Sự thật phũ phàng về Hiệp định Paris 1973
Nguyễn Quốc Khải gửi RFA
2012-12-17
2012-12-17
Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường
cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm
sau. Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời
gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris
1973.
Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng cách chạy tội
Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo. Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản.
Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a decent interval. You have our assurance.”
Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.
Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này:
“The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973.
Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:
“ We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which – after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam. Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010.
Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh
Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
1. Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.
2. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm.
Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971.
Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.
Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
1. Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
2. Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% - 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971:
Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger: “No Question.”
Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972.
Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973.
Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh. Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam. Tại New Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu.
Phục hồi Hiệp Định Paris 1973?
Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.
Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976) . Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do chính họ dựng lên.
Kết luận
Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng nề những lỗi lầm đó. Đặc biệt GS Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận:
1. Planning Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam (1982).
2. No Peace No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001).
Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Nếu Ông Hồ Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ trí thức, khôn ngoan đã không đi theo Cộng Sản để reo rắc đau thương triền miên cho đất nước trong một nửa thế kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001.
2. Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.
3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012.
4. Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History.
5. Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010.
6. Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997.
7. Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003.
8. Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999.
9. Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977.
11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011.
12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”
nmGUO62N:
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/readersopinions-nqk-12172012160001.html
Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng cách chạy tội
Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo. Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản.
Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a decent interval. You have our assurance.”
Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.
Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này:
“The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973.
Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:
“ We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which – after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam. Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010.
Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh
Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
1. Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.
2. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm.
Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971.
Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.
Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
1. Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
2. Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% - 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971:
Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger: “No Question.”
Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972.
Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973.
Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh. Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam. Tại New Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu.
Phục hồi Hiệp Định Paris 1973?
Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.
Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976) . Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do chính họ dựng lên.
Kết luận
Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng nề những lỗi lầm đó. Đặc biệt GS Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận:
1. Planning Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam (1982).
2. No Peace No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001).
Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Nếu Ông Hồ Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ trí thức, khôn ngoan đã không đi theo Cộng Sản để reo rắc đau thương triền miên cho đất nước trong một nửa thế kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001.
2. Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.
3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012.
4. Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History.
5. Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010.
6. Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997.
7. Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003.
8. Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999.
9. Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977.
11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011.
12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”
nmGUO62N:
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/readersopinions-nqk-12172012160001.html
Hiệp định hòa bình Paris dẫn đến hòa bình của những nấm mồ
10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn “No More Vietnams” xuất bản năm 1985, Tổng Thống Richard Nixon tự phán:
“Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đã thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã thua trong hòa bình (We won the war in Vietnam, but we lost the peace)”.
Đây là lời nói khôn ngoan nhưng không phản ảnh sự thật.
Đúng lý Nixon phải nói: Chúng ta thắng về quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị, và đã gieo tai họa vô lường cho các quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hãn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v...v.... Do đó Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 chỉ đem lại hòa bình của những nấm mồ (peace of the grave).
Ngày nay mọi người thấy rõ: Kiến trúc sư của thảm cảnh này không phải là ai khác mà là Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của Nixon.
Do những quyền lợi riêng tư cũng như do những cuộc mật đàm, mật ước và hiểu ngầm với Lê Đức Thọ, Kissinger đã đẩy tới việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 với bất cứ giá nào. Đối với ông, Chiến Trường Đông Nam Á đã thu dọn xong với sự tiếp tay của Bắc Kinh. Từ đây đối tượng của ông là Chiến Trường Trung Đông đang cần tiếp viện quân sự và kinh tế. Sau 1975, giới am hiểu cho biết ngân khoản viện trợ hàng năm cho Do Thái (với 4 triệu dân) khoảng 2 tỉ Mỹ kim ngang với số ngân khoản viện trợ cho Việt Nam trước 1973.
Cho tới tháng 1-1973, khi bối thự hiệp ước, bằng xuyên tạc, đe dọa và hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, Kissinger đã thúc đẩy Nixon buộc Miền Nam phải ký Hiệp Định Paris. Cho Hoa Kỳ có lý do rút quân để đòi phóng thích tù binh sau khi đầu hàng trong danh dự. Còn việc quân đội Bắc Việt có triệt thoái khỏi Miền Nam hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc. Về việc này, một mặt Kissinger tin vào những mật ước và cam kết ngầm của Thọ. Mặt khác còn có lời cam kết của Nixon theo đó Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt, nếu Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, và sẽ sử dụng hỏa lực mạnh nhất như trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Miền Nam, và những vụ oanh tạc Bắc Việt bằng B52 trong cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận Mùa Giáng Sinh 1972.
Sự việc đã không diễn ra như vậy. Ba tháng sau Hiệp Định Paris vụ Watergate bùng nổ. Sau đó Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành Luật ngày 30-6-1973 cấm các lực lượng quân sự Hoa Kỳ không được yểm trợ những cuộc chiến đấu võ trang tại Việt-Miên-Lào. Và tháng 10-1973 Luật về Quyền Lực Chiến Tranh (War Powers Act) đã trói tay vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và buộc Tổng Thống phải tham vấn Quốc Hội trước khi sử dụng quân đội vào những vụ tranh chấp võ trang. Điều kiện hạn chế này chưa bao giờ lập pháp đặt ra trong thời chiến. Do đó, vì không có toàn quyền hành động và không có ngân khoản, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội không thể phản công kịp thời các bộ đội Bắc Việt xâm nhập quy mô vào Miền Nam, và cũng không thể trả đũa bằng cách tái oanh tạc Bắc Việt như trong mùa Giáng Sinh 1972. Như vậy, 10 tháng sau Hiệp Định Paris, từ tháng 11-1973 quân xâm lăng Bắc Việt được tự do xâm nhập Miền Nam với sự trợ giúp võ khí đầy đủ của phe Quốc Tế Cộng Sản Trung Sô (1.7 tỷ Mỹ kim năm 1974, gấp đôi thời tiền Hiệp Định Paris.
Và từ sau vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Liên Sô đã tăng 4 lần viện trợ cho Bắc Việt). Và những lời cam kết của Chu Ân Lai và Brezhnev hứa hẹn sẽ kiềm chế Hà Nội, chỉ là câu đãi bôi, hay đúng hơn một chiến thuật để dối gạt Hoa Kỳ.
Thêm một sự kiện đáng lưu ý: Một năm sau Hiệp Định Paris, vào ngày 11-1-1974, khi Kissinger vừa rời Bắc Kinh, đột nhiên một lần nữa, Trung Quốc công bố chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và một tuần sau, ngày 19-1-1974, họ đem quân xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam. Về mặt Quốc Tế Công Pháp, Hiệp Định Geneva 1954 đã xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Điều 4 Hiệp Định, giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc kéo dài từ lục địa “ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam giới tuyến” (Vỹ Tuyến 17). Quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17-15 Bắc (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi), và quần đảo Trường Sa ở phía Nam tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 12-7 Bắc (từ Cam Ranh xuống Cà Mâu). Do đó cả hai quần đảo này đã được Hiệp Ước Quốc Tế nhìn nhận thuộc hải phận của Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Bắc Việt và Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng.
Chiếu Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ là quốc gia chủ xướng, đã triệu tập Hội Nghị, đã ký Hiệp Định, và đã cùng 10 quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, đứng ra bảo lãnh sự thi hành nghiêm chỉnh hiệp định này. Như vậy Hoa Kỳ có nghĩa vụ tiên khởi phải bảo vệ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam chống mọi xâm lăng võ trang bất cứ từ đâu tới. Vậy mà, ngày 19-1-1974, dầu có mặt tại vùng Biển Hoàng Sa, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đã án binh bất động, không yểm trợ, không can thiệp, không điều giải, và cũng không làm hành vi nhân đạo nào để cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam mắc nạn trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, do Trung Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy, đã bị bắn chìm. Có lẽ Hải Quân Hoa Kỳ nghĩ rằng họ không có trách nhiệm phải cứu vớt những người sắp chết đuối, kể cả vì lý do nhân đạo. Vì mãi tới tháng 11-1974 Liên Hiệp Quốc mới ban hành Công Ước về việc Cứu Vớt các Nạn Nhân bị Đắm Tàu Trên Mặt Biển. Hơn nữa, từ tháng 6-1973, Quốc Hội Hoa Kỳ đã ban hành đạo luật cấm quân lực Hoa Kỳ không được tham gia hay yểm trợ bất cứ cuộc chiến đấu quân sự nào trên bộ, trên không và trên biển tại bán đảo Đông Dương. Trong thời gian này, từ tháng 4-1973, báo chí phản chiến và phe đối lập đa số tại Quốc Hội đã triệt để khai thác vụ nghe lén Watergate, dẫn đến việc Nixon từ chức vào tháng 8-1974.
Năm 1974, theo 3 ngả tiến quân, từ vùng Phi Quân Sự phía Bắc, Ai Lao và Cao Miên phía Tây, Bắc Việt kéo đại quân xâm nhập Miền Nam. Và tháng 1-1975 đã tiến chiếm nguyên một tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa là Phước Long. Cuộc tiến chiếm này nhằm trắc nghiệm phản ứng của Hoa Kỳ. Lúc này, từ Tổng Thống chỉ định Gerald Ford, chẳng ai còn nhớ những lời cam kết long trọng của Tổng Thống dân cử Nixon trong hơn 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong những văn thư này, vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ hứa sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, đồng thời phản công tức thời các lực lượng võ trang Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, bằng những võ khí mạnh nhất như Không Đoàn B52.
Sau vụ Phước Long, trong một phiên họp của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản, Lê Duẩn đã giơ hai tay reo lên: “Nó bỏ rồi!”
Và 3 tháng sau, các chiến xa Liên Xô vượt qua hàng rào Dinh Độc Lập báo hiệu sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này, bất chấp Hiệp Định Paris, Bắc Việt đã kéo thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để yểm trợ số hơn 100 ngàn quân đã xâm nhập từ Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Từ đó Hiệp Định Hòa Bình Paris chỉ còn là tờ giấy lộn. Và những điều khoản cam kết hành sử quyền dân tộc tự quyết bằng đường lối hòa bình chỉ là những bánh vẽ do phe chủ chiến Lê Đức Thọ ban phát cho kẻ chủ bại Kissinger. Chẳng hạn như Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do hai Miền Nam, Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận (theo nguyên tắc nhất trí)!”
MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI ĐỂ CÓ MỘT KHOẢNG CÁCH HỢP LÝ
Cuộc “Đại Thắng Mùa Xuân 1975” khó có thể có nếu Hoa Kỳ không nhất định bỏ Miền Nam Việt Nam.
Trong cuộc mật đàm giữa Thủ Tướng Chu Ân Lai và Henry Kissinger ở Đại Sảnh Nhân Dân Bắc Kinh nhân dịp Tổng Thống Richard Nixon công du Trung Quốc và gặp Mao Trạch Đông ngày 21-2-1972, Kissinger nói thẳng với Chu Ân Lai: “Chúng tôi không quan tâm đến việc hủy diệt (Cộng Sản Việt Nam), và ngay cả việc đánh bại nó”.
Mỹ đã thỏa thuận với Trung Quốc để Cộng Sản Việt Nam chiếm Miền Nam sau khi Mỹ rút quân một thời gian. Kissinger xác nhận với Chu Ân Lai rằng Mỹ có thể chấp nhận Cộng Sản Miền Bắc chiếm Miền Nam bằng vũ lực, nếu việc này xẩy ra sau khi Mỹ rút quân khỏi đây một thời gian đủ dài để có một khoảng cách hợp lý (decent interval): “Nếu Bắc Việt nghiêm túc đàm phán với Miền Nam, và nếu sau một thời gian đủ dài sau khi chúng tôi đã hoàn toàn không còn dính líu gì (với Miền Nam) nữa, theo suy đoán riêng, tôi tin rằng khó có thể chúng tôi quay trở lại và khó có khả năng việc ấy sẽ xẩy ra”. Kissinger nói rõ hơn: “Nếu chúng tôi có thể chung sống với Chính Phủ Cộng Sản tại Trung Quốc, thì chúng tôi cũng có khả năng chấp nhận một chính quyền Cộng Sản ở Đông Dương”. Kissinger trắng trợn nói thẳng: “Hà Nội đã làm gì đến nỗi chúng tôi không thể, trong vòng 10 năm, thiết lập bang giao mới” (The White House, Memorandum of Conversation- Top secret / sensitive-Exclusive eyes only, p.p. 27-29: Cao Thế Dung: Đảng Cộng Sản Việt Nam 2007).
7 tháng trước, trong hai ngày 9 và 10 tháng 7-1971, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai, Kissinger tiết lộ:
“Hoa Kỳ sẽ triệt thoái toàn thể quân lực ra khỏi Việt Nam và sẽ không bao giờ trở lại nếu có những điều khoản về ngừng bắn và trao trả tù binh trong Hiệp Định Paris. Lập trường của Hoa Kỳ là không nhất thiết duy trì một chính phủ đặc biệt nào (như Việt Nam Cộng Hòa) tại Miền Nam Việt Nam. Nếu có một giải pháp chính trị hợp lý phản ánh những tương quan lực lượng chính trị tại Miền Nam thì chúng tôi sẽ tôn trọng giải pháp đó. Nhưng chúng tôi cũng cần có một thời gian hợp lý cho giải pháp này (decent interval solution). Hôm qua Thủ Tướng có đề cập đến việc Bắc Việt sẵn sàng hy sinh hàng triệu người cho công cuộc này. Tôi xin thưa với Thủ Tướng rằng Bắc Việt không cần phải hy sinh thêm 1 triệu người nữa đâu...” (Jeffrey Kimball: The Vietnam War Files, 2004).
MẬT ĐÀM VÀ MẬT ƯỚC
Để chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại Việt Nam, ngày 27-1-1973, các bên tham gia Hội Nghị Paris đã ký một thỏa ước mệnh danh là “Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam”. Để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định này, ngoài 4 bên kết ước là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, còn có sự tham dự và bảo lãnh của tứ cường Anh, Nga, Pháp, Hoa và của 4 nước trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát là Ba Lan, Canada, Hung-Gia-Lợi và Nam Dương. Trong bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam ngày 2-3-1973, ngoài các đại diện của 12 “nước” nói trên, còn có sự hiện diện và chứng minh của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.
Đọc kỹ Hiệp Định Paris 1973, chúng ta sẽ tìm thấy những nguyên nhân sâu xa và tiềm ẩn đưa tới việc Bắc Việt thôn tính Miền Nam 2 năm sau khi Hiệp Định Paris vừa ráo mực. Đây hiển nhiên là một vi phạm cực kỳ thô bạo. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bằng luật rừng xanh.
Nghịch lý cơ sở thứ nhất là việc Hoa Kỳ chấp nhận cho phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tham dự hội nghị và ký tên trong Hiệp Định bằng vai phải vế với Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ, dưới danh nghĩa đại diện “Chính Phủ” Cách Mạng Lâm Thời của “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, cũng như các Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng Dân Chủ, Đảng Xã Hội v...v... đã được Đảng Cộng Sản Đông Dương khai sanh vì lý do thời cuộc từ thập niên 1940.
Từ sau 1975, khi Đảng Cộng Sản công khai xuất hiện để lãnh đạo Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các tổ chức ngoại vi nói trên như Đảng Dân Chủ của Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Hoàng Minh Giám, Nghiêm Xuân Yêm, và Đảng Xã Hội của Nguyễn Xiển đã bị giải thể sau khi hoàn thành sứ mạng bày cảnh đa đảng cho Bắc Việt. Trước đó cùng chung số phận, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ và Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ của Trịnh Đình Thảo cũng đã bị giải thể từ tháng 11-1975 sau khi hoàn thành sứ mạng gây ảo tưởng Chiến Tranh Miền Nam là một cuộc nội chiến do chính người Miền Nam phát động, chứ không phải do Bắc Việt đẩy tới. Ngay cả quân lực Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng đã được sát nhập và “thống nhất” với quân lực Bắc Việt từ sau 30-4-1975.
Cho đến tháng 1-1973 khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội vẫn ngoan cố phủ nhận sự tham gia của các binh sĩ Bắc Việt tại chiến trường Miền Nam. Cho đây chỉ là cuộc nội chiến nên không có vấn đề quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam. (North Vietnam refused to withdraw their forces from South Vietnam. They asserted that the conflict was a civil war and refused to acknowledge explicitly that they had any troops in the South. Hanoi therefore rejected our repeated demands for their withdrawal on the grounds that they were not involved in the war: Richard Nixon, sách đã dẫn).
Ngày nay sự thật lịch sử đã chứng minh ngược lại. Từ sau 1975, cũng như các cây kiểng Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội tại Miền Bắc, hai cái bóng ma Mặt Trận Giải Phóng và Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ tại Miền Nam cũng đã bị khai tử và an táng trong Bãi Tha Ma của Lịch Sử với bao oan nghiệt gây ra do những kẻ rước voi về giầy mồ các bậc Tổ Phụ trong Nghĩa Trang Dân Tộc.
Trở lại Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai (1955-1975), tới tháng 12-1972, do cuộc Tập Kích Chiến Lược Mùa Giáng Sinh, Hoa Kỳ đã thắng trong chiến tranh. Nhưng, chỉ một tháng sau, từ tháng 1-1973 với Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ đã thua trong hòa bình. Do những điều kiện khắc nghiệt của tình thế, như áp lực của phe phản chiến, của dân chúng chán ghét chiến tranh, của các cơ quan truyền thông mị dân cố tình sao chép những điều dối trá, bóp méo sự thật do phe Quốc Tế Cộng Sản cung cấp, và của đảng đối lập đa số tại Quốc Hội Hoa Kỳ.
Theo sách lược cố hữu của Cộng Sản, ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước mà chỉ nhằm đạt được những mục tiêu chính trị giai đoạn.
Thủ thuật này đã được áp dụng hữu hiệu trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất (1946-1954) và Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai (1955-1975):
1) Năm 1946, Cộng Sản ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny, nhờ Pháp tống xuất quân đội Trung Hoa để thừa cơ thanh toán các đảng phái quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc như Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v.... Sau đó lại phát động Chiến Tranh Chống Pháp tháng 12 năm đó.
2) Năm 1954, Cộng Sản ký Hiệp Định Đình Chiến Geneva để tống xuất quân đội Pháp và nắm chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động Chiến Tranh Thôn Tính Miền Nam.
3) Năm 1973, Cộng Sản ký Hiệp Định Hòa Bình Paris để tống xuất quân đội Hoa Kỳ. Để sau một khoảng “thời gian hợp lý”, lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam, bất chấp lời cam kết chỉ “thực hiện thống nhất Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận, không cưỡng ép, không thôn tính, thời gian thống nhất sẽ do hai Miền đồng thỏa thuận”.
Khi xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, Cộng Sản đã hạ nhục hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa và 8 quốc gia khác đã cùng ký Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam ngày 2-3-1973 để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định. Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc hiện diện và chứng minh bản Định Ước cũng mất mặt. Vì Liên Hiệp Quốc đã bị Cộng Sản dùng làm bung sung trong sách lược ru ngủ dư luận quốc tế để tạo thời cơ xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bằng võ lực. Nếu Hoa Kỳ có trách nhiệm pháp lý và đạo lý thì Liên Hiệp Quốc cũng có trách nhiệm tinh thần, vì đã không góp phần vào việc duy trì hòa bình tại Việt Nam và Đông Nam Á.
Và bẽ bàng hơn cả là Ban Tổ Chức Giải Hòa Bình Nobel đã trao giải này cho Lê Đức Thọ là kẻ lưu manh phát động chiến tranh xâm lược và Kissinger là kẻ trí trá đem lại hòa bình của những nấm mồ. Hơn 3 triệu người đã bị sát hại sau 1975 tại Việt Nam và Cam Bốt, và hàng chục triệu người khác đã bị kìm kẹp trong guồng máy độc tài phi nhân, trái với quyền dân tộc tự quyết được quy định trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành.
ĐỀ NGHỊ 10 ĐIỂM CỦA BẮC VIỆT
Ngày 8-5-1969 Tổng Thống Nixon đưa ra Bản Đề Nghị 8 Điểm của Hoa Kỳ nhằm giải quyết Chiến Tranh Việt Nam bằng thương nghị. Ngày hôm sau, 9-5-1969, để giành chính nghĩa, Bắc Việt cũng đưa ra bản đề nghị trong cái gọi là “Kế Hoạch Hòa Bình 10 Điểm”. 4 năm sau, ngày 27- 1-1973 khi Hội Nghị Paris kết thúc, toàn bộ kế hoạch của Bắc Việt đã được Hoa Kỳ chấp nhận.
- Điểm 1: Tôn trọng những quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, như độc lập, thống nhất, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, như Hiệp Định Geneva năm 1954 đã công nhận.
-Điểm 2: Hoa Kỳ phải [đơn phương] rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam tất cả quân đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh mà không đòi điều kiện nào; Hoa Kỳ phải hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự ở Miền Nam Việt Nam.
- Điểm 3: Quyền chiến đấu để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ thiêng liêng và bất khả chuyển nhượng của mọi dân tộc.
- Điểm 4: Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự giải quyết lấy những vấn đề nội bộ của họ, không có sự can thiệp của ngoại bang. Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự lựa chọn chế độ chính trị cho Miền Nam Việt Nam qua những cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ; Quốc Hội Lập Hiến sẽ được thành lập để soạn thảo Hiến Pháp, Chính Phủ Liên Hiệp Miền Nam Việt Nam sẽ được thành lập trong tinh thần hòa giải hòa hợp và đại đoàn kết quốc gia.
- Điểm 5: Trong thời gian chuyển tiếp, từ khi tái lập hòa bình đến khi tổ chức tổng tuyển cử, các bên ở Miền Nam không được áp đặt chế độ chính trị của mình cho nhân dân Miền Nam.
Các lực lượng chính trị đại diện các tầng lớp xã hội và các khuynh hướng chính trị ở Miền Nam Việt Nam chủ trương hòa bình, độc lập và trung lập, kể cả những người đang sống ở ngoại quốc vì lý do chính trị, cũng được quyền tham dự vào việc thương nghị để thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời. Chính phủ này phải được đặt trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và tương kính , nhằm xây dựng một Miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và trung lập. Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời có những trách nhiệm sau đây:
- Thi hành những điều khoản đã được thỏa thuận về việc rút quân của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam.
- Thực hiện hòa giải hòa hợp dân tộc và đại đoàn kết quốc gia giữa các tầng lớp xã hội, các lực lượng chính trị và các sắc tộc.
- Tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ trong toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam để thực thi quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam chiếu theo điểm 4 nói trên.
- Thực thi những quyền tự do dân chủ thiết yếu như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội và lập đảng chính trị, tự do biểu tình v...v....
- Phóng thích tất cả những người đang bị giam cầm vì lý do chính trị, cấm mọi hành động khủng bố, trả thù và kỳ thị đối với những người đã cộng tác với các bên, hiện sống ở trong nước hay ở ngoài nước chiếu theo Hiệp Định Geneva 1954.
- Hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi và phát triển kinh tế, bình thường hóa đời sống của nhân dân và cải thiện đời sống của giới lao động.
- Điểm 6 : Miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và trung lập (miền Bắc không bị ràng buộc bởi điều kiện này):
- Giao hảo với Vương Quốc Cam Bốt trên căn bản tôn trọng độc lập, chủ quyền, trung lập và sự toàn vẹn lãnh thổ và biên giới của quốc gia này; giao hảo với Vương Quốc Lào trên căn bản tôn trọng Nghị Định Thư năm 1962 [bảo đảm nền trung lập của Ai Lao].
- Thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế và văn hóa với tất cả các quốc gia trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, không phân biệt về chính trị và xã hội, theo 5 Nguyên Tắc Sống Chung Hòa Bình [của phe Phi Liên Kết Á Phi từ Hội Nghị Bandung 1955]; cùng tôn trọng nền độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, không gây hấn, không can thiệp vào việc nội bộ, bình đẳng và lưỡng lợi, sống chung hòa bình, nhận viện trợ kinh tế và kỹ thuật của các quốc gia mà không lệ thuộc vào bất cứ điều kiện chính trị nào.
- Điểm 7: Nền thống nhất của Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương thảo và thỏa hiệp giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam không có sự can thiệp của nước ngoài.
Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam trong hòa bình:
- Hai miền sẽ tái lập quan hệ ngoại giao trong mọi lãnh vực trên căn bản tương kính.
- Giới Tuyến Quân Sự Tạm Thời giữa hai miền tại Vĩ Tuyến 17 quy định trong Hiệp Định Geneva 1954, chỉ là tạm thời, và không phải là một ranh giới về chính trị hay lãnh thổ.
- Hai miền sẽ ký thỏa ước về quy chế Vùng Phi Quân Sự, và cách thức di chuyển qua Giới Tuyến Quân Sự Tạm Thời.
- Điểm 8: Trong khi chờ đợi sự thống nhất Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, theo quy định của Hiệp Định Geneva 1954, hai Miền Nam Bắc không tham gia bất cứ liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào, không cho phép nước ngoài duy trì căn cứ quân sư, hay trú đóng quân đội và nhân viên quân sự trên đất mình.
- Điểm 9: Để giải quyết vấn đề hậu chiến:
- Các bên sẽ thương thuyết về việc trao trả tù binh của các bên bị bắt giữ trong thời chiến.
- Chính Phủ Hoa Kỳ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tổn thất và tàn phá gây ra cho nhân dân Việt Nam ở cả hai miền.
- Điểm 10: Các bên sẽ đi đến thỏa ước về việc giám sát quốc tế trong việc triệt thoái quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí và vật dụng chiến tranh của Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam (không nói gì đến Bắc Việt).
Đề Nghị 10 Điểm của Bắc Việt hồi tháng 5-1969 tập trung vào 4 chủ đề:
- Chủ Đề I: Các Điểm 1, 3 và 7 coi Việt Nam vẫn là một nước duy nhất và thống nhất với lãnh thổ toàn vẹn. Chủ đề này nhằm xé bỏ Hiệp Định Geneva tháng 7-1954 đã phân chia Việt Nam thành hai quốc gia, Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. (Cũng như hai nước Nam Hàn và Bắc Hàn đã được thành lập do Hiệp Định Bàn Môn Điếm tháng 7-1953 tại Triều Tiên).
- Chủ Đề II: Các Điểm 2, 8 và 10 nói về sự ngừng bắn tại chỗ và sự triệt thoái [đơn phương] của quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh như Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đại Hàn.
- Chủ Đề III: Điểm 9 nói về sự trao trả tù binh dẫn đến việc Hoa Kỳ là kẻ gây chiến phải chịu trách nhiệm bồi thường chiến tranh và tái thiết hai miền Việt Nam.
