà nó hiển hiện một cách trung thực, rõ ràng, và
mãnh liệt nhất, hơn cả sinh mạng con người đang sống. Thì làm sao, có thể đặt
chút hy vọng vào một đặc ân nào đó cho người quá cố của chế độ "thù nghịch"
cũ ! (?).
Nguồn: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/04/nghia-trang-buon-ten-inh-thien-thu.html
VIẾNG- NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA- XUÂN QUÝ TỴ 2013
TƯỢNG ĐỒNG ĐEN
NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA
Huỳnh Mai St.8872, mồng 01 tết Quý Tỵ 2013
Chủ nhật 10-2-2013
Ngày mồng một tết năm Quý Tỵ 2013. Biết được rằng: một năm đầy trắc trở,
gian nan, khó khăn cho dân tộc trên cuộc hành trình đấu tranh cho tự
do, mà suốt 38 năm qua bi Cộng Sản hóa Miền Nam VN.
Và ngay cả
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, tượng trưng cho Tự Do của hồn thiêng sông
núi; anh linh chiến sĩ VNCH cũng bị quản chế như người sống phải cải
tạo trong nhà tù cộng Sản dưới chính quyền VC.GPMNVN.
Cũng như mọi năm, năm nào cũng nhờ đứa con trai trưởng chở tôi bằng
xe gắn máy đến nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, thăm lại các chiến hữu bỏ
mình trên các mặt trận chiến trường xưa trong các trận đánh biên giới
Nam Hạ Lào- Lam Sơn 719- và sau này, trong cuộc di tản chiến thuật- Rút
quân bỏ ngỏ Tây Nguên nam trung phần, theo lệnh Tổng tư lệnh, TT Nguyễn
Văn Thiệu...Các bạn bè chiến hữu tôi, hiện còn nằm xuống, tại Nghĩa
Trang Quân Đội Biên Hòa này, với bao trăn trở bỏ lại quê hương mất tự do
dân tộc!
Vì muốn truyền lửa quê hương lại cho con cháu mai sau khi tuổi già
sức yếu, và để cháu con thấy tận mắt cách hành xử thô bạo đầy lòng hận
thù của người anh em cùng huyết thống tổ tiên của người Cộng Sản Bắc
Việt Nam, đã xảo quyệt,dối lừa dân tộc, để Cộng Sản hóa Miền Nam sau
ngày 30-4-1975 chiếm dóng Miền Nam VN.
Cha con chúng tôi đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, sau khi làm thủ
tục viếng thăm- Xét hỏi địa chi và CMND, cùng mục đích liên hệ viếng mộ.
Tôi không phải thân nhân- Việt Kiều- nước ngoài, mà là người " "Kẹt ở
lại Sài gòn" nên địa chỉ được an ninh quốc phòng huyện Dĩ An chiếu cố kỷ
càng...và rỏ ràng điều lệ viếng mộ: không chụp hình; đốt vàng mả và
không tổ chức cầu kinh siêu với bất cứ hình thức tôn giáo nào, gây mất
trật tự an ninh nghĩa trang.
Vào được khuôn viên nghĩa trang, chúng tôi tránh tổ bảo vệ an ninh
của huyện Dĩ An đưa xuống, và tháp tùng với thân nhân viếng mộ, để tìm
lại người lính già giữ mộ của Sư Đoàn 18 bộ binh VNCH,được phía chính
quyền bên này " Phe Thắng Cuộc" cho phép ở lại giữ mộ và lấy tin tức bên
kia " Kẻ Thua cuộc " Nhưng người lính già này, vẫn còn nặng tình chiến
hữu năm xưa, nên kể lại những nỗi lòng đau đớn của kẻ nằm xuống sau
chiến bại tại nghĩa trang này...! Và, ông phải làm " Linh già gác mộ" để
bảo tồn những gì còn xót lại di tích chiến tranh...! Tôi tìm không găp
lại người lính già giữ mộ; chỉ có một mụ già giữ mộ thay ông, tự xưng là
người nhà của ông... nhưng tôi chắc rằng, là tổ an ninh mật vụ của
huyện ủy đưa xuống để theo dỏi thân nhân viếng mộ và tuyên truyền chính
sách đảng đối nghĩa trang này.
Nghĩa Dũng Đài, với vành khăn tang và thanh kiếm bị cắt cụt ngọn.
Bà vừa cho biết, sống bằng nghề giữ mộ từ lâu rồi; nhờ vào lòng
thương hại giúp đỡ của thân nhân chiến sĩ quá cố VNCH, cho tiền rẩy mã,
đắp mộ, canh chừng trâu bò giẫm đạp mã mồ,cuối năm tết đến. Bà cũng khoe
rằng; vừa mới phát hiện ngôi mộ bị bỏ hoang phế và quên lãng từ lâu, đó
là cái mả của ông "Tượng Đồng Đen" Chiến sĩ vang danh số 1 chế độ Sài
gòn cũ. Ông Đồng Đen là lính TQLC.VNCH, chết trận Mậu Thân 68, thân nhân
không có, nên chôn cất tại đây,và xiêu mồ lạc mả đến ngày hôm nay. Vừa
được phát hiện tại khu A, ngôi mộ số 1, sát đường vòng xoay vành khăn
tang của Nghĩa Dũng Đài. Cùng lúc với đội thi công, công trình xây dựng
của huyện Dĩ An đưa người xuống xây cất!?... và đập phá, bỏ đi ngôi nhà
thờ phụng trong vành khăn tang dưới chân Nghĩa Dũng Đài, để trồng vào đó
là các bông hoa công viên ; xung quanh,phia ngoài Vành Khăn Tang xây
thêm 8 cái bàn thiên, như cái bàn cờ chỉ rõ và hướng dẫn khu vực chôn
cất A.B.C.D.E.trong nghĩa trang.Và xa, xa trong mỗi khu vưc nghĩa địa có
xây thêm mợ cái bàn thờ lộ thiên chung có trồng hoa kiểng để người
viếng mộ tập trung cúng bái.. Đễ dễ bề kiểm soát an ninh trật tự hơn!
khi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa được trả về, trở thành " Nghĩa trang
Bình an" thuộc dân sự cũa huyện Dĩ An, để đia phương dễ bề tùng xẻo,
phân lô, hợp tác đầu tư buôn bán đất với danh nghĩa qui hoạch, giải tỏa;
thủ tiêu nghĩa địa...xóa dấu vết tôi ác chiến tranh, vì công ích ;công
cộng...Trước phản ứng quyết liệt cũa người dân Sài gòn , và thân nhân tử
sĩ Miền Nam, từ trong lẫn ngoài nước đề phản đối.nhành vi vô nhân đạo
của chính quyền CSVN. Nay, gần tết- cuối Năm, chính quyền địa phương Dĩ
An, cho đổi tên thành "Nghĩa Địa Nhân Dân Dĩ An" để dể bề đồng hóa, đánh
lừa hai chữ "nhân dân" như quân đội nhân dân...nghĩa trang nhân dân. và
biến nghĩa trang Quân đội VNCH, thành quân đội nhân dân GPMN, để đánh
lừa thế hệ tuổi trẻ VN.
Xin bà cho biết, công trình xây dựng của huyện Dĩ An đã hoàn tất xây
cất chưa, sao không thấy xây lại phần lưỡi kiếm cao hai mươi mấy thước
bị bộ đội nhân dân chúng ta cắt cụt ngọn đễ làm tháp canh gác...Và có
xây trả lại " nhân dân" cái phần lưỡi kiếm cụt, được quấn bởi vành khăn
tang,mới tròn ý nghĩa Nghĩa Dũng Đài!- Dám hỏi thẳng vì tưởng chúng tôi
là việt kiều yêu nước sẽ cho tiền bà} Sẵn trớn tôi hỏi luôn...Vậy chi
phí xây cất do nhân sách huyện bỏ ra !?
Bà trả lời: Xây vậy là xong rồi đó chú! chi3 còn trồng bông hoa nữa
là xong, chắc ra ngoài tết lận chú, chớ còn cây kiếm cụt chú nói là
không xây lại... còn phải đập bỏ nhà thờ trống dể trồng bông cho nó
đẹp...!? Cò tiền vật liệu , nhân công là do các xí nghiệp sản xuất, kinh
doanh,họ chiếm đất nghĩa trang này phải bỏ tiền ra tu sửa và xây rào
che chấn chung quanh nghĩa địa bị lấy đất, thu hẹp lại, nếu muốn tồn tại
và không bị lấy đất trả lai nghĩa trang, vì nay thuộc về Nghĩa trang
Nhân Dân huyện Dĩ An rồi!
Bà nói tiếp và dẩn tôi đến ngôi mộ mới vừa quét vôi trắng vài ngày
trước tết, và nhổ cỏ sạch sẻ xung quanh, so với những ngôi mộ đất trong
khu A, và chỉ ngôi mộ đầu tiên dưới gốc cây muồng có cành cây de ra,trùm
trên ngôi mộ. Bà chỉ mộ bia có hình bức tượng "Thương Tiêc" của anh
lính VNCH, và bảo rằng, đó là ông "Tượng Đồng Đen" gác cổng Nghĩa Trang
Quân Đội Biên Hòa, mà mọi người ai cũng biết chiến sĩ Nhân dân số 1,đệ
nhất anh hùng chết năm Mậu Thân 68. Tôi cho bà một chút ít tiền thưởng
công chăm sóc các ngôi mộ khác cùng khu vực, không riêng gì ông Tựợng Đồ
Đen; và đốt vài nén nhang, tưởng nhớ đến các anh!...chiến hữu VNCH đã
hy sinh vì tự do dân tộc. Bà thấy nghĩa cữ của tôi trước sự tôn kính
vong linh người chiến hữu VNCH,bà đả đoán ra phần nào ,và xúc động bão
tôi rằng: Tượng Đồng Đen- TượngThương Tiếc đó rất quí hiếm được được bộ
đội miềm Bắc bí mật chở đi giấu mất biệt tâm...biệt tích , còn lại đế
chân tượng họ cho cơ quan nhà nước xây nhà chồng lấp lên, xóa vết tích
Tượng Đồng Thương Tiếc...! Bà được tiền và lãng ra chỗ khác, để tìm
thân chủ mới như tôi...Tôi được yên thân và khấn thầm...thương tiếc các
anh chiến sĩ Tự Do QL.VNCH đã đền xong ơn nợ nước!!!
