Đào Minh Quân đã thêm 4 ảnh mới — cùng với Thuy Trang Nguyen và 16 người khác.
Đã chia sẻ bài viết của Đào Minh Quân.
CPQGVNLT và CIA
hay CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẢI TAN RÃ 2016
VPTT: Nhận được bài viết “Cuộc Chiến Giữa MSS Và CIA!” của Tt Huỳnh Thúc Khải (HTK) viết từ Sài gòn 13/7/2015 do một Đại Biểu của CPQGVNLT chuyển đến, nên chúng tôi muốn triển khai chi tiết để mọi người tự suy luận.
- MSS là tên của cơ quan tình báo Trung Quốc (Bộ An ninh quốc gia - Ministry of State Security – MSS) là cơ quan tình báo “đầu sỏ” lớn nhất của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi là Tình Báo Hoa Nam)…
- CIA là cơ quan tình báo của Hoa kỳ (Cục Tình báo Trung ương Mỹ - Central Intelligence Agency)
Trước đây, hơn ¼ thế kỷ qua, đảng và Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ (VNTDC), tiền thân của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CPQGVNLT) đã lột mặt nạ của Hồ Chí Minh tại UNESCO năm 1990, chỉ rõ tên này là một điệp viên người Tàu được TQ cho xâm nhập VN, dựng nên đảng CSVN và cái gọi là “Chính Phủ VNDCCH”, tiền thân của “nhà nước CHXHCNVN”. Cả đảng CSVN và “Nhà nước” CHXHCNVN hiện nay tuy hai là một, đều do CS Tàu dựng lên, lèo lái và chi phối để gieo rắc biết bao tai ương cho dân tộc Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung và đang từng bước giải thể tà quyền CSVN bằng những phương thức linh động, mềm mại do Thủ Tướng Đào Minh Quân, người lãnh đạo của VNTDC và CPQGVNLT để bao vây triệt tiêu CS trong sự thờ ơ của một số người còn mong chờ MỘT PHÉP LẠ.
Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng: Khoảng đầu thập niên 1960, khi Mỹ muốn đưa quân sang VN, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không đồng ý, vì ông muốn giữ vững tinh thần độc lập quốc gia, dân tộc… không muốn cho phía CS có cớ để bôi nhọ, tuyên truyền “VNCH rước ngoại xâm”… Chính vì điều này, năm 1963 CIA đã dùng ...(mua chuộc) một số tướng lãnh trong quân đội VNCH để “đảo chánh”, và sát hại hai anh em Tt Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu… Ngoài ra, còn có vụ “Mỹ muốn thuê cảng Cam Ranh 100 năm” nhưng Tổng thống Diệm không đồng ý, vụ này cũng “thêm dầu vào lửa” để CIA đi đến quyết định “tiễn hai anh em NĐD lên đường”…
Qua nền Đệ nhị Cộng hòa… khi Mỹ muốn “rút lui khỏi cuộc chiến”, Tổng thống Ng Văn Thiệu cũng không đồng ý… (Mỹ làm áp lực ép TT Thiệu ký Hiệp định Paris…) Khi đó Tổng thống Thiệu cũng linh cảm “bóng tử thần của CIA cũng đang lờn vờn đâu đây trong Dinh Độc lập”- một kịch bản đảo chính giống như trường hợp Tt Diệm sắp xảy ra với ông... Do đó, ông đã phải rút một số sĩ quan thân cận trong quân đội về Dinh Độc lập để bảo vệ ông khỏi “lưỡi hái tử thần của CIA”!
Năm 1973, khi TT Thiệu mời Bộ trưởng quốc phòng Do thái –Moise Dayan qua VN để cố vấn việc “làm thế nào để đánh thắng CS” thì ông tướng này cũng đã nói với TT Thiệu rằng: “Muốn thắng CS phải để CS thắng” (trước)… Một điều chắc chắn không thể không xảy ra: trước khi qua VN để “cố vấn cho TT Thiệu”, ông tướng độc nhãn Do thái này cũng đã “họp qua đường dây nóng với chính phủ Hoa kỳ” và CIA! (Hoa kỳ với Do thái là một) Lời cố vấn của ông rõ ràng là một “thông báo” (hoặc “thông điệp” của chính phủ Hoa kỳ gửi) cho phía chính phủ VNCH rằng “Mỹ sẽ thực hiện kế hoạch di tản chiến thuật” khỏi miền Nam VN. Do đó mới có Hiệp định Paris năm 1973 và TT Thiệu không thể… không ký!