- Chủ Đề IV: Các Điểm 4, 5 và 6 nói về những vấn đề và giải pháp chính trị tại Miền Nam như tổ chức Tổng Tuyển Cử, soạn thảo Hiến Pháp mới và thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần theo chính sách trung lập như Cao Miên và Ai Lao trong Khối Phi Liên Kết Á-Phi. Chủ đề này nhằm xóa bỏ Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967, giải tán Chính Phủ và giải thể chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
4 Chủ Đề nói trên do Bắc Việt đưa ra từ tháng 5-1969 đã được chấp nhận toàn bộ trong 8 Chương của Hiệp Định Paris tháng 1-1973.
- Chủ Đề I: Về Tâm Lý Chiến: Lãnh thổ Việt Nam Thống Nhất
(Các Điểm 1, 3 và 7)
Chủ đề này đòi xác nhận Việt Nam là một quốc gia thống nhất, lãnh thổ toàn vẹn bất khả phân (Điểm 1)
Giới Tuyến Quân Sự tại Vĩ Tuyến 17 quy định trong Hiệp Định Geneva 1954 không có giá trị là một ranh giới chính trị hay biên thùy lãnh thổ (Điểm 7)
Như vậy bất cứ người dân Việt Nam nào cũng có quyền đi lại trong lãnh thổ thống nhất của Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau) để chiến đấu bảo vệ tổ quốc chống ngoại xâm dưới bất cứ hình thức nào (Điểm 3)
Đây thực ra chỉ là một sách lược của Bắc Việt nhằm xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954. Vì, như đã trình bày:
“Giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam Bắc kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Lực lượng Liên Hiệp Pháp phải rút khỏi tất cả các hải đảo ven bờ biển thuộc phía Bắc giới tuyến (Vỹ Tuyến 17). Và quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam”. (Điều 4 Hiệp Định Geneva 1954).
Lẽ tất nhiên, nếu có giới tuyến cho miền lãnh hải thì cũng phải có giới tuyến cho vùng lãnh thổ (Vỹ Tuyền 17). Giới tuyến này có hiệu lực trong 21 năm tại Việt Nam (1954-1975). Nó vẫn còn có hiệu lực trên 57 năm tại Triều Tiên (từ 1953 cho đến nay).
Về mặt tâm lý chiến, Hồ Chí Minh hằng tuyên bố: “Quyền chiến đấu để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng”. Vì vậy Bắc Việt không bao giờ chấp nhận rút quân khỏi Miền Nam và đã kết án Hoa Kỳ là kẻ gây chiến phải chịu trách nhiệm bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến. Điều này đã được mặc nhiên chấp thuận trong Chương VIII Hiệp Định Paris theo đó “Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết Bắc Việt và Đông Dương sau chiến tranh” (Điều 21)
Chủ Đề I đã được Hiệp Định Paris chấp nhận trong Điều 1 Chương I và Điều 15 Chương V (mỗi chương chỉ có một điều).
Điều 1: “Hoa Kỳ và các nước khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền,sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp Định Geneva 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Điều 15: (a)“Trong khi chờ đợi thống nhất: Giới Tuyến Quân Sự giữa hai miền tại Vĩ Tuyến 17 không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ như quy định trong đoạn 6 của Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva năm 1954”.
Chủ Đề I của Đề Nghị Bắc Việt nhằm xóa bỏ tư cách pháp nhân của Việt Nam Cộng Hòa, xóa bỏ Hiệp Định Geneva, xóa bỏ Giới Tuyến Quân Sự là Vỹ Tuyến 17 cũng như vùng Phi Quân Sự 10 cây số. Đó là nghịch lý cơ sở thứ hai.
Đề nghị này có tác dụng không ngăn cản những cuộc di chuyển của các cán binh Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, nói là để chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chống Hoa Kỳ là kẻ xâm lược hay kẻ can thiệp.
Về mặt pháp lý, sau khi Hiệp Định Geneva được ký ngày 20-7-1954, qua hôm sau, 21-7-1954, Hội Nghị công bố bản Tuyên Ngôn Sau Cùng, khuyến cáo hai bên tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam vào tháng 7-1956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước nên không có giá trị pháp lý. Hơn nữa Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954 không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, kể cả Bắc Việt và Quốc Gia Việt Nam, nên không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực ràng buộc Việt Nam Cộng Hòa.
Theo Công Pháp Quốc Tế, từ 1954 Việt Nam không còn là một quốc gia thống nhất vì lãnh thổ đã bị qua phân tại Vĩ Tuyến 17. Từ đó tại Việt Nam có hai quốc gia, hai chính phủ, hai quân đội và hai miền lãnh thổ. Cũng như tại Triều Tiên sau Hiệp Định Bàn Môn Điếm từ 57 năm nay. Như vậy, năm 1973 nói đến một nước Việt Nam thống nhất chỉ là tuyên truyền vọng tưởng chứ không phải là hiện thực.
Chính Hiệp Định Geneva 1954 cũng xác nhận điều đó:
1) Điều 14 đề cập đến giải pháp chính trị cho Việt Nam có ghi: “Trong khi chờ đợi Tổng Tuyển Cử để thống nhất nước Việt Nam, bên nào có quân đội tập hợp ở vùng nào thì sẽ phụ trách quản trị hành chánh ở vùng đó”. Vì chưa có tổng tuyển cử nên chưa có thống nhất.
2) Điều 24: “Các lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng vùng phi quân sự và lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát của bên kia”. Vì có hai quốc gia nên có hai lãnh thổ. Và giới tuyến quân sự (Vỹ Tuyến 17) là biên giới của hai nước Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếu Hiệp Định Geneva 1954.
3) Điều 6: “Bất cứ người nào, quân nhân hay thường dân, đều không được vượt qua giới tuyến quân sự tạm thời nếu không có giấy phép của Ban Liên Hợp”.
4) Điều 7: “Bất cứ người nào, quân nhân hay thường dân, đều không được vào khu phi quân sự nếu không có giấy phép của Ban Liên Hợp.”
Như vậy ngày nào Hiệp Định Geneva còn có hiệu lực thì Việt Nam không phải là một quốc gia thống nhất như bản Đề Nghị của Bắc Việt đã khẳng định trong Chủ Đề I.
Mặc dầu vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tuyên bố rằng quyền chiến đấu chống xâm lăng để bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam là quyền tự vệ thiêng liêng. Đó chỉ là một quan điểm chủ quan. Vả lại sự thật lịch sử cho biết, tại Miền Nam Việt Nam, không phải Hoa Kỳ, Bắc Việt mới chính là kẻ xâm lăng.
Do chính sách giảo hoạt của người Cộng Sản và sự ngây thơ của chính giới Hoa Kỳ và dã tâm của Kissinger muốn bỏ rơi Việt Nam, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Hiệp Định Paris 1973 đã chấp nhận Chủ Đề I của Bắc Việt và chấp nhận quan điểm của Bắc Việt theo đó Việt Nam là một quốc gia đã thống nhất. Trên mặt trận tâm lý, Hoa Kỳ đã thua Bắc Việt. Tâm lý ảnh hưởng đến pháp lý và thực tế.
- Chủ Đề II: Về mặt Quân Sự: Ngừng Bắn, Rút Quân, Căn Cứ Quân Sự, Liên Minh Quân Sự .
(Các Điểm 2, 8 và 10 của Đề Nghị Bắc Việt)
Các Điểm 2 và 8 trong Đề Nghị Bắc Việt đòi Hoa Kỳ phải [đơn phương] rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam kể cả các quân đội của các quốc gia đồng minh như Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đại Hàn.
Đồng thời, hai Miền Nam Bắc phải hủy bỏ các căn cứ quân sự và không tham gia vào các liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào.
Điểm 10 nói về việc thành lập cơ quan kiểm soát quốc tế để giám sát sự triệt thoái của các quân lực Hoa Kỳ và đồng minh ra khỏi Miền Nam Việt Nam.
Những Đề Nghị này đã được chấp thuận trong Hiệp Định Paris 1973 nơi Chương II nói về sự ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo 24 giờ sau ngày ký Hiệp Định.
Điều 2: “Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp Miền Nam Việt Nam kể từ 24 giờ ngày 27-1-1973”.
Điều 3 nói về nguyên tắc Ngừng Bắn Tại Chỗ hay Ngừng Bắn Da Beo: “Bắt đầu từ khi ngừng bắn:
a. Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân.
b. Các lực lượng vũ trang của hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình.” (không phải rút quân).
Điều 5: “Sự rút quân của Hoa Kỳ và của các quốc gia đồng minh phải được hoàn thành trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp Định”.
Điều 6 nói về sự hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam.
Và Chương VI Hiệp Định Paris quy định việc thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự (Điều 16), Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (Điều 18), đặc biệt là Hội Nghị Quốc Tế (của 12 nước) về Việt Nam: gồm có bốn bên kết ước, tứ cường Anh, Pháp, Nga, Hoa và bốn quốc gia giám sát là Ba Lan, Canada, Hung Gia Lợi và Nam Dương. Ngoài ra còn có sự hiện diện và chứng minh của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. (Điều 19). Ngày 2-3-1973, 12 “nước” đã ký bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973.
Khách quan mà xét đây chỉ là những tổ chức hay cơ quan kiểm soát và giám sát trang trí, hữu danh vô thực. Đó là liều thuốc an thần trấn an dư luận cho Hoa Kỳ triệt thoái quân đội khỏi Miền Nam. Lý do dễ hiểu là các cơ quan kiểm soát này chỉ có thể lập phúc trình và quyết định theo nguyên tắc nhất trí. Vì cần có nhất trí nên thành bất động. Trong các Ban Liên Hợp Quân Sự cũng như trong Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát không bao giờ đạt được nhất trí. Vì có hai thành phần thường xuyên đối kháng nhau.
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát gồm đại diện hai nước Cộng Sản Ba Lan và Hung Gia Lợi, một nước trung lập (Nam Dương) và một nước thuộc phe dân chủ (Canada). Không bao giờ Ủy Ban có sự nhất trí, ngoại trừ bản phúc trình duy nhất mang bốn chữ ký xác nhận Sa Huỳnh thuộc vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng 1-1973. Sau vụ này đại diện Ba Lan bị cách chức. Hơn nữa ngày 7-4-1973 quân đội Bắc Việt đã bắn hạ hai trực thăng của Ủy Ban tại Ban Mê Thuột đưa đến sự từ chức của phái bộ Canada. Từ đó Bắc Việt được tự do hoành hành. Họ đã vi phạm Hiệp Định Paris hơn 2 ngàn lần năm 1973 so với khoảng 1 ngàn vụ vi phạm năm 1972. Đó là sách lược Vừa Đánh Vừa Đàm áp dụng từ Chiến Tranh Triều Tiên đầu thập niên 1950. Tại Việt Nam chính sách này được mệnh danh là “Giành Dân Lấn Đất”. Ngay cả những vụ vi phạm thô bạo nhất của Bắc Việt như những vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Ban Mê Thuột tháng 3-1975 và Đà Nẵng tháng 4-1975 cũng không thấy Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát lập phúc trình!
Đặc biệt là theo Đề Nghị Bắc Việt và Điều 3 Hiệp Định Paris, sự ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo cho phép các lực lượng đối nghịch (kể cả Bắc Việt) được giữ nguyên vị trí của mình. Và như vậy đã mặc nhiên cho phép quân Bắc Việt được tiếp tục đồn trú trên lãnh thổ Miền Nam. Đó là nghịch lý cơ sở thứ ba.
Về khoản rút quân, Hiệp Định Paris chỉ nói về sự triệt thoái đơn phương của các quân lực Hoa Kỳ và đồng minh. Trong khi đó không có điều khoản nào buộc quân đội và cán bộ Bắc Việt xâm nhập Miền Nam phải triệt thoái ra khỏi Vỹ Tuyến 17 như Hiệp Định Geneva 1954 đã quy định. (Trong thời gian hòa đàm 1954, Bắc Việt đã bác bỏ đề nghị ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo tại hai miền Nam Bắc).
Theo Hiệp Định Geneva 1954, hai bên phải tập kết và rút quân ra khỏi giới tuyến quân sự tạm thời (Vỹ Tuyến 17). Quân đội Bắc Việt phải rút về phía Bắc giới tuyến, và quân đội Quốc Gia Việt Nam và quân đội Liên Hiệp Pháp phải rút về phía Nam giới tuyến. Sự rút quân song phương đã được tiến hành theo trình tự như sau:
1. Về phía Bắc Việt: Khu Đồng Tháp Mười trong thời hạn 100 ngày, khu Mũi Cà Mâu 200 ngày và đợt chót ở Trung Phần 300 ngày.
2. Về phía Quốc Gia Việt Nam và Liên Hiệp Pháp: 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày tại Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng.
Trong thời gian tập kết 300 ngày, gần 1 triệu đồng bào Miền Bắc đã bỏ phiếu bằng chân khi rời bỏ Miền Bắc vào Nam tìm Tự Do.
Chủ Đề III: Về Mặt Nhân Đạo và Tái Thiết: Phóng Thích Tù Binh Và Bồi Thường Chiến Tranh
(Điểm 9 Đề Nghị Bắc Việt)
Chương III (Điều 8) và Chương VIII (Điều 21) Hiệp Định Paris đề cập đến việc trao trả tù binh, bồi thường chiến tranh và tái thiết Đông Dương. Đây chỉ là sự sao chép đề nghị và quan điểm của Bắc Việt theo đó Hoa Kỳ là kẻ gây chiến nên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tổn thất và tàn phá gây ra cho nhân dân Việt Nam.
Và Điểm 9 Đề Nghị Bắc Việt ngụ ý nói, nếu muốn đòi thả tù binh, phải bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến. Hoa Kỳ đã ưng chịu tuân hành khi ký Hiệp Định.
Chủ Đề IV: Về mặt Chính Trị: Những Vấn Đề và Giải Pháp
(Các Điểm 4, 5, 6 của Đề Nghị Bắc Việt)
Chủ Đề này đề cập đến những giải pháp chính trị sẽ được áp dụng tại Miền Nam Việt Nam khi Hiệp Định Paris được ký kết và thi hành.
Điểm 4 Bản Đề Nghị Bắc Việt đòi quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Miền Nam (nhân dân Miền Bắc không được hưởng quyền này), được lựa chọn chế độ chính trị thông qua Tổng Tuyển Cử để soạn thảo Hiến Pháp Mới, tiến tới việc thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp theo Chế Độ Trung Lập chiếu 5 Nguyên Tắc Sống Chung Hòa Bình của Hội Nghị Bandung 1955 và của phe Phi Liên Kết Á Phi.
Như vậy Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị giải thể, Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị hủy bỏ để thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 thành phần ngang nhau: Cộng Sản, Trung Lập thiên cộng và Cộng Hòa. Từ nay trong tương quan lực lượng, phe Cộng Hòa chỉ còn 1/3 tại Miền Nam và 1/6 tại Việt Nam. Vả lại sự phân quyền này không căn cứ vào những tương quan chính trị và xã hội. Trên thực tế Cộng Sản chỉ kiểm soát được chừng 10% dân chúng. Phe trung lập thiên cộng chỉ là “mấy anh phiêu lưu chính trị và tập sự chính trị vô tích sự hay phê bình vung vít” (Đại Sứ Jean Marie Merillon). Đến đầu năm 1975 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn kiểm soát trên 85% dân chúng Miền Nam Việt Nam.
Do đó sự thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 thành phần ngang nhau là bất công. Đây chỉ là một kế hoạch thôn tính Miền Nam bằng đường lối hòa bình.
Dầu sao, đối với Bắc Việt, đó vẫn là hạ sách.
Mục tiêu chủ yếu của họ là, với hơn 100 ngàn quân đồn trú sẵn tại Miền Nam cộng với số quân xâm nhập năm 1975 chừng 250 ngàn, khi điều kiện cho phép, họ sẽ xâm chiếm Miền Nam bằng võ lực. Cơ hội ngàn năm một thuở của Bắc Việt là sự vướng mắc của Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate (từ tháng 4-1973 đến tháng 8-1974). Thêm vào đó là chủ trương của Hoa Kỳ muốn triệt thoái toàn bộ quân lực ra khỏi Việt Nam để đòi phóng thích tù binh sau khi ngừng bắn. Kể từ tháng 6-1973 Quốc Hội không còn cấp ngân khoản cho quân lực Hoa Kỳ chiến đấu tại Đông Dương. Và Luật về Quyền Lực Chiến Tranh tháng 10-1973 đã trói tay hành động của Hành Pháp vốn là cơ quan hành động.
Vì không còn lo sợ bị oanh tạc, hàng chục sư đoàn chính quy Bắc Việt, với sự yểm trợ tối đa của Liên Xô và Trung Quốc, đã công khai di chuyển từ các căn cứ tại Ai Lao, Cao Miên và Bắc Việt vào chiến trường Miền Nam từ tháng 11-1973, nhất là từ tháng 8-1974 khi Nixon từ chức.
Như đã trình bày, 3 nghịch lý cơ sở là:
1) Theo Hiệp Định Geneva 1954, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có hai quốc gia là Việt Nam Cộng Hòa tại Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Miền Bắc. Vì lãnh thổ quốc gia đã bị chia cắt nên không còn thống nhất (Quốc Gia Việt Nam không ký Hiệp Định Geneva 1954 nên không chịu trách nhiệm về sự qua phân lãnh thổ).
2) Về mặt quân sự chỉ thấy ghi sự triệt thoái đơn phương của Hoa Kỳ và Đồng Minh và không lý vấn gì đến sự hiện diện của hàng trăm ngàn binh sĩ Bắc Việt xâm nhập Miền Nam từ 1972.
3) Hơn nữa, về mặt chính trị và pháp lý, trong lãnh thổ Việt Nam chỉ có hai nước và không thể có một nước thứ ba mệnh danh là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN).
Kế hoạch “3 Nước Việt” đã được Trung Quốc và Bắc Việt đề ra để giăng bẫy Hoa Kỳ. Chu Ân Lai đã du mị Kissinger bằng cách hứa hẹn dùng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam làm quốc gia trung lập trái độn giữa Bắc và Nam Việt. Bắc Kinh còn tiết lộ họ đã ký với Giải Phóng Miền Nam một Hiệp Ước An Ninh Hỗ Tương theo đó “mọi vi phạm chủ quyền của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sẽ được coi như vi phạm chủ quyền của Trung Quốc”.
Và sau vụ thành lập “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời” (CPCMLT) còn có vụ đổi tên từ Xa Lộ Đông Trường Sơn (hay Đường Mòn Hồ Chí Minh) thành Quốc Lộ 1 Kép; Quốc Lộ 19 Pleiku-Qui Nhơn thành Quốc Lộ 2; và Quốc Lộ 21 Ban Mê Thuột-Nha Trang thành Quốc Lộ 3 trong một quốc gia mới được Trung Quốc khai sinh và nuôi dưỡng. CHMNVN sẽ đặt thủ đô tại Tây Nguyên. Và đến ngày trình diện, các phái đoàn của 80 nước, dẫn đầu là Trung Quốc, sẽ đổ bộ từ Đông Hà xuống Tây Nguyên bằng Xa Lộ Đông Trường Sơn hay Quốc Lộ 1 Kép để thừa nhận CPCMLT.
Về mặt quốc tế công pháp, trong một quốc gia không thể có hai nước. Điều này đi trái với Hiệp Định Geneva 1954 quy định thành lập hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) (cũng như hai quốc gia Nam Hàn và Bắc Hàn theo Hiệp Định Bàn Môn Điếm 1953).
Do đó ngày nào Hiệp Định Geneva còn có hiệu lực (như Hiệp Định Bàn Môn Điếm) thì không thể có hai nước Việt tại Miền Nam, với hai chính phủ, hai quân đội, hai vùng lãnh thổ, hai loại cư dân, kể cả hai loại công an cảnh sát (như Điều 6 Nghị Định Thư Về Ngừng Bắn trong Hiệp Định Paris 1973 đã ám chỉ).
Từ 1969, do áp lực của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa đã phải nhìn nhận “thực thể Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” như kẻ đối thoại chính thức. Dầu rằng trước đó, cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968 đã hoàn toàn thất bại về chính trị cũng như về quân sự.
Cộng Sản dối gạt các cán binh rằng vào Nam chỉ để tiếp thu và sẽ có tổng khởi nghĩa của nhân dân Miền Nam. Thật ra cuộc đồng khởi chính trị không được ai hưởng ứng. Theo báo cáo của thủ trưởng Tỉnh Định Tường (một thanh niên chưa tới 20 tuổi) thì ngày Tổng Khởi Nghĩa sẽ có 50 tổ đồng khởi. Vậy mà tới ngày đó, chỉ có một tổ của thủ trưởng mà thôi, “không thấy 49 tổ kia đâu hết!”.
Nhận định về sai biệt này, về mặt chính trị Hồ Chí Minh đúc kết: “Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại vì báo cáo chủ quan”. (Tỷ lệ phóng đại là 98%).
Về mặt quân sự, cũng theo Hồ Chí Minh: “Cuộc Tổng Công Kích thất bại vì hạ tầng cơ sở du kích tan rã” do Chiến Dịch Lùng và Diệt Địch phát động từ 1965. Nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đã bị tiêu diệt, có những đơn vị đi 2000 người mà sau một đêm chỉ còn có 30. (Tỷ lệ tổn thất cũng là 98%):
Mậu Thân, hai ngàn người xuống đồng bằng,
Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi.
(Chế Lan Viên)
Như vậy khi Hội Nghị Paris khởi diễn tháng 5-1968, theo cán cân chính trị và quân sự, đáng lý Việt Nam Cộng Hòa phải ngồi vào ghế thượng phong ngang hàng với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chứ không thể chấp nhận cho cái bóng ma Mặt Trận Giải Phóng được sắm vai “nước thứ tư” tại Hội Nghị. Do những nhượng bộ quá đáng của Hoa Kỳ, trên thực tế Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đại diện cho 1/3 nhân dân Việt Nam, trong thế giả tạo chia 3 Nước Việt do Trung Quốc đề ra để du mị Hoa Kỳ. Thời gian này báo chí Hoa Kỳ phản chiến cố tình phân biệt giả tạo giữa Việt Cộng (Miền Nam) với Cộng Sản Bắc Việt.
Từ 1949 khi Quốc Gia Việt Nam được thành lập do Hiệp Định Elysée, chỉ có một chính phủ hợp pháp do Quốc Trưởng Bảo Đại ủy nhiệm. Và từ 1956 dưới chính thể Cộng Hòa, Miền Nam Việt Nam vẫn chỉ có một chính phủ dân cử được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao.
Cuối tháng 12-1960, để giàn dựng cuộc “nội chiến”, Đảng Cộng Sản đã thành lập một tổ chức ngoại vi mệnh danh là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Và tới tháng 6-1969, tại Hội Nghị Paris, họ còn khai sanh cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Nước Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Như vậy, về pháp lý và chính trị, Việt Nam Cộng Hòa bị thu hẹp còn 1/4 lực lượng tại Việt Nam, ngang với CHMNVN.
Trở lại cuộc hòa đàm, Chủ Đề IV của Bắc Việt về những vấn đề chính trị tại Miền Nam đã được chấp nhận toàn bộ bởi Điều 9, Điều 12 và Điều 11 Hiệp Định Paris 1973:
- Điều 9: “Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định về tương lai chính trị cho Miền Nam thông qua tổng tuyển cử tự do dưới sự giám sát của các cơ quan quốc tế”.
- Điều 12: “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc 3 thành phần ngang nhau. Trong vòng 3 tháng hai bên sẽ ký một hiệp định về các vấn đề nội bộ của Miền Nam Việt Nam. Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do có giám sát quốc tế”.
- Điều 11: “Ngay sau khi ngừng chiến, hai bên Miền Nam sẽ đảm bảo những quyền tự do dân chủ của nhân dân, như tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hoạt động chính trị [lập đảng], tự do tín ngưỡng, tự do di chuyển, tự do cư ngụ, tôn trọng quyền tư hữu, và quyền tự do kinh doanh”. Và như vậy Đảng Cộng Sản sẽ được công khai hoạt động trái với Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Với sự xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954, sự thừa nhận nhà nước và chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, với điều khoản mặc nhiên cho phép quân Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam, với sự rút quân đơn phương của Hoa Kỳ và đồng minh, với sự cắt viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa sau Hiệp Định Paris, đặc biệt là với việc Hoa Kỳ bội ước không tôn trọng lời cam kết của Tổng Thống Nixon trong 30 văn thư gửi Tổng Thống Thiệu hứa sẽ trả đũa quyết liệt bằng những võ khí mạnh nhất (như không đoàn B52) trong trường hợp Bắc Việt tấn công võ trang quy mô vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, Nixon thú nhận rằng: “Hoa Kỳ đã phản bội Đồng Minh và đã thất bại trong việc thực thi những điều cam kết bảo vệ Độc Lập và Tự Do của Việt Nam Cộng Hòa. Đây là sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong lịch sử Hoa Kỳ”. (An unprecedented example of American betrayal and failure: Nixon, No More Vietnams).
Trong cuốn sách này, Nixon viết: “Mặc dầu chúng tôi không chấp nhận tính chính thống của quân đội Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam, nhưng cho đến tháng 10-1972, chúng tôi vẫn không thể làm lay chuyển lập trường bất di bất dịch của Bắc Việt. Họ nhất quyết không chịu rút quân khỏi Miền Nam và chủ trương rằng Chiến Tranh Việt Nam chỉ là một cuộc nội chiến của hai phe Miền Nam. Họ khẳng định không có cán binh Bắc Việt nào xâm nhập Miền Nam. Và nhất quyết bác bỏ yêu cầu của chúng tôi đòi Bắc Việt phải rút quân, lý sự rằng họ không tham gia vào cuộc nội chiến tại Miền Nam”.
Chúng ta chỉ hỏi ông Nixon: Nếu không tham chiến, sao phải nghị hòa?.
Với sự du mỵ bằng những “cam kết ngầm” của Bắc Việt, Kissinger đã thúc đẩy Hoa Kỳ nhắm mắt chấp nhận các điều kiện của Bắc Việt. Và cả Chương II Hiệp Định Paris đã không viết một câu nào về việc quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam như trong Hiệp Định Đình Chiến Geneva 1954. Sau khi Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 được công bố, một nhân viên phái đoàn Bắc Việt trắng trợn tuyên bố với báo chí: “Khác với thời Hiệp Định Đình Chiến Geneva 1954, lần này, theo Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, chúng tôi không phải rút quân khỏi Miền Nam”.