Tượng " Thương Tiếc " và Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu
Xuân Hương
Lời giới thiệu: Trong lần về VN thăm quê hương nữ phóng viên
Xuân Hương của chương trình Newland TV. đã có cơ hội gặp và nói chuyện
với điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tại tư gia của ông. Điêu khắc gia
Nguyễn Thanh Thu là tác giả bức tượng đồng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang
Quân Đội Biên Hòa. Ông vừa là một sĩ quan trong QLVNCH với cấp bậc Thiếu
tá . Liên tục trong hai ngày gặp gỡ, trò chuyện, P.V. Xuân Hương đã
được điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tiết lộ nhiều điều khá thú vị trong
sự nghiệp nghệ thuật và 8 năm trong lao tù Viêt cộng của một chiến sĩ
QLVNCH. Với giọng văn giản dị miền Nam, nữ phóng viên Xuân Hương đã kể
lại cuộc gặp gỡ bất ngờ, kỳ thú. Newland T.V. xin hân hạnh giới thiệu
đến bạn đọc bốn phương thiên phóng sự đặc biệt này.
Xuân Hương đã nhìn thấy hình ảnh Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua sách
báo, qua các băng Video và DVD. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi an
nghĩ cuối cùng của hơn 18 ngàn chiến sĩ QLVNCH, đã hy sinh vì chính
nghĩa quốc gia trong cuộc chiến Quốc-Cộng.Trước cổng vào nghĩa trang có
một bức tượng đồng người lính ngồi trên tảng đá, ôm súng thương, nhớ đến
những người bạn đã nằm xuống. Đó là, bức tượng Thương Tiếc do điêu khắc
gia Nguyễn Thanh Thu thực hiện
Bức tượng đồng có chiều cao 9 thước, sau ngày 30/4/75 đã bị bạo quyền Việt cộng gian ác giật sập, phá hủy.
Xuân Hương trong dịp về thăm quê hương , may mắn đã gặp được điêu khắc
gia NguyễnThanh Thu. Với hai lần gặp gỡ và nhiều tiếng đồng hồ trò
chuyện, điêu khắc gia Thu kể cho Xuân Hương nghe nhiều điều vui , buồn,
thú vị đã xảy ra trong đời ông chung quanh sự nghiệp điêu khắc và những
tháng năm tù tội.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cho biết trong nhiều tác phẩm. Ông cảm
tuong tethấy danh dự nhứt trong sự nghiệp của mình là tác phẩm “Ngày
Về”. Tác phẩm này, diễn tả hình ảnh người chiến binh trở về từ chiến
trường được người hậu phương choàng vòng hoa chiến thắng. Tác phẩm “Ngày
Về ” của Nguyễn Thanh Thu đã được giải nhứt trong Ngày quốc khánh 26
tháng 10 năm 1963 về Văn Học Nghệ Thuật dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa của
TT. Ngô đình Diệm. Và tác phẩm thứ hai là Thương Tiếc, thời đệ nhị VNCH
của TT. Nguyễn văn Thiệu.Lịch sử bức tượng đồng Thương Tiếc tại Nghĩa
Trang Quân Đội Biên Hòa
Bức tượng đồng mang tên Thương Tiếc tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa
được điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hoàn thành vào năm 1966. Đây là thời
điểm chiến tranh giữa VNCH và Cộng Sản Bắc Việt đang diễn ra tới mức độ
ác liệt.
Vào thời đó, Nghĩa Trang Quân Đội tọa lạc ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Tình
hình trong nước lúc bấy giờ rất lộn xộn. Dân chúng bị xách động biểu
tình liên miên. Còn các đảng phái thì đua nhau tranh giành ảnh hưởng đối
với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Lúc bấy giờ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn đang là Chủ Tịch Ủy Ban
Lãnh Đạo Quốc Gia. Tổng thống Thiệu là người đã nghĩ ra việc xây dựng
Nghĩa Trang Quân Đội nằm cạnh xa lộ Biên Hòa.
ĐKG. Thu tâm sự rằng, ông không biết tại sao lúc đó Tổng thống Thiệu lại
biết đến ông để mời ông vào bàn về dự án xây Nghĩa Trang Quân Đội tại
Biên Hòa. Nhưng sau này TT. thiệu cho biết đã biết tài điêu khắc của ông
qua tác phẩm Ngày Về, khi TT. Thiệu còn là đại tá Sư đoàn trưởng Sư
đoàn 5 bộ binh.
Khi gặp mặt TT. Thiệu, ông Thiệu đã nói với ĐKG. Thu, là ông muốn trước
cổng vào nghĩa trang phải có một bức tượng to lớn đầy ý nghĩa đặt ở đó.
Mục đích bức tượng để nhắc nhở, giáo dục người dân về sự hy sinh cao quý
của các chiến sĩ VNCH.
ĐKG. Thu kể tiếp là sau năm lần, bảy lượt gặp TT. Thiệu bàn bạc, ông hứa
sẽ trình dự án lên TT. Thiệu sau một tuần lễ nghiên cứu. Khi về nhà ông
mất ăn, mất ngủ, lo lắng ngày đêm. Đầu óc ông lúc nào cũng suy nghĩ đến
những đề tài có ý nghĩa như ý của TT. Nguyễn Văn Thiệu. Ông nhớ đến lời
TT. Thiệu nói: “Những chiến sĩ VNCH, đã vì lý tưởng tự do hy sinh đời
mình thì những người ở hậu phương như “chúng ta” phải làm một cái gì để
nhớ đến sự hy sinh cao cả đó cho xứng đáng”. Những lời chân tình này đã
làm điêu khắc gia Thu trăn trở không nguôi nên trong thời gian chờ đợi
gặp lại TT. Thiệu, ngày nào ông cũng đến Nghĩa Trang Quân Đội tại Hạnh
Thông Tây để suy ngẫm đề tài.
Trong bảy ngày hứa sẽ gặp lại TT. Thiệu thì hết sáu ngày, ĐKG. Thu đến
Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây để phát họa những cảm xúc chân thật
trong lòng tại chỗ. Ông đã chứng kiến cảnh, ngày ngày máy bay trực thăng
đưa quan tài những người đã hy sinh vì tổ quốc về nơi an nghĩ cuối cùng
với sự cảm xúc vô biên, nhưng vẫn chưa dứt khoát được một chủ đề rõ
ràng.
Vào một buổi trưa của ngày thứ sáu trên đường về từ Nghĩa Trang Hạnh
Thông Tây, giữa trời nắng chang chang, Đ KG.Thu ghé vào một tiệm nước
bên đường để giải khát. Khi bước vào quán, ông thấy một quân nhân Nhảy
Dù đang ngồi uống bia và trên bàn đã có 5,3 chai không. Đặc biệt trên
bàn có hai cái ly. Ngồi bàn đối diện với người quân nhân kia, ông lấy
làm ngạc nhiên khi nhìn thấy người lính Nhảy Dù vừa uống bia vừa lẩm bẩm
nói chuyện với cái ly không. Hình ảnh này cho thấy anh ta vừa uống vừa
nói chuyện và vừa cúng một người đã chết. Khi nói chuyện với cái ly
xong, người lính uống hết ly bia của mình. Sau đó, anh ta “xớt” bia của
cái ly cúng còn nguyên vào ly mình, rồi lại kêu thêm một chai bia mới
rót đầy vào ly kia. Thấy vậy, ông bước qua làm quen với người lính Nhảy
Dù và đề nghị cho ông ngồi chung bàn. Người quân nhân mắt quắc tỏ vẻ
không bằng lòng vì bị phá cuộc đối ẩm của anh và người đã chết. Thái độ
này làm ông lúng túng. Đột nhiên, người lính kia móc ra cái bóp đựng
giấy tờ của anh ta ra và đưa cho ông như trình giấy cho Quân Cảnh. Ông
nghĩ rằng mình đâu phải là Quân Cảnh mà xét giấy ai . Tuy nhiên ông cũng
cầm lấy bóp và trở về chỗ ngồi. Vì tò mò, ông mở bóp ra coi. Trong bóp,
ông nhìn thấy những tấm hình trắng đen chụp cảnh các anh em đồng đội
nơi chiến trường. Muốn làm quen với người lính Nhảy Dù, nên ông cố nhớ
địa chỉ và KBC của anh ta trước khi cầm bóp trả lại cho chủ nó. Sau đó,
ông ra về để chuẩn bị ngày hôm sau lên gặp TT. Thiệu .
Tối hôm đó, điêu khắc gia Thu vẽ liền 7 bản mẫu. Khi ngồi vẽ như vậy đầu
óc ông cứ nhớ đến hình ảnh ngồi uống bia một mình với gương mặt buồn bã
của người lính Nhảy Dù, mà qua căn cước ông biết tên là Võ Văn Hai.
Bảy bản mẫu của Nguyễn Thanh Thu phát họa là cảnh người lính đang chiến
đấu ngoài chiến trường, cảnh mưa bão ngoài mặt trận. Phản ảnh lại cảnh
êm ấm của những người tại hậu phương. Khi ngồi vẽ đầu óc ông cứ liên
tưởng đến vóc dáng buồn thảm của Võ Văn Hai và ông ngồi vẽ cho tới 6 giờ
sáng.
Đến 8 giờ sáng thì có người đến rước ông vào gặp TT. Thiệu tại Dinh Gia
Long. Đến nơi, đại tá Võ văn Cầm là Chánh Văn Phòng của TT. Thiệu cho
biết TT. đang tiếp chuyện một vị tướng nào đó nên bảo ông đợi một chút.
Trong lúc đợi, ông ra phía ngoài đi lang thang trên hành lang của dinh
và vừa đi vừa nghĩ trong đầu là tại sao mình không vẽ Võ văn Hai cho rõ
ràng. Nghĩ vậy ông ngồi xuống một chiếc ghế cẩn màu đỏ tưởng tượng đến
hình ảnh Võ văn Hai ngồi buồn rầu, ủ dột trong quán nước. Ông trở vào
phòng Đại tá Cầm định xin một tờ giấy để phát họa những ý tưởng đã nghĩ
ra. Nhưng khi trở vào trong, ông ngại ngùng không dám lên tiếng. Ông
nhìn phía sau lưng Đại tá Cầm thấy trong giỏ rác có một bao thuốc lá
không. Ông lượm bao thuốc lá và trở ra ngoài. Điêu khắc gia Thu đã dùng
mặt trong của bao thuốc lá phát họa bố cục bản thảo và cảm thấy hài lòng
về bức hình đã vẽ ra.
Khi được Đại tá Cầm mời vào gặp TT. Thiệu, ông đã trình bày giải thích
về 7 bản đã vẽ từ trước cho TT. Thiệu nghe. Xem xong TT. Thiệu hỏi: “Anh
Thu à! Bảy bản, bản nào tôi cũng thích nhưng anh là cha đẻ của nó, anh
nên cho tôi biết tấm nào hay nhứt.” Điêu khắc gia Thu rụt rè nói với TT.
Thiệu : “Thưa TT, mới đây thôi trong khoảng 15 phút trong khi chờ gặp
TT. tôi mới nghĩ ra một đề tài được phát họa trên một bao thuốc lá.
Nhưng, tôi không dám vô lễ trình lên TT. Tuy nhiên, với phát họa này tôi
thấy nó hay quá. Tổng thống hỏi, thì tôi muốn chọn bản này, nhưng tôi
không dám trình lên Tổng Thống .”