Phía Bắc Việt cũng đã ký giấy đầu hàng từ đầu năm 1973, trước khi (được Mỹ cho) ngồi vào ký Hiệp định Paris… Mỹ rút khỏi VN vì một mục tiêu lớn hơn…!
Thật ra, Tướng Moise Dayan còn gọi là “Độc nhản tướng quân” sinh ngày 20/05/1915 – mất 16/10/1981) là nhà chính trị và tướng lĩnh quân đội của Israel. Vị thầy đầu tiên của Tướng Moise Dayan về quân sự là viên tướng người Anh Orde Wingate.
Dayan từng bị người Anh bắt giữ vào năm 1939 do tham gia phong trào Phục quốc Do Thái, nhưng được thả hai năm sau vào tháng 2 năm 1941, như là một phần của sự hợp tác giữa phong trào Haganah với người Anh trong Thế chiến thứ hai. Dayan được giao một nhiệm vụ nhỏ trong lực lượng trinh sát đặc nhiệm Australian-Palmach-Arab, được thành lập để chuẩn bị cho Đồng Minh xâm nhập Syria và Liban. Ngày 7 tháng 6, ngay đêm trước khi cuộc xâm nhập này, các đơn vị vượt biên qua sông Litani. Một vài giờ sau đó, một viên đạn pháo nổ gần và các mảnh vỡ của nó đã gây ra tổn thương nghiêm trọng vào mắt trái của ông. Phải mất 6 giờ trôi qua trước khi có thể đưa Dayan đến nơi cứu thương, nhưng đã quá trễ. Vì thế, ông buộc phải mang mảnh che mắt màu đen ở mắt trái và sau đó đã trở thành thương hiệu của chính ông với biệt danh "Độc nhãn tướng quân".
Trong thời gian làm Tổng tư lệnh Các lực lượng Phòng vệ Israel từ năm 1953 đến năm 1958, Moshe Dayan là biểu tượng của sức mạnh chiến đấu của dân Do Thái. Sau đó ông làm bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của Israel.
Tướng độc nhãn Do Thái MOSHE DAYAN sang thăm Việt Nam trước năm 1975, ông tuyên bố rằng: “Muốn thắng cộng sản, phải để cho công sản thắng trước”.
Nhận định nầy của tướng Moshe Dayan đến nay vẫn được nhiều người cho là có giá trị. Do nhân dân Việt Nam ngày nay đã nhìn thấy rõ bản chất vô đạo, phi nhân bản của cái gọi là CHXHCNVN kinh dị buôn dân, bán nước. Nói theo ngôn từ của triết gia Arthur Koestler thì chế độ CSVN hiện nay giống như một dòng sông bị nhiễm độc, bao nhiêu thứ rác rến hôi thối từ dưới đáy sông lần lượt trồi lên trên mặt nước, đó là là những bộ mặt nham nhở của những tên đầu sỏ tội ác đảng CSVN, mà CPQGVNLT đã đệ nạp đơn kiện tại Tòa Hình Sự Quốc Tế ngày 16/02/2013.
Chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống và Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Hòa đàm Paris, Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái chứ không phải của CIA.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số gần 14 triệu người, trong đó trên 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái). Dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
Dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger?
Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ:
Trên chính trường Hoa Kỳ, thế lực và vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái rất đậm nét. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái.
Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái.
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton.
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh. Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford.
Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho người Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Cũng vì chuyện này mà dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine.
Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để người Do Thái dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của khối Ả Rập và sau đó, Mỹ tiếp tục yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại các cuộc tấn công lúc đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ là “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông. Nhưng chỉ vì duy nhứt có Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng bỏ lại những đồng minh như Lào, Cam Bốt, Đài Loan và Việt Nam… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ. Trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích với khối Hồi Giáo với dân số 1,3 tỷ người và có tiềm năng rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa.
Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ, nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương thúc ép Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái?
Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam:
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ - đa số gốc Do Thái quản trị - khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.
Việc Tướng độc nhãn Moshe Dayan - Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái - đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966, chứ không phải năm 1973 như Tt. Huỳnh Thúc Khải) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhãn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu ông ta chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!
Phong trào phản chiến càng lên cao đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)….
Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam, cho đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng thực tế Kissinger sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam.
Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: “Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái, chứ không phải của CIA.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhãn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận, chứ không phải là một “ông tướng bách chiến thắng” như báo chí loan tải.
Trong một chừng mực nào đó, như Tt Huỳnh Thúc Khải nhận định: Trong một Nội bộ đảng CSVN gần đây có “tin đồn” rằng “được chia làm hai phe: thân Mỹ và thân Tàu”! Những diễn biến trong nội bộ và bên ngoài cũng cho thấy điều đó không hẳn chỉ là tin đồn, mà nó là… như vậy!
Sự chia rẽ trong nội bộ đảng CSVN, đừng nói là “không có bàn tay của CIA”… nhất là khi Mỹ đã có mục tiêu “chuyển trục về Châu Á – Thái bình dương”. Vì sao đám “thân Tàu” trong đảng CSVN lần lược bị “lên đường” (Ng Bá Thanh, Phùng Quang Th…) mà thủ tướng “3X” (Dũng Xà Mâu) không “hề hấn” gì? Nếu không có sự “chống lưng” và “đỡ đạn” của CIA thì liệu “3X- Dũng Xà Mâu” có thoát khỏi “lưỡi hái tử thần của tình báo Hoa nam- MSS” không?
Nếu CIA bảo vệ ‘3X’ thì CIA cũng đương nhiên điều khiển được ‘3X’! (Nếu 3X thoát khỏi sự bảo vệ của CIA thì MSS – tình báo Hoa nam sẽ “cắc bùm” – tiễn 3X lên đường gặp “Bá Thanh” và “Phùng Lợn” trong vài tiếng đồng hồ sau đó! ‘3X’ buộc phải ở trong sự bảo vệ của CIA).
Biết rằng “theo Mỹ là mất đảng”… nhưng rõ ràng những diễn biến gần đây cho thấy đảng CSVN “không còn sự lựa chọn nào khác”! Vì sao? Câu trả lời phải chăng là “thế lực đằng sau 3X mạnh hơn” nếu không muốn nói là quá mạnh, so với thế lực chống lưng cho “bác Cả Lú và tướng Phùng Quang Lợn”! Ai chống lưng cho ‘3X’ - nếu không phải là CIA?
Sang năm 2016, sau đại hội XII của đảng CSVN, ‘3X’ sẽ ngồi cùng lúc hai ghế: Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Đây là lộ trình… khả thi.
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…).
Sau khi ngồi ghế “tổng thống” rồi, ‘3X’ bị buộc phải bàn giao chính phủ cho… để “bản thân và gia đình được tha mạng” (tài sản tính sau… - ‘3X’ như một tài xế taxi, bị ba thằng ‘C, I, A’… ngồi phía sau vừa bảo vệ, vừa xỉ súng vô lưng, bảo đi đâu thì đi đó… thoát ra khỏi xe thì bị MSS- tình báo Hoa nam “cắc bùm” cũng thế thôi! Thà làm theo lệnh để bản thân và gia đình còn có cơ hội sống…)
Và Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng Nguyễn Tấn Dũng bàn giao chính phủ cho thủ tướng ...........- Vì sao?
Từ đầu năm 2000, khi Tổng thống Bill Clinton sắp qua VN… Một quan chức Hoa kỳ công tác tại VN có nói “VN cần một ‘New blood’…” (VN cần một “dòng máu mới”, thế hệ mới…)
Nếu Hoa kỳ vì quyền l
hay CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẢI TAN RÃ 2016
VPTT: Nhận được bài viết “Cuộc Chiến Giữa MSS Và CIA!” của Tt Huỳnh Thúc Khải (HTK) viết từ Sài gòn 13/7/2015 do một Đại Biểu của CPQGVNLT chuyển đến, nên chúng tôi muốn triển khai chi tiết để mọi người tự suy luận.