Mặt khác, trong Đề Nghị 8 Điểm của Nixon ngày 8-5-1969 (một ngày trước Kế Hoạch 10 Điểm của Bắc Việt), như đã được công bố trên các đài truyền hình quốc gia, lập trường không thay đổi của Hoa Kỳ là đòi có sự triệt thoái song phương của cả quân lực Hoa Kỳ và quân lực Bắc Việt (a mutual withdrawal of American and North Vietnamese forces). Sau đó, ngày 16-7-1969, Nixon còn nhờ Sainteny chuyển văn thư cho Hồ Chí Minh yêu cầu Bắc Việt chấp nhận giải pháp triệt thoái song phương để cuộc hòa đàm được tiếp diễn trở lại. Trong văn thư phúc đáp nhận được ngày 25-8-1969 (8 ngày trước khi từ giã cõi trần), họ Hồ lạnh lùng bác bỏ đề nghị của Nixon và nhắc lại điều kiện buộc Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân khỏi Miền Nam và lật đổ Chính Phủ Nguyễn Văn Thiệu.
Từ đó Bắc Việt không còn đếm xỉa đến Hiệp Định Geneva 1954, chủ trương rằng hai miền Nam, Bắc vẫn thuộc về một nước Việt Nam thống nhất. Và nghĩa vụ thiêng liêng của bất cứ con dân nào trên đất Việt là phải đấu tranh để đánh đuổi kẻ ngoại xâm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. (Chúng ta cần nhắc lại rằng: Tại Miền Nam, không phải Hoa Kỳ, Bắc Việt mới chính là kẻ xâm lăng).
Như đã trình bày, sau vụ Mậu Thân, từ tháng 5-1968, trong cuộc hòa đàm tay đôi tại Paris chỉ có hai đại diện Hoa Kỳ và Bắc Việt tham dự là Harriman và Xuân Thủy. Sự việc này cho phép Bắc Việt tuyên truyền rằng Việt Nam Cộng Hòa chỉ là chư hầu của Đế Quốc Mỹ.
Sự thật chiến trường đã chứng minh ngược lại. Kể từ tháng 4-1972, khi Bắc Việt huy động hơn 200 ngàn quân trong Chiến Dịch Tổng Tấn Công Xuân Hè hay Mùa Hè Đỏ Lửa (Easter Offensive), tới tháng 10-1972 khi Chiến Dịch tàn lụi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy lui 14 sư đoàn chính quy Bắc Việt, dầu rằng lúc này quân lực Hoa Kỳ không còn tham chiến trên bộ nữa. Và số thương vong của Bắc Việt đã vượt quá 100 ngàn. (In the Spring Offensive of 1972 South Vietnam’s army had held off the North Vietnamese onslaught without the assistance of any American ground combat troops: Nixon, sách đã dẫn). Từ tháng 2-1968 (Tết Mậu Thân) đến tháng 10-1972 (sau Mùa Hè Đỏ Lửa), “Bắc Việt đã thực sự thua trận, nhưng họ làm ra vẻ như thắng trận, trong khi Việt Nam Cộng Hòa đã thực sự thắng trận”. (North Vietnam, which had in effect lost the war, was acting as if had won, while South Vietnam had effectively won the war: Nixon, sách đã dẫn).
Đến Mùa Giáng Sinh 1972, sau cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm của Không Lực Hoa Kỳ tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận (từ 18-12 đến 30-12, trừ Ngày Giáng Sinh), Bắc Việt đã hoàn toàn kiệt quệ. Tại Hà Nội và các thị trấn phụ cận như Hải Phòng, tin trong nước cho biết, nhà nào cũng may cờ trắng đầu hàng để sẵn sàng nghênh đón các chiến sĩ Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc. Lúc này Lê Duẩn và Bộ Chính Trị Cộng Sản đã có kế hoạch rút ra khu. Theo các giới am hiểu, nếu Hoa Kỳ tiếp tục dội bom thêm một vài tuần nữa, thì Bắc Việt sẽ phải nhượng bộ. Trong điều kiện đó, Hiệp Định Hòa Bình chắc chắn sẽ ghi khoản quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam. (Cũng như quân Bắc Hàn phải rút về Miền Bắc sau Hiệp Định Bàn Môn Điếm tháng 7-1953). Thế nhưng trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai hồi tháng 2-1972, Kissinger bộc lộ rằng Hoa Kỳ không chủ trương đánh bại Bắc Việt. Chỉ muốn 3 điều là ngưng chiến, rút quân và trao đổi tù binh.
Vì vậy, mặc dầu Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh bại Bắc Việt từ tháng 4-1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa) đến mùa Giáng Sinh tháng 12-1972 (Tập Kích Chiến Lược), chỉ 4 tuần sau, đang trên đà chiến thắng, không hiểu tại sao Kissinger lại lật ngược thế cờ để cúi đầu bối thự (ký tắt) Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 và chấp nhận toàn bộ Kế Hoạch 10 Điểm của Bắc Việt. Đây đúng là một sự đầu hàng ô nhục về chính trị và ngoại giao, nhất là khi Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đang nắm thế thượng phong.
Chuyển thắng thành bại là biệt tài của Kissinger. Chính Nixon cũng phải ngậm ngùi than: “Chúng ta đã thắng trong chiến tranh nhưng lại thua trong hòa bình” (Nixon, sách đã dẫn).
Thật ra, trước khi thua trong hòa bình, Mỹ đã thua trong hòa đàm.
Ngày nay mọi người ý thức rằng, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh tháng 2-1972, Kissinger thổ lộ rằng Hoa Kỳ không quan tâm đến việc đánh Bắc Việt. Ông còn dã tâm chấp nhận cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam Việt Nam và Miên Lào bằng võ lực sau một thời gian “hợp lý” kể từ khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. Ông chỉ muốn ký một Hiệp Ước Hòa Bình tại Việt Nam để rút quân và xin lại tù binh. Còn số phận của hàng chục triệu người Đông Dương đồng minh của Hoa Kỳ, ông không lý vấn đến! Sau khi ký tắt Hiệp Định Paris tháng 1-1973, trả lời câu hỏi của Ehrlichman,Phụ Tá Nội Vụ của Nixon, Kissinger ước tính chỉ trong vòng 18 tháng Miền Nam Việt Nam sẽ bị Miền Bắc thôn tính. (John Ehrlichman: Witness to Power, the Nixon years). Chắc ông chưa mãn nguyện vì mãi 27 tháng sau Saigon mới thất thủ
Tháng 4-1975 sau khi mất Đà Nẵng, Tướng Weyand Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ lập phúc trình đề nghị Tổng Thống Ford yêu cầu Quốc Hội viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam Cộng Hòa 700 triệu Mỹ kim để kịp thời trả đũa quân Bắc Việt xâm lăng vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Paris. Với số ngân khoản này Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa có thể phản công và oanh tạc từng sư đoàn chính quy Bắc Việt xâm nhập Miền Nam bất hợp pháp từ các trận chiến Phước Long tháng 1, Ban Mê Thuột tháng 3, và Đà Nẵng tháng 4-1975. Trước kia, cho đến Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa tháng 4-1972, quân đội Bắc Việt không dám tập trung đến cấp trung đoàn vì sợ làm mồi cho các phi đội B52. Ngay cả sau khi chiếm quận Kiến Đức tháng 11-1973, 3 sư đoàn Bắc Việt tại miền 3 Biên Giới là các Công Trường 5-7-9 đã được lệnh rút về Miên Lào không được tiến chiếm tỉnh Quảng Đức. Lúc này Hoa Kỳ muốn nhường Quảng Đức cho Giải Phóng Miền Nam lập thủ đô trong :Kế Hoạch 3 Nước Việt”, dùng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam làm quốc gia trái độn trung lập giữa Bắc Việt và Nam Việt.
Tuy nhiên Cộng Sản đã không tiến chiếm Quảng Đức. Vì hai lý do:
1. Hà Nội không cho phép Mặt Trận Giải Phóng lập thủ đô “quá sâu trong lòng địch”, “thủ đô” Đông Hà tại Vĩ Tuyến 17 dễ kiểm soát hơn.
2. Rút kinh nghiệm Triều Tiên, Hà Nội sợ mắc mưu Hoa Kỳ như trong những phi vụ phản kích các sư đoàn Bắc Hàn và Trung Quốc xâm nhập Nam Hàn.
Với sự ban hành Luật về Quyền Lực Chiến Tranh của Quốc Hội Hoa Kỳ tháng 10-1973, Bắc Việt yên trí rằng từ đó Hoa Kỳ sẽ không trả đũa như trong Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa từ tháng 4-1972 tại Miền Nam, hay trong cuộc Tập Kích Chiến Lược tháng 12-1972 tại Miền Bắc. Đặc biệt sau khi Nixon từ chức vào tháng 8-1974, từ cuối năm 1974 quân đội Bắc Việt đã ngang nhiên tập trung đến cấp sư đoàn. Do sự khinh thị này, Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ rất có thể lấy lại thế quân bình sau những trận oanh tạc quy mô tại Quân Khu I và Tây Nguyên. Tuy nhiên Kissinger đã can gián Tổng Thống Ford rằng chiến dịch tập kích sẽ gặp phản kháng của quần chúng xuống đường, và sẽ gây hậu quả bất lợi cho cuộc bầu cử tổng thống năm 1976. Rút cuộc đơn xin viện trợ khẩn cấp 700 triệu của Tướng Weyand đã bị xếp bỏ. Lúc này Kissinger còn trắng trợn nguyền rủa đồng minh: “Sao bọn họ không chết sớm đi cho rồi!. Tệ hại nhất là bọn họ cứ sống dai dẳng mãi!”. (The Palace File: Nguyen Tien Hung and Jerrold Schecter trích dẫn Ron Nessen: It Sure Looks Different from the Inside).
Đây rõ rệt là sự vụng tính và bất công của Hoa Kỳ. Trước đó, ngày 6-10-1973, Hoa Kỳ đã tích cực yểm trợ Do Thái trong Trận Chiến Yom Kipur. Theo Nixon, Do Thái có liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ dầu chỉ có 4 triệu dân Do Thái trong số 100 triệu dân tại Trung Đông. Do Thái cũng không có dầu khí mà cũng không có liên hệ đồng minh với Hoa Kỳ. Tuy nhiên về mặt tinh thần, và để bảo vệ chế độ dân chủ tại quốc gia này, Hoa Kỳ vẫn coi hành động yểm trợ Do Thái có quan hệ “sống còn tới quyền lợi quốc gia”. (vital to our national interests). Do đó bất cứ vị Tổng Thống Hoa Kỳ nào cũng sẵn sàng yểm trợ Do Thái khi nước này bị tấn công. Trong Trận Chiến 3 tuần Yom Kipur giữa Do Thái và Ai Cập tháng 10-1973, Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự cho Do Thái 2,2 tỷ Mỹ kim. Lúc này, Liên Xô đề nghị Hoa Kỳ ngừng bắn dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc và đe dọa sẽ can thiệp nếu Do Thái tấn công Syria. Kissinger lập tức phản bác và cảnh cáo rằng Hoa Kỳ sẽ nhập cuộc nếu Liên Xô can thiệp. Sau khi thất trận Tổng Thống Ai Cập than phiền rằng: “Chúng tôi không thể cùng một lúc chống lại cả Do Thái lẫn Hoa Kỳ”. Sau Chiến Dịch Yom Kipur, báo chí Hoa Kỳ tuyên dương Kissinger là “người hùng có phép lạ” (superman/ miracleman).
Về mặt chiến lược, chính nghĩa, đạo lý và liên minh, Việt Nam Cộng Hòa có quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ tại Đông Nam Á hơn là giữa Do Thái với Hoa Kỳ tại Trung Đông. Vậy mà Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa sau 10 năm liên minh kết nghĩa, với trên 20 triệu con người đã đứng ra bảo vệ Tự Do cho miền thế giới này. Từ 1965, Hoa Kỳ đổ xô nhân lực, vật lực vào chiến trường Miền Nam, và gia tăng cường độ chiến tranh với trên nửa triệu binh sĩ chiến đấu bên cạnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh. Bất cứ nhà quan sát vô tư nào cũng ngạc nhiên khi thấy chỉ vì 700 triệu mà Hoa Kỳ tiếc rẻ khiến cho Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao cũng như bao nhiêu nước Á Phi và Nam Mỹ đã rơi vào vòng lệ thuộc của Quốc Tế Cộng Sản. Trong khi đó, về niên khóa 1974, Liên Xô đã tăng gấp đôi số viện trợ quân sự cho Bắc Việt, với 1 tỉ 700 triệu Mỹ kim để phát động Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong khi từ sau Hiệp Định Paris, số quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa bị Hoa Kỳ cắt giảm còn 1/4.
Thời Hiệp Định Paris 1973 số quân viện cho Miền Nam là 2,2 tỷ Mỹ kim. Qua năm 1974 bị cắt hơn nửa (54%), còn 1.01 tỷ. Tới năm 1975 lại bị cắt phân nửa, chỉ còn 500 triệu (cộng với 200 triệu tính vào các sở phí chuyên chở và các khoản linh tinh khác).
Trong bản điều trần tháng 9-1974 trước Quốc Hội về dự án ngân sách 1975, cũng như trong bản tường trình gởi Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tướng John Murray, Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Saigon (DAO), đã đưa ra một công thức hay phương trình về sự liên hệ giữa số quân viện và chủ quyền lãnh thổ. Theo công thức này “nếu Hoa Kỳ cắt quân viện chừng nào thì Việt Nam Cộng Hòa mất lãnh thổ chừng ấy”. (You can roughly equate cuts in support to loss of real estate: Nixon, sách đã dẫn).
Theo công thức và phương trình này có 5 mức quân viện liên hệ đến 5 tuyến phòng thủ lãnh thổ:
1) Nếu quân viện còn ở mức 1.4 tỷ Mỹ kim thì Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) còn giữ được những vùng đông dân cư trên toàn lãnh thổ.
2) Nếu quân viện chỉ còn 1.1 tỷ Mỹ kim thì VNCH không thể giữ được Vùng I Chiến Thuật.
3) Nếu quân viện giảm xuống còn 900 triệu thì không thể giữ được Vùng I và Vùng II.
4) Nếu quân viện chỉ còn 750 triệu thì chỉ có thể giữ được một số ít vùng, và Bắc Việt sẽ không chịu thương thuyết nghiêm chỉnh.
5) Mà nếu quân viện chỉ còn 600 triệu thì VNCH chỉ có thể giữ được Saigon, phụ cận và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Như đã trình bày, Quốc Hội đã cắt viện trợ cho Việt Nam từ trên 2 tỷ năm 1973 xuống còn 500 triệu năm 1975.
“Các dân biểu và nghị sĩ phản chiến đã xóa tên Việt Nam Cộng Hòa
trong danh sách các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ. Kể từ sau Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, chúng ta đã thắng trong chiến tranh. Quân lực VNCH đã thành công trong việc chặn đứng những vụ vi phạm ngừng bắn của Bắc Việt trong suốt 2 năm. Lý do thất bại là vì Quốc Hội Hoa Kỳ đã khước từ không chịu cấp quân viện cho Saigon ngang với số quân viện Liên Xô cấp cho Hà Nội. Tất cả các vị tướng lãnh chỉ huy cao cấp Hoa Ky tại Việt Nam và Hoa Thịnh Đốn đều xác nhận việc quân lực VNCH đã chứng tỏ rằng, nếu được trang bị đầy đủ, họ có thể đẩy lui những sư đoàn thiện chiến nhất từ Bắc Việt xâm nhập vào Miền Nam...” (Nixon, sách đã dẫn)
Về mặt ngoại giao, sau cuộc Tâp Kích Chiến Lược Mùa Giáng Sinh 1972, Kissinger lạc quan báo cáo rằng, sau những cuộc mật đàm với Lê Đức Thọ ngày 8-1-1973, Bắc Việt sẽ chấp nhận nội trong 48 giờ tất cả các điểm cơ sở trong Đề Nghị 8 Điểm của Nixon (trong đó có khoản rút quân song phương).
Đây chỉ là báo cáo xuyên tạc. Vì trong Hiệp Định Paris ký 19 ngày sau (27-1-1973), không có điều khoản nào nói về việc Bắc Việt phải triệt thoái quân đội ra khỏi Miền Nam.
Sau này Kissinger thú thật rằng chỉ có những “cam kết ngầm”. Trong những cuộc mật đàm, Bắc Việt hứa hẹn sẽ không mang quân vào Miền Nam và chấp thuận ghi khoản này nơi Điều 7 Hiệp Định Paris: “Từ ngày ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ sau tổng tuyển cử, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ không được nhận đưa vào Miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, cũng như các võ khí đạn dược và dụng cụ chiến tranh...”
Đây là liều thuốc an thần cho lương tâm thanh thản để Hoa Kỳ rút khỏi vũng lầy mà họ đã lao vào từ 10 năm trước, nói là để ngăn chặn Thuyết Domino và xây dựng Việt Nam Cộng Hòa thành một tiền đồn chống cộng tại Đông Nam Á.
Như Nixon đã nói, Bắc Việt không bao giờ giữ lời cam kết. (Hanoi broke agreements as soon as it signed them: Nixon, sách đã dẫn). Ngay cả trong Tuyên Cáo về nền Trung Lập của Ai Lao tháng 7-1962, 14 quốc gia cam kết tôn trọng chủ quyền và nền trung lập của Ai Lao và hứa sẽ rút hết các lực lượng võ trang ra khỏi Vương Quốc Lào để đem lại hòa bình cho Đông Dương. Tất cả các quốc gia kết ước đều giữ lời, ngoại trừ Bắc Việt. (All countries complied, except North Vietnam: Nixon, sách đã dẫn).
Tại Việt Nam, ngay cả Tổng Thống Nixon và người kế quyền của ông là Tổng Thống Ford cũng không giữ lời cam kết.
Ngày 14-11-1972 Tổng Thống Nixon viết cho Tổng Thống Thiệu: “Điều quan trọng hơn cả bản văn Hiệp Định là vấn đề chúng ta sẽ phản ứng thế nào trong trường hợp kẻ thù tái xâm lược. Tôi xin cam kết rằng, nếu Bắc Việt không tuân theo những điều khoản của Hiệp Định, tôi cương quyết sẽ trả đũa tức thì và mãnh liệt”.
Mười ngày trước khi ký Hiệp Định, ngày 17-1-1973, Nixon còn khẳng định: “Tự Do và Độc Lập của Việt Nam Cộng Hòa là một mục tiêu tối hậu của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ...
Tôi xin nhấn mạnh 3 điều cam kết sau đây:
1. Hoa Kỳ chỉ thừa nhận Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Việt Nam;
2. Hoa Kỳ không chấp nhận cho Bắc Việt được đồn trú quân trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam;
3. Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt khi Bắc Việt vi phạm Hiệp Định”.
Đó cũng là điều cam kết của Tổng Thống Ford. Sau khi Nixon từ chức, ngày 10-8-1974, với tư cách là người kế quyền, Tổng Thống Ford đã gởi văn thư cho Tổng Thống Thiệu xác định rằng: “Những cam kết mà dân tộc Hoa Kỳ đã hứa hẹn với VNCH trong thời gian vừa qua vẫn giữ nguyên giá trị. Và tôi sẽ triệt để tôn trọng những cam kết này trong suốt thời gian nhiệm chức của tôi.”(Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter sđd)
Về vấn đề rút quân của Bắc Việt, Kissinger còn dối gạt Nixon rằng không cần có những điều khoản minh thị quy định trong Hiệp Định. Vì trong những cuộc mật đàm Bắc Việt đã mặc nhiên chấp thuận đề nghị này của Nixon hồi tháng 5-1969. Họ hứa sẽ lặng lẽ rút quân khỏi Miền Nam. (Our tactic was to write a formulation that tacitly required the enemy to withdraw. We will press for the de facto unilateral withdrawal of some North Vietnamese divisions in the northern part of South Vietnam. Nixon, sách đã dẫn).
Đây là một luận điệu ngây ngô và giảo hoạt.
Là một chiến lược gia và nhà ngoại giao sành sỏi, Kissinger thừa biết rằng, đối với người Cộng Sản, ngay cả sự cam kết công khai trong những hiệp ước quốc tế cũng chỉ là dối trá. Vì kết ước không phải để giữ lời, mà chỉ nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị giai đoạn theo phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, bất chấp lời hứa và bất chấp danh dự quốc gia.
Ngoài ra Kissinger còn giải thích rằng, với Điều 7 Hiệp Định Paris, quân đội Bắc Việt đồn trú tại Miền Nam rồi đây sẽ tan rã vì không được tăng cường. Đó là điều phi lý. Vì sao quân đội Bắc Việt, đánh giặc theo kiểu nhà nghèo, lại tan rã, trong khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đánh giặc theo lối Mỹ, lại không tan rã?
Cũng nên ghi nhận rằng Điều 7 chỉ cấm hai bên không được đưa quân vào Miền Nam trong một thời gian nhất định “từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi có Chính Phủ Liên Hiệp” thành lập sau tổng tuyển cử do Hội Đồng Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc 3 Thành Phần tổ chức. Điều này phải được hiểu là sau khi có Chính Phủ Liên Hiệp, không có điều khoản nào cấm Bắc Việt không được đem quân vào Miền Nam. Lẽ tất nhiên Hoa Kỳ, như chim phải tên sợ làn cây cong, sẽ chẳng bao giờ dám nghĩ đến, hay dám mạo hiểm mang quân vào Việt Nam một lần nữa.
Theo các nhà luật học và chính trị học, mọi sự kết ước giữa các quốc gia, cũng như giữa các cá nhân, phải có tính công khai và minh thị. Do đó không bao giờ có những cam kết ngầm hay được hiểu ngầm trong các hiệp ước quốc tế. Quy luật này chứng tỏ sự điêu trác của Kissinger. Chẳng lẽ ông lại ngây ngô không biết điều đó? Xá chi “những mật ước ngầm”và “những cam kết miệng” trong những cuộc mật đàm tay đôi, hay những buổi đi đêm ám muội giữa Kissinger và Thọ!. Cặp bài trùng này đã lừa gạt dư luận quốc tế để giành giật Giải Hòa Bình Nobel 1974, một nền hòa bình của những nấm mồ.
Từ tháng 10-1974, Bắc Việt đem đại quân tấn công và đã chiếm Phước Long tháng 1-1975 trước sự im lặng khó hiểu của Hoa Kỳ. Tháng 3, chiếm Ban Mê Thuột, tháng 4, chiếm Đà Nẵng, Xuân Lộc và Saigon. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn án binh bất động. Và đã tàn nhẫn cúp hết quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa, kể cả thỉnh cầu khiêm tốn của Tướng Weyand xin viện trợ khẩn cấp 700 triệu để phản kích Chiến Dịch Hồ Chí Minh. Vì nếu trong dịp này Hoa Kỳ trả đũa và Việt Nam Cộng Hòa phản kích thì phe đồng minh có cơ hội tiêu diệt từng sư đoàn Bắc Việt xâm nhập Miền Nam bất hợp pháp theo ngả vùng Phi Quân Sự phía Bắc, và từ Miên Lào phía Tây trên đường mòn Hồ Chí Minh. Lúc này Bắc Việt đã đem thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để tiếp sức cho hơn 100 ngàn quân có mặt tại chỗ.
Nói tóm lại, nếu Mùa Giáng Sinh 1972 Hoa Kỳ đã chiến thắng về quân sự, thì chỉ một tháng sau, tháng 1-1973, Hoa Kỳ đã thất bại về chính trị. Chỉ vì muốn ký Hiệp Định Paris cho bằng được để có lý do rút lui trong danh dự và đầu hàng lịch sự. Hành vi này đã gieo tai họa vô lường cho các dân tộc Việt-Miên-Lào bị du vào thế chẳng đặng đừng phải liên minh với Hoa Kỳ, một quốc gia được tiếng là hào hiệp đã đổ bao xương máu để giành lại Tự Do cho Âu Châu, Á Châu và Phi Châu đầu thập niên 1940, và cho Đại Hàn đầu thập niên 1950.
Chúng ta hãy nghe tiếng kêu thống thiết của Thủ Tướng Cao Miên Sirik Matak trong văn thư gửi Đại Sứ Hoa Kỳ John Dean trước ngày Nam Vang thất thủ:
“Thưa ông Đại Sứ và cũng là người bạn của tôi,
Xin chân thành cảm ơn văn thư của Ông đề nghị cho tôi quy chế tỵ nạn tại Hoa Kỳ và cho tôi phương tiện di chuyển đến miền đất tự do. Nhưng than ôi, tôi không thể bỏ quê hương ra đi nhục nhã như vậy!. Riêng đối với Ông và quốc gia hùng cường của Ông, không một phút nào tôi có thể tin rằng Hoa Kỳ lại có ý nghĩ bỏ rơi một dân tộc đã quyết định chọn Tự Do. Các Ông đã từ chối không bảo vệ chúng tôi nữa, chúng tôi chẳng còn biết nói gì hơn.
Nay Ông ra đi và tôi xin chúc Ông và quê hương Ông tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ông ghi nhận rằng, nếu tôi có chết trên quê hương yêu dấu của tôi, thì đó cũng chỉ là một bất hạnh. Dầu sao mỗi người trong chúng ta, ai đã sinh ra rồi cũng có ngày phải chết. Có điều là tôi đã sai lầm khi tin tưởng nơi Ông và Quốc Gia của Ông”.
Sisowath Sirik Matak (Nixon: sách đã dẫn).
Sirik Matak là một trong những người đầu tiên bị Khmer Đỏ hành quyết.
Trong thập niên 1960, Ai Lao và Cao Miên là những quốc gia trung lập nên không phải là đồng minh của Hoa Kỳ. Trong khi đó, từ cuối thập niên 1940, 5 vị Tổng Thống Hoa Kỳ Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson và Nixon đã long trọng cam kết sẽ bảo vệ quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam và xây dựng Việt Nam thành một tiền đồn của Thế Giới Tự Do để ngăn chặn Quốc Tế Cộng Sản xâm nhập Đông Nam Á. Như vậy về các mặt ngoại giao, chính nghĩa và tinh thần, Việt Nam có tương quan liên kết mật thiết với Hoa Kỳ từ 3 thập niên.
Số Phận của Ông Thiệu
Năm 1973, dưới áp lực của Kissinger và Nixon, ông Thiệu đã phải ký Hiệp Định Paris để chấp nhận những tai ương gây ra bởi bản văn Hiệp Định, cũng như bởi sự trí trá của phe Cộng Sản và sự bội ước của Hoa Kỳ.