TT. Thiệu bảo ĐKG. Thu đưa cho ông coi bản họa trên bao thuốc lá. Ông
Thu đã giải thích cho TT. Thiệu nghe về trường hợp Võ Văn Hai mà ông đã
gặp trong quán nước. Ông Thu cho biết, lúc đó ông cũng chưa dứt khóat
đặt tên cho các bản phát họa đã trình cho TT. Thiệu xem dù rằng đã nghĩ
trong đầu các tên như 1)Tình đồng đội, 2) Khóc bạn , 3) Nhớ nhung, 4)
Thương tiếc, 5) Tiếc thương .
Cuối cùng điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu và TT. Thiệu đồng ý tên Thương
Tiếc. Được sự đồng ý của TT. Thiệu, ông ra ngoài văn phòng của Đại tá
Cầm phóng lớn bức họa Thương Tiếc bằng hình màu. Ông đã nhờ Đại tá Cầm
ngồi trên một chiếc ghế đẩu để lấy dáng ngồi tưởng tượng trên tảng đá.
Sau khi hoàn tất, Tổng thống Thiệu cầm bức họa tấm tắc khen. ĐKG. Thu đã
đề nghị TT. Thiệu ký tên vào bức họa đó, mà ông đã nói với TT. Thiệu là
“Cho ngàn năm muôn thuở” . TT. Thiệu đồng ý và đã viết “TT. Nguyễn văn
Thiệu ngày 14 /8/1966 ”.
Sau khi được TT. Thiệu chấp thuận dự án làm bức tượng Thương Tiếc, điêu
khắc gia N.T.T phải làm ngày, làm đêm để kịp khánh thành Nghĩa Trang
Quân Đội Biên Hòa vào ngày Quốc khánh 1/11/1966 đúng như dự định.
Một chiến sĩ QLVNCH can trường trong ngục tù cộng sản
Điêu khắc gia Thu tâm sự, khi còn ở trong tù lúc bị nhốt ở “cô – nét”
ông nhớ đến tượng Thương Tiếc và đã vái thầm tất cả vong linh chiến sĩ
VNCH trong ba ngày, hãy cho ông biết ông có thoát khỏi dự định xử bắn
của VC hay không. Thì vào một buổi trưa, ông chập chờn thấy có người báo
mộng cho biết ông không sao cả, nhưng thời gian tù tội còn lâu lắm.
Người điêu khắc gia tài ba kể tiếp. Trước đó, một người bạn đã dặn dò
ông phải coi chừng và cẩn thận trong lúc ở tù VC vì ông quá nổi tiếng về
những tác phẩm điêu khắc nên chắc chắn VC sẽ không để ông yên. Lúc đó,
ông không quan tâm cho lắm, nhưng vào một buổi trưa trong lúc các tù
nhân đang nghĩ ngơi , thì ông được một cán bộ quản giáo mời ra ngoài báo
cho biết ông chưa khai báo thành thật, còn dấu diếm nhiều điều. Thiếu
tá Thu hỏi dấu diếm những điều gì? Để trả lời, tên cán bộ lấy ra một
danh sách tên tuổi các tù nhân, mà theo ông là do các người làm “ăng
ten” trong trại báo cáo. Ông cho biết những người chịu làm ‘ăng ten” cho
VC sẽ được lãnh tiêu chuẩn gạo 11 ký một tháng, thay vì 9 ký như mọi
người. Ông còn nói thêm, những kẻ làm “ăng ten” không phải vì họ thù
ghét ai, mà chỉ vì “miếng ăn” mà thôi.
Cầm bảng danh sách trên tay, tên cán bộ nói rằng thiếu tá Thu là tác giả
bức tượng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nhưng tại sao
lại không khai báo. Và phải cho anh ta biết, lý do tại sao ông lại làm
ra bức tượng này. Điêu khắc gia Thu trả lời vì ông là một quân nhân
trong QLVNCH, ông làm bức tượng Thương Tiếc là để cùng người dân miền
Nam tỏ lòng thương tiếc sự hy sinh của các chiến sĩ chiến đấu cho tự do.
Tên cán bộ lại hỏi, tại sao lại làm bức tượng Ngày Về. Ông giải thích
cho tên cán bộ nghe rằng, đời lính hành quân nay chỗ này, mai chỗ kia,
vài ba tháng mới được phép về thăm vợ con một lần. Ông làm tượng Ngày Về
để nói lên sự vui mừng khi vợ chồng gặp lại nhau, thì đâu có gì gọi là
không tốt.
Tên cán bộ quản giáo đề cập đến bức tượng An Dương Vương và thành Cổ Loa
là biểu tượng của ngành Công binh QLVNCH với những lập luận ngây ngô.
Tên cán bộ nói với Nguyễn thanh Thu , An Dương Vương là người lập quốc,
còn bác Hồ là người giữ nước. Vậy tại sao ông không ghép hình bác Hồ
vào. Ông trả lời tên cán bộ rằng, lúc làm tượng An Dương Vương ông đâu
biết bác Hồ là ai, là người nào, nên không thể ghép vào được. Nghe nói
vậy, tên cán bộ xám mặt lại, hắn ta ra lệnh cho ông đứng đó không được
đi đâu hết. Tên này chạy về văn phòng gọi thêm 6 tên cán bộ nữa, súng
ống đầy đủ, chạy đến chỗ Nguyễn thanh Thu đứng. Trong 6 người này có một
tên là chính trị viên đã gằn hỏi: “Khi nảy anh đã nói gì với anh Sáu ”.
NTT trả lời: “Tôi không có nói gì hết”. Tên chính trị viên nói tiếp:
“Anh Sáu cho tôi biết anh nói là dân Sài Gòn, người miền Nam không ai
biết bác Hồ. Vì không biết nên anh không thể làm tượng bác kèm với An
Dương Vương, có đúng không?”. Điêu khắc gia chay-loan-2Thu trả lời “Đúng
vậy”. Nghe trả lời như thế , tên cán bộ chính trị viên nói cho ông 5
phút định trí, để nói lại. Đồng thời tên này còn hỏi gằn: “Anh bảo rằng
anh không biết bác Hồ phải không?”. Thiếu tá Thu thẳng thắn trả lời:
“Tôi không biết mặt, biết tên ông này”. Tên cán bộ nói : “Nếu anh không
biết, tôi cho anh biết ”. Sau đó, chúng lôi điêu khắc gia Thu về văn
phòng đánh đập tàn nhẫn liên tục trong ba ngày, ba đêm. Tuy bị đánh đập
dã man, nhưng thiếu tá Thu chịu đựng và im lặng không lên tiếng gì hết.
Thấy vậy một tên cán bộ nói: “ Bây giờ mầy nói về hai chữ Tự Do cho
chúng tao nghe coi ”. Thiếu tá Thu bấy giờ mới lên tiếng: “ Nếu tôi
không nói thì cán bộ nói tôi khinh, nhưng khi tôi nói thì cán bộ không
tin. Bây giờ, tôi nói về Tự Do cho cán bộ nghe. Người miền Nam có tự do
là họ được đi đứng dễ dàng, ăn nói thoải mái không có bị khó dễ gì hết.
Còn những người CS các anh cũng có tự do, nhưng chỉ có những chữ viết
trên các cổng ra vào được sơn son thiếp vàng, chỉ có trên vách tường tại
các văn phòng làm việc, chớ người dân thì không có ”. Nghe nói vậy, bọn
VC lại ra tay đánh đập NTT một trận tơi bời, đỗ máu mũi. Sau đó, chúng
đem nhốt ông vào “cô – nét ”. Ông cho biết, sau nhiều tháng trong “cô
nét” ông chỉ còn xương và da, đứng lên muốn không nỗi.
Một tình cảm khó quên
Một ngày nọ, vào khoảng 4 giờ sáng cửa “cô – net” được mở ra,và một họng
súng AK chỉa ngay vào thiếu tá Nguyễn thanh Thu , rồi một giọng ra lệnh
cho ông bước ra. Ngoài trời tối đen, lờ mờ sáng, ông đứng không vững
khi bước ra cửa “cô- net” nên bị hụt chân té qụy. Tên cán bộ ra lệnh cho
điêu khắc gia Thu đứng dậy và giơ tay ra để cho chúng móc còng vào. Sau
đó, ông được bốn tên cán bộ kè đi về phía cổng trại để vào khu rừng
chuối kế bên. Đang đi bổng nhiên có một chiếc xe Jeep chạy tới đèn pha
sáng choang làm chói mắt mọi người. Chiếc xe Jeep ngừng lại tắt đèn, có
tiếng nói chuyện trao đổi giữa hai bên chừng 5 phút. Sau đó, toán dẫn
cán bộ quay lại bịt mắt ông và tiếp tục kéo lết đi vào rừng chuối. Đến
nơi, tên cán bộ kéo thiếu tá Thu nhốt vào một nhà cầu của khu gia binh
của VNCH bỏ hoang từ lâu. Quá mõi mệt nên ông đã ngủ thiếp lúc nào không
hay. Gió theo khe hở thổi làm ông tỉnh dậy, qua khe hở ông thấy trời đã
sáng và biết mình chưa chết. Thiếu tá Thu cười nói rằng, bị nhốt ở
trong cầu tiêu nhưng ông cảm sung sướng, thoải mái hơn là lúc bị nhốt ở
“cô – net” nhiều.
Kể tới đây, điêu khắc gia NTT cười và cho biết từ đó không ngờ lại xảy
ra “Những tình cảm khó quên”. Ông kể tiếp là vào buổi trưa hôm đó, một
cô gái người Bắc tay cầm chén cơm, bịt muối và đôi đũa tre đến mở cửa
cầu tiêu đưa cơm cho ông ăn, nhưng cô ta mở không được vì bên trong ông
đã móc cửa lại. Bên trong, ông hỏi vọng ra “Cô là Bắc kỳ phải không,
nhưng Bắc kỳ nào? Bắc kỳ 54 hay Bắc kỳ giải phóng”. Cô gái trẻ khoảng
22, 23 tuổi trả lời: “Này nhé, tôi là chị nuôi của ông. Đem cơm cho ông
ăn mà ông hỏi tôi như thế”. Nói xong cô ta cầm chén cơm bỏ ra về. Khoảng
3, 4 phút sau, một tên cán bộ đến ra lệnh cho ông phải mở cửa ra và
mắng: “Lúc nào cũng láo khoét. Tha chết cho rồi mà còn láo khoét”. Nói
xong tên cán bộ bỏ đi. Vào buổi chiều cô gái trở lại, thiếu tá Thu nhủ
thầm trong bụng là không giỡn nữa, vì giỡn sẽ đói. Khi cô gái mở cửa bỏ
phần cơm vào, ông phân trần với cô là ông chỉ giỡn một chút mà cũng đi
mét.