- MSS là tên của cơ quan tình báo Trung Quốc (Bộ An ninh quốc gia - Ministry of State Security – MSS) là cơ quan tình báo “đầu sỏ” lớn nhất của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi là Tình Báo Hoa Nam)…
- CIA là cơ quan tình báo của Hoa kỳ (Cục Tình báo Trung ương Mỹ - Central Intelligence Agency)
Trước đây, hơn ¼ thế kỷ qua, đảng và Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ (VNTDC), tiền thân của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CPQGVNLT) đã lột mặt nạ của Hồ Chí Minh tại UNESCO năm 1990, chỉ rõ tên này là một điệp viên người Tàu được TQ cho xâm nhập VN, dựng nên đảng CSVN và cái gọi là “Chính Phủ VNDCCH”, tiền thân của “nhà nước CHXHCNVN”. Cả đảng CSVN và “Nhà nước” CHXHCNVN hiện nay tuy hai là một, đều do CS Tàu dựng lên, lèo lái và chi phối để gieo rắc biết bao tai ương cho dân tộc Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung và đang từng bước giải thể tà quyền CSVN bằng những phương thức linh động, mềm mại do Thủ Tướng Đào Minh Quân, người lãnh đạo của VNTDC và CPQGVNLT để bao vây triệt tiêu CS trong sự thờ ơ của một số người còn mong chờ MỘT PHÉP LẠ.
Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng: Khoảng đầu thập niên 1960, khi Mỹ muốn đưa quân sang VN, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không đồng ý, vì ông muốn giữ vững tinh thần độc lập quốc gia, dân tộc… không muốn cho phía CS có cớ để bôi nhọ, tuyên truyền “VNCH rước ngoại xâm”… Chính vì điều này, năm 1963 CIA đã dùng ...(mua chuộc) một số tướng lãnh trong quân đội VNCH để “đảo chánh”, và sát hại hai anh em Tt Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu… Ngoài ra, còn có vụ “Mỹ muốn thuê cảng Cam Ranh 100 năm” nhưng Tổng thống Diệm không đồng ý, vụ này cũng “thêm dầu vào lửa” để CIA đi đến quyết định “tiễn hai anh em NĐD lên đường”…
Qua nền Đệ nhị Cộng hòa… khi Mỹ muốn “rút lui khỏi cuộc chiến”, Tổng thống Ng Văn Thiệu cũng không đồng ý… (Mỹ làm áp lực ép TT Thiệu ký Hiệp định Paris…) Khi đó Tổng thống Thiệu cũng linh cảm “bóng tử thần của CIA cũng đang lờn vờn đâu đây trong Dinh Độc lập”- một kịch bản đảo chính giống như trường hợp Tt Diệm sắp xảy ra với ông... Do đó, ông đã phải rút một số sĩ quan thân cận trong quân đội về Dinh Độc lập để bảo vệ ông khỏi “lưỡi hái tử thần của CIA”!
Năm 1973, khi TT Thiệu mời Bộ trưởng quốc phòng Do thái –Moise Dayan qua VN để cố vấn việc “làm thế nào để đánh thắng CS” thì ông tướng này cũng đã nói với TT Thiệu rằng: “Muốn thắng CS phải để CS thắng” (trước)… Một điều chắc chắn không thể không xảy ra: trước khi qua VN để “cố vấn cho TT Thiệu”, ông tướng độc nhãn Do thái này cũng đã “họp qua đường dây nóng với chính phủ Hoa kỳ” và CIA! (Hoa kỳ với Do thái là một) Lời cố vấn của ông rõ ràng là một “thông báo” (hoặc “thông điệp” của chính phủ Hoa kỳ gửi) cho phía chính phủ VNCH rằng “Mỹ sẽ thực hiện kế hoạch di tản chiến thuật” khỏi miền Nam VN. Do đó mới có Hiệp định Paris năm 1973 và TT Thiệu không thể… không ký!
Phía Bắc Việt cũng đã ký giấy đầu hàng từ đầu năm 1973, trước khi (được Mỹ cho) ngồi vào ký Hiệp định Paris… Mỹ rút khỏi VN vì một mục tiêu lớn hơn…!
Thật ra, Tướng Moise Dayan còn gọi là “Độc nhản tướng quân” sinh ngày 20/05/1915 – mất 16/10/1981) là nhà chính trị và tướng lĩnh quân đội của Israel. Vị thầy đầu tiên của Tướng Moise Dayan về quân sự là viên tướng người Anh Orde Wingate.