Chúng ta hãy nêu giả thuyết:
Trong trường hợp ông Thiệu sẵn sàng nhận cái chết như ông Sirik Matak, liệu ông có thể làm được những gì?
Với tư cách nguyên thủ của một Quốc Gia có Hiến Pháp và Quốc Hội, ông Thiệu có thể ra chỉ thị cho chính phủ của ông không ký hiệp định trong trường hợp Hoa Kỳ cho quân Bắc Việt tiếp tục đồn trú tại Miền Nam trái với lời cam kết minh thị của Nixon từ năm 1969. Về mặt hiến chế, hiệp ước do Hành Pháp ký chỉ có hiệu lực nếu được Lập Pháp phê chuẩn. Mà Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa đầu thập niên 1970 vẫn tôn trọng Hiến Pháp 1967 với chủ trương đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật.
Trong trường hợp Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa công bố lập trường không chấp nhận và không phê chuẩn bất cứ hiệp định nào với Bắc Việt nếu có một trong ba sự việc sau đây:
1. Có sự tham gia của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, đại diện bởi cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Chính phủ này được Bắc Việt khai sanh hồi tháng 6-1969 vì nhu cầu chính trị giai đoạn. Nó bị khai tử tháng 11-1975 cùng với “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Cũng trong thời gian này Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đã bị khai tử và sát nhập vào một tổ chức ngoại vi khác của Đảng Cộng Sản là Mặt Trận Tổ Quốc.
2. Trong Hiệp Định không có điều khoản ghi việc quân đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam Việt Nam đồng thời với quân lực Hoa Kỳ và đồng minh.
3. Hoa Kỳ sẽ vĩnh viễn giải kết tại Việt Nam và không còn chịu trách nhiệm thi hành Hiệp Định.
Nếu có một trong ba trường hợp này Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ khước từ không ký Hiệp Định. Lý do là vì không có sự chấp nhận và phê chuẩn của Quốc Hội, đặc biệt là Thượng Nghị Viện.
Phản Ứng của Hoa Kỳ
Trong trường hợp này phản ứng của Hoa Kỳ sẽ ra sao?
Theo giới am hiểu, nhiều phần người Mỹ sẽ không hạ sát ông Thiệu năm 1973 như họ đã hạ sát ông Diệm năm 1963. Trong một thập niên, Hoa Kỳ không dám sát hại hai vị nguyên thủ của một quốc gia đồng minh đã đồng tâm hiệp lực với Hoa Kỳ đứng ra làm tiền đồn chống Cộng để bảo vệ Tự Do cho các quốc gia Đông Nam Á dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ qua Khối Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á.
Về mặt kỹ thuật pháp lý, nếu không có sự tham dự của Việt Nam Cộng Hòa thì Hội Nghị Paris sẽ không có đối tượng. Vì Việt Nam Cộng Hòa là quốc gia chủ thể, lãnh thổ Miền Nam Việt Nam là bãi chiến trường, và có 8 quốc gia đã tham gia Chiến Tranh Việt Nam trong 8 năm, thời gian dài nhất trong lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ.
Trong trường hợp Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn nhất định ký Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh tại Việt Nam, thì trong 8 Chương của Hiệp Định, chỉ có 3 Chương có thể được giữ lại là Chương II (về Ngừng Bắn và Rút Quân), Chương III (về Phóng Thích Tù Binh), và Chương VIII (về Trao Trả Tù Binh dưới danh nghĩa bồi thường chiến tranh và tái thiết hậu chiến).
5 Chương khác sẽ không có đối tượng. Như Chương I (về tương quan giữa hai miền Nam Bắc), Chương IV (về giải pháp chính trị cho Miền Nam Việt Nam), Chương V (về vấn đề thống nhất hai miền Nam Bắc), Chương VI (về các cơ quan kiểm soát và giám sát quốc tế), và Chương VII (về chính sách đối ngoại của Miền Nam Việt Nam với Miên Lào).
Chỉ với 3 Chương nói trên, một hiệp định chấm dứt chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt sẽ không thể đề cập đến những vấn đề quân sự và chính trị tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy Hội Nghị Paris sẽ tan vỡ. Và sẽ không có một Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam được ký tại Paris năm 1973.
Tổng kết lại, trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa không ký Hiệp Định Paris 1973 thì việc gì sẽ xẩy ra, và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao?
1. Rất có thể, do áp lực quốc nội, cũng như vì quyền lợi riêng tư, Hoa Kỳ sẽ ký hiệp ước tay đôi về ngừng bắn, rút quân và trao đổi tù binh với Bắc Việt. Và để trả đũa Hoa Kỳ sẽ cắt hết viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa, để tạo cơ hội cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng võ lực. Trước dư luận quốc tế và quốc nội, cũng như về mặt ngoại giao, chính nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không?
Câu trả lời hợp lý là “không”.
Vì hành động như vậy là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhã. Chẳng khác nào nếu đầu thập niên 1940, Roosevelt ký với Đức Quốc Xã hiệp ước bất tương xâm để trao Tây Âu cho Hitler; hay cuối thập niên 1940, Truman ngưng chiến dịch tiếp vận hàng không cho Tây Bá Linh để trao thị trấn này cho Honecker; hay đầu thập niên 1950, Eisenhower ký hiệp ước với Bắc Hàn để rút quân và trao Nam Hàn cho Kim Nhật Thành.
Những vụ phản bội và đầu hàng nhục nhã này nếu có, chẳng những tác hại đến Anh Quốc, Tây Đức và Đại Hàn, mà còn gây thảm họa cho toàn cõi Âu Châu, từ Tây Âu sang Đông Âu, cũng như cho toàn cõi Á Châu, từ Đông Bắc Á qua Đông Nam Á. Do hậu quả dây chuyền của Thuyết Domino.
2. Dầu sao, nhiều phần là, muốn rút quân và giữ thể diện, Hoa Kỳ vẫn cần phải có sự tham dự của Việt Nam Cộng Hòa trong Hội Nghị. Muốn thế Hoa Kỳ sẽ tìm cách lật đổ ông Thiệu theo kế hoạch “thay đổi nhân sự” từng được áp dụng tại Việt Nam năm 1963. Trong trường hợp này, cũng như 10 năm trước, rất có thể ông Dương Văn Minh sẽ lại được chiếu cố. Và ông này sẽ tuân lệnh Hoa Kỳ (và Bắc Việt) để thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần do Cộng Sản khống chế. Kết quả là phe Cộng Hòa chỉ còn 1/3 chủ quyền, 1/3 chính quyền, 1/3 lãnh thổ và 1/3 lực lượng tại Miền Nam. Nghĩa là trong toàn cõi Việt Nam, phe Cộng Sản chiếm tuyệt đại đa số 5/6. Trong điều kiện đó Bắc Việt sẽ dễ dàng thôn tính Miền Nam bằng phương pháp hòa bình, không phải dùng đến bạo động võ trang.
Trong trường hợp này, đối với Hoa Kỳ, hành động bán trắng Miền Nam cũng là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhã. Việc này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Hoa Kỳ và tương lai của đảng cầm quyền, đặc biệt trong cuộc tuyển cử từng phần năm 1974 và cuộc tổng tuyển cử bầu tổng thống năm 1976.
Và, một lần nữa, vấn đề đặt ra là, về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa và đạo lý, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không?
Câu trả lời hợp lý cũng vẫn là “không”.
Rút kinh nghiệm vụ “thay đổi nhân sự” năm 1963 tại Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ rất ngần ngại khi phải can thiệp lộ liễu vào nội bộ của một quốc gia đồng minh trong Thế Giới Dân Chủ.
Trước kia, trong cuộc tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh ngày 9-7-1971, chính Kissinger cũng phải minh định: “Lập trường của Hoa Kỳ là không nhất thiết duy trì một chính phủ đặc biệt nào tại Miền Nam Việt Nam (như Chính Phủ Việt Nam Công Hòa). Tuy nhiên, Hoa Kỳ không thể tham dự vào việc lật đổ những người trước đây đã là đồng minh của Hoa Kỳ, bất kể nguồn gốc đồng minh đó là gì” : (Jeffrey Kimball, sách đã dẫn).
Trong thư ngày 31-8-1972 chính Nixon cũng xác nhận điều này với ông Thiệu : “Tôi xin một lần nữa đoan chắc với Ngài về lập trường căn bản của Hoa Kỳ: Nhân dân Hoa Kỳ ý thức rằng chúng tôi không thể mang lại hòa bình và danh dự cho quốc gia, nếu phải bỏ rơi một đồng minh dũng cảm (như VNCH). Điều này tôi không thể làm và sẽ không bao giờ làm.”
Tuy nhiên 5 tuần sau, ngày 6-10-1972, Nixon lại nhắc khéo về vụ “thay đổi nhân sự năm 1963” khi đề cập đến vụ Tổng Thống Johnson muốn lật đổ ông Thiệu năm 1968 (hồi đó Chính Phủ Saigon không chịu tham dự Hội Nghị Paris). Nixon viết: “Xin Ngài hãy dùng mọi phương cách để tránh tái diễn biến cố 1963 mà chính tôi đã ghê tởm và đã lên án từ năm 1968”.
Dầu sao chính Kissinger cũng không dám chủ trương sát hại ông Thiệu. Ngay từ 1968 ông ta đã cảnh giác: “Nếu ông Thiệu chịu số phận của ông Diệm, thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ ý thức rằng: Làm kẻ thù của Mỹ có thể gặp nguy hiểm, nhưng làm bạn với Hoa Kỳ nhiều phần sẽ mất mạng.” (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, sách đã dẫn)
Kinh nghiệm Sirik Matack đã chứng minh điều đó.
Và việc này đi trái Chính Nghĩa, Đạo Lý, Lương Tâm, Quyền Lợi Quốc Gia và Truyền Thống Dân Chủ của Hoa Kỳ từ khi lập quốc.
Có điều là, trong lịch sử nhân loại cổ kim, chưa từng thấy một đế quốc nào dám ra tay hạ sát hai vị nguyên thủ của một quốc gia đồng minh trong vòng một thập kỷ.
Và cũng chưa từng thấy một viên tướng lãnh nào, trong vòng 10 năm, lại có cơ hội và ác tâm sát hại hai vị tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội mà ông ta có nghĩa vụ phải phục vụ và bảo vệ.
Dầu sao sự nhẫn tâm và phản trắc của ông tướng này, nếu có, cũng chỉ là hậu quả của sự nhẫn tâm và phản trắc của ông Cố Vấn Kissinger. Ngay từ tháng 7-1971, 18 tháng trước khi ký Hiệp Định Paris, ông Cố Vấn đã tiết lộ cho phe Cộng Sản biết chủ trương của Hoa Kỳ là sẽ rút quân toàn diện và vĩnh viễn ra khỏi Việt Nam mà không đặt điều kiện nào nếu được trao trả tù binh. Đó là hành vi nối giáo cho giặc, bật đèn xanh cho Cộng Sản xâm chiếm Miền Nam bằng bạo lực. Và, sau khi ký tắt Hiệp Định Paris tháng 1-1973, Kissinger cũng ước tính (và mong mỏi) rằng Việt Nam Cộng Hòa sẽ cáo chung sau 18 tháng.
10 năm sau khi Saigon thất thủ, bằng phản tỉnh và tự phán, năm 1985, Nixon đã lên án việc Hoa Kỳ bội ước Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 là một “sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong Lịch Sử Hoa Kỳ !”.
Thật vậy, khi Hoa Kỳ nhẫn tâm rũ áo ra đi để mặc cho phe Quốc Tế Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng võ lực, thì bao nhiêu công lao, danh dự và uy tín quốc gia, xây dựng từ Thế Chiến I đến Thế Chiến II và Chiến Tranh Triều Tiên, sẽ phút chốc tiêu tan, đem lại sự bất bình và chê bai của nhân loại văn minh. Hậu quả dễ thấy nhất là sự bành trướng thế lực vượt bực của phe Quốc Tế Cộng Sản tại Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh.
Thêm vào đó các đồng minh cũ của Hoa Kỳ cũng sẽ rất ngần ngại khi phải liên minh với Hoa Thịnh Đốn. Và Khối các Quốc Gia Phi Liên Kết sẽ phát triển mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới.
Ngoài ra, sự hoài nghi của các dân tộc trên thế giới về Quyết Tâm và Lý Tưởng Tự Do của Hoa Kỳ sẽ có tác dụng xấu trong cuộc đấu tranh giải thể Cộng Sản tại Đông Âu và Liên Xô.
Do đó, cho đến nay không ai dám quyết đoán về việc Hoa Kỳ có theo chủ nghĩa thực dụng để nhẫn tâm làm việc đó không?.
Có điều là, nếu quân dân một lòng, và nếu vị nguyên thủ quốc gia có tinh thần vô úy, “coi tấm thân nhẹ tựa hồng mao”, không chịu lùi bước trước cái chết, thì uy tín của Việt Nam Cộng Hòa sẽ được bảo toàn, danh dự của Quân LựcViệt Nam Cộng Hòa sẽ được gìn giữ. Và vị nguyên thủ quốc gia sẽ có cơ hội đi vào lịch sử như Nguyễn Thái Học và Hoàng Diệu trong hai thế kỷ vừa qua.
Mà, nếu biết vận dụng thời thế, biết đâu Việt Nam Cộng Hòa lại chẳng có cơ may bảo vệ chủ quyền lãnh thổ từng phần hay toàn vẹn?
LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG
Nguồn: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/vnch/903-903
Giá trị của Việt Nam Cộng Hòa
Trần Trung Đạo (Danlambao) – ...Giá
trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã
vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn,
vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác
lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng
chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư
và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến
pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người
đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là
mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến…
*
Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không
ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng
khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này.
Suốt 60 năm qua, VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không
chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ,
đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn
là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma”
trên Talawas 8 năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng
hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với
các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không
chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà
nhiều tỉ đô la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam
ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các
nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ
hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết
thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền
Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên.
Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong
một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu
của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải
bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.
VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh
chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống
tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông
tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách,
dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng
lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH
không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến
pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan
Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ
cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ
quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại
thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt
Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời
đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của
dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh
thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế
hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương
và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó,
quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ
rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và
phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối
hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên
căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam.
Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay
chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của
bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành
ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy
ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng
chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định
kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu
khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa
trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội
dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ
công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến.
Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là
đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi
ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân
tộc, giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và
toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với
quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham
khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống
do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường,
Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng
thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm
tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954
mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng
tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị
trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm
nền tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây
hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt
của nhiều người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất
cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ
định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức,
sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội
công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải
pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ
mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người
đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã
nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính
nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân
tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia
vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người
Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm
mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những
người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao
để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại
chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng
CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một
đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu
tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự
do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết
được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời
họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước
bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa,
một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ
không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ
quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân
tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre,
hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực
dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một
người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam
Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh
vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi
Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả
bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần
đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù
không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một
thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm,
có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng
thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng
(năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn
Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và
chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống
Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc
gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào
thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh
hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong
nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có
3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế
cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán
nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do
mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt
Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng
sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên
truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ
thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một
quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực
tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế,
chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở
châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo
nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm
gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp
Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời
phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một
chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người
lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người
viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen
HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ
vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận
giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các
vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của
người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam
hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm
nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời
cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng
CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được
lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung
Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của
dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các
nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa
đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc
tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị
Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam
sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về
cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh
mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một
cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ,
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ
của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành
lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai
góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính
nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
*
Trích đoạn từ bài viết “Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc”của tác giả Trần Trung Đạo.
Hiệp Định Paris 1973 - Huỳnh Mai St.8872
Tg: Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Hỳnh
Suốt
39 năm qua, Hiệp Định Paris/73 đã đi vào quá khứ. Dù muốn dù không nó
cũng để lại trong lòng người dân Miền Nam một nỗi buồn Mất Nước, mất
Tự-Do dân tộc của quân dân,cán chính VNCH với lý tưởng Tự-Do Người Việt
Quốc Gia.
Hiệp Định Paris/73 Việt Nam đã mặc nhiên chấp nhận sự sai lầm và thất bại của thế giới Tự-Do, trong đó Hoa Kỳ muốn sống chung hòa bình với Quốc Tế Cộng Sản Nga, Tàu và muốn phân cực thế giới thành lưởng cực chiến tranh giành, quyền thống trị nhân loại, mà Việt Nam vô phúc trở thành tiền đồn chống cộng ,và kéo theo bán đảo Đông Dương -Việt Miên Lào- trở thành be bờ cộng Sản tràn xuống Đông Nam Á/TBD.
Hiệp Định Paris/73 đưa đến mất chủ quyền Hoàng Sa và Tự do Miền Nam VN
Với chủ trương sống chung hòa bình, mở rộng thị trường đông dân của Trung Quốc Cộng Sản.Hoa Kỳ-TT Nixon và Ngoại Trưởng Kissinger đi đêm, mật ước, hòa đàm với Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh 1972 và loại bỏ liên xô ra khỏi vùng cuộc chiến tranh chấp Đông Dương, và kéo CS Bắc Việt Nam về phía Cộng Sản TQ khi Liên Xô tan rả.
Mỹ rốt sức thả bom B.52 suốt 12 ngày đêm tàn phá Hà Nội cuối năm 1972 , bằng chiến dịch:Operation link Backer I+II hầu tiêu diệt khả năng chiến đấu của Hà Nội bằng những trái hỏa tiễn SAM cuối cùng của Liên Xô còn xót lại, vì đã bị hư hỏng không bắn lên được để tiêu diệt chiếc máy bay B52 Mỹ cuối cùng chấm dứt bỏ bom Noéll Hà Nội. Cuối cùng CS /Hà nội xin đầu hàng Mỹ vô điều kiện.Nhưng Mỹ không chấp nhận đầu hàng của Hà Nội và bắt buộc Hà Nội phải nhận ban ơn tiếp trợ của Trung Quốc Cộng Sản gửi 300.000 quân kéo sang bảo vệ chung quanh vòng đai thủ đô Hà nội, vì sợ quân VNCH thừa thắng xông lên… “Giải Phóng Hà Nội Miền Bắc” Và Hoa Kỳ đã bỏ lở mất một bàn thắng “Trông thấy!?”cho VNCH. Thật đáng tiếc cho người Mỹ phản bội vì bán đứng kẻ thù Hà Nội vào tay Trung Quốc, để rồi lần lựa tới Sài gòn/Miền Nam VNCH bằng bản H.Đ Paris/73 do CS. Hà nội tay sai tiếp quản 30-4-1975 trên bờ lục địa Việt Nam.Còn phía dưới biển quần đảo Hoàng Sa của VNCH được Mỹ bật đèn xanh cho Trung Cộng lấn chiếm-19-1- 1974, phía Hoa kỳ không can thiệp,vì muốn trao tặng Trung Cộng món hàng khuyến mãi khi mở cửa thị trường TQ.
“Hiệp
định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, TT Nixon tuyên bố ông đã thực
hiện được thỏa hiệp danh dự (an honorable agreement)., không phản bội
đồng minh, không bỏ rơi tù binh. Hiệp định Paris trên thực tế vẫn không
đem lại hòa bình cho Đông Dương, hơn hai năm sau ngày ký kết, BV đem đại
binh tấn công miền Nam VN đưa tới sụp đổ ngày 30-4-1975, VNCH biến mất
trên bản dồ thế giới. Nay người ta giải thích về thất bại của Hiệp định
và sụp đổ miền Nam VN.
Nixon và Kissinger nói họ thắng cuộc chiến nhưng Quốc Hội làm mất hòa bình, hai nhà lãnh đạo đổ lỗi cho Quốc hội đã không cho Hành pháp khả năng giám sát Hiệp định và cắt hết viện trợ bỏ rơi đồng minh.
Hiệp định thể hiện một khoảng cách vừa đủ, decent interval để quân Mỹ rút đi, lấy tù binh còn lại người Việt tự giải quyết số phận đất nước, Hoa Kỳ không muốn CS thắng quá nhanh. Theo Frank Snepp, nhà phân tích chiến lược CIA tại VN trong cuốn Decent interval nói Hiệp định Paris chỉ là cách trốn tránh nhiệm vụ của Mỹ, chỉ là để Mỹ rút ra khỏi VN.
Nixon và Kissinger nói họ thắng cuộc chiến nhưng Quốc Hội làm mất hòa bình, hai nhà lãnh đạo đổ lỗi cho Quốc hội đã không cho Hành pháp khả năng giám sát Hiệp định và cắt hết viện trợ bỏ rơi đồng minh.
Hiệp định thể hiện một khoảng cách vừa đủ, decent interval để quân Mỹ rút đi, lấy tù binh còn lại người Việt tự giải quyết số phận đất nước, Hoa Kỳ không muốn CS thắng quá nhanh. Theo Frank Snepp, nhà phân tích chiến lược CIA tại VN trong cuốn Decent interval nói Hiệp định Paris chỉ là cách trốn tránh nhiệm vụ của Mỹ, chỉ là để Mỹ rút ra khỏi VN.
“Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn tham chiến trở lại, dù có hay không vụ Watergate. “Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam” (Kissinger A Biography p. 487)
Người dân Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Gió đã đổi chiều, hoài bão của Tổng thống Nixon để giữ một miền nam Việt Nam không Cộng Sản cuối cùng chỉ là ảo tưởng vĩ đại”{tác giả Trọng Đạt}
Rút Quân Tây Nguyên, Chiến Lược NIXON hay Chiến Thuật đầu hàng cộng sản Bắc Việt của TT Nguyễn Văn Thiệu!?.
Thượng và Hạ viện quốc hội Hoa Kỳ cảnh cáo cho biết nếu TT Nguyễn văn Thiệu không ký dự thảo Paris khi Cộng sản Bắc Việt không rút 120.000 Cộng Quân ra khỏi Miền Nam VNCH.vì vậy, gây trở ngại hòa đàm thì Quốc hội sẽ ra luật rút quân để đổi lấy tù binh, cắt hoàn toàn viện trợ, đưa ra hạ viện với tỷ lệ 2-1, nếu không có viện trợ Sài Gòn sẽ chết ngay.
Lời nhắn cũa quốc hội Mỹ cho ông Thiệu VNCH biết rằng:họ muốn nói gần như công khai sẵn sàng đánh đổi Đông Dương lấy 580 tù binh Mỹ còn bị BV giam giữ, đối với họ chỉ có sinh mạng của tù binh Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của cả Đông Dương không nghĩa lý gì. Về điểm này trong No More Vietnams trang 142, Nixon cũng nói như vậy, nhưng ông Thiệu vẫn không tin cho là họ chỉ hù dọa chứ không dám bỏ Đông dương, cho tới tháng 3-1975 ông vẫn không tin Mỹ bỏ miền nam VN và đã tháu cáy giả vờ thua chạy, cho rút khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975 để dụ cho Mỹ trở lại, hậu quả đưa tới sụp đổ VNCH thật nhanh chóng.Vì người ta quá chán ngán chiến tranh đông dương đang xẫy ra tại Việt Nam.{Tg;Trọng Đạt}
Ông Thiệu rút quân khỏi Tây Nguyên Trung phần là thi hành Hiệp Định Paris do Mỹ và quốc hội Hoa Kỳ bắt ép.Và đã trở thành một thất sách của hàng bại tướng chiến lược QL.VNCH,vì nghe theo lời hù dọa,áp lực của Hoa Kỳ cúp viện trợ quân sự cho VNCH,nên phải co cụm về bảo vệ thành lũy cuối cùng Sài gòn của vùng 4 chiến thuật đồng bằng sông Cữu long-Lũy tuyến Tự-Do còn lại VNCH.
Quân Đoàn I, thuộc Quản Trị, Thừa Thiên, Huế; trở vào Quân Đoàn II, Pleiku Kom Tum, và Nha Trang Bình Thuận-Phan thiết là phần đất được Hoa Kỳ chỉ định ông Thiệu phải trao lại cho chính phủ Lâm Thời Mặt trận GPMNVN có đất, hay lãnh thỗ để thành lập chính phủ Lâm Thời Việt Cộng nằm vùng gọi thành phần thứ 3 được Mỹ chấp nhận trong Hiệp Định Paris/73 và được dân Miền Nam phản chiến; biểu tình; đề cữ, ủng hộ việt Cộng Giải Phóng Miền Nam VN.
Kissinger -Hoa Kỳ-được Lê Đức Thọ -Hà Nội- hỏi:Hoa Kỳ chấp nhận sống chung với TQ và đối xử ra sao với đồng chí CS bắc Việt.và được trả lời: ”Sống chung được với TQ, thì phải chấp nhận hòa bình với tôi tớ ông chủ” Và vì thế ông Thiệu phải cam tâm hy sinh quân lính-chiến Sĩ VNCH- rút quân chiến thuật, đưa lưng làm bia đở đạn Việt Cộng. Tay bồng tay bế con thơ, dắt vợ chạy trong lửa đạn…và dưới nước mắt thương đau của ông Thiệu đang khóc trong tòa nhà trắng -White House- tại vịnh Cam Ranh-10-4-1975, chứng kiến cuộc di tản rút quân thiếu chiến thuật này do người Mỹ gây nên.
Chiến tranh Việt Nam tự nó không có thắng và thua giữa Bắc Việt và Nam Việt Nam ,và nó biến chuyển tùy theo tình hình quyền lợi được sắp đặt giữa hai khối Tư Bản Hoa Kỳ và Cộng Sản Nga Tàu chia vùng ảnh hưởng,thống trị làm ăn ,còn tự do dân chủ VNCH đứng sang bên lề thắng bại chiến-tranh. Vì thế Lê Duẩn Cộng Sản nói chiến thắng miền nam là thắng giùm cho Nga Tàu.
Rút quân Tây Nguyên là thế của Miền Nam phải rút, khi viện trợ quân sự Hoa- kỳ cắt giãm,rút quân giao đất,nhường vùng lãnh thổ VNCH cho MTGPM lập chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền Nam VN.
Ông Thiệu bị Nixon của Mỹ hăm dọa: cắt bỏ cái đầu, nếu không chịu ký kết H.Đ Paris/73 theo ý muốn quyền lợi kinh tế với TQ,và bầu cữ nước Mỹ.Quốc hội Hoa Kỳ ra đạo luật rút quân,cúp viện trợ quân sự VNCH do dân Mỹ phản chiến bỏ rơi chiến tranh VN, trả con em trở về với họ.Đứng trước tình hình chiến sự nguy cấp,nên ông Thiệu phải rút quân,bảo toàn lực lượng và bỏ lại một phần đất tự do -Tây nguyên- cho địch chiếm theo áp lực cắt bỏ viện trợ quân VNCH, để tiếp tay cộng quân Bắc Việt vẫn còn hiện diện đóng quân tại Miền Nam VNCH, được Hoa Kỳ và quốc tế LHQ cho phép tồn tại trong HĐ Paris đã được ký kết.