Qua ngày kế, một tên cán bộ và hai người tù đến chỗ nhốt thiếu tá Thu,
dùng đồ nghề khoét một cái lỗ vuông nhỏ trên cửa cầu tiêu. Xong đâu đó,
tên cán bộ nói: “Từ nay không mở cửa nữa. Mỗi lần tới giờ cơm, anh dùng
miếng gỗ đưa cái chén cũ ra và sẽ nhận được chén cơm mới đưa vào qua cái
lỗ này”. 11 giờ trưa hôm đó “chị nuôi” của điêu khắc gia Thu đem cơm và
muối đến cho ông. Theo như lời dặn, thì thiếu tá Thu khi nhận chén cơm
mới ông phải trả cái chén không lại, nhưng ông không làm điều này. Cô
gái lên tiếng hỏi, nhưng ông không trả lời. Cứ như vậy hai ba ngày liên
tiếp, ông giữ lại tất cả 7 cái chén. Một hôm cô gái phàn nàn: “Ông giữ
hết chén thì tôi đâu còn chén để đựng cơm cho ông”. Nghe vậy, thiếu tá
Thu cuời nói: “Nếu cô muốn tôi trả lại mấy cái chén thì phải có điều
kiện”. Cô gái hỏi: “Điều kiện gì?” Ông đáp: “Cô để bàn tay của cô lên
tấm ván đưa cơm cho tôi rồi đưa vào cho tôi thấy” . Sau vài giây tần
ngần, cô gái làm theo điều kiện của điêu khắc gia Thu. Ông đã tinh
nghịch dùng đôi đũa tre đụng vào bàn tay của cô gái rồi sau đó đưa trả 7
cái chén cho cô gái. Cô gái ngạc nhiên hỏi: “Chỉ có vậy thôi à!”. Ông
trả lời: “Chỉ có vậy thôi!”. Cô gái bỏ về.
Trong lúc thiếu tá Thu đang ngồi ăn cơm, thì cô gái trở lại với một bà
già đi phía sau . Đến trước cửa cầu tiêu, nhìn vào lỗ đưa cơm bà già
nói: “Ông này, con Lan nó đem cơm cho ông ăn, thế mà ông còn lấy đũa
chích vào tay nó. Là cái gì vậy? Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cười
nói: “ Vậy mà cũng không biết”. Nghe vậy bà cụ phàn nàn: “Ông làm kỳ
quái quá ai mà biết được”. Bị hỏi dồn nhiều câu, Thiếu tá Thu nói nhỏ: “
Là yêu đấy!”. Nghe như vậy người con gái tên Lan đỏ mặt thẹn thùng, vội
vả quay lưng bỏ đi.
Qua ngày hôm sau, cô gái tên Lan lúc đem cơm đến cho điêu khắc gia Thu,
cô nhỏ nhẹ và tha thiết nói: “ Anh Thu à! Em khuyên anh, anh thôi đừng
có “anh hùng” nữa. Như vậy, thiệt thòi cho anh lắm anh có biết không?
Chúng nó đã tha chết cho anh đấy!” Rồi cô nói tiếp, giọng run run: “ Em
thương mấy anh sĩ quan cải tạo các anh lắm. Kể từ nay, đến giờ cơm em sẽ
để cục thịt nằm ở đáy chén. Khi em đưa cơm vào, anh hãy tìm cục thịt ăn
liền trước nha! Để đề phòng cho cả em và anh không bị cán bộ bắt gặp
làm khó dễ”.
Thiếu tá Thu cảm động hỏi: “ Cô Lan! Làm sao cô biết chúng nó tha chết
cho tôi?” Cô gái khẻ nói: “Này nhé! Anh còn nhớ không? Khoảng 4 giờ sáng
hôm đó, gần nhà bếp, em thấy đèn pha của chiếc xe Jeep chạy ngang. Và
khoảng nửa tiếng sau, có bốn cán bộ súng ống trên vai bước vào nhà bếp
bảo em pha cà phê cho họ uống. Họ kể cho em nghe là đáng lẽ có một tù
nhân bị đưa đi bắn.. Nhưng sau đó bỗng nhiên “có lệnh hồi”. Nên tù nhân
này được lôi vào nhốt tạm thời trong một cầu tiêu của một trại gia binh
trước bỏ hoang”. Cô Lan kể tiếp: “ Có một lần em đón đường hỏi các anh
đi lao động ngoài rừng về hỏi tại sao anh phạt bị nặng như vậy, thì mọi
người cho biết vì anh là tác giả bức tượng “Thương Tiếc” tại Nghĩa Trang
Quân Đội Biện Hòa. Nhắc đến bức tượng Thương Tiếc, em không lạ gì bước
tượng này, vì hồi đó, chiều nào em và các bạn thường hay chơi quanh gần
tượng.
Điêu khắc gia Thu hỏi cô gái: “Cô ở Hố Nai được bao lâu rồi?” Cô Lan kể
lể: “Cha em là bộ đội VC ngoài Bắc, vào Nam đánh trận bị bom dội chết
trong rừng. Mẹ em đã gánh em vào Hố Nai và em đã lớn lên từ đó”.
Kể đến đó, thiếu tá Thu không dấu được sự xúc động. Ông ngậm ngùi nói:
“Cô Lan rất tận tình và tốt với tôi. Những chân tình ấy cùng với những
kỷ niệm rất dễ thương tôi luôn trân quý. Cô là nguồn an ủi của tôi trong
lúc bị tù đày, trong nỗi đau và sự bất hạnh của một đời người. Tôi rất
muốn trả ơn cho cô, nhưng không biết đâu mà tìm. Tôi nghĩ những tình cảm
này khó phai nhạt trong đời mình”.
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?
Thiếu tá Thu cho biết vào thời điểm đó, khoảng tháng 8, nhiều đổi thay
xảy Nguyen-tTHUđến với ông. Một hôm, cán bộ quản giáo gọi ông lên làm
việc. Tên cán bộ nói: “Anh Thu, chẳng lẽ anh muốn ở mãi trong thùng sắt
sao? Tôi đề nghị là anh đừng nhận mình là tác giả “chính” đã làm tượng
“Thương Tiếc” mà anh chỉ là người “phụ” thôi. Người “chính” đã vượt biên
đi rồi. Anh viết bản tự thú như vậy, tôi sẽ cứu xét và giảm tội cho
anh”. Nhưng ông đã khẳng khái trả lời: “Cám ơn cán bộ đã khuyên tôi,
nhưng với tôi tác phẩm Văn hóa Nghệ thuật là con đẻ của mình. Sao tôi
lại trốn tránh trách nhiệm và đỗ thừa cho người khác? Tôi không thể làm
như vậy được”.
Vài ngày sau, một tên cán bộ khác đến gặp ông và ra lệnh cho ông phải
làm tượng HCM để kịp ngày Quốc khánh 2/9 của VC.Thiếu tá Thu cho biết là
ông nhận lời đề nghị này, vì ông đã có ý định trốn trại. Ông nói với
cán bộ quản giáo biết, là muốn làm tượng phải có đủ đồ nghề. Thế là ông
được bốn tên bộ đội chở về nhà để lấy đồ nghề. Trên đường về ông xin ghé
nhà mẹ mình để thăm bà. Đến nơi, mấy tên bộ đội thì ngồi chuyện trò với
cô Hồng em gái của ông ở cửa trước. Còn ông vào nhà gặp mẹ. Hai mẹ con
gặp nhau mừng rỡ rối rít. Bỗng bà cụ nghiêm mặt nói: “ Thu à! Má đẻ con
ra mà không biết tánh con sao! Con hãy ráng ở trong tù thêm một năm nữa
đi. Nếu con mà trốn, má sẽ chết cho con coi”. Nghe mẹ nói như vậy, ông
quá sức bàng hoàng, tự nghĩ: “Trời ơi! Bao nhiêu ý định nhen nhúm giờ
đây đã tiêu tan. Nỗi buồn tràn ngập trong lòng, vì ông sẽ trở về giam
mình trong cái thùng sắt ( 2m x 1m) sừng sững ngoài trời , tiếp tục chịu
đựng thời tíết khắc nghiệt, sức nóng như thiêu đốt của mùa Hạ, hay lạnh
giá của mùa Đông rét mướt “.
Theo như thỏa thuận là sau khi được về thăm nhà và lấy đồ nghề, ông sẽ
thực hiện điêu khắc tượng HCM. Tin này được nhanh chóng loan truyền
trong trại giam. Từ đó, không biết bao nhiêu lời nguyền rủa vang lên làm
ông đau khổ vô cùng.
Trước khi ra lệnh bắt ĐKG. Thu làm tượng HCM, cán bộ VC đã liên lạc
trước với gia đình thiếu tá Thu. Chúng dàn cảnh cho vợ, con ông được đến
thăm viếng đặc biệt. Tuy nghèo nhưng gia đình ông cũng mua thịt vịt
quay, bánh mì, bày biện ra để cả nhà cùng ăn trong trại giam. Thật bất
ngờ, trong tờ Tin Sáng cũ dùng để gói vịt quay, thiếu tá Thu nhìn thấy
hình TT. Nguyễn văn Thiệu. Ông xé tấm hình đó, xếp nhỏ cất vào túi cất.
Đến ngày nặn tượng chân dung HCM, thiếu tá Thu lại khắc nét của Tổng
Thống Thiệu. Ông cho biết, rất phấn chấn trong lòng và thầm nghĩ: “ Tự
mình, trí ta, ta hay, lòng ta, ta biết”.
TT. Thieu Sau này, Nguyễn thanh Thu được kể lại. Một buổi chiều nọ, trên
đường đi lao động về đám tù nhân đi ngang qua nhìn thấy pho tượng HCM
sắp được hoàn tất, họ có vẻ thích thú xầm xì : “ Trời ơi! Tụi mày xem
giống TT. Thiệu quá! Giống quá tụi bây ơi!” Tiếng xầm xì làm mấy tên
“ăng ten” chú ý. Lập tức chúng trình báo cho cán bộ quản giáo hay.
Khoảng 4 giờ 30 chiều, vào thời điểm bức tượng HCM đang được điêu khắc
gia Thu gắn râu mới được một bên mép thôi, thì một tên cán bộ bước đến
hỏi: “Tượng sắp xong rồi chứ?” Miệng vừa hỏi, tên cán bộ nhanh tay thò
vào túi áo ông lấy mãnh giấy báo có hình TT. Thiệu. Thế là xong! Việc bị
đỗ bể. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu lại tiếp tục trở vào thùng sắt
nhận thêm bốn tháng biệt giam, bị hành hạ đủ điều. Tại đây, ông kiệt
sức, bất tỉnh, được đưa vào trạm bịnh xá.
Tại trạm xá, ông được một tù nhân khác là phi công Đỗ Cao Đẳng, chú của
trung tướng Đỗ Cao Trí làm Trưởng trạm xá, và một số học trò cũ của ông,
từ thời còn học trung học Võ trường Toản, hết lòng cấp cứu. Nhờ vậy, ba
ngày sau ông mới tỉnh lại. Với tình trạng sắp chết, da bọc xương, điêu
khắc gia Nguyễn thanh Thu được VC tha cho về với gia đình kể từ đấy.