Dayan từng bị người Anh bắt giữ vào năm 1939 do tham gia phong trào Phục quốc Do Thái, nhưng được thả hai năm sau vào tháng 2 năm 1941, như là một phần của sự hợp tác giữa phong trào Haganah với người Anh trong Thế chiến thứ hai. Dayan được giao một nhiệm vụ nhỏ trong lực lượng trinh sát đặc nhiệm Australian-Palmach-Arab, được thành lập để chuẩn bị cho Đồng Minh xâm nhập Syria và Liban. Ngày 7 tháng 6, ngay đêm trước khi cuộc xâm nhập này, các đơn vị vượt biên qua sông Litani. Một vài giờ sau đó, một viên đạn pháo nổ gần và các mảnh vỡ của nó đã gây ra tổn thương nghiêm trọng vào mắt trái của ông. Phải mất 6 giờ trôi qua trước khi có thể đưa Dayan đến nơi cứu thương, nhưng đã quá trễ. Vì thế, ông buộc phải mang mảnh che mắt màu đen ở mắt trái và sau đó đã trở thành thương hiệu của chính ông với biệt danh "Độc nhãn tướng quân".
Trong thời gian làm Tổng tư lệnh Các lực lượng Phòng vệ Israel từ năm 1953 đến năm 1958, Moshe Dayan là biểu tượng của sức mạnh chiến đấu của dân Do Thái. Sau đó ông làm bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của Israel.
Tướng độc nhãn Do Thái MOSHE DAYAN sang thăm Việt Nam trước năm 1975, ông tuyên bố rằng: “Muốn thắng cộng sản, phải để cho công sản thắng trước”.
Nhận định nầy của tướng Moshe Dayan đến nay vẫn được nhiều người cho là có giá trị. Do nhân dân Việt Nam ngày nay đã nhìn thấy rõ bản chất vô đạo, phi nhân bản của cái gọi là CHXHCNVN kinh dị buôn dân, bán nước. Nói theo ngôn từ của triết gia Arthur Koestler thì chế độ CSVN hiện nay giống như một dòng sông bị nhiễm độc, bao nhiêu thứ rác rến hôi thối từ dưới đáy sông lần lượt trồi lên trên mặt nước, đó là là những bộ mặt nham nhở của những tên đầu sỏ tội ác đảng CSVN, mà CPQGVNLT đã đệ nạp đơn kiện tại Tòa Hình Sự Quốc Tế ngày 16/02/2013.
Chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống và Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Hòa đàm Paris, Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái chứ không phải của CIA.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số gần 14 triệu người, trong đó trên 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái). Dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
Dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger?
Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ:
Trên chính trường Hoa Kỳ, thế lực và vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái rất đậm nét. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái.
Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái.
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton.
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh. Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford.
Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho người Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Cũng vì chuyện này mà dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine.
Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để người Do Thái dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của khối Ả Rập và sau đó, Mỹ tiếp tục yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại các cuộc tấn công lúc đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ là “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông. Nhưng chỉ vì duy nhứt có Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng bỏ lại những đồng minh như Lào, Cam Bốt, Đài Loan và Việt Nam… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ. Trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích với khối Hồi Giáo với dân số 1,3 tỷ người và có tiềm năng rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa.
Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ, nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương thúc ép Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái?
Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam:
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ - đa số gốc Do Thái quản trị - khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.
Việc Tướng độc nhãn Moshe Dayan - Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái - đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966, chứ không phải năm 1973 như Tt. Huỳnh Thúc Khải) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhãn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu ông ta chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!
Phong trào phản chiến càng lên cao đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)….
Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam, cho đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng thực tế Kissinger sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam.
Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: “Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái, chứ không phải của CIA.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhãn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận, chứ không phải là một “ông tướng bách chiến thắng” như báo chí loan tải.
Trong một chừng mực nào đó, như Tt Huỳnh Thúc Khải nhận định: Trong một Nội bộ đảng CSVN gần đây có “tin đồn” rằng “được chia làm hai phe: thân Mỹ và thân Tàu”! Những diễn biến trong nội bộ và bên ngoài cũng cho thấy điều đó không hẳn chỉ là tin đồn, mà nó là… như vậy!
Sự chia rẽ trong nội bộ đảng CSVN, đừng nói là “không có bàn tay của CIA”… nhất là khi Mỹ đã có mục tiêu “chuyển trục về Châu Á – Thái bình dương”. Vì sao đám “thân Tàu” trong đảng CSVN lần lược bị “lên đường” (Ng Bá Thanh, Phùng Quang Th…) mà thủ tướng “3X” (Dũng Xà Mâu) không “hề hấn” gì? Nếu không có sự “chống lưng” và “đỡ đạn” của CIA thì liệu “3X- Dũng Xà Mâu” có thoát khỏi