Tất cả trách nhiệm mất tự do miền nam,phía Mỹ đổ lỗi cho VNCH: “Không chịu chiến đấu bảo vệ tự do cho chính dân tộc mình”.Ông Thiệu phải nuốt hận,căm nín làm thinh cho đến ngày chết,không biện hộ,không kết tội người bạn đồng minh Hoa Kỳ hứa lời cam kết rồi phản bội khi VNCH ký kết xong H Đ Paris -27-1-1973.
TT Nixon nói: “ Tới đoạn cuối nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô đốc Moorer đã thảo kế hoạch khẩn trương 3 và 6 ngày cho kế hoạch đòi hỏi để tấn công BV. Ban tham mưu phải thực hiện chặt chẽ kế hoạch, gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả hết cỡ, chúng ta phải giữ một lực lượng tại địa điểm để thi hành. Sự giáng trả BV phải ồ ạt hữu hiệu, trước hết B-52 phải nhắm vào Hà Nội.”
Một Bại Tướng Đầy Nhiệt Lòng Yêu Nước!
Ông TT.Thiệu là một tổng tư lệnh QL.VNCH và các sĩ quan tướng lãnh quân đội miền nam được đào tạo chỉ huy quân sự trong các nhà trường quốc tế Pháp-Mỹ,và dày dạn trong chiến trường Việt Minh chống Pháp; đầy đủ kinh nghiệm mặt trận điện Biên Phủ -Bắc Việt Nam- lại phải bỏ trống Tây Nguyên,vị thế chiến lược quan trọng – Nóc nhà Tây Nguyên- trung phần miền nam VN.để rồi lần lược mất cả Miền Nam VNCH vào tay quân Cộng Sãn Bắc Việt,ngày 30-4-1975.
Quân Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng Sàigon với quân số 15 sư đoàn CSBV.xiết chặt vòng lửa bảo vệ thủ đô Saigòn của chiến sĩ VNCH cùng năm trái bom CBU-Bom ngạt chân không- bị đồng minh mỹ tháo ngòi nổ…và đổ thêm 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến Hoa Kỳ,từ đệ thất hạm đội ngoài khơi Vủng Tàu vào sàigon bảo vệ các yếu nhân Mỹ chưa kịp rút đi bằng trực thăng đậu trên các cao ốc Saigon,với mục đích đề phòng quân nhân, chiến sĩ VNCH bắt tù binh Mỹ làm con tin cuộc chiến ,vì phẩn nộ không có ngòi nổ cho 5 trái CBU -Tiểu Nguyên Tử-này,tức là Mỹ muốn giao sàigon cho cộng quân Bắc Việt.Và Mỹ viên cớ không can thiệp vào VN theo H Đ Paris/73 khi quân Cộng Sản bắc việt được quyền uy hiếp Sài gòn và sẵn sàng vi phạm H Đ Paris 30-4-75.Vậy đâu là phản bội đồng minh cũa Mỹ!???
Sài gòn bị quân cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng trước phản ứng tự vệ để bảo vệ gia đình,thân nhân và chiến hữu đơn vị mình không bị trả thù của bọn Việt Cộng nằm vùng… và các đảng phái cách mạng 30,giờ thứ 25 nổi dậy trả thù quân- dân ,cán- chính VNCH,trước lời kêu gọi đầu hàng của tên việt gian cộng hòa T.T Dương Văn Minh,trong sự tức tối căm hờn của chiến Sĩ Tự Do VNCH.cho ngày “Gảy súng tan hàng” tối tăm đất nước!?
Sàigon chiến bại, nhưng không đổ nát, hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vì lòng nhân đạo của chiến sĩ VNCH biết tôn trọng của cãi và tư hữu và quền sống tự do người dân miền Nam. Nên khi cộng sản Miền Bắc vào sàigon và cả nông thôn Miền Nam để tiếp thu, được quân dân cán chính VNCH bàn giao cơ sở vật chất còn nguyên vẹn không thất thoát, hư hao hay bị đốt phá. Và cũng từ đây ta thấy đâu là chính nghĩa Tự do của Người Việt Quốc Gia, và đâu là phi nhân, phi nghĩa của người Cộng Sản. khi bắt tù binh VNCH vào tù cải tạo và cướp bóc tài sản, làm hàng triệu người dân miền nam sợ hải bỏ nước ra đi tìm tự do của hàng trăm ngàn người bỏ xác trong lòng đại dương biển cả…
Nhờ sự kiện và biến cố “Giải Phóng Miền Nam” ngày 30-4-1975 đã làm lộ ra chân tướng sự thật của các đoàn thể nhân dân trí thức,nhân sĩ và các hội đoàn xã hội là cơ sở bí mât hoạt dộng cho việt cộng nằm vùng. Các giáo hội tôn giáo là cơ sở tổ chức che dấu hoạt động phong trào sinh viên, quân chúng phản chiến của phiếm quân cộng Sản Nằm vùng: “Đánh cho Mỹ cút-Ngụy nhào”. Họ: “Ăn cơm quốc gia và thờ ma Công Sản”
Với dân tình đất nước như thế này: mất nước là phải rồi!? trách nhiệm là lỗi của VNCH, chỉ biết xử dụng thành phần Việt gian cộng Sản vào nằm vùng trong tổ chức chính phủ VNCH. Kể từ khi đệ nhất cộng hòa do TT Ngô đình Diệm chấp chính, rồi sụp đổ 1963 . Và Mỹ đưa quân vào biển Đà Năng 1965. và kể từ đó dân Miền Nam theo Cộng Sản Miền Bắc thì nhiều, Thậm chí vùng nông thôn, hết 85% theo Việt Cộng và có mật cứ nuôi quân VC/GPMN…
Đáng lý ra Mỹ không nên đưa quân vào Miền NamVNCH là thất sách chính trị, và tạo bằng chứng cho Cộng sản miền bắc tuyên truyền lòng yêu nước trong toàn dân để chống “Mỹ xăm lược, tay sai VNCH” Vô tình mất chính nghĩa Người Việt Quốc Gia, và đẩy người dân về phía địch, do VC đánh lừa dối dân tộc, cho một chủ nghĩa cộng sản ngoại lai.
Một Chủ Nghĩa Pha Màu Dân Tộc!
Từ khi Cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam Tự Do/VNCH, tìm vùng đất hứa của chủ nghĩa ngoại lai Cộng sản, thì người dân Miền Nam mới thực sự thực hiện ước mơ sống chung hòa bình với người anh em cộng sản Bắc Việt. Đây là một cuộc pha trộn, đổi màu dân tộc, từ màu vàng của Tự Do, trộn lẫn màu đỏ máu-Cộng Sản. người dân Miền Nam nhận được một màu “Tim tái-đỏ bầm” rỉ máu con tim dân tộc. một màu biểu tượng chiến thắng; có pha màu máu vết thương kẻ chiến bại Miền Nam. Khi biết được thì đã muộn- màn, khánh kiệt nguồn lực sống, và liệt kháng toàn dân khi trót lở lầm đặt miền tin yêu vào sự vong bản, phản bội quê hương của CSVN.
Từ khi Cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam Tự Do/VNCH, tìm vùng đất hứa của chủ nghĩa ngoại lai Cộng sản, thì người dân Miền Nam mới thực sự thực hiện ước mơ sống chung hòa bình với người anh em cộng sản Bắc Việt. Đây là một cuộc pha trộn, đổi màu dân tộc, từ màu vàng của Tự Do, trộn lẫn màu đỏ máu-Cộng Sản. người dân Miền Nam nhận được một màu “Tim tái-đỏ bầm” rỉ máu con tim dân tộc. một màu biểu tượng chiến thắng; có pha màu máu vết thương kẻ chiến bại Miền Nam. Khi biết được thì đã muộn- màn, khánh kiệt nguồn lực sống, và liệt kháng toàn dân khi trót lở lầm đặt miền tin yêu vào sự vong bản, phản bội quê hương của CSVN.
US Marines - South Vietnam 1966
Đây
là phát kiến độc đáo của Tướng Một Mắt Do Thái Moshe Dayan sang thăm
chiến trường Miền Nam Việt Nam, và gửi lại một lời cố vấn quân sự cho
Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu với một quốc sách chiến lược VNCH; “ Muốn
thắng Cộng Sản, phải biết thua Cộng Sản trước đã!.lùi một bước , để tiến
lên 3 bước”. Tức thua một Miền Nam mà thống nhất tư tưởng, ý chí tự do
chống cộng cả 3 miềm Nam- Trung- Bắc; để sau này giải phóng thủ đô Hà
Nội; đòi lại chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa sau những năm dài mất nước
trước tỉnh thức của toàn dân. biết sống chung cùng nỗi đau thương Cộng
Sản, mới vở lẽ thế nào sống chung cùng xã hội Cộng Sản.
Trước khi thi hành chiến lược “Thụt lùi” của tướng Do Thái Moshe Dayan và lời khuyến cáo “Khổ nhục kế” chân tình của TT Lý Quang Diệu -Singapore- nên ông Thiệu chịu nhục nhã mang 16 tấn vàng của ngân khố VNCH, xin thế chấp cho Mỹ và vay mượn 300.triệu đô la mua đạn dược cho quân sĩ chiến đấu cầm cự 3 tháng, đợi giải pháp chính trị tự do trung lập cho Miền Nam VN, nhưng bất lực không thành…với người Mỹ quyết tâm cúp viện trợ và tướt quyền Tự Do miền Nam VNCH, trói tay bức tử QLVNCH trao cho Quân Cộng Sản Bắc Việt Hà Nội. Và lịch sử sẽ phán xét Công và Tội của TT Nguyễn văn Thiệu khi tự do và hòa bình trở lại quê hương Việt Nam…!
Ông Thiệu dù bất tài cầm quân, khiển tướng , nhưng nhiệt lòng yêu nước. Và đã xô đẩy Việt Nam vào hoàn cảnh khốn cùng phải sống chung hòa bình với Cộng Sản Miền Bắc để thử thách và đánh thức niềm tin dân chủ, tự do Miền Nam của người Việt Quốc Gia đã ngủ yên trong lòng dân Việt; dể lại cho đời câu nói mai sau: ‘Đừng tin những gì Cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”.
Tự Chủ -Tự Quyết Dân Tộc Là Giá Trị Tự Do Việt Nam!
Suốt 37 năm nay-2012- người dân cả nước đang chiến đấu cho tự do,dân chủ Việt Nam không biết mệt mõi, với nhiều hình thức, tù nhân chiến tranh trong tù cải tạo cộng sản, đi vùng kinh tế mới, và tìm cách vượt biên của hàng triệu người Miềm Nam không chấp nhận cộng sản.
Ngay đến người dân Cộng sản Miền Bắc cũng phản tỉnh, nên hoạt động, tranh đấu đòi quyền dân chủ, nhân quyền bị áp bức độc tài đảng trị CSVN bị khống chế chủ quyền biển đảo Việt Nam. Dù phải tù tội cũng không nản chí, sờn lòng cho một ngày mai thành công dân chủ, nhân quyền và quền tự chủ-tự quyết dân tộc.
Nhưng không thể quyết đoán, và đổ lỗi hoàn toàn trách nhiệm cho Hoa Kỳ bán đứng Miền Nam VNCH. Và momg muốn sự góp sức, góp công của Mỹ cho Việt Nam mau chống tiến đến độc lập, dân chủ hòa bình dân tộc. Hiện nay, Hoa Kỳ không còn xem Việt Nam là móm hàng hóa lẫn quyền lợi trao đổi với Trung Quốc Cộng Sản khi hai nền kinh tế cạnh tranh nhau quyết liệt. Cho đến hôm nay đang xảy ra xung đột quyền lợi kinh tế tại biển ĐNÁ/TBD. Vì dù sao Mỹ cũng mắc nợ Việt Nam vì thiếu trách nhiệm trên tinh thần tự do, an ninh hòa bình thế giới, vì lý do nội tại theo chủ thuyết:
Hiện Sinh Tư Bản Thực Dụng Chủ Nghĩa Hoa Kỳ
Phát sinh từ chủ nghĩa Anh hùng trong cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ-1865- được cả thế gới tôn vinh là dân tộc văn minh, độ lượng và anh hùng, nên đã trao cho danh dự, trách nhiệm giử gìn an ninh, hòa bình thế giới Tự Do. Nhưng vì Hoa Kỳ phải sống cho thực tế theo chủ nghĩa “Hiện Sinh Tư Bản” cho dân tộc mình lớn mạnh và giàu có bằng cách làm Kinh Tế là nguồn sống thực tế của Hoa Kỳ để mưu cầu tự do và hạnh phúc cho dân tộc đang lên cũa Mỹ. do đó ta không nên trách Mỹ bán đứng VNCH vì quyền lợi sống cho họ nên đánh mất tự do, hòa bình dân chủ của Việt Nam. Hãy chấp nhận sự thật và nhận lãnh trách nhiệm về mình. Phải can đãm đứng dậy từ nơi té ngả của mình, để đòi lại quyền tự chủ, tự quyết cho Việt Nam, sau đó bạn bè thế giới và đông minh Hoa Kỳ sẽ giúp mình. Vì muốn phục hồi kinh tế toàn cầu và tìm sự sống còn cho Xã Hội Hiện SinhTư Bản Mỹ, bắt buộc họ sẽ quay trở lại Việt Nam và giúp tìm lại tự do dân chủ mà họ đã bỏ rơi suốt 37 năm qua kể từ 30-4-1975. Tự Do-Hòa Bình Việt Nam Gắn Liền Phục Hồi Kinh Tế Hoa Kỳ!
Hoa kỳ trở lại Đông Á/TBD cho phục hồi kinh tế nước Mỹ suy thoái trầm trọng. TT Barack Obama đến Honolulu-Hawaii thuộc châu á TBD để thiết lập khối mậu dịch thị trường Tự Do xuyên TBD gọi tắt TPP, ngày 11-11-2011 để đối trọng lại nền kinh tế đang phát triển bành trướng của Trung Cộng đang lấn dần và thao túng quyền lực lên khối kinh tế các nước Asean -Đông Nam Á- bằng tranh chấp chủ quyền Biển Đông Á.
Hoa Kỳ tuyên bố:Đông Á/TBD là “Quyền lợi cốt lõi của Mỹ có truyền thống xưa nay với đồng minh Hoa Kỳ trong mậu dịch buôn bán”. và Mỹ có quyền bảo vệ bạn hàng buôn bán đồng minh của mình bằng con đường Tự- do hàng hãi được quốc tế hóa của LHQ.
Việt Nam là một trong 6 nước có chủ quyền tranh chấp với Trung Quốc, nhưng vì là đồng khối cộng sản với Trung Quốc,nên Trung Cộng có quyền lấy biển đảoVN làm ao nhà,và mặc nhiên vẻ cung đường lưỡi bò chín đoạn bao gồm quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam đầy triển vọng tiềm năng dầu mõ, khí đốt. Và cũng là năng lượng, chiến lược của Hoa Kỳ và Trung Cộng tìm cách làm chủ biển Đông Á/TBD. Hơn nữa Trường sa của VN là điểm giao lưu, ngã tư quốc tế hàng hải hội tụ nhiều thủy hải sản cá tôm, do có hai dòng nước nóng và lạnh của thế giới chảy qua. Vì thế Trung Quốc Cộng Sản Muốn VN là mãi mãi của tầu cộng, để Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên 8o% trên biển đông Á/TBD. Là điều không thể được trên đường phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ sau khi rãnh tay; chấm dứt chiến tranh dầu hỏa tại Trung Đông.
Việt Nam là một nước bị Hoa kỳ bỏ rơi trong cuộc chiến tranh Vn trước năm 1975, và nay trở thành thuộc phiên một tỉnh của Trung Quốc Cộng Sản có lãnh thổ mở rộng về phương Nam-Đông Á/TBD, là bàn đạp, căn cứ đóng vững chắc trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ và đồng minh trong tranh chấp ngôi vị sô1 kinh tế toàn cầu xuất phát từ đây. Với vị thế chiến lược có Việt Nam là ngòi nổ chiến tranh xẩy ra, không thể tránh được một cuộc chiến khu vực biển Đông á/TBD cho tranh chấp dầu hỏa, và dẩn đến chiến tranh thế giới thứ 3.
Việt nam có “ Quyền lợi cốt lõi trong chiến tranh!?” nên VNCS ra sức khai thác quyền lợi bằng trò đu dây qua lại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để tìm sự tồn tại CSVN giữa hai lằn đạn bạn và thù: “Theo Tàu thì mất nước, còn Đảng theo Mỹ, còn nước mất đảng…”. Vậy giải pháp thứ 3 là Du dây là an-toàn cho đảng CSVN tồn tại… mới là khôn ngoan của đỉnh cao trí tuệ CSVN.
Hoa Kỳ là một con buôn tầm cở quốc tế không thua gì sư phụ “Ba Tàu cộng sản”. Biết rỏ đâu là quyền lợi “Cốt lõi Hoa Kỳ” khi trở lại Đông Nam Á/TBD, họ muốn CSVN làm “Đối tác tác chiến lược, cân bằng quyền lực Trung quốc tại Biển Đông”, thì đổi lại mỹ sẽ bồi thường chiến tranh trong chất độc da cam-dioxin với hình thức nhân đạo cho VN, theo tuyên bố của bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton ngày 23-7-2010 tại Hà Nội với TT Nguyễn Tấn Dũng và Ngoại giao Phạm Gia Khiêm CSVN. Không phải Mỹ tử tế và nhân đạo gì!? với VN, là vì Hoa Kỳ muốn lấy “Gậy ông đập lưng ông” nên tạo dựng ra màn bi kịch, xúi Cộng sản TQ đánh CSVN: “Dạy cho VN bài học vô ơn” và chạy theo Mỹ -kẽ thù TQ. Và VN là ngòi nổ nguy hiểm chiến tranh Trung-Việt không thể tránh né được. Hoa Kỳ cũng biết rỏ CS Hà Nội không đáng tin cậy và anh hùng dám đánh Trung Cộng như trận hải chiến Hoàng Sa-19-1-1974- của đồng Minh cũ VNCH, mới thật đáng tin tưởng hơn CSVN.
Cộng sản Việt Nam sắp tới đây sẽ bị Trung cộng đánh trong tháng 8 đến tháng 10-2012 theo đúng kế hoạch tranh cữ bầu phiếu của TT Obama muốn kiếm phiếu để giành phần thắng về mình, nên phải sớm khấy động biển Đông châu á/TBD cho dân Mỹ tin tưởng Obama có khả năng phục hồi kinh tế nước Mỹ,và đem lại công ăn việc làm cho thất nghiệp Hoa-Kỳ bằng hành động thực tế chính trị, quân sự hổ trợ kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu đang lên theo thắng cử nhiệm kỳ II của Obama, để cạnh tranh sống còn gay gắt với TQ đang lên…
Tại sao Trung Quốc không chiến tranh vời Philippine và các nước có chủ quyền tranh chấp với Trung quốc. Vì các nước kia có ký hiệp ước bảo vệ chủ quyền lãnh hải khi có chiến tranh với Hoa Kỳ. còn riêng Việt Nam là cộng Sản nên không có hiệp ước hổ tương quân sự với Hoa Kỳ, nêú bị Trung Quốc đánh là ráng đở một mình…vã lại từ xưa trong chiến tranh Việt nam, các nước trong vùng Đông Nam Á có nước nào chịu chiến tranh để be bờ Công Sản, chì muốn VN làm tiền đồn chống cộng -VNCH- Họ luôn xô đẩy chiến tranh ra khỏi đất nước họ để có an bình và thời gian xây dựng lại đất nước cho được phát triển kinh tế giàu mạnh cho dân họ nhờ.
Vừa qua,ngày 39-1-2012 Philippine tập trận cùng Mỹ tại khu vực tranh chấp chủ quyền Trường Sa bị Trung Cộng hăm dọa trừng phạt quân sự lẫn kinh tế, Philippine liền xuống nước nhỏ để đẩy chiến tranh TQ sang phía VN. Như thể VN là bải rác chiến tranh không bằng!?. Đây chính là nguồn trục lợi kiếm tiền trên xương máu, đau khổ của dân VN khi chiến tranh. Dù CSVN có tài giỏi đu dây, cũng có ngày bị đứt “cable đu” và dân tộc việt Nam lãnh đủ chiến tranh thêm lần nữa!???.
Khi
Hoa Kỳ tuyên bố trở lại Đông á/TBD và thành lập khối kinh tế tự do mậu
dịch xuyên Thái Bìng dương-TPP bao gồm các nước Đông –Tây-Nam Bắc bên bờ
Thái Bình Dương 21 quốc gia, kể luôn 10 nước trong khu vực Asean cũ.
Nên cần phải quốc tế hóa tự do hàng hải biển Đông Á cho mục tiêu giao
thương, vận chuyển hàng hóa các nước trong vùng, mà Hoàng Sa và Trường
Sa VN là ngã tư giao lộ hải trình quốc tế bị Trung Cộng chiếm giữ làm ao
nhà và khoanh vùng bằng đường lưỡi bò 9 đoạn, bởi CSVN nằm trong hệ
thống khối cộng sản, nên gây trở giao thương quốc tế cho khối mậu dịch
Xuyên Thái Bình Dương –TPP của Hoa Kỳ. Muốn không trở ngại thì phải đưa
Trung Quốc Cộng Sản trở lại thi hành H Đ Paris/73 trong chiến tranh VN,
mà Trung Cộng và Hoa Kỳ đồng chủ tịch hội đồng ký H Đ paris có giám sát
quốc tế LHQ và 12 nước thuộc 2 khối Cộng Sản, Tự Do ký thi hành. Và Sau
đó Trung Quốc và Cộng sản Hà Nội vi phạm H Đ Paris. Kẻ dưới biển -Trung
Cộng chiếm đóng Hoàng Sa củaVNCH 19-1-1974; trên bờ CS Bắc Việt tấn công
chiếm đóng Saigon Miền Nam VN 30-4-1975. Đó là lý do căn bản vững chắc
không thể phủ nhận của Trung quốc và CSVN phải rả lại quyền biển đảo
cho VNCH để Mỹ và LHQ thi hành H Đ paris/73 và Quốc Tế hóa tự do hàng
hải biển Đông Á/TBD. Và trả lại Tự Do, độc lập chủ quyền dân chủ cho
Việt Nam.
“WIN-SPOIL” Học Thuyết chiến lược quân sự Hoa Kỳ.
Đây là chiến lược đổi mới quân sự Hoa Kỳ dùng làm công cụ, phương tiện, và yễm trợ Chiến Tranh Kinh Tế giữa Mỹ và TQ. Nét đặc thù trong chiến thuật hành quân mới lạ; hoàn toàn thay đổi đối sách chiến lược Win-Win{Cùng thắng }của Hoa Kỳ. Nó có ý nghĩa tìm “Thắng lợi trong thất bại”. Đúng! chỉ cần một đạo quân nhỏ với kỹ thuật tác chiến cao và các phương tiện vũ khí khoa học “Kỹ thuật số” cao;c ó bom định vị xuyên phá hầm ngầm trong lòng đất; có hỏa tiển xuyên lục địa từ ngoài biển khơi bắn vào, và hỏa lực tàng hình vượt qua màng lá chắn đạn đối phương…Tìm mục tiêu căn cứ địch bằng vệ tinh định vị toàn cầu , là Hoa Kỳ không cần quân đội nhiều để đưa quân chiếm cứ đất đai, lập căn cứ và phải đóng quân cố định trong lòng địch mới được gọi là chiến thắng… Nay căn cứ là mục tiêu di động trên chiến trường biển khơi, rất khó bị phát hiện và tấn công của địch, nên dể bảo tồn lực lượng và duy trì khả năng tác chiến, như cuộc chiến tranh khoa học “Giữa Các Vì Sao”. Rất thích nghi, có điều kiện cho chiến trường Đông Á/TBD giữa Mỹ và Trung Quốc.
Chiến Tranh Kinh Tế
Một cuộc chiến không cần chiếm đất,đóng quân và bảo vệ căn cứ rất hao quân, tổn tướng , tốn hao chi phí quốc phòng. Chỉ cần đóng quân, lập căn cứ quân sự ngoài xa khơi biển cả. với căn cứ, mục tiêu di động của Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử Hoa Kỳ trên biển Trung Hoa cứ nả pháo vào lục địa Trung Cộng, tìm diệt và phá hủy các nhà máy, cơ sở sản xuất, làm tê liệt khả năng kinh tế đối phương, không cần đổ quân chiếm đóng… Vừ rồi, 2-2-2012 quốc phòng Hoa Kỳ họp tham mưu hải quân Philippine, tăng cường vũ khí tối tân và hạm đội hiện đại cho các căn cứ nổi và biết di động trên biển, không cần căn cứ cố địng trên đất liền của Phi theo hiệp ước quân sự cho phép Mỹ đóng quân trên đất liền-năm 1999-vì chiến lược quân sự Win-Spoil cần có sự di chuyển, điều động quân cho hai mặt trận ở Trung Đông và Đông Nam Á Châu.
Đánh cho TQ sập tiệm, làm mất khả năng cạnh tranh kinh tế toàn cầu và khu vực Đông Á/TBD. Nâng kinh tế Hoa kỳ được phục hồi ngôi vị số 1 toàn cầu. Đó là học thuyết chiến lược quân sự toàn cầu “Win-Spoil”dùng cho Chiến Tranh Kinh Tế của TT Barack Obama và bộ Tham mưu quốc phòng Hoa Kỳ khởi xướng, ngày 5-1-2012 để yễm trợ cho sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP- tại Bali -Hawaii, ngày 11-11-2011, khi TT Obama tuyên bố trở lại châu á TBD, để phục hồi kinh tế Mỹ trong suy trầm.
Với chiến lược quân sự thay đổi toàn cầu nầy của hoa kỳ, và rất thích hợp cho cuộc giãm quân số, tiết kiệm ngân sách quốc phòng 480 tỷ đô la trong 10 năm sắp tới của Hoa Kỳ trong đợt phục hồi kinh tế Mỹ sắp tói.