Hoài bảo không nguôi
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cho biết ông ở tù VC 8 năm. Sau khi ở tù
về, ông tìm đủ mọi cách để vượt biên ra nước ngoài. Ông nghĩ rằng qua
bên Mỹ ông dễ có cơ hội thực hiện những mộng ước của đời mình. Đó là,
dựng lại tượng “Thương Tiếc” nơi quê hương thứ hai. Nhưng trong 15 năm
sống tại Mỹ, ông không tìm ra được một mạnh thường quân nào giúp đở. Ông
đành buồn bã trở về Việt Nam sinh sống. Ông cảm thấy cô đơn với mơ ước
của mình. Nhưng, ông vẫn hy vọng một ngày nào đó sẽ thực hiện được, nên
hàng ngày ông cố gắng tập thể thao để tinh thần và thể xác không suy
nhược.
Điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu cho biết, khi còn ở Mỹ ông đã có hân hạnh
gặp lại TT. Nguyễn văn Thiệu khi TT. Thiệu từ Boston đến Nam Cali thăm
viếng và nói chuyện với đồng bào tỵ nạn. Tổng thống Thiệu được một người
bạn của thiếu tá Thu sắp xếp hướng dẫn đến gặp nhà điêu khắc. Khi gặp
thiếu tá Thu , TT. Thiệu vồn vả hỏi liền: “ Anh Thu có khỏe không? Tôi
nghe nói ở trong tù anh đã làm tượng tôi phải không?” Điêu khắc gia Thu
xúc động cho biết, là ông rất ngạc nhiên khi TT. Thiệu bất ngờ hỏi như
vậy. Ông đã hỏi lại TT. Thiệu: “Làm sao tổng thống biết được?” TT. Thiệu
nở nụ cười hiền hòa: “Làm sao tôi không biết được”. Giây phút gặp gỡ
quá ngắn ngủi. Sau đó, vị tổng thống nền đề nhị VNCH vội vả từ giã đồng
bào ra phi trường trở về Boston cho kịp chuyến bay.
Khi nhắc tới TT. Nguyễn văn Thiệu, thiếu tá Thu mơ màng nhớ về dĩ vãng
xa xưa. Vì đó là kỹ niệm mà trong đó có những tác phẩm nghệ thuật ông
tạo hình, nhờ sự gợi ý của tổng thống Thiệu.
Thiếu tá Thu cho biết sau 3 tháng khi tượng Thương Tiếc được khánh thành
ở Nghĩa Trang QĐ Biên Hòa, TT. Nguyễn văn Thiệu đã tổ chức một bữa tiệc
khoản đãi tại Dinh Độc Lập, và đã mời điêu khắc gia Thu đến dự. Trong
khi trò chuyện với ĐKG. Thu , TT. Thiệu chỉ bồn nước phun trước Dinh Độc
Lập ,và nói muốn làm một biểu tượng gì đó.
Kể đến đây, ĐKG. Thu không nén được xúc động và thành thật nói: “ Trông
Duoc-mua-2TT. thật tội nghiệp với vẻ buồn lo của ông”. Trầm ngâm một
chút, TT. Thiệu nói với điêu khắc gia Thu: “ Anh nghĩ xem, xứ mình đang ở
trong tình trạng chiến tranh. Người lính thì đang sống, chết ngoài tiền
tuyến. Biểu tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang QĐ đã tạm yên. Nhưng,
tôi nghĩ mình còn phải làm thêm một cái gì đó nữa, để giáo dục mọi
người…Xin lỗi , người dân nhiều khi cũng thờ ơ với cuộc chiến lắm nên
tôi muốn có một tác phẩm gây ý thức trong lòng người dân. Là dù đang
chiến tranh, nhưng chúng ta cũng biết xây dựng, và biết “TỰ LỰC CÁNH
SINH”. Chứ hoàn toàn trông cậy vào viện trợ cũng phiền toái lắm. Anh
Thu, anh nghĩ sao ? Anh có thể trình một dự án như ý tôi vừa trình bày
không?
Sau khi nghe TT. Thiệu bày tỏ tâm sự trên. Cũng như lần trước, điêu khắc
gia N.T.T xin Tổng Thống tuần lễ để làm việc. Và sau một tuần, ông đã
làm xong 7 bản vẽ về dự án với đề tài có tên Được Mùa. Được Mùa là hình
ảnh “Cô gái ôm bó lúa” vừa mới gặt để diển tả sự trù phú của nông nghiệp
miền Nam.
Điêu khắc gia Thu đã làm mẫu bức tượng Được Mùa cao 2m . Nhìn bức tượng
cô gái ôm bó lúa với gương mặt hớn hở, hãnh diện với công sức mình đỗ ra
bằng những giọt mồ hôi, khiến người ta hình dung ra sự giàu mạnh của
một nước phát triển nhờ nông nghiệp.
Theo điêu khắc Thu bức tượng Được Mùa, nói lên sức sống trù phú của đồng
bằng sông Cửu Long với chín miệng Rồng phun nước. Do đó, tác phẩm này
còn có tên là “ Cửu Long Được Mùa”.
Khi nhìn bức tượng mẫu Được Mùa với ý nghĩa của nó, TT. Thiệu chấp thuận
ngay. Dự án tượng Được Mùa được thực hiện bằng đồng với tượng cô gái
cao 9m, bệ 3m. Kinh phí dự trù là 45 triệu đồng.
Tuy đã chấp thuận, nhưng với số tiền khá lớn đã khiến TT. Thiệu không
tránh khỏi lo nghĩ trong khi chiến tranh mỗi ngày càng leo thang. Rồi
cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lữa kéo đến. Mọi chi phí đều phải ưu tiên hàng đầu
cho ngân sách Quốc Phòng. Thế nên dự án Được Mùa phải đành gác lại và
không được hoàn thành theo mong ước của TT. Nguyễn văn Thiệu.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu ngậm ngùi nói: “Tuy tượng Được Mùa không
được ra mắt người dân miền Nam, nhưng quá trình dự án cũng đã thể hiện
được cung cách của TT. Nguyễn Văn Thiệu – một nhà lãnh đạo luôn quan tâm
đến sự hy sinh của Quân Đội, và tinh thần một nước tự lực, tự cường”.
Tượng mẫu Được Mùa cao 2m được TT. Thiệu chấp thuận từ 1971 , đến nay
2009 vẫn còn tại nhà của điêu khắc gia Thanh Thu. Gần đây nhất vào năm
2006 , dù đã 73 tuổi ĐKG. Thu vẫn khắc thêm tượng Cô Gái Được Mùa” thật
sống động. Đây là hình ảnh cô gái với chiếc nón lá, ôm bó lúa tựa vào
vai. Được Mùa hay Cô gái Được Mùa, kiểu nào cũng đầy ý nghĩa và đẹp vẹn
toàn. Ông quả thật không những là thiên tài nghệ thuật, mà ông còn là
một chiến sĩ yêu nước nồng nàn.
Cuối cùng, điêu khắc gia Thu cho biết, đến nay ông vẫn còn băn khoăn về
một trường hợp mà ông nghĩ là hơi bất thường. Ông nói cách nay vài năm,
có một người ở bên Mỹ về tự xưng là một ông cha đã tu xuất tên là Vũ văn
Hoàng tuổi trên 70 mươi. Ông Hoàng cho biết đã cải táng được 18 ngàn
ngôi mộ tại tỉnh Bình Dương, cũng như đã giúp đở rất nhiều cho thương
phế binh. Ông Hoàng nói là muốn cùng với ông tạo dựng lại bức tượng
“Thương Tiếc” cho những phần mộ vừa được trùng tu. Nghe như vậy, ông rất
mừng rở vì đó là điều ông ôm ấp từ lâu. Sau một tháng gặp gỡ bàng bạc,
ông Hoàng có hứa khi trở về Mỹ sẽ báo cho ông biết diễn tiến công việc
mà hai người muốn thực hiện. Nhưng, công việc không đi đến đâu và nhiều
năm trôi qua ông không còn liên lạc được với ông Hoàng nữa.
Điêu khắc gia tài ba của QLVNCH nói rằng, ông mong khi Xuân Hương về Mỹ
sẽ nói cho người Việt hải ngoại biết được ý nguyện của ông. Là người có
quốc tịch Mỹ, ông lúc nào cũng sẳn sàng trở qua bất cứ quốc gia nào để
thực hiện bức tượng Thương Tiếc. Ông còn tâm sự, ở tuổi 75, nhưng ông
ráng sống để một ngày nào đó xây dựng lại tác phẩm Tiếc Thương vì theo
ông tác phẩm này, không thể mai một trong hoàn cảnh chính trị “khốn
nạn”, là miền Nam bị cưỡng chiếm vào tay bạo quyền Việt Cộng như hiện
nay.
TƯỞNG NHỚ NGHĨA TRANG BIÊN
thăm Nghĩa trang một chiều gío lộng,
Khung trời xưa chìm đắm ngủ say.
Xa lộ Biên hòa cuồn cuộn gío bay,
Biển đời ai oán, nỗi sầu chứa chan
Ôi, DŨNG KHÍ ĐÀI âm cảnh mơ màng,
Linh hồn 30,000 Nghĩa sĩ, ngỡ ngàn bơ vơ !
VÀNH KHĂN TANG đẫm lệ sương mờ…
GƯƠM THIÊN lạnh lẽo, ngẩn ngơ gío chiều !
Anh LÍNH TIẾC THƯƠNG, thân ngả bệ xiêu,
Vì thương đồng đội chịu nhiều trái ngan !
ÂM DƯƠNG cách biệt đôi đàng…
Màng đen tội lỗi, bàng hoàng Thần linh.
Bao mầm non trai trẻ, cõi vô hình
Là nơi nương tựa, nghĩa tình nước non.
Niềm tin, sự sống, con cháu Lạc Hồng
Tự do, Hạnh phúc…non sông ba miền.
Với người sống, ỷ thế cậy quyền,
Buồn người khuất mặt..nhãn tiền không sai !
Dòng đời thác nước đổ mau,
Sông sâu ,Biển rộng…một màu trong xanh.
TƯỢNG HAI LÍNH VIỆT MỸ
Chúng ta tuy hai mà một,
Vì trái tim chứa đựng MỘT Tình thương.
Trời Wesminster xinh đẹp lạ thường..
Mối tình VIỆT MỸ dưa lưng đội Trời.
Trải qua bôn ba, gian khổ một thời…
Kề vai sát cánh xây đời yêu thương !
Máu xương đổ khắp chiến trường !
Mississipy than thở, Cữu long nghẹn ngào !
Vì cõi đời còn lắm lao đao,
Là sóng phản bội…lật nhào thuyền mơ.
Tan tành, chìm đắm..cảnh vật xác xơ !