Một cuộc chiến vĩ đại giữa hai thế giới có nền kinh tế khác biệt,dị đồng về cơ chế tổ chức, và điều hướng kinh tế tăng trưởng, cạnh tranh nhau, giữa“Kinh Tế Định Hướng Xã Nghĩa” và “Kinh Tế thị trường Tự-Do” đều có tính ưu điểm của “Các Vì Sao kinh tế số 1 toàn cầu” để cạnh tranh thế đứng trên thế giới giũa Trung Cộng Và Hoa Kỳ trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Một điều ta lấy làm lạ, cứ nhìn vào hiện suy trầm kinh tế của Hoa Kỳ, thì bất cứ phe đối nghịch nào cũng cho rằng Tư Bản chủ nghĩa đang dẩy chết và kinh tế tư bản Hoa Kỳ suy thoái tiêu vong, mất khả năng lãnh đạo kinh tế toàn cầu,nên thay thế Mỹ kim bằng đồng Nhân Dân tệ TQ. Nhưng qua lịch sử lập quốc và phát triển kinh tế của Hoa Kỳ, chúng ta đồng thấy sức mạnh nội tại của dân tộc Mỹ là sức trẻ trung, năng động và có tri thức tự do tổng hợp của nhiều sắc dân trên thế giới. Cứ vài chục năm phải có một lần đáo hạn suy trầm Kinh tế và Hoa Kỳ hay đi tìm chiến tranh về “Kinh Tế” với các nước gây nên suy trầm cuộc sống dân Mỹ, và thụt lùi giá trị đạo đức tự do cho nước Mỹ.
Việt Nam Cộng Sản Mất Cơ Hội Đu Dây!
Vì chiến lược chiến tranh kinh tế của Win-Spoil không có nhu cầu lãnh thổ đất đai để lập căn cứ cố định trên địa thế VN, nên vai trò Đối Tác Chiến Lược cân bằng quyền lực Trung Quốc tại biển đông của CSVN là không cần thiết. Trong đợt cắt giãm quân số, tái bố trí quân lực Mỹ được tinh nhuệ và hiện đại hóa khả năng tác chiến đáp ứng nhu cầu chiến trường linh hoạt hơn. Hay nói chính xác hơn, Hoa Kỳ cắt cable đu dây của CSVN, không cần đối tác chiến lược, vì Hoa Kỳ thừa biết CSVN thà mất nước hơn là mất đảng VC đương quyền lãnh đạoVN, nên không cần đôi co, năn nỉ đền bù chiến tranh-chất độc da Cam- đã được Tầu Cộng trao đổi kinh tế mở cửa với Hoa Kỳ và bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Thị Bình trong bang giao bải bỏ cấm vận kinh tế VN-1965. Đây là điều nhân đạo cần sự giúp đở xoa dịu vết thương chiến tranh dồng lọai của phía Mỹ, mà CSVN không nên đặt thành bồi thường chiến tranh cho kẻ thắng trận Cộng sản Miền Bắc vào cướp phá và chiếm đóng -vi phạm H Đ Paris/73, nay lại làm tiền trên những thân hình khốn khổ và dị dạng do sự tàn phá chất độc da Cam là sự tàn nhẫm vô lương tâm của con người XHCN/CSVN.
Hoa Kỳ đang thực hiện cắt cable du dây của CSVN và điều chỉnh dần chinh phục hồi giá trị tự-do, dân chủ cho dân Miền Nam VNCH khi Cộng Sản xé H Đ Paris/73 chiếm sài gòn miền Nam nay-4-1975.
Lượng Giá Tình Hình Biển Đông Á, Và Mật Ước Thi Hành… Cho Cộng Sản Việt Nam!
Học thuyết chiến lược quân sự Win- Spoil được ra đời trong ngành Lượng Giá Học Quân sự Hoa Kỳ; có sự điều nghiên,đánh giá và và cân lượng rỏ ràng cho sự chọn lựa tối ưu trên mặt trận chiến trường Đông Á để phục vụ nền kinh tế Hoa Kỳ, nên nó rất khả tín, ít sai lầm và mang lại hiệu quả giá trị kinh tế tự do mậu dịch Hoa Kỳ song hành với an ninh hòa bình thế giới.
Hoa kỳ tự hào và tự tin mang, sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP và chiến lược quân sự Win-Spoil vào vùng tranh chấp kinh tế Đông Á/TBD với Trung Cộng của TT Barack Obama tuyên bố trở lại Đông Á/TBD,mở tự do mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương, và quốc tế hóa tự do hàng hải Đông Nam Á với mục đích cốt lỏi quyền lợi cho sự phục hồi nền kinh tế suy trầm của hoa Kỳ.
Mặc dù không còn cần CSVN làm vai trò đối tác chiến lược cho Hoa Kỳ, khi có quốc sách chiến lược Hoa Kỳ-Win-Spoil- thay thế đối tác Vn cân bằng quyền lực Trung Quốc, vì biết CSVN đã ngả hẵn về phía Trung Cộng để được che chở và tồn tại đảng CSVN. Và vì Mỹ đã mạnh tay cắt cable đu dây cộng sản Hà Nội để chấm dứt hành động bỉ ôi ,vô lương tâm của kẻ chiến thắng Hà Nội trên kẻ chiến bại Miền Nam bị què quặc, dị hình-dị dạng bởi sự tàn phá chất độc da cam-Dioxin- trong chiến tranh VN…Nhưng Mỹ vẫn cữ phái đoàn 4 Thượng Nghị Sĩ quốc hội Hoa Kỳ tới Hà Nội VN, gồm các ông: “NS John McCain, NS Sheldon Whitehouse, NS Joseph Lieberman và nữ NS Kelly Ayotte. Trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012, các nghị sĩ Mỹ cho hay họ đã gặp một số lãnh tụ CSVN, thảo luận một số vấn đề, trong đó có cả vấn đề nhân quyền và vấn đề biển Ðông. Bản tin TTXVN tường thuật các cuộc tiếp xúc của ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN, và của ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc Hội, với các nghị sĩ nói trên.
Bản tin này tảng lờ những điều họ yêu cầu chế độ Hà Nội mở rộng dân chủ, trả tự do cho các người bất đồng chính kiến, trả các quyền tự do căn bản cho người dân.
Bản tin của TTXVN cũng tảng lờ những điều phái đoàn nghị sĩ Mỹ nói với ông Dũng về các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển Ðông.
Trước khi đến Việt Nam, 4 nghị sĩ nói trên cũng đã họp báo ở Manila, cũng cho hay họ cũng đã nói chuyện với nhiều viên chức cao cấp của Philippines về chuyện tranh chấp biển Ðông (mà Philippines gọi là biển Tây Phi).
Dịp này, ông nói rằng “Hoa Kỳ sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ tự do hải hành.”
Khi phái đoàn nghị sĩ Mỹ còn ở Manila, Hoàn Cầu Thời Báo ở Bắc Kinh đả kích Mỹ chen vào tranh chấp ở khu vực.
Và tiếp theo, chưa đầy 2 tuân lễ Hoa kỳ đề cữ :Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, quan chức ngoại giao cao cấp nhất của Mỹ phụ trách khu vực Châu Á-Thái Bình nói hôm 2/2 rằng để quan hệ Mỹ-Việt tiến thêm bước nữa thì Hà Nội cần có cải thiện đáng kể về nhân quyền.
“Chúng
tôi cũng nói rõ việc chúng tôi tin là vẫn còn tù chính trị,
tù nhân lương tâm và những người bị giam giữ trái luật pháp [ở
Việt Nam].-"Ông Kurt Campbell.Truyền
thông Việt Nam khi đưa tin về chuyến thăm của ông Campbell đã không
nhắc gì tới chủ đề nhân quyền.
Ông
thứ trưởng ngoại giao trong chuyến đi lần này nói hiện vẫn còn
lệnh cấm đối với việc cung cấp một số mặt hàng quốc phòng
giữa Mỹ và Việt Nam. Thế nhưng, hai quân đội đã bắt đầu có
các tương tác.
Hoa Kỳ đã phản ứng nhanh chóng trước các diễn biến dân chủ tích cực ở Miến Điện và chỉ 12 tiếng đồng hồ sau đợt thả tù chính trị tháng trước đã thông báo nối lại quan hệ cấp đại sứ với Nay Pi Taw.
Tuy nhiên, ông Campbell cũng cảnh báo rằng còn nhiều khó khăn to lớn trước mắt Miến Điện trong nhiều lĩnh vực, không chỉ ngày một ngày hai mà giải quyết xong.
"Tôi nghĩ các nước Asean đều ủng hộ việc Hoa Kỳ và các quốc gia khác hợp tác chặt chẽ với chính quyền Miến Điện và điều này không còn là trở ngại trong quan hệ giữa Mỹ và Asean nữa."
Hai phái đoàn vừa qua của Hoa Kỳ mang điều kiện dân chủ,nhân quyền ra yêu cầu VNCS phải thi hành để góp phần vào giải quyết ổn định khu vực Đông Nam Á/TBD.Đó là mật ước thi hành H D paris/73,vì nó ẩn tàngTự Do dân Chủ của Miền Nam VNCH mà Mỹ có trách nhiệm thi hành đối với kẻ thù Cộng Sản VN, đem lại sự công bằng tự do dân chủ trả lại đồng minh,chiến hữu VNCH. Và vì ly do tế nhị ngoại giao, và tính phổ quát Tự Do-Dân Chủ-Nhân Quyền đều là tính tất yếu trong thiêng liêng…! Nhưng nó lại nằm trong tư tưởng Người Việt Quốc Gia và có sẳn trong hiến pháp thể chế VNCH,bị cộng sản Bắc Việt vi phạm H Đ Paris chiếm đóng Miền Nam VNCH-30-4-1975. Nay CSVN phải thi hành theo mật ước Hoa Kỳ cho tự do dân chủ VN, nếu không muốn mang tiếng là kẻ cướp, quân xăm lăng Quốc Tế Cộng Sản làm xấu hổ chủ nghĩa Mác-Lenin và manh tiếng kẻ bại trận, đầu hàng Cộng sản Nga Tàu khi Hoa Kỳ đánh mất tự do dân chủ Miền Nam VNCH!?
Sứ Giả Hòa Bình và Thông Điệp Tự
Do-Dân chủ cho Việt Nam!
Qua
hai cuộc trao đổi liên tục như con thoi của hai phái đoàn Hoa Kỳ đến
Việt Nam trong đầu xuân mới Asean-Đông Nan Á Thái Bình Dương, được cho
là động thái quyết tâm cấp bách phục hồi nền kinh tế Mỹ đang suy trầm.
Để tạo sự ủng hộ,chiến thắng trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của Barack
Obama trong tháng 11-2012, và cũng tạo một niềm tin tưởng đáng tin cậy
cho các đồng minh và đối tác kinh tế trong khu vực Đông Nam Á/TBD, khi
TT.Barack Obama tuyên bố trở lại Biển Đông ÁTBD phục hồi lại kinh tế suy
thoái Hoa Kỳ.Do-Dân chủ cho Việt Nam!
Muốn làm được điều này,trước hết phải giải quyết hiện tình Việt Nam đang nằm trong thế kẹt của Cộng Sản Trung Quốc chiếm trọn lãnh hải một vùng “Lưỡi Bò-Chín Đoạn” rộng lớn hơn 80% Đông Nam Á/TBD, là nhờ vi phạm trắng trợn HD Paris/73 của 2 kẻ thù CSVN và Trung Cộng do sự bao che,dễ dàng trong trao đổi mở cửa thị trường đông dân Trung Quốc Của Hoa Kỳ năm 1972 giữ Nixon và Mao Trạch Đông TQ. Và vùng Lưỡi Bò nằm áng ngữ ngả tư giao thương quốc tế,từ Đông Sang Tây của Thái Bìng Dương và Ấn Độ Dương;từ Bắc tới Nam của khu vự biển Đông Á/TBD do bị Hoàng Sa của CSTQ và CSVN chiếm đóng kiểm soát, và khống chế giao thương quốc tế,và ảnh hưởng thất bại đến tự do mậu dich xuyên Thái Bình dương –TPP- của Hoa Kỳ .Vì thế Mỹ phải dùng sức mạnh quân sự “Win-Spoil” vừa mới chế tác ra để yễm trợ phục hồi kinh tế Hoa Kỳ,và luật quốc tế LHQ về biển{Unclos},hay nguyên tắc ứng xử biển đông{COC} ra áp dụng với Cộng Sản TQ và VN,để đòi lại quyền Tự Do hàng hải và quốc tế hóa Biể Đông Á.Nhưng chưa chắc gì chấp thuận hòa bình biển Đông của kẻ bành trướng Bắc Kinh nuôi tham vọng làm kinh tế sô1 toàn cầu và đè bẹp,nhấn chìm kinh tế Mỹ hết chỗ ngóc đầu lên,với lý do đây là vùng kinh tế đặc quyền Cộng Sàn, “Kinh tế Dịnh Hưo1ng Xã Nghĩa Cộng Sản” bách chiến bách thắng,không bao giờ suy thoái trên toàn cầu!?
Vì muốn được niềm tin của của đồng minh buôn bán trong khu vực Asean và thắng lợi trong bầu cữ nhiệm kỳ2, nên TT Barack Obama phải đưa Trung Quốc Cộng Sản và Cộng Sản VN vào thế vi phạm H Đ Paris/73 do Trung Cộng chiếm đóng của VNCH ngày 19-1-1974,Và Cộng Sản Bắc Việt tiến chiếm Sài gòn/Miền Nam/VNCH và lôi cả quốc tế LHQ vào cuộc thi hành H D Paris.Đó là lý do rất thuyết phục cho đồng phạm TQ và VN ra Hội Đồng Bảo An LHQ thi hành bản lệnh tội ác và phải trả lại quyền tự chủ dân tộc cho Việt Nam tự quyết định Tự do, dân chủ chinh mình, cho công cuộc gia nhập vào cộng đồng thế giớiTư do Mậu dịch.
Có được như vậy TT.Obama mới giữ trọn miền tin và giữ chữ tín, bảo vệ đồng minh, không bán đứng bạn bè như VNCH trước đây,thì kinh tế mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương-TPP- mới được thành công cho phục hồi kinh tế nước Mỹ và thắng cữ nhiệm kỳ 2 của TT Barack Obama trong trạng thái thanh-thãng làm tròn trách nhiệm mang lại tự do,dân chủ dân tộc Viêt Nam.Và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của Thượng Đế cho Hòa Bình Việt Nam, mà tiên tri Vũ Trụ Trần Dần chúc phúc dân tộcViệt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
Nguồn: http://nhogikhong-paris1973.blogspot.com/2014/01/hiep-inh-paris-1973.html
Hội-Luận 27/1/2013 ở Westminster Gắn Liền Hiệp-Định Paris 1973 Với Biển Đông
Từ trái qua phải: Lý Kiến Trúc, Nguyễn Ngọc Bích, Vũ Hữu San, Phạm Thị Diệu Chi
Cuối tuần qua, ông Nguyễn Ngọc Bích đã có mặt ở Quận Cam
để dự một số sinh-hoạt liên-quan đến kỷ-niệm 40 năm ngày ký Hiệp-định
Hòa-bình Paris 1973. Vào ngày thứ Sáu, 25/1, ở Câu Lạc Bộ Báo Chí và
Văn Hóa Nghệ Thuật đã có một buổi gặp gỡ với báo chí do nhà báo Lý Kiến
Trúc đứng tên mời.
Đến
dự có một số đại diện cộng-đồng bên cạnh mấy cơ-sở truyền thông lớn ở
miền Nam Cali: hai đài truyền hình (FreeVietnam.net của ông Bùi Bỉnh Bân
và phóng-viên Phan ĐạiNamcủa Đài SBTN) và đầy đủ bốn tờ nhật-báo lớn
trong vùng: Người Việt, Viễn Đông, Sài Gòn Nhỏ và Việt Báo.
Sớm
nhất đưa tin về cuộc họp báo này là bài của Linh Nguyễn trên trang nhất
Người Việt số ra ngày hôm sau (“Kỷ niệm 40 năm Hiệp ĐịnhParis, Ủy Ban
Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH họp báo,” thứ Bảy, 26/1). Cùng ngày,
Vietbaoonline cũng đã cho đi bài của Bình Sa (“Câu Lạc Bộ Văn Hóa Báo
Chí họp báo về Hòa Ước Paris ’73”) và bài này cũng được đưa vào báo in
ngày hôm sau (Chủ-nhật, 27/1/2013).
Người hải-ngoại cần lên tiếng
Sau
phần giới-thiệu của ông Lý Kiến Trúc, ông Bích cho biết là ngày 25/1,
Hà-nội đã đánh dấu kỷ-niệm 40 năm Hiệp-định Paris này bằng một lễ lớn ở
Hà-nội và một sinh-hoạt tương-tự ở Paris nhằm gáy lên sự thành công của
họ trong việc đánh lừa toàn-thế-giới, dọn đường cho việc họ đánh chiếm
miền Nam vào hai năm sau. Nhưng theo ông Bích, đó là một sự dối trá bởi
chính Hà-nội và Hoa-thịnh-đốn đã cùng thảo ra Hiệp-định Paris 1973 (do
đó mà hai ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã được trao “Giải Nobel Hòa Bình”
năm đó, một điều mà cho đến nay Ủy-ban Na-uy trao giải đó đã phải
ngượng ngùng vì bị mắc lỡm), rồi cũng chính Hà-nội đã vi-phạm hầu như
mọi điều khoản trong đó liên-hệ đến việc “lập lại hòa bình” ở Việt-nam.
Đặc-biệt
nhấn mạnh vào các điều khoản như “Lời mở đầu” (“Preamble”) nhắc đi nhắc
lại mục-đích “lập lại hòa bình” ở VN, Điều 1 nói đến việc “Hoa Kỳ và
các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất [và] toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp Định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam
đã công nhận,” Điều 9a nhấn mạnh đến “Quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được các nước tôn
trọng,” và Điều 9b khẳng-định là “Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết
định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử
thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế,” ông Bích cho rằng Hà-nội
đã vi-phạm tất cả những điều khoản nêu trên mà do chính Lê Đức Thọ thảo
ra, cam-kết tôn trọng và ký kết sau đó.
Chưa
kể là Điều 11 cấm ngặt “mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử” sau
khi đã ngưng bắn và bảo đảm 12 quyền tự do để người dân miền Nam VN có
thể có được “tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc
tế,” tương-tự như cuộc tổng-tuyển-cử đã được Liên-hiệp-quốc tổ-chức ở
Căm-pu-chia năm 1991 đem lại hòa-bình vĩnh cửu cho xứ này.
Chương
V của Hiệp-định Hòa-bìnhParis(ông Bích nhấn mạnh vào chữ “Hòa Bình”
trong tên của Hiệp-địnhParis1973) còn chủ-trương “thống nhất đất nước
hai miền, không bên nào được thôn tính bên nào.”
Tóm
lại, ông Bích cho rằng Hà-nội đã vi-phạm hầu như toàn-bộ
Hiệp-địnhParis, nhất là những điều khoản liên-quan đến việc “lập lại hòa
bình, hòa hợp và hòa giải” ở miềnNam. Vậy thì ta phải mạnh dạn lên án
Hà-nội trong dư-luận quốc-tế và trước mặt lịch-sử, bởi ngay chính chúng
ta cũng sẽ không biết giải thích làm sao sự hiện diện của chính chúng ta
nơi đất khách, trên khắp năm châu với con cháu chúng ta nếu chúng ta
không trở về Hiệp-định Paris và những sự gian trá, vi-phạm của Hà-nội.
Quan-trọng hơn nữa, liên-hệ với chủ-quyền trên Hoàng-sa Trường-sa
Sau
phần trình bầy của ông Nguyễn Ngọc Bích là phần trình bầy của ông Hồ
Văn Sinh, phó-chủ-tịch Ủy-ban nói trên. Ông Sinh cho biết là trước khi
mất, cựu-Thủ-tướng Nguyễn Bá Cẩn đã làm được một việc vô cùng ý nghĩa.
Ông đã nhân danh Việt-nam Cộng-hòa nộp được hồ-sơ thềm lục-địa của VNCH
lên Liên-hiệp-quốc (Ủy-hội LHQ về Luật Biển, tức UNCLOS) vào ngày
13/5/2009. Và LHQ đã ghi nhận hồ-sơ này như một hồ-sơ quốc gia về
vấn-đề này.
Như
vậy, dưới con mắt LHQ Việt-nam Cộng-hòa vẫn còn tồn tại, chiếu theo
Điều 76 của Hiến-chương LHQ công-nhận những chính-phủ lưu vong ở ngoài
lãnh-thổ. Đó là lý-do tại sao ta cần gắn liền VNCH với việc đòi
chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa (bởi Hiệp-định Genève,
tiền-thân của Hiệp-định Hòa-bình Paris, định nghĩa rõ ràng HS-TS là ở
dưới vĩ-tuyến 17 và như vậy thuộc chủ-quyền của miền Nam, tức VNCH, chứ
không thuộc chủ-quyền của miền Bắc xã-hội-chủ-nghĩa).
Công-hàm
ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng công-nhận Trung-Cộng có chủ-quyền trên
hai quần-đảo HS và TS là một sự đi “bán da gấu,” bán những phần đất và
lãnh-hải không thuộc về Hà-nội. Chính Thủ-tướng CSVN, ông Nguyễn Tấn
Dũng, ngày 25/11/2011 đã phải ra trước Quốc-hội CS ở Ba-đình và ba lần
công-nhận “chủ-quyền” của VNCH (nêu đích-danh) trên hai quần-đảo HS và
TS.
Với
những cơ-sở pháp-lý (có quốc-tế chứng-nhận) vững chắc như vậy, ông Bích
kết-luận, chúng ta chờ gì mà không dựa vào đó tranh đấu cho chủ-quyền
của chúng ta (VNCH) trong cuộc tranh chấp Biển Đông với Trung-Cộng, nhất
là khi chính Trung-Cộng cũng lại vi-phạm Định-ước Quốc-tế bảo đảm việc
thực-thi HĐ Paris, ký vào ngày 1/3/1973 do 12 quốc gia trên thế-giới với
sự chứng-kiến của ông Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc thời bấy giờ.
Trung-quốc là một trong ngũ cường ký vào đó, cam-kết tôn trọng sự toàn
vẹn lãnh-thổ của miền Nam, rồi cũng chính Trung-Cộng cưỡng-chiếm
Hoàng-sa vào tháng 1/1974, xé bỏ hết mọi cam-kết của họ.
Đòi phục-hoạt Hòa-đàmParis1973, do đó, là một lập-luận vững như bàn thạch trên căn-bản pháp-lý và quốc-tế công-pháp.
Sau
phần trình bầy của hai ông Bích và ông Sinh, các nhà báo có mặt đã đặt
ra một số câu hỏi đôi khi hắc búa song những câu hỏi này đã được trả đáp
thỏa đáng. Ông Phát Lưu, một chuyên-gia IT, cũng đã hỏi ông Bích về
chuyến đi vận-động mới đây của ông ở Ba-lan, nhân dịp này ông cũng đã có
gặp cựu-Tổng-thống đầu tiên của nước này thời hậu-CS, ông Lech Walesa
(đọc “Va-oeng-xa”).
Sang
ngày hôm sau, chương-trình Youtube của Vanhoanblc (Văn-hóa Nhân-bản Lạc
Việt) cũng phỏng vấn Ông Bích về vấn-đề Hiệp-định Paris, Định-ước
Quốc-tế và liên-hệ của hai văn-kiện này với vấn-đề Hoàng-sa Trường-sa
của VN. Sang Chủ-nhật, 17/1, nhà báo Phan Tấn Hải còn đưa bài phỏng vấn
ông Nguyễn Ngọc Bích về Hiệp-địnhParis vào một bài xã-luận trên tờ Việt Báo (“Tây Tạng, ViệtNam”).
Hội-luận ngày 27/1 ở Đài Truyền hình VHN
Sang
ngày Chủ-nhật 27/1, đúng ngày kỷ-niệm 40 năm ký kết Hiệp-định Hòa-bình
Paris 1973, cuộc vận-động của ông Bích và UBLĐLTVNCH đã chuyển sang một
cuộc hội-luận kéo dài hơn 2 tiếng đồng-hồ trong phòng hội rất
khang-trang của Đài Truyền hình VHN (trên đường Brookhurst). Buổi
hội-luận đã được mở đầu bằng nghi-lễ chào quốc-kỳ và đồng-ca bài “Bạch
Đằng Giang” do Hội Bà Triệu trình bầy.
Ngoài
ông Nguyễn Ngọc Bích ra, cuộc hội-luận đã có sự tham-gia của Trung-tá
Hạm-trưởng Vũ Hữu San (khu-trục-hạm Trần Khánh Dư), một chứng-nhân hàng
đầu của cuộc hải-chiến Hoàng-sa vào tháng 1/1974 và cũng là tác-giả
hồ-sơ thềm lục-địa do cựu-TT Nguyễn Bá Cẩn nộp cho LHQ; nhà báo Lý Kiến
Trúc trình bầy về các bằng-chứng chủ-quyền của VN và VNCH trên hai
quần-đảo HS-TS; nữ-quân-nhân Phạm Thị Diệu Chi, nói lên tấm lòng của một
người chưa bao giờ được giải ngũ; và cô Hồng Quyên tuyên-đọc Nghị-quyết
của Hội-nghị Diên Hồng Hải-ngoại ngày 27/10/2012. Được mời lên phát
biểu là bà Đặng Kim Trang, phó-chủ-tịch Cộng-đồng Người Việt San Diego,
trong một bài thật hùng-hồn và cảm-động, “Giặc đến nhà, đàn bà phải
đánh.”
Bài
của nhà báo Lý Kiến Trúc sau đó đã được đăng lên Việt Báo ngày thứ Ba,
29/1, trong phần Xã-luận và cuộc hội-luận đã được chiếu “live” trên Đài
VHN và cùng lúc trên hệ-thống Paltalk toàn-cầu của VNCH Foundation
(nghĩa là tận bên Úc hay Âu-châu cũng vào nghe và xem được). Như vậy,
ngoài số đồng-bào đồng-hương đến nghe trực-tiếp trong đại-sảnh hôm đó,
rất nhiều người trên khắp năm châu cũng được tham-dự trực-tuyến.
Riêng
bài trình bầy của Hạm-trưởng Vũ Hữu San, dù như có chỗ hơi chuyên-môn
quá đối với cử-tọa, song vẫn được theo dõi một cách đam mê bởi tiếng nói
hùng-hồn tha thiết của ông, dựa trên những bản-đồ do chính ông và nhà
báo Lý Kiến Trúc đem tới. Ông San đã kể là việc xác-lập bản-đồ thềm
lục-địa của VNCH không phải là dễ song cuối cùng, nhở những tài-liệu rất
chi-tiết của Trung-tâm Đông-Tây (East-West Center) của Viện Đại-học
Hawaii, ông đã kịp thời lập hồ-sơ để nộp LHQ.
Tâm Việtwww.vietthuc.org
Nguồn: http://www.vietthuc.org/hoi-luan-2712013-o-westminster-gan-lien-hiep-dinh-paris-1973-voi-bien-dong/
Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Hoang tưởng hay hiện thực?
Khoảng Cách Chạy Tội: Sự Thực Phũ Phàng Về Hiệp Định Paris 1973.”
Bài này có một tiểu mục về chủ trương phục hồi Hiệp Định Paris của Ông
Nguyễn Ngọc Bích, Chủ Tịch của Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH, một hình
thức chính phủ lưu vong. Tôi đã kết luận rằng đây là một ý kiến hoang
tưởng.Nhiều độc giả đặc biệt chú ý tới một tiểu mục này và đóng góp khá
nhiều ý kiến.Riêng Ông Nguyễn Ngọc Bích vẫn nghiêm chỉnh cho rằng ý kiến
phục hồi Hiệp Định Paris là một việc khả thi.Theo ông, sau khi lấy lại
miền Nam Việt Nam, ông sẽ tổ chức tổng tuyển cử và những người di cư từ
miền Bắc vào Nam sau 30-4-1975 được phép ở lại miền Nam, nhưng họ không
có quyền đi bầu. Phần đông ai cũng thấy đây là một chuyện hoang
tưởng.Tuy nhiên, theo lời yêu cầu của một số độc giả,kể cảÔng Nguyễn
Ngọc Bích, tôi xin giải thích rõ hơn vì sao phục hồi Hiệp Định Paris
không thể là một hiện thực.
Sáng kiến phục hồi Hiệp Định Paris 1973
Sáng kiến phục hồi Hiệp Định Paris 1973 đã có từ cuối thập niên 1970. Sau khi GS Vũ Quốc Thúc được chính phủ Pháp can thiệp cho di cư sang Pháp vào 1978, ông đã nhận thấy những nhân vật chủ chốt cũ của VNCH cần thành lập một chính phủ lưu vong để phục hồi Hiệp Định Paris và tiếp tục tranh đấu chống Cộng Sản. Nhưng mãi đến cuối 1986, ý kiến này mới được thảo luận nghiêm chỉnh trong một cuộc hội thảo tại Paris để bàn về vấn đề thuyền nhân. LS Vương Văn Bắc, cựu bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, nhận định rằng Hiệp Định Paris vẫn còn có giá trị và có những điều khoản giúp thiết lập hòa bình ở Việt Nam và như vậy sẽ chấm dứt được thảm cảnh vượt biển và quốc tế sẽ không nhìn những thuyền nhân như những người tị nạn kinh tế.
Các tham dự viên của cuộc hội thảo đã quyết định thành lập Ủy Ban Luật Gia Việt NamVận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 (Comité de Juristes Vietnamiens pour la Remise en Vigueur des Accords de Paris de 1973) do GS Vũ Quốc Thúc làm chủ tịch.Ủy Ban Luật Gia Việt Nam(Ủy Ban Luật Gia Việt NamVận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 viết tắt) soạn thảo bạch thư “Chiến Tranh và Hòa Bình ở Đông Dương” (Guèrre et Paix en Indochine) và chính thức kêu gọi Chánh Phủ Pháp đứng ra hòa giải vì Pháp đã tổ chức cuộc hòa đàm đưa đến Hiệp Định Paris 1973.
Tiếp theo sáng kiến của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973, một vài nhân vật và một số tổ chức khác đã theo đuổi việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973.
Trước và sau khi của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 được thành lập, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp xúc với tổ chức này thường xuyên, vì ông ủng hộ việc vãn hồi Hiệp Định Paris. Chính cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đã gửi thư lên Liên Hiệp Quốc về vấn đề này vào năm 1993.
Đến năm 2008, Ông Nguyễn Bá Cẩn, cựu chủ tích Hạ Viện và cựu thủ tướng VNCH, thành lập Chánh Phủ VNCH lưu vong tại Hoa Kỳ. Ông Cẩn cũng chủ trương phục hồi Hiệp Định Paris 1973. Sau khi ông đột ngột từ trần vào năm 2009, hai Ông nguyễn Văn Chức và Lý Tòng Bá của Chính Phủ VNCH lưu vong tiếp tục công việc vận động này. Người ta không rõchính phủ lưu vong này đã đạt những kết quả cụ thể nào.
Gần đây nhất, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH) của Ông Nguyễn Ngọc Bích mới thành lập vào tháng 10, 2012 cũng gửi thỉnh nguyện thư gồm trên 30.000 chữ ký, kêu gọi Liên Hiệp Quốc tái nhóm một Hội Nghị Quốc Tế khẩn cấp về Việt Nam để “phục hồi Hiệp Định Paris 1973 nhắm trả lại danh dự và công bằng cho 40 triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa”.
Thỉnh nguyện thư này gián tiếp xác nhận UBLĐLTVNCH là một chánh phủ lưu vong và có một “quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ngoài lãnh thổ”. Việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973 và thành lập chính phủ lưu vong VNCH chỉ là phương tiện.Mục tiêu của UBLĐLTVNCH là phục hoạt chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết những nhân vật chính của VNCH từ ngày ra nước ngoài sống ẩn dật hoặc ngày nay đã quá lớn tuổi hoặc đã qua đời.
LS Lâm Chấn Thọ, một người chủ trương trở lại Hiệp Định Paris 1973, phân tách rằng “Vì không có một tổ chức nào ở hải ngoại hoặc quốc nội có đủ tầm vóc để được các thành phần không cộng sản tín nhiệm, chính phủ lưu vong là chất keo kết nạp tất cả các tổ chức không cộng sản lại.” Người ta muốn biết tất cả bốn chính phủ Việt Nam lưu vong ở Hoa Kỳ có được người Việt trong và ngoài nước ủng hộ hay không, cho đến nay đã kết nạp được bao nhiêu đoàn thể, có bao nhiêu thành viên, thành lập được bao nhiêu cơ sở.
Trở ngại chính cho việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973
Việc làm của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 được một phần chính giới Pháp ủng hộ. Tuy nhiên, quan điểm chính thức của Pháp đã được DB Georges Mesmin trình bầy tại cuộc hội thảo 1986 tại Paris rằng:
“Khi chính phủ Pháp chính thức yểm trợ Việt Nam (Cộng Sản) gia nhập Liên Hiệp Quốc [1977], thì mặc nhiên Pháp đã xí xóa việc Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris 1973.”
Ủy Ban Luật Gia Việt Nam cũng không nhận được sự tiếp tay của Hoa Kỳ. Trước cuộc hội thảo một ngày, Ông David Steinman, một luật sư Hoa Kỳ và cộng sự viên của TNS Daniel Moynihan, đến gặp GS Vũ Quốc Thúc và cho biết rằng Hoa Kỳ không muốn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu công khai tham gia hội thảo mà nên đứng sau hội trường. Ông Steinman cũng khuyến cáo rằng:
“Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp bất tuân dân sự (civil disobedience).Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài.”
Vào năm 1989, cựu TNS Phạm Nam Sách và cựu DB Nguyễn Hữu Thống gửi đơn lên Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice) tại The Hague, Hòa Lan để kiện CSVN vi phạm Hiệp Định Paris 1973. Tòa Án Công Lý Quốc Tế không thụ lý được trường hợp này vì cơ quan này chỉ sử tranh chấp giữa các quốc gia hội viên thuộc Liên Hiệp Quốc mà thôi.
Hoa Kỳ không đưa ra một quan điểm chính thức nào về việc vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 cho đến năm 1990. Sau khi cuộc vận động tại Tòa Án Công Lý Quốc Tế không thành công, Luật sư Nguyễn Hữu Thống nhân danh Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền (UBLGBVDQ) vận động thẳng với chánh phủ Hoa Kỳ và được Tổng Thống George H. W. Bush phúc đáp rằng Hoa Kỳ không trở lại Hiệp Định Paris 1973 nữa.
UBLGBVDQ được thành lập vào 1990 gồm có LS Nguyễn Hữu Thống, LS Nguyễn Văn Chức, GS Vũ Quốc Thúc, LS Phạm Nam Sách, LS Nghiêm Xuân Hồng,và GS Nguyễn Cao Hách.
Không có quốc tế yểm trợ, kế hoạch vận động vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 do Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 chủ xướng từ năm 1986 đã thất bại. GS Vũ Quốc Thúc chia sẻ cảm nghĩ của ông về sự kiện này như sau:
“Dù biết trước những sự khó khăn này, ngay từ năm 1986, chúng tôi đã tìm cách nêu vấn đề trở lại Hiệp định Paris. Mục đích của chúng tôi, lúc bấy giờ, là kích thích tinh thần đấu tranh của Cộng đồng Việt Nam tại Pháp, phần nào đã suy giảm sau khi thấy CSVN rầm rộ ăn mừng “mười năm tái thống nhất đất nước … Tóm lại, vấn đề trở lại Hiệp định Paris, coi như đã bị các đồng minh cũ của Việt Nam Cộng Hoà gạt bỏ hẳn.”
Sau khi công cuộc phục hồi Hiệp Định Paris bất thành và Hoa Kỳ bình thường hóa ngoại giao với Hà Nội, GS Vũ Quốc Thúc đã hợp tác TS Nguyễn Bá Long, rút kinh nghiệm của những cuộc cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản ở Đông Âu, thiết lập Phong Trào Hiến Chương 2000 để đấu tranh với CSVN và vận động cho một thể chế tự do dân chủ tại Việt Nam. Bản Hiến Chương 2000 được công bố vào ngày 25-11-2000 tại Paris.
Kể từ năm 1977, khi Việt Nam được gia nhập Liên Hiệp Quốc, tức là đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận, ngày càng có thêm trở ngại cho việc vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 và đến nay có thể nói không còn một hi vọng nào cả.Đối với quốc gia công nhận và quốc gia được công nhận, Hiệp Định Paris không còn giá trị nữa.
Hoa Kỳ chính thức công nhận Việt Nam khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận với Việt Nam vào năm 1994 và tái lập bang giao với Việt Nam vào năm 1995. Kể từ thời điểm này Hoa Kỳ chính thức không còn tôn trọng Hiệp Định Paris 1973.
Ngay từ đầu Hiệp Định Paris 1973 cũng chỉ là một thỏa hiệp tạm bợ để Hoa Kỳ hi vọng có thêm thời gian tháo chạy ra khỏi Việt Nam mà không bị mất mặt. Do đó, không có một động cơ nào để Hoa Kỳ phục hồi hiệp định này.Trái lại, chính sách của Hoa Kỳ hiện nay là liên kết với chính quyền Hà Nội để ngăn chặn lại sự bành trướng của Trung Quốc.
Tại buổi hội thảo về chính sách ngoại giao vào giữa tháng 12 vừa qua tại Hà Nội, Đại Tá CSVN Trần Đăng Thanh, giảng viên thuộc Học Viện Chính Trị, Bộ Quốc Phòng, nói rằng Hoa Kỳ “đang dùng Việt Nam như một lực lượng tiên phong để chặn Trung Quốc.”
Trong một buổi hội thảo vào cuối năm 1987 cũng tại Paris do do Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 tổ chức, ông Henri Kissinger, cựu Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của cựu Tổng Thống Richard Nixon, giải thích rằng:
“Hoa Kỳ không phản ứng khi Hà Nội vi phạm hiệp định vì Hoa Kỳ đang bị lúng túng với vụ Watergate. Dư luận Hoa Kỳ cho rằng Hoa Kỳ đã rút hết quân rồi, việc Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris xâm chiếm miền Nam là việc nội bộ của Việt Nam, Hoa Kỳ không thể nào nhân cơ hội này trở lại Việt Nam để bị lôi cuốn một lần nữa vào ‘vũng bùn chiến tranh’ và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận.”
Trở ngại chính cho việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973 là thiếu hỗ trợ quốc tế.Phục hồi nó không dễ dàng và không đem lại quyền lợi thực tiễn nào cho các nước tham dự Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam.Từ lâu hiệp định này đã là một sự kiện quá khứ.
Trong 40 năm vừa qua, theo thiển ý của tôi, mặc dù có những cá nhân xuất sắc nhưng ở hải ngoại chưa thấy xuất hiện một tổ chức nào lớn mạnh, có uy tín và hậu thuẫn của người Việt để có thể đảm đương những việc làm có tầm vóc quốc tế như việc vận động phục hồi Hiệp Định Paris, giả sử nếu đó là một việc hợp lý đáng làm. Chúng ta không có thực lực.Đó là trở ngại không kém quan trọng.Và nếu không có thực lực, không một định chế quốc tế nào ủng hộ chúng ta cả.
Hiệp Định Paris 1973 chỉ còn giá trị lịch sử
Hiệp Định Paris 1973 đã chết ngắc ngoải vào đầu năm 1974, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris 1973 vô giá trị vì CSVN lợi dụng thời gian ngưng bắn để lấn chiếm những vùng hẻo lãnh. Những vi phạm này được xác nhận trong thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ ngày 10-4-1973 và công hàm của Hoa Kỳ gửi 11 nước yểm trợ Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam.
Khi CSBV xua quân vượt qua sông Bến Hải để tiến chiếm Việt Nam vào 8-1-1975, Hiệp Định Paris đã bị khai tử từ ngày đó.Cả thế giới làm ngơ trước sư vi phạm trắng trợn này. Hoa Kỳ cũng không có một phản ứng nào mặc dù Điều 7 (b) của Đạo Luật về Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam (Act of The International Conference of Vietnam) ký ngày 2-3-1973 bởi 12 nước bảo đảm Hiệp Định Paris 1973 qui định rằng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ và nước Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam có thể triệu tập hội nghị quốc tế thay mặt những nước đã ký kết hoặc trong trường hợp có it nhất sáu nước đồng ý.
Hiệp định Paris 1973 đã chết thì không thể làm sống lại được vì những điều khoản trong hiệp định này. Thật vậy, Hiệp Định Paris 1973 công nhận Việt Nam có hai miền Bắc và Nam. Riêng miền Nam Việt Nam có hai chánh phủ: (1) Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa và (2) Chánh Phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam.
Điều 9 (b) của Chương IV qui định rằng:
“Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ có giám sát quốc tế.”
Sau ngày 30-4-1975, chánh phủ VNCH không còn và sau ngày 2-7-1976 Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam cũng bị sát nhập vào Chánh Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Việt Nam không có hai miền Nam Bắc riêng biệt nữa.Sau 30-4-1975 cả triệu người Bắc di cư vào Nam lập nghiệp, không kể 150,000 quân CSBV được hai Ông Chu Ân Lai và Kissinger cho phép chính thức ở lại miền Nam Việt Nam kể từ ngày Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27-1-1973. Miền Nam hiện nay không còn là miền Nam trước 30-4-1975 nữa.Phục hồi Hiệp Định Paris 1973 để đòi Chánh Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trả lại phần đất phía nam vĩ tuyến 17, để miền Nam tổ chức tổng tuyển cử là một chuyện hoàn toàn thiếu thực tế. Ngoài ra, không ai muốn Việt Nam lại bị chia cắt ra làm hai phần một lần nữa.
Kết luận
Sau 40 năm, tình hình thế giới đã thay đổi.Biển Đông nổi sóng vì tham vọng bành trướng củaTrung Quốc.Bàn cờ Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn.Không nên và cũng không thể nào lập lại bàn cờ cũ được.Cách đây một phần tư thế kỷ, những cố gắng của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 và Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền chứng tỏđã quá trễ rồi. Rút kinh nghiệm của những người đi trước, ngày nay ý tưởng phục hồi một hiệp định đã trở thành vô giá trị, với toan tính dựa dẫm nặng nề một lần nữa vào thế lực ngoại quốc, là một hoang tưởng và một dại dột.
Ông Lê Quế Lâm, một độc giả, sau khi đọc bản thảo của bài viết này đã tóm tắt suy nghĩ của ông như sau:
“Hiệp Định Paris 1973 ra đời đến nay vừa tròn 40 năm, đất nước đã thay đổi quá nhiều, làm sao có thể tái tạo bối cảnh cũ để trình diễn. Chỉ còn cách đóng tuồng để hoài vọng quá khứ.”
Theo thiển ý của tôi, về mặt quốc tế, lội ngược dòng là chết. Tương kế tựu kế là sách lược khôn ngoan cho một quốc gia nhỏ bé và chậm tiến như Việt Nam trong tình trạng hiện nay. Về mặt quốc nội, yểm trợ những nhà dân chủ kiên cường ở trong nước là quốc sách.
Cách đây vài năm, tôi được dịp tham gia một cuộc hội thảo quốc tế về Việt Nam tại Hòa Lan. Trong dịp này tôi được hân hạnh gặp một thuyết trình viên là Bà J. W. E Spies, lúc đó Bà là Chủ Tịch Đảng Christian Democratic Appeal và dân biểu Quốc Hội Hòa Lan, và hiện nay Bà là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Khi được hỏi về vấn đề vận động quốc tế cho tự do dân chủ ở Việt Nam, Bà nói rằng người Việt Nam trước tiên phải hi sinh, phải tranh đấu cụ thể cho đất nước của chính mình trước khi mong đợi người ngoài giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng lời khuyến cáo của Bà Spies thật rấtthực tiễn và chí lý đáng cho chúng ta suy ngẫm.
© Nguyễn Quốc Khải
© Đàn Chim Việt
—————————————
Tài liệu tham khảo:
1. Lam Chan Tho, “Est-il Une Solution Pour Le Vietnam?” 2-10-2012.
2. Lê Quế Lâm, “Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc,” Thụ Nhân Âu Châu, 16-7-2011.
3. Lê Quế Lâm, “Đọc Hồi Ký của GS Vũ Quốc Thúc,” Việt Thức, 28-12-2010.
4. Nguyễn Hữu Thống, “Hiệp Định Hòa Bình Paris Dẫn Đến Hòa Bình của Những Nấm Mồ,” Việt Vùng Vịnh, 2-6-2010.
5. Nguyễn Quốc Khải, “Sự Thật Phũ Phàng Về Hiệp Định Paris 1973,” RFA, 17-12-2012.
6. Nguyễn Quốc Khải, “Mạn Đàm về Chính Phủ Lưu Vong,” Đàn Chim Việt, 05-12-2012.
7. Nguyễn Thiếu Nhẫn, “Sự Vong Thân Của Một Vị Tôn Sư,” Tin Paris, 2-10-2011.
8. Paris Peace Accords, “Act of The International Conference of Vietnam”, March 2, 1973.
9. Trần Đăng Thanh, “Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về Biển Đông cho lãnh đạo các trường Đại học,” Ba Sàm. 19-12-2012.
10. Trần Thị Diệu Tâm, “Buổi Giới Thiệu Sách của GS Vũ Quốc Thúc tại Paris,” 12-11-2010.
11. Trần Thị Diệu Tâm, “Tang Lễ của LS Vương Văn Bắc,” 28-12-2011.
12. U.S. Department of State, “Complaints of Violations of the Cease-fire: United States Note Verbale transmitted April 10, 1973 for delivery to prticipants in the International Conference in Vietnam,” April 10, 1973.
13. Vũ Quốc Thúc, “Thời Đại của Tôi,” nhà xuất bản Người Việt, 2010.
14. Đào Nương, “Chỉ Một Ngày Là Lập Xong Chính Phủ,” Saigon Nhỏ số 1019, 9-11-2012.
Cách đây hai tuần, tôi có viết bài “Sáng kiến phục hồi Hiệp Định Paris 1973
Sáng kiến phục hồi Hiệp Định Paris 1973 đã có từ cuối thập niên 1970. Sau khi GS Vũ Quốc Thúc được chính phủ Pháp can thiệp cho di cư sang Pháp vào 1978, ông đã nhận thấy những nhân vật chủ chốt cũ của VNCH cần thành lập một chính phủ lưu vong để phục hồi Hiệp Định Paris và tiếp tục tranh đấu chống Cộng Sản. Nhưng mãi đến cuối 1986, ý kiến này mới được thảo luận nghiêm chỉnh trong một cuộc hội thảo tại Paris để bàn về vấn đề thuyền nhân. LS Vương Văn Bắc, cựu bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, nhận định rằng Hiệp Định Paris vẫn còn có giá trị và có những điều khoản giúp thiết lập hòa bình ở Việt Nam và như vậy sẽ chấm dứt được thảm cảnh vượt biển và quốc tế sẽ không nhìn những thuyền nhân như những người tị nạn kinh tế.
Các tham dự viên của cuộc hội thảo đã quyết định thành lập Ủy Ban Luật Gia Việt NamVận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 (Comité de Juristes Vietnamiens pour la Remise en Vigueur des Accords de Paris de 1973) do GS Vũ Quốc Thúc làm chủ tịch.Ủy Ban Luật Gia Việt Nam(Ủy Ban Luật Gia Việt NamVận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 viết tắt) soạn thảo bạch thư “Chiến Tranh và Hòa Bình ở Đông Dương” (Guèrre et Paix en Indochine) và chính thức kêu gọi Chánh Phủ Pháp đứng ra hòa giải vì Pháp đã tổ chức cuộc hòa đàm đưa đến Hiệp Định Paris 1973.
Tiếp theo sáng kiến của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973, một vài nhân vật và một số tổ chức khác đã theo đuổi việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973.
Trước và sau khi của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 được thành lập, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp xúc với tổ chức này thường xuyên, vì ông ủng hộ việc vãn hồi Hiệp Định Paris. Chính cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đã gửi thư lên Liên Hiệp Quốc về vấn đề này vào năm 1993.
Đến năm 2008, Ông Nguyễn Bá Cẩn, cựu chủ tích Hạ Viện và cựu thủ tướng VNCH, thành lập Chánh Phủ VNCH lưu vong tại Hoa Kỳ. Ông Cẩn cũng chủ trương phục hồi Hiệp Định Paris 1973. Sau khi ông đột ngột từ trần vào năm 2009, hai Ông nguyễn Văn Chức và Lý Tòng Bá của Chính Phủ VNCH lưu vong tiếp tục công việc vận động này. Người ta không rõchính phủ lưu vong này đã đạt những kết quả cụ thể nào.
Gần đây nhất, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH) của Ông Nguyễn Ngọc Bích mới thành lập vào tháng 10, 2012 cũng gửi thỉnh nguyện thư gồm trên 30.000 chữ ký, kêu gọi Liên Hiệp Quốc tái nhóm một Hội Nghị Quốc Tế khẩn cấp về Việt Nam để “phục hồi Hiệp Định Paris 1973 nhắm trả lại danh dự và công bằng cho 40 triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa”.
Thỉnh nguyện thư này gián tiếp xác nhận UBLĐLTVNCH là một chánh phủ lưu vong và có một “quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ngoài lãnh thổ”. Việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973 và thành lập chính phủ lưu vong VNCH chỉ là phương tiện.Mục tiêu của UBLĐLTVNCH là phục hoạt chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết những nhân vật chính của VNCH từ ngày ra nước ngoài sống ẩn dật hoặc ngày nay đã quá lớn tuổi hoặc đã qua đời.
LS Lâm Chấn Thọ, một người chủ trương trở lại Hiệp Định Paris 1973, phân tách rằng “Vì không có một tổ chức nào ở hải ngoại hoặc quốc nội có đủ tầm vóc để được các thành phần không cộng sản tín nhiệm, chính phủ lưu vong là chất keo kết nạp tất cả các tổ chức không cộng sản lại.” Người ta muốn biết tất cả bốn chính phủ Việt Nam lưu vong ở Hoa Kỳ có được người Việt trong và ngoài nước ủng hộ hay không, cho đến nay đã kết nạp được bao nhiêu đoàn thể, có bao nhiêu thành viên, thành lập được bao nhiêu cơ sở.
Trở ngại chính cho việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973
Việc làm của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 được một phần chính giới Pháp ủng hộ. Tuy nhiên, quan điểm chính thức của Pháp đã được DB Georges Mesmin trình bầy tại cuộc hội thảo 1986 tại Paris rằng:
“Khi chính phủ Pháp chính thức yểm trợ Việt Nam (Cộng Sản) gia nhập Liên Hiệp Quốc [1977], thì mặc nhiên Pháp đã xí xóa việc Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris 1973.”
Ủy Ban Luật Gia Việt Nam cũng không nhận được sự tiếp tay của Hoa Kỳ. Trước cuộc hội thảo một ngày, Ông David Steinman, một luật sư Hoa Kỳ và cộng sự viên của TNS Daniel Moynihan, đến gặp GS Vũ Quốc Thúc và cho biết rằng Hoa Kỳ không muốn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu công khai tham gia hội thảo mà nên đứng sau hội trường. Ông Steinman cũng khuyến cáo rằng:
“Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp bất tuân dân sự (civil disobedience).Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài.”
Vào năm 1989, cựu TNS Phạm Nam Sách và cựu DB Nguyễn Hữu Thống gửi đơn lên Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice) tại The Hague, Hòa Lan để kiện CSVN vi phạm Hiệp Định Paris 1973. Tòa Án Công Lý Quốc Tế không thụ lý được trường hợp này vì cơ quan này chỉ sử tranh chấp giữa các quốc gia hội viên thuộc Liên Hiệp Quốc mà thôi.
Hoa Kỳ không đưa ra một quan điểm chính thức nào về việc vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 cho đến năm 1990. Sau khi cuộc vận động tại Tòa Án Công Lý Quốc Tế không thành công, Luật sư Nguyễn Hữu Thống nhân danh Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền (UBLGBVDQ) vận động thẳng với chánh phủ Hoa Kỳ và được Tổng Thống George H. W. Bush phúc đáp rằng Hoa Kỳ không trở lại Hiệp Định Paris 1973 nữa.
UBLGBVDQ được thành lập vào 1990 gồm có LS Nguyễn Hữu Thống, LS Nguyễn Văn Chức, GS Vũ Quốc Thúc, LS Phạm Nam Sách, LS Nghiêm Xuân Hồng,và GS Nguyễn Cao Hách.