Kẻ ra đi, người ở lại…lệ mờ lòng đau !
Trời Cali tình bạn nghẹn ngào,
Qua rồi thử thách, ngàn sao sáng ngời.
Những trái tim CÔNG CHÍNH yêu đời,
Lòng tin TƯỢNG ĐÁ, đất trời chứng tri.
Nhìn về tương lai, cùng môt hướng đi
Dắt dìu nhân loại, quản gì khó khăn.!
Mối tình VIỆT MỸ ghi đậm vầng trăng
Bình minh nở rộ, qủa đất tròn long lanh.
Nếu có một ý định, có một Cách!.
Nếu có một Cách, ở đó cũng là một ý định.
-
Re: Tượng " Thương Tiếc " và Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu
Pho Tượng Tiếc Thương
Thưa quí vị, đã hơn ba năm qua chúng tôi không lái xe xuống miền Nam
Cali như mỗi năm trước kia để dự đám cưới con cháu của bạn bè và họp mặt
với các cựu chiến hữu đồng đội đã cùng sống chết bên nhau trong những
năm chinh chiến. Cách nay vài tháng, chúng tơi cố gắng làm một chuyến
xuôi Nam mục đích để thăm bạn bè lâu rồi khơng gặp và cũng ước mong đến
viếng Tượng Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Việt-Mỹ tại thành phố Westminster, vì
tôi chỉ thấy qua hình ảnh mà chưa được nhìn thấy tận mắt bao giờ. Nhưng
chuyến đi nầy khơng phải là một chuyến đi bình thường như mọi năm trước
đây, vì hoàn cảnh đã đổi thay, nên
Xe lăn một chuyến xuôi Nam
Nối tình bằng hữu mấy năm cách lìa
Bắc Nam tuy chẳng dặm dài
Số Trời đã định phải đành dừng chân.
Tuyết-Nga
Tôi nghĩ rằng các cựu chiến hữu có dịp đến đây để viếng hai bức tượng
của hai người chiến binh QLVNCH và Hoa-Kỳ đứng dưới hai lá cờ Việt-Mỹ
cũng đều phải cảm động và ngậm-ngùi nhớ một thời dĩ-vãng của đời đời
binh nghiệp khó quên.
Tôi xin kính cẩn nghiêng mình tưởng niệm những anh hùng vị quốc vong
thân và cũng xin thành kính ghi ơn những bạn đồng minh Hoa Kỳ đã hy sinh
xương máu trong cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa Tự Do cho miền Nam Việt
Nam. Họ đã phải xa rời quê hương và người thân để đi chinh chiến tại một
nơi cách quê nhà của họ nửa vòng trái đất, một nơi hoàn toàn xa lạ đối
với họ vì những cách biệt văn hóa, khí hậu và địa thế thiên nhiên có
nhiều bưng biền đầy muỗi mồng và nhiều núi rừng rậm-rạp.
Tôi vẫn còn nhớ vị Đại úy cố vấn TQLC Hoa Kỳ đã ngã gục bên tôi trong
trận đụng độ với đơn vị của Sư đoàn 3 Sao vàng CS Bắc việt ở quận Bồng
Sơn, tỉnh Bình Định vào năm 1965. Ông trạc tuổi tôi và lúc ấy ông cũng
đã có ba con còn dại khờ như các con của tôi. Ngoài ra còn nhiều người
cố vấn khác bị thương nặng phải trở về xứ trước khi hết nhiệm kỳ phục vụ
một năm tại Việt Nam. Nhiều bạn cựu chiến binh Hoa kỳ đã đến thăm gia
đình chúng tôi đều tâm sự với tôi rằng: "Chúng tôi còn cảm thấy hối hận
là chúng tôi đã không hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc chiến đấu có chính
nghĩa, nhưng vì sự phản bội của các nhà Chính trị Mỹ chúng tôi không làm
gì được hơn". Tơi xin lập lại một câu nói của một cựu Thiếu tá cố vấn
đã nói với tôi cách nay hai năm như sau: "They ( American politicians )
pulled the plug out so that we could not do more".
Nhìn thấy hai bức tượng chiến sĩ Việt-Mỹ tại miền Nam Cali làm tôi nhớ
tới pho tượng Tiếc Thương tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Tôi cũng đã
xem qua cuốn Video “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến” của Trung tâm
Asia và được nhìn thấy lại những hình ảnh hào hùng của các Quân Binh
Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các lực lượng Địa Phương Quân và
Nghĩa Quân. Chúng ta được nghe lại những bản nhạc rất hay nhắc lại cuộc
sống gian nan và oanh liệt của những người trai thời chinh chiến. Lòng
chúng ta không khỏi man-mác buồn và luyến tiếc một thời đã qua. Đặc biệt
nhứt là ở đoạn cuối của cuốn phim chúng ta thấy hình bức tượng bất hủ
“Người Lính Ngồi Nghỉ “ nơi cổng nghĩa trang Quân Đội nằm trong lãnh thổ
của Quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa, mà hầu hết người dân miền Nam Tự Do
trước đây đều nghe nói đến nhưng nhiều người chưa được dịp đến đây để
nhìn thấy tận mắt pho tượng " Tiếc Thương " nầy.
Được biết đây là ý kiến của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ông muốn có
một bức tượng đặt nơi cổng vào nghĩa trang để làm tăng thêm vẻ đẹp và
trang nghiêm của nơi an nghỉ nghìn thu của những anh hùng vị quốc vong
thân. Bức tượng bất hủ nầy được sáng tạo và nắn tạc do nhà Điêu khắc cựu
Đại úy Nguyễn Thanh Thu.
Nghĩa trang Quân Đội tọa lạc trong khu vực giữa xa lộ Biên Hòa và Quốc
lộ số 1. Đối diện nghĩa trang, bên kia xa lộ là ngọn đồi thoai thoải với
phong cảnh xanh tươi và thơ mộng. Hướng Tây Bắc nghĩa trang và gần Quốc
lộ số 1 có một dòng suối mà dân địa phương gọi là suối Lồ Ồ, hai bên bờ
suối cây lá xanh tươi, dòng nước rất trong chảy róc rách quanh năm trên
lòng suối có nhiều sỏi đá đủ màu sắc. Nơi đây người dân địa phương xây
những hồ tắm rất đẹp với nước suối thiên nhiên trong mát . Đi thêm nữa
chúng ta sẽ nhìn thấy núi Châu Thới, trên đỉnh núi có một ngôi chùa cổ
kính nhỏ nhưng rất xinh. Xa hơn nữa, phía Nam sông Đồng Nai là một dãy
đồi xanh nằm uốn khúc như hình rồng nếu chúng ta ngồi trên máy bay trực
thăng nhìn xuống, và phía đầu Đông của dãy đồi có một cái mỏm trông
giống như rồng há miệng, cho nên người Hoa gọi là hàm rồng. Theo khoa
nghiên cứu Thiên văn Địa lý thì đây là vùng đất tốt để xây dựng nghĩa
trang nên người Triều Châu đã lập nghĩa địa rất lớn tại đây.
Những nơi kể trên là vài danh lam thắng cảnh của quận Dĩ An và cũng là
nơi hẹn hò của những cặp tình nhân và du khách đến chiêm bái và thưởng
ngoạn. Xa lộ nầy dẫn đến cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, tới tỉnh Biên
Hòa rồi đi ra biển Vũng Tàu. Biên Hòa trước kia được gọi là Trấn Biên,
nổi tiếng là một tỉnh miền Đông hiền hòa, xứ địa linh nhân kiệt mà cũng
là xứ sản xuất nhiều trái cây, đặc biệt là loại bưởi tại xã Tân Triều
Quận Công Thanh ngon nhứt miền Đông, tại tỉnh nầy cũng có nhiều chôm
chôm, măng cụt và sầu riêng tại quận Long Thành.
Tôi cũng xin kể qua các vị cựu tỉnh trưởng Biên Hòa sau cùng mà tơi đã
làm việc dưới quyền, gồm có cố Đại tá Mã Sanh Nhơn lúc còn sống ông cư
ngụ tại thành phố San Jose, kế đến là cựu Đại tá Trần Văn Hai và cựu Đại
tá Lâm Quang Chính, hai vị nầy hiện đang sống tại tại TB California và
sau cùng là cố Đại tá Lưu Yễm. Những vị cựu Tỉnh trưởng nầy cũng đã một
thời làm Trung đoàn trưởng của các Sư đoàn Bộ binh có nhiều kinh nghiệm
chiến trường.
Nghĩa trang được thiết kế trên vùng đất cao ráo rất khang trang, những
ngôi mộ được xây ngay hàng thẳng lối. Muốn vào nơi đây chúng ta phải đi
ngang qua pho tượng “ Tiếc Thương, người ta thường gọi là" Người Lính
Ngồi Nghỉ “, được đặt sát bên cạnh xa lộ, mặt pho tượng nhìn qua ngọn
đồi xanh thoai thoải bên kia xa lộ Biên Hòa, chúng ta đi qua đài tưởng
niệm chiến sĩ vô danh rồi mới tới khu an nghỉ cuối cùng của những anh
hùng bỏ mình vì Tổ quốc, từ Tướng lãnh đến hàng Binh sĩ . Tôi còn nhớ có
vài vị Tướng đã an nghỉ nơi đây, người có cấp bực cao nhứt là cố Đại
Tướng Đỗ Cao Trí, một vị Tướng tài ba lỗi lạc của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Mỗi lần có lễ an táng của các vị Tướng đều có cựu Tổng Thống
Nguyển Văn Thiệu, các Bộ Trưởng, các Tướng lãnh vv... đến dự lễ trong
khung cảnh rất nghiêm trang. Quận và Chi khu Dĩ An phải tổ chức hành
quân xa và gần để bảo vệ an ninh tổng quát. Bộ Chỉ Huy hành quân của Chi
khu luôn luôn đặt tại đài Tưởng niệm, nơi đó là điểm cao chế ngự dễ
quan sát toàn vùng.
Vì thường hành quân nơi đây nên tôi đã chứng kiến biết bao cảnh đau buồn
vĩnh biệt những anh hùng đã nằm xuống trong cuộc chiến chống bọn cướp
Cộng sản xâm lược miền Bắc. Tôi cũng đã đến đây nhiều lần để chào tiễn
đưa những chiến sĩ đồng đội của tôi thuộc TĐ3/TQLC đã cùng tơi chiến đấu
trên khắp các mặt trận và đã cùng nhau chia xẻ những niềm vui nỗi buồn
trong những năm tôi còn ở đơn vị nầy. Trong số các chiến sĩ TĐ3/TQLC đã
được an táng nơi đây tôi còn nhớ Trung sĩ nhứt Vòng A Nhì, HSQ Trung đội
phó của Đại đội 1 TĐ3. Trung sĩ nhứt Vòng A Nhì là một cán bộ rất hiền
lành, bản tính ít nói nhưng là một Trung đội phó xuất sắc rất và gan dạ
trong các trận chiến. Trung sĩ nhứt Vòng A Nhì là người gốc Nùng nên
theo phong tục của họ trước khi hạ huyệt vợ ông cùng các con đã đập bể
một cái siêu bằng đất và đốt giấy vàng bạc dưới quan tài để tiễn đưa ông
đi. Đây là chuyến đi lần cuối cùng tràn đầy nước mắt, không phải như
nhiều lần trước đây vợ con đã tiễn đưa ông lên đường hành quân khắp bốn
miền Chiến thuật một thời gian, rồi ông sẽ trở về thăm vợ con trong lúc
Tiểu đoàn được về hậu cứ dưỡng quân vài tuần rồi lại lên tiếp tục lên
đường. Đời binh nghiệp của chúng tơi là thế đó.
Ngày xưa lội khắp bốn vùng
Nhọc-nhằn gian khổ, cũng về thăm con
Hy sinh giữ nước giữ bờ
Bây giờ anh đã ra đi chẳng về!
xxx
Rồi đây dầm-dãi nắng mưa
Thay anh nuôi trẻ, không buồn cút-côi
Lê-la khắp chốn đó đây
Khác chi chim nhạn lẻ bầy kêu sương.
( Trích đoạn thơ Lẻ bóng của TN. )
Đây là lần đầu tiên tôi được biết cái phong tục lạ của người Nùng. Tôi
được bà vợ ông giải thích là làm như thế để linh hồn ông Nhì mau được
siêu thoát an-nhàn.
Trong trận nầy cũng có Trung sĩ Nguyễn Văn Liễng rất can đảm, trước ông
là Hạ sĩ thuộc toán biệt kích của tôi lúc tôi còn là Tiểu đoàn phó
TĐ3/TQLC. Ông Liễng cũng đã hy sinh và thân xác của ông được vợ con mang
về miền Trung an táng. Tôi không bao giờ quên ơn ông đã giúp tôi rất
nhiều trong một lần tôi bị thương nặng tại Quảng Trị vào cuối năm 1966.
Bức tượng " TIẾC THƯƠNG" nầy cũng tạo ra nhiều câu chuyện huyền thoại
trong những năm trước 30/4/1975. Ngày xưa mỗi lần hành quân nơi đây tôi
thường hay dừng xe Jeep dưới chân tượng để ngắm nhìn " Ông Lính Ngồi
Nghỉ " nầy một cách say mê.
Pho tượng rất sống động, thật đẹp, Ông lính ngồi nghỉ trong tư thế tự
nhiên thoải-mái, vẻ mặt u-buồn và rất dễ thương. Đôi mắt Ông đăm chiêu
nhìn về nơi xa xâm, tôi đã nghĩ dường như tâm tư Ông đang nhớ thương đến
những bạn đồng đội đang hành quân diệt địch trên khắp các mặt trận của
bốn miền Chiến Thuật hay là Ông lính nầy còn luyến nhớ một thời oanh
liệt của Ông đã đi chinh chiến trên khắp các nẽo đường quê hương?
Sanh ra giữa buổi loạn-ly
Làm tròn trách nhiệm chẳng màng hiểm nguy
Đêm thân hiến trọn quê hương
Bốn Vùng chiến thuật dấu chân anh còn
Chẵng may ngã gục nơi nào
Sử xanh ghi chép hay mồ vơ danh.
Thơ TN
Có những lúc ngồi bên cạnh pho tượng, tôi sực nhớ lại về những huyền
thoại của Ông lính nầy do các chiến sĩ Nghĩa quân có nhiệm vụ giữ an
ninh nơi đây kể lại, tôi có cái cảm giác rờn rợn trong người. Có người
nói rằng giữa đêm khuya thanh vắng, khi xe chạy ngang qua đây không thấy
hình dáng Ông ngồi mà chỉ thấy cái bục tượng trống không, " Tôi cảm
nghĩ rằng có thể Ông lính nầy đang chậm bước vào thăm những đồng đội
đang nằm nghỉ nơi đây, hoặc là Ông đang âm thầm và buồn rão bước trên xa
lộ vắng vẻ thênh thang"...
Tôi cũng đã có ý nghĩ hiếu kỳ là thử một đêm hôm vắng vẻ, tôi lái xe
Jeep đến đây, chắc là sẽ thấy hình bóng Ông từ từ bước xuống bắt tay
chào hỏi tôi vì Ông và tôi đã quen mặt, bởi chúng tôi gặp gở nhau rất
thường. Nhưng nếu chuyện xãy ra thật như vậy, tôi sẽ có cảm giác ra
sao???
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975 những công trình xây cất xinh đẹp và thanh
nhã của chế độ cũ đều bị quân Cộng sản phá hủy. Như bức tượng TQLC ở
trước tòa nhà Quốc Hội và pho tượng “ Tiếc Thương ” ở nghĩa trang Quân
Đội cũng đều bị bọn chúng giựt sập, đài Tưởng niệm nơi nghĩa trang cũng
bị hủy hoại, những mồ mả của các anh hùng tử sĩ cũng bị bọn chúng giầy
xéo. Biết bao nhiêu thân nhân của những người đã hy sinh vì tổ quốc rất
đau lòng xót dạ bởi cảnh tàn phá dã man nầy.
Có một lần trong một chuyến vượt biên hụt, tôi và vợ tôi đi trên chuyến
xe đò từ Nha Trang trở về Saigòn, khi chiếc xe đò chở hành khách chạy
ngang qua nghĩa trang, không những tôi và vợ tôi mà tất cả hành khách dù
không ai bảo ai cũng đều quay mặt về hướng pho tượng “Tiếc Thương”,
nhưng nơi đó chỉ còn thấy một mô đất trơ trụi đầy cỏ dại. Pho tượng oai
hùng của người lính không còn nữa, đài Tưởng niệm cũng đổ nát điêu tàn.
Lúc ấy tôi nhận thấy trên nét mặt của mọi người đều có vẻ bùi ngùi xúc
động, tôi nghĩ họ đau lòng thương tiếc những vị anh hùng dù đã nằm xuống
vẫn không được yên thân. Buồn cho thế cuộc đổi thay để ngày nay bọn
Cộng sản giầy xéo quê hương ta.
Trước khi có Tượng đài Chiến sĩ Việt-Mỹ tại Nam Cali tôi thật sự ước ao
phải có một bức tượng TIẾC THƯƠNG thứ hai tại đất Mỹ để tưởng niệm những
anh hùng vị quốc vong thân, và linh hồn của họ cũng không còn phải tủi
hận vì nơi an nghỉ của họ nơi quê nhà đã bị quân Cộng sản tàn phá san
bằng.
Tôi tin tưởng rằng khi nhớ tới Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa lòng mọi
người đều cảm thấy bùi ngùi thương tiếc hàng trăm ngàn Chiến Sĩ đã hy
sinh trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự Do. Nhưng chúng ta cũng không
thể quên những Thương binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn bị bỏ rơi
lại quê hương phải sống rất vất vả, họ chịu đựng sự kỳ thị và sỉ nhục
đắng cay của bọn Cộng sản đang cầm quyền. Thật đau đớn thay: "Đất nước
còn là còn tất cả, đất nước mất là mất tất cả", ngày nay không còn đất
nước và Quân Đội để vinh danh và đền đáp công lao của họ.
Thật buồn cho số phận của người dân Việt Nam đã bị bọn Cộng sản đày đọa
mấy mươi năm nay. Nhưng tôi tin rằng một ngày gần đây, chế độ DÂN CHỦ sẽ
thay thế chế độ Cộng sản vô nhân tại quê hương Việt Nam chúng ta, như
hầu hết các nơi trên hoàn cầu.
Cảm xúc khi đi ngang qua Nghĩa trang QĐBH nên vợ tôi có những dòng thơ
mộc mạc nay ghi lại đây để mơ tả hình ảnh hào hùng của “Người Lính Ngồi
Nghỉ " và để tạ ơn những chiến sĩ đã chiến đấu rất gian khổ và đã hy
sinh trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam Tự Do.
Tiếc Thương
Mặc cho mưa nắng bão bùng
Ngồi lì trên đá, anh hùng kiên gan
Súng anh hạ xuống trên đùi
Anh ngồi thư thả, ngậm ngùi tiếc thương
Mắt anh hướng ở trời xa
Như là tiếc nhớ một thời liệt oanh
Anh là đại diện bao người
Hy sinh gục ngã, tan thành bụi tro
Ghi ơn, giữ nước non nhà
Người đời tạc tượng anh nồi nghỉ ngơi
Đến nay thế cuộc đổi dời
Tượng anh giật xuống xóa tan một thời
Dù rằng nơi ấy trống không
Người người vẫn nhớ Tượng Người Tiếc Thương.
TN.
Cựu chiến hữu Nguyễn Minh Châu
Nếu có một ý định, có một Cách!.
Nếu có một Cách, ở đó cũng là một ý định.
-
The Following User Says Thank You to Tình Quê For This Useful Post:
-
Thương Tiếc !
Anh ngồi đó bao năm buồn im lắng,
Mắt u sầu nhìn đất nước tang thương,
Anh đớn đau khi gãy cánh giữa đường,
Lúc Quê Hương mịt mờ trong khói lửa !
Anh đã đi trên nửa vùng đất nước,
Ngăn quân thù để bảo vệ quê hương,
Anh bước đi hầu hết khắp nẻo đường,
Để người dân hậu phương tròn giấc ngủ.
Đây Quảng Trị Cổ Thành ... Hè Đỏ Lửa,
Thây giặc thù chồng chất bốc mùi tanh,
Kia Hải Lăng, giòng Mỹ Chánh vang danh,
Vùi xác giặc xâm lăng từ phương Bắc.
Đây La Vang, Ngôi Thánh Đường cổ kính,
Chừ ngả nghiêng vì súng đạn xâm lăng,
Gác Chuông buồn trong gạch vụn ngổn ngang,
Tượng Đức Mẹ vỡ tan bên Thánh Giá !
Tống Lê Chân ... sáu trăm ngày khói lửa,
Vẫn kiêu hùng sừng sững dưới trời cao,
Dù máu anh có nhuộm đỏ chiến bào,
Anh vẫn đứng bên chiến hào ngạo nghễ.
Phá Tam Giang những chiều mưa giăng kín,
Nhìn mưa buồn, anh chợt nhớ đến em,
Tựa vai anh, tóc em xõa buông mềm,
Nghe hạnh phúc êm đềm nào len đến.
"An Lộc Địa Sử Xanh Ghi Chiến Tích,
Biệt Cách Dù, ôi Vị Quốc Vong Thân",
Máu anh hùng nhuộm thắm đất trời Nam,
Mô đất lạ vùi chôn thân bách chiến !