Không có quốc tế yểm trợ, kế hoạch vận động vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 do Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 chủ xướng từ năm 1986 đã thất bại. GS Vũ Quốc Thúc chia sẻ cảm nghĩ của ông về sự kiện này như sau:
“Dù biết trước những sự khó khăn này, ngay từ năm 1986, chúng tôi đã tìm cách nêu vấn đề trở lại Hiệp định Paris. Mục đích của chúng tôi, lúc bấy giờ, là kích thích tinh thần đấu tranh của Cộng đồng Việt Nam tại Pháp, phần nào đã suy giảm sau khi thấy CSVN rầm rộ ăn mừng “mười năm tái thống nhất đất nước … Tóm lại, vấn đề trở lại Hiệp định Paris, coi như đã bị các đồng minh cũ của Việt Nam Cộng Hoà gạt bỏ hẳn.”
Sau khi công cuộc phục hồi Hiệp Định Paris bất thành và Hoa Kỳ bình thường hóa ngoại giao với Hà Nội, GS Vũ Quốc Thúc đã hợp tác TS Nguyễn Bá Long, rút kinh nghiệm của những cuộc cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản ở Đông Âu, thiết lập Phong Trào Hiến Chương 2000 để đấu tranh với CSVN và vận động cho một thể chế tự do dân chủ tại Việt Nam. Bản Hiến Chương 2000 được công bố vào ngày 25-11-2000 tại Paris.
Kể từ năm 1977, khi Việt Nam được gia nhập Liên Hiệp Quốc, tức là đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận, ngày càng có thêm trở ngại cho việc vãn hồi Hiệp Định Paris 1973 và đến nay có thể nói không còn một hi vọng nào cả.Đối với quốc gia công nhận và quốc gia được công nhận, Hiệp Định Paris không còn giá trị nữa.
Hoa Kỳ chính thức công nhận Việt Nam khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận với Việt Nam vào năm 1994 và tái lập bang giao với Việt Nam vào năm 1995. Kể từ thời điểm này Hoa Kỳ chính thức không còn tôn trọng Hiệp Định Paris 1973.
Ngay từ đầu Hiệp Định Paris 1973 cũng chỉ là một thỏa hiệp tạm bợ để Hoa Kỳ hi vọng có thêm thời gian tháo chạy ra khỏi Việt Nam mà không bị mất mặt. Do đó, không có một động cơ nào để Hoa Kỳ phục hồi hiệp định này.Trái lại, chính sách của Hoa Kỳ hiện nay là liên kết với chính quyền Hà Nội để ngăn chặn lại sự bành trướng của Trung Quốc.
Tại buổi hội thảo về chính sách ngoại giao vào giữa tháng 12 vừa qua tại Hà Nội, Đại Tá CSVN Trần Đăng Thanh, giảng viên thuộc Học Viện Chính Trị, Bộ Quốc Phòng, nói rằng Hoa Kỳ “đang dùng Việt Nam như một lực lượng tiên phong để chặn Trung Quốc.”
Trong một buổi hội thảo vào cuối năm 1987 cũng tại Paris do do Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 tổ chức, ông Henri Kissinger, cựu Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của cựu Tổng Thống Richard Nixon, giải thích rằng:
“Hoa Kỳ không phản ứng khi Hà Nội vi phạm hiệp định vì Hoa Kỳ đang bị lúng túng với vụ Watergate. Dư luận Hoa Kỳ cho rằng Hoa Kỳ đã rút hết quân rồi, việc Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris xâm chiếm miền Nam là việc nội bộ của Việt Nam, Hoa Kỳ không thể nào nhân cơ hội này trở lại Việt Nam để bị lôi cuốn một lần nữa vào ‘vũng bùn chiến tranh’ và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận.”
Trở ngại chính cho việc phục hồi Hiệp Định Paris 1973 là thiếu hỗ trợ quốc tế.Phục hồi nó không dễ dàng và không đem lại quyền lợi thực tiễn nào cho các nước tham dự Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam.Từ lâu hiệp định này đã là một sự kiện quá khứ.
Trong 40 năm vừa qua, theo thiển ý của tôi, mặc dù có những cá nhân xuất sắc nhưng ở hải ngoại chưa thấy xuất hiện một tổ chức nào lớn mạnh, có uy tín và hậu thuẫn của người Việt để có thể đảm đương những việc làm có tầm vóc quốc tế như việc vận động phục hồi Hiệp Định Paris, giả sử nếu đó là một việc hợp lý đáng làm. Chúng ta không có thực lực.Đó là trở ngại không kém quan trọng.Và nếu không có thực lực, không một định chế quốc tế nào ủng hộ chúng ta cả.
Hiệp Định Paris 1973 chỉ còn giá trị lịch sử
Hiệp Định Paris 1973 đã chết ngắc ngoải vào đầu năm 1974, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris 1973 vô giá trị vì CSVN lợi dụng thời gian ngưng bắn để lấn chiếm những vùng hẻo lãnh. Những vi phạm này được xác nhận trong thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ ngày 10-4-1973 và công hàm của Hoa Kỳ gửi 11 nước yểm trợ Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam.
Khi CSBV xua quân vượt qua sông Bến Hải để tiến chiếm Việt Nam vào 8-1-1975, Hiệp Định Paris đã bị khai tử từ ngày đó.Cả thế giới làm ngơ trước sư vi phạm trắng trợn này. Hoa Kỳ cũng không có một phản ứng nào mặc dù Điều 7 (b) của Đạo Luật về Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam (Act of The International Conference of Vietnam) ký ngày 2-3-1973 bởi 12 nước bảo đảm Hiệp Định Paris 1973 qui định rằng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ và nước Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam có thể triệu tập hội nghị quốc tế thay mặt những nước đã ký kết hoặc trong trường hợp có it nhất sáu nước đồng ý.
Hiệp định Paris 1973 đã chết thì không thể làm sống lại được vì những điều khoản trong hiệp định này. Thật vậy, Hiệp Định Paris 1973 công nhận Việt Nam có hai miền Bắc và Nam. Riêng miền Nam Việt Nam có hai chánh phủ: (1) Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa và (2) Chánh Phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam.
Điều 9 (b) của Chương IV qui định rằng:
“Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ có giám sát quốc tế.”
Sau ngày 30-4-1975, chánh phủ VNCH không còn và sau ngày 2-7-1976 Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam cũng bị sát nhập vào Chánh Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Việt Nam không có hai miền Nam Bắc riêng biệt nữa.Sau 30-4-1975 cả triệu người Bắc di cư vào Nam lập nghiệp, không kể 150,000 quân CSBV được hai Ông Chu Ân Lai và Kissinger cho phép chính thức ở lại miền Nam Việt Nam kể từ ngày Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27-1-1973. Miền Nam hiện nay không còn là miền Nam trước 30-4-1975 nữa.Phục hồi Hiệp Định Paris 1973 để đòi Chánh Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trả lại phần đất phía nam vĩ tuyến 17, để miền Nam tổ chức tổng tuyển cử là một chuyện hoàn toàn thiếu thực tế. Ngoài ra, không ai muốn Việt Nam lại bị chia cắt ra làm hai phần một lần nữa.
Kết luận
Sau 40 năm, tình hình thế giới đã thay đổi.Biển Đông nổi sóng vì tham vọng bành trướng củaTrung Quốc.Bàn cờ Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn.Không nên và cũng không thể nào lập lại bàn cờ cũ được.Cách đây một phần tư thế kỷ, những cố gắng của Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Vận Động Vãn Hồi Hiệp Định Paris 1973 và Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền chứng tỏđã quá trễ rồi. Rút kinh nghiệm của những người đi trước, ngày nay ý tưởng phục hồi một hiệp định đã trở thành vô giá trị, với toan tính dựa dẫm nặng nề một lần nữa vào thế lực ngoại quốc, là một hoang tưởng và một dại dột.
Ông Lê Quế Lâm, một độc giả, sau khi đọc bản thảo của bài viết này đã tóm tắt suy nghĩ của ông như sau:
“Hiệp Định Paris 1973 ra đời đến nay vừa tròn 40 năm, đất nước đã thay đổi quá nhiều, làm sao có thể tái tạo bối cảnh cũ để trình diễn. Chỉ còn cách đóng tuồng để hoài vọng quá khứ.”
Theo thiển ý của tôi, về mặt quốc tế, lội ngược dòng là chết. Tương kế tựu kế là sách lược khôn ngoan cho một quốc gia nhỏ bé và chậm tiến như Việt Nam trong tình trạng hiện nay. Về mặt quốc nội, yểm trợ những nhà dân chủ kiên cường ở trong nước là quốc sách.
Cách đây vài năm, tôi được dịp tham gia một cuộc hội thảo quốc tế về Việt Nam tại Hòa Lan. Trong dịp này tôi được hân hạnh gặp một thuyết trình viên là Bà J. W. E Spies, lúc đó Bà là Chủ Tịch Đảng Christian Democratic Appeal và dân biểu Quốc Hội Hòa Lan, và hiện nay Bà là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Khi được hỏi về vấn đề vận động quốc tế cho tự do dân chủ ở Việt Nam, Bà nói rằng người Việt Nam trước tiên phải hi sinh, phải tranh đấu cụ thể cho đất nước của chính mình trước khi mong đợi người ngoài giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng lời khuyến cáo của Bà Spies thật rấtthực tiễn và chí lý đáng cho chúng ta suy ngẫm.
© Nguyễn Quốc Khải
© Đàn Chim Việt
—————————————
Tài liệu tham khảo:
1. Lam Chan Tho, “Est-il Une Solution Pour Le Vietnam?” 2-10-2012.
2. Lê Quế Lâm, “Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc,” Thụ Nhân Âu Châu, 16-7-2011.
3. Lê Quế Lâm, “Đọc Hồi Ký của GS Vũ Quốc Thúc,” Việt Thức, 28-12-2010.
4. Nguyễn Hữu Thống, “Hiệp Định Hòa Bình Paris Dẫn Đến Hòa Bình của Những Nấm Mồ,” Việt Vùng Vịnh, 2-6-2010.
5. Nguyễn Quốc Khải, “Sự Thật Phũ Phàng Về Hiệp Định Paris 1973,” RFA, 17-12-2012.
6. Nguyễn Quốc Khải, “Mạn Đàm về Chính Phủ Lưu Vong,” Đàn Chim Việt, 05-12-2012.
7. Nguyễn Thiếu Nhẫn, “Sự Vong Thân Của Một Vị Tôn Sư,” Tin Paris, 2-10-2011.
8. Paris Peace Accords, “Act of The International Conference of Vietnam”, March 2, 1973.
9. Trần Đăng Thanh, “Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về Biển Đông cho lãnh đạo các trường Đại học,” Ba Sàm. 19-12-2012.
10. Trần Thị Diệu Tâm, “Buổi Giới Thiệu Sách của GS Vũ Quốc Thúc tại Paris,” 12-11-2010.
11. Trần Thị Diệu Tâm, “Tang Lễ của LS Vương Văn Bắc,” 28-12-2011.
12. U.S. Department of State, “Complaints of Violations of the Cease-fire: United States Note Verbale transmitted April 10, 1973 for delivery to prticipants in the International Conference in Vietnam,” April 10, 1973.
13. Vũ Quốc Thúc, “Thời Đại của Tôi,” nhà xuất bản Người Việt, 2010.
14. Đào Nương, “Chỉ Một Ngày Là Lập Xong Chính Phủ,” Saigon Nhỏ số 1019, 9-11-2012.
406 Phản hồi cho “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Hoang tưởng hay hiện thực?”
Xem thêm:
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VN LÂM THỜI
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/chinh-phu-quoc-gia-viet-nam-lam-thoi_14.html
Tôi không mặn mà lắm với đề tài; “thành lập chính phủ VNCH lưu vong”, hay “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973 để làm sống lại VNCH” vì nhiều lý do.
Không phải chỉ vì ‘khó khả thi’, mà còn gây ra nhiều tranh cãi, hiểu nhầm rằng; NVHN “chỉ muốn” phục hồi lại VNCH, đất nước sẽ lại thêm một lần nữa bị chia cắt làm hai, nhân dân miền Bắc lại phải sống lại những ngày tuỉ nhục dưới chế độ độc đảng, độc tài CSVN!
Nhưng Lời kêu gọi cho Quyền Tự Quyết của Dân Tộc Việt Nam
do Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam (LS Lê Trọng Quát ) khởi xướng đã làm cho tôi thổn thức!
Nếu tôi hiểu không nhầm, thì Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam không chủ trương thành lập một “chính phủ VNCH lưu vong”, mà là kêu gọi toàn thể đồng bào VN ở trong nước cũng như hải ngoại hãy cùng nhau đoàn kết để thỉnh cầu tất cả những quốc gia đã ký kết, làm sống lại “Quyền Dân Tộc Tự Quyết” mà Hiệp Định Paris ngày 27/1/1973 đã qui định?
Trong ý hướng này, sau khi giải thể chế độ cộng sản, một nền Đệ Tam Cộng Hòa sẽ chào đời do chính đồng bào cả nước thiết lập. Vì chỉ có “thể chế Cộng Hòa” là một mô hình chính trị tốt nhất trong lịch sử thế giới, ngược lại với chế độ cộng sản đã ngăn cản bước tiến của nhân loại, tiêu diệt hàng trăm triệu người trong non một thế kỷ vừa qua!
Rất mong được góp ý cùng Quý Vị, nhất là sự xác nhận của LS Lê Trọng Quát!
Xin chân thành cám ơn.
Nguyễn Thành Trí
Hễ có pháp luật là êm. Chính pháp luật đã tạo nên sự
cân bằng nơi xã hội Mỹ đa văn hóa này. Luật. Luật.
Vậy thì, với VN và Đông Dương, sau thời gian khai thác
ăn có của các phe, cuối cùng phải đi đến pháp luật thì
mới êm, lẽ phải được tôn trọng, hòa bình mới lâu dài.
Vâng, bằng cách nào chưa rõ, cuối cùng người dân VN
sẽ xử dung lá phiếu , lựa chon quyền sống của mình.
Trong ba nước Đông Dương cùng chia số phận, thì
Cambode đã thi hành Chương Bảy của HĐBL 1973.
Tôi nghĩ việc phục hồi của ông Ng ngọc Bích có thể là không tưởng rất khó thực hiện nhưng dù sao nó cũng lột mặt nạ bọn CS Hà nội cho thế giới thất chúng vi phạm trắng trợn Hiệp định
Ông NQ Khải đứng trên lập trường QG hay CS? Nếu ông đứng trên lập trường CS thì khỏi nói, còn nếu ông đứng trên lập trường QG thì chỉ là những ý kiến vớ vẩn, CS nó sợ thì nó lên tiếng ông là người QG tại sao phải lên tiếng dùm CS. Nhiều người hùa theo NQK sỉ vả ông NN Bích bằng những lời thô lỗ, càn dỡ không biết rằng việc làm của mình là vô ý thức, nhiều tên dư lợn viên giả dạng QG để chửi rủa NNB.
Ông NQK chỉ trích ông NNB rất gay gắt có lẽ vì tư thù cá nhân nhiều hơn vì việc này chẳng thiệt hại gì cho ông cả
Ông NQK khoe khoang đã đi Hòa Lan dự hội nghị quốc tế này nọ, ông khoe để làm gì? để hù những người yếu bóng vía ? người ta không cần biết ông làm gì? la` ai? qua những bài ông viết về chính trị, về Hiệp định Paris thì thấy hiểu biết của ông chẳng có gì ghê gớm cả.
Ông NQK hay lên tiếng chỉ trích những người hoạt động cho cộng đồng, đó là một sự dại dột, ông đã khiến cho những nguòi đồng hương quanh ông xa lánh ông, về điểm này chắc ông biết rõ hơn ai hết
Tôi nghĩ việc phục hồi HD Paris của ông Ng ngọc Bích có thể là không tưởng rất khó thực hiện nhưng dù sao nó cũng lột mặt nạ bọn CS Hà nội cho thế giới thất chúng vi phạm trắng trợn Hiệp định
Ông NQ Khải đứng trên lập trường QG hay CS? Nếu ông đứng trên lập trường CS thì khỏi nói, còn nếu ông đứng trên lập trường QG thì chỉ là những ý kiến vớ vẩn, CS nó sợ thì nó lên tiếng ông là người QG tại sao phải lên tiếng dùm CS. Nhiều người hùa theo NQK sỉ vả ông NN Bích bằng những lời thô lỗ, càn dỡ không biết rằng việc làm của mình là vô ý thức, nhiều tên dư lợn viên giả dạng QG để chửi rủa NNB.
Ông NQK chỉ trích ông NNB rất gay gắt có lẽ vì tư thù cá nhân nhiều hơn vì việc này chẳng thiệt hại gì cho ông cả
Ông NQK khoe khoang đã đi Hòa Lan dự hội nghị quốc tế này nọ, ông khoe để làm gì? để hù những người yếu bóng vía ? người ta không cần biết ông làm gì? la` ai? qua những bài ông viết về chính trị, về Hiệp định Paris thì thấy hiểu biết của ông chẳng có gì ghê gớm cả.
Ông NQK hay lên tiếng chỉ trích những người hoạt động cho cộng đồng, đó là một sự dại dột, ông đã khiến cho những nguòi đồng hương quanh ông xa lánh ông, về điểm này chắc ông biết rõ hơn ai hết
2-Trường hợp một “Messenger” vừa được gửi thẳng từ nhà tù VC qua Mỹ, làm những người giàu tưởng tượng không khỏi đặt dấu hỏi. Đây có phải là kế hoạch dự phòng, một loại “phương án 2″?
Nếu VC không thể thuyết phục được chủ cuả chúng, TC đừng làm mất mặt chúng một cách quá đáng trước dư luận quốc tế và dân chúng VN, thì vai trò cuả “Messenger” sẽ là hợp tác với nhóm ‘hoang tưởng” (với sự đồng ý cuả Mỹ) để đánh ván bài Pháp Lý (phục hồi HĐ Paris với vai trò VNCH) để tính chuyện Hoàng Sa và …Biển Đông. Sẽ có hai mặt giáp công, Pháp Lý cuả “hoang tưởng + VC” và áp lực quân sự cuả Mỹ.
Vì là phưong án dự phòng, nên VC (chủ yếu) vẫn chơi lá bài chính là …đi dây. Một mặt ra giá với quan thầy, một mặt ve vuốt Mỹ và hứa thoả mãn những ‘lợi ích’ cuả Mỹ tại Biển Đông.
Tóm lại, nếu TC không làm quá, đẩy VC vào đường cùng, thì đường lối cuả VC vẫn như cũ. Ngược lại TC cạn tầu ráo máng, giải pháp HĐ Paris và VNCH sẽ được đặt ra và thi hành. Mỹ sẽ ủng hộ vì chẳng mất mát gì lại tóm được một thằng lính xung kích cho kế hoạch xoay trục. Khi đó “hoang tưởng” sẽ trở thành …”hiện thực’, ông NQK và những người theo ông (hít bã miá) chỉ còn cười trừ để …chữa thẹn! hehe!
DLV là con “bật bong”, xúc tác – đâm thoọc, công việc của họ chỉ có thế; “tung – hưng, và tung hoả mù”. Thôi thì việc họ họ làm, việc ta ta xúc tiến!
Tác giả Nguyễn Quốc Khải đặt câu hỏi: “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Hoang tưởng hay hiện thực?” và đưa nó lên bàn mổ xẻ không phải là vô ích đâu.
Ông Nguyễn Ngọc Bích nói về Hiệp định Paris 1973: “CS càng muốn quên thì ta càng phải nhắc“.
Đúng! Nhắc lại là đúng, càng nhắc nhiều càng tốt vì nó sẽ đi sâu vào tâm trí người VN là CSVN đã vi phạm HĐ để đánh chiếm VNCH. Nhưng “thành lập chính phủ VNCH” để làm sống lại “HĐ Paris 1973″ (sau gần 40 năm im lặng) thì…………….
Nhiều người tin rằng “hiện thực” nhưng cũng không thiếu người cho là “hoang tưởng”, cụ Bùi Diễm, người đã từng giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền VNCH, thì cho rằng “nước chảy qua cầu” làm sao đổi ngược?
Vậy bác vb đứng về phe nào? “hiện thực” hay “hoang tường”?
Hỏi vậy thôi, đọc còm cũng có thể hiểu được Bác đứng vào phe nào rồi, (trích): “Tóm lại, nếu TC không làm quá, đẩy VC vào đường cùng, thì đường lối cuả VC vẫn như cũ. Ngược lại TC cạn tầu ráo máng, giải pháp HĐ Paris và VNCH sẽ được đặt ra và thi hành. Mỹ sẽ ủng hộ vì chẳng mất mát gì lại tóm được một thằng lính xung kích cho kế hoạch xoay trục. Khi đó “hoang tưởng” sẽ trở thành …”hiện thực’, ông NQK và những người theo ông (hít bã miá) chỉ còn cười trừ để …chữa thẹn! hehe!” (hết trích).
Tôi rất ước ao và cầu chúc ý tưởng “hiện thực” của bác vb thành công để ông “NQK và những người theo ông (hít bã miá (?) chỉ còn cười trừ để …chữa thẹn hehe!“.
Phần tôi, xin theo cụ Bùi Diễm, “nước chảy qua cầu” (như bánh xe lịch sử) khi đã quay qua rồi thì đâu có xoay trở lại được nữa! Hãy cùng nhau đấu tranh để giải thể chế độ CSVN, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ.
Dù “chống Cộng đến chiều”, tôi cũng không mong TC thôn tính đất nước mình để có dịp “ra chiêu”, phục hồi VNCH ( qua HĐ Paris), vì vừa khó khăn, vừa hao tổn xương máu đồng bào. Nếu đặt chuyện hơn thua cá nhân (qua tranh luận) trên vận mệnh đất nước thì tôi không bằng lũ súc sinh. Chẳng qua nói “vống’ lên một chút để các bác ‘hiện thực’ đừng nghĩ rằng…đường đời bằng phẳng cả ( theo ý mình).
Vâng, thảo luận thì không bao giờ vô ích, nhưng nếu “MỔ rồi XẺ” với những lời “xát muối vào lòng” (của tác giả) thì vừa ĐAU, vừa RÁT, không còn là thảo luận nữa, hehe! Kính.
Nếu HĐ Ba Lê được THI HÀNH, có hòa giải tại Miền Nam,
sẽ thân Pháp thân Tàu, sẽ trung lập…thì
Hoa Kỳ ra đi VĨNH VIỄN khỏi Việt Nam và Đông Dương.
( Ngu sao?)
Nhưng HĐBL bị VI PHẠM, có các sĩ quan VNCH đi tù,
có HO, đi Mỹ…có…Mật Ước.. nên Hoa Kỳ đã trở lại như một
Đại Gia mà Tàu, Nga…và Vêt Cộng run run đón mời…
(Mời du kích con con họp nhau thảo luận, chờ Thầy DâM sẽ
tới… cho làm bài thu hoạch, nhá)
Hìhìhì… Trước đó Tàu còn hung hăng và còn đe dọa ông Kerry, bộ trưởng ngoại giao Mỹ, là hai nước đối đầu sẽ là một thảm họa…, vậy Mỹ dùng chiến thuật gì mà Tàu rút lẹ thế? Chẳng những rút lẹ, rút êm, mà còn phải thả 13 ngư dân Việt, coi như thua ê càng. Tàu rút giàn khoan về sau khi thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu thông qua nghị quyết, và sau đó có đối thoại giữa tổng thống Obama và Tập Cận Bình thì giàn khoan nhổ neo.
Tôi phỏng đoán rằng có thể ông Obama bỏ nhỏ một câu ngắn chỉ vài chữ vào tai họ Tập là sẽ phục hồi Hiệp Định Ba Lê mà họ Tập chùn bước? Chính trị là vậy, thắng thua cũng chỉ một câu nói! Thật là lạ, đúng là “nước lạ”!
thằng Liên Sô;
Như vậy, thằng Tàu là mẹ nuôi thằng Bắc Kỳ, bị trắng tay.
Nếu Hoa Kỳ …rủ rê Tàu phục hồi HĐBL 1973, tất nhiên cu
Tàu tố chề, hẩu lớ, thank you mister Sam…a load !
” Bản cam kết quốc tế ,bảo đảm việc thi hành Hiệp định Ba lê 1973,” gồm 12
chữ ký của các nước liên quan, có sự chứng kiến của ông Tổng thư ký LHQ , Kurt Waldheim.
Ngoài ra, còn bản Mật Ước mà tới nay, chưa ai biết tung tích nó ra sao. Tuy nhiên, nó vẫn là…Mật Ước. Bộ Ngoại giao HK từng …dọa : ” Nếu Bắc Việt (sic)
không thi hành HĐBL 1973, thì Hoa Kỳ sẽ phanh phui Mật Ước ra trước công
luận quôc tế. ( Báo Nhân Dân của CS)
DâM TiêN tui khôn hề nao núng về thời gian, miễn sao cuối cùng Lẽ Phải sẽ
thắng. Việt Nam Cộng Hòa bị oan ức vô cớ, thì sẽ đến phiên CSVN phải
” tự nguyện tan hàng duối sức ép,” và Đệ Tam Cộng Hòa chào đời, có mặt
tất cả các thành phần công dân Việt Nam dưới danh nghĩa ” ĐỒNG BÀO.”
NB: CSVN ” tự nguyện tan hàng dưới sức ép” sẽ tránh được những Đòn Thù,
và kết quả một cuộc trưng cầu dân ý, hoặc tuyển cử, thì luật pháp thành hình.
Lợi ích của Mỹ ngày nay vẫn chưa đi cùng với quyền lợi của người dân Việt, và mặc dù họ luôn hô hào tự do dân chủ cho người dân nhưng họ chẳng thật lòng hỗ trợ giúp chúng ta vì chúng ta không đem lại lợi ích cho họ; họ chưa muốn hay không muốn chúng ta thắng Vietcong vì Vietcong cầm quyền vẫn chưa phải là vấn đề đe dọa đến quyền lợi của họ. Có họ giúp cũng tốt, nhưng không có cũng chẳng sao vì chúng ta đã có bài học từ họ rồi. Chúng ta hãy tự lực và tự giúp lẫn nhau, hãy tiếp tục tranh đấu để đất nước thay đổi tích cực hơn mỗi ngày, còn muốn thắng Vietcong thì chúng ta đã chẳng thắng rồi sao? Chúng ta có chính nghĩa và chính nghĩa là động lực thôi thúc chúng ta thêm sức mạnh trong huyết quản, trong tâm tư, trong tim óc, và chúng ta hơn họ rất nhiều, vì chính nghĩa mà Vietcong đã không thắng đưọc tư tưởng của chúng ta. Chúng ta đã thắng họ khi họ thắng chúng ta, và giờ thì chỉ có Vietcong hay cộng sản chúng với nhau phải thắng chính họ thôi.