Rồi một hôm giữa hàng cây nghiêng ngả,
Anh trở về bằng hòm gỗ cài hoa,
Vành khăn tang, người đưa tiễn lệ nhòa,
Bia mộ đá, ngàn đời sau THƯƠNG TIẾC !!!
OCT.11.2008
Hoàng Nhật Thơ
"ĐTTS"
*******************
Anh chừ ngủ giấc triền miên,
Ba mươi năm lẻ bình yên chốn nào,
Hay là hồn vẫn quặn đau,
Non Sông, Tổ Quốc phủ màu tóc tang,
Xác thân gởi lại trần gian,
Hồn nương theo gió nặng mang nỗi sầu,
Những đêm thanh vắng canh thâu,
Tìm về lối cũ rừng sâu quân hành,
Bình Long, An Lộc, Khe Sanh,
Ghé thăm Quảng Trị Cổ Thành dấu xưa,
Xuôi về phố núi chiều mưa,
Mây giăng thật thấp đong đưa đỉnh đầu,
Ngàn cây xanh ngát một màu,
Đêm buồn phố thị trái sầu rụng rơi,
Có người khách lạ đơn côi,
Gặp em má đỏ cho đời dễ thương,
Chút gì để nhớ để vương,
Chút gì mang mãi trên đưòng binh đao,
Buồn thăm đồi máu Hạ Lào,
Viên đạn sau cuối ... Anh nào có nghe !
Kia đồi bão lửa một Hè,
Chiều rừng thay lá, tiếng ve ngân sầu,
Chiến y nhuộm đỏ máu đào,
Charlie thương tiếc buồn chào anh đi !
Đời lính ôm mộng ước gì,
Rừng xanh lá thấp chiến y phai màu,
Đừng như chim ngọn lá sầu,
Hãy hát cho những mái đầu điểm sương,
Hát cho Tổ Quốc Quê Hương,
Hay người gục xuống chiến trường chiều qua !
Đau thương giòng lệ xót xa,
Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa còn đâu,
Bức tượng THƯƠNG TIẾC u sầu,
Bao năm ngồi đó giờ đâu ... mất rồi !
Hồn nương theo gió mây trôi,
Nhớ về dĩ vãng lệ rơi lưng trời ...!
OCT.12.2008
Hoàng Nhật Thơ
"ĐTTS"
-
The Following 3 Users Say Thank You to Da Tinh Thi Si For This Useful Post:
chieunhatnang (02-04-2011), Kiến Hôi (02-05-2011), Linh hồn của Tre (02-05-2011)
-
Re: Tượng " Thương Tiếc " và Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu
Xin chào anh HNT,
Thấy anh nhắc đến chuyện bức tượng Tiếc Thương, tôi xin được gởi tặng anh một bức hình cũng về tượng Tiếc Thương dưới đây :
1986-06-19_TiecThuong.jpg
Bức tượng này là bức tượng "tiếc thương" đầu tiên được thực hiện ở hải
ngoại (thành phố Quebec, Canada) năm 1986, nhân ngày kỷ niệm QLVNCH, do
chính đồng bào đóng góp dựng nên để tỏ lòng tiếc thương của mình.
Tượng này bây giờ vẫn còn đó, tuy không còn có ai thăm viếng như những năm đầu tiên !
Thân mến,
PT
-
The Following 3 Users Say Thank You to Pham Tuong For This Useful Post:
Da Tinh Thi Si (02-05-2011), Kiến Hôi (02-05-2011), Linh hồn của Tre (02-05-2011)
-
Re: Tượng " Thương Tiếc " và Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu
Originally Posted by Pham Tuong
Xin chào anh HNT,
Thấy anh nhắc đến chuyện bức tượng Tiếc Thương, tôi xin được gởi tặng anh một bức hình cũng về tượng Tiếc Thương dưới đây :
1986-06-19_TiecThuong.jpg
Bức tượng này là bức tượng "tiếc thương" đầu tiên được thực hiện ở hải
ngoại (thành phố Quebec, Canada) năm 1986, nhân ngày kỷ niệm QLVNCH, do
chính đồng bào đóng góp dựng nên để tỏ lòng tiếc thương của mình.
Tượng này bây giờ vẫn còn đó, tuy không còn có ai thăm viếng như những năm đầu tiên !
Thân mến,
PT
Thân chào anh PT,
Hân hạnh được biết anh trong MGP này, cảm ơn anh đã gởi tặng tôi cũng
như anh chị em MGP bức hình tượng "Thương Tiếc". Tượng rất đẹp
Nhìn tượng "Thương Tiếc", mình cảm nhận được điều gì đó man mác
trong lòng, phải khg anh ? Tội nghiệp ông "Thương Tiếc" cũng đi lưu vong theo anh em mình luôn !
Bức tượng "Thương Tiếc" với bản đồ VN trên nền Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (tôi
post ở trên), hình này là tôi vẽ trên T-shirt tặng cho gia đình 1 người
bạn thuộc TĐ2Trâu Điên TQLC.
Tôi có vẽ vài hình về tượng "Thương Tiếc" trên T-Shirt và foam board gởi tặng bạn bè.
Dưới đây là hình bức tượng "Thương Tiếc" và bục "Tổ Quốc Ghi Ơn", tổng
cộng chiều cao là 7 feet, tôi vẽ trên tấm foam dày rồi cắt ra, đặt trên
sân khấu trong đêm Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 33 tại Cincinnati, Ohio.
Thân chúc anh cùng gia đình một năm mới
-
The Following User Says Thank You to Da Tinh Thi Si For This Useful Post:
Theo nguồn:
http://motgocpho.com/forums/showthread.php/19588-T%C6%B0%E1%BB%A3ng-Th%C6%B0%C6%A1ng-Ti%E1%BA%BFc-v%C3%A0-%C4%90i%C3%AAu-Kh%E1%BA%AFc-Gia-Nguy%E1%BB%85n-Thanh-Thu
Những vần thơ Thương Tiếc...!!!
Nghĩa trang trên ngọn đồi của dỉnh thiên thu!
Nghĩa Trang Buồn Trên Đỉnh Thiên Thu
Thơ,
NGHĨA TRANG BUỒN!
Trên Đỉnh Thiên Thu…
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Trở gót thu về trên đỉnh thiên thu!
Nghĩa Trang Biên Hòa phủ đám sương mù,
Tiếng thu thổn thức hàng cây nghĩa địa,
Xoa nỗi đau thương theo vết hận thù,
Mưa thu nhỏ lệ khóc người nằm xuống,
Kiếp đời quên lãng nơi chốn hoang vu,
Mồ hoang cỏ dại hoang tàn hương khói,
Tình đời bỏ mặc theo tiếng gió ru,
Hồn thu gởi trọn quê hương vĩnh biệt,
Tan hồn chiến sĩ vào cõi sương mù!!!
Tượng Đài Thương Tiếc,
Thức giấc nữa đêm oan hồn tử sĩ!
Hồn thiêng hóa đá tượng đài tiếc-thương,
Gác súng nhìn trăng thương quê tan tác
Đổ nát tượng đài chiến sĩ Trận Vong
Anh năm xuống cho phận đời quên,
Canh thu chày ru giấc ngủ quê hương,
Tiếng dế buồn thở than cùng vận nước
Tượng hồn chiến sĩ đổ ngả quê hương,
Nhìn đời ngược mắt, Đất trời điên đảo,
Trăng sao hổn loạn còn gì nước-non!!!
Tam Quan Đền thiêng Tử Sỉ!
Tam Quan dẩn lối đền thiêng Tử sĩ
Cỏ hoang rêu bám ngại lòng lữ khách,
Âm-u hoang phế.khói hương lạnh lòng,
Dậu đổ bìm leo cũng tại… lòng ngươi,
Nỗi buồn nhân thế thu buồn chất ngất,
Còn lại gì nhau đất nước tình người,
Hồn thiêng sông núi tụ hồn tử sĩ,
Bốn vùng chiến thuật hồn nước là đây,
Đền thiêng tử sĩ khí hùng dân tộc,
Khí phách anh linh chiến Sĩ VNCH!!!
Nghĩa Dũng Đài,
Hai hàng lệ đổ mờ trong khói hương!
Hiển lòng chiến sĩ vẫn thấy thương thương,
Bao nhiêu xác lá thu tàn Đài Nghĩa Dũng,
Bốc cao hào khí chốn ra sa trường,
Tôi đến thăm anh vực hồn chiến sĩ,
Cho tôi thêm chút khí kiên cường,
Bao năm tù tội trở về thăm anh,
Lòng thành chiến hữu hương nguyện ước thầm,
Non nước lòng dân trời cao thấu hiểu,
Cho lòng chiến sĩ chết vì Tự-Do,
Gươm thiêng gảy cụt, khăn tang rêu mốc,
Làm sao ráo lệ quắn vành khăn tang,
Tổ quốc tôi ơi thôi đừng than khóc!
Trách chi con người phản quốc vong thân,
Khăn tang ngang đầu vung cây kiếm cụt!
Lời thề Quyết Tử-Tổ quốc Quyết Sinh!!!
Huỳnh Mai
{Thu buồn trên Đỉnh Thiên Thu}
Thơ
Thăm Anh
Lần Cuối…!
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ Lẹ Huỳnh
Anh nằm xuống cho đời ươm mầm sống!
Cho quê hương này hạnh phúc Tự-Do,
Một nhành Mai phủ vàng trên nắm mộ,
Hồn thiêng Tử Sĩ nguyện chung màu cờ,
***
Tôi trở lại đây thăm anh lần cuối!
Chiến tranh tàn rồi …lối rẻ phân ly,
Anh nằm xuống thở than cho phận nước,
Tôi đọa đày tù tội chiến tranh qua,
Nghĩa trang buồn …ru hồn anh Tử Sĩ!
Vào lòng đất mẹ vạn kiếp chinh nhân,
Dặm dài non nước tôi đi cải tạo,
Mà nghe cay đắng hồn nước thương đau!
Anh chết chi cho đời thêm thương tiếc,
Cho bạn bè đồng đội nhớ đến anh,
Cho quê hương phủ thêm màu tang tóc!
Lá cờ Vàng Sọc Đỏ gói xác anh,
Tôi nhớ rừng chiều chiến trường đẫm máu,
Ráng chiều rực đỏ máu anh rơi!
Xác anh gục ngả tay không buông súng,
Anh hùng chết…nhưng chí hùng không chết!
Nếu anh không chết tôi không cải tạo,
Cùng nhau chiến đấu…chưa mất quê hương!?
Dân nước Miền Nam
đâu còn uất hận!
Nghĩa trang Biên Hòa…hồn nước Mênh Mang!!!
***
Anh chết mang theo thương đau hồn nước!
Mất anh rồi…hồn nước vẫn nhớ đến anh!
Nghĩa Đài Chiến Sĩ bia danh Tử Sĩ!
Còn tôi lạc xứ quê hương lưu đày…!!!
Huỳnh-Mai
{Viếng mộ-Nghĩa Trang Biên Hòa}
| |
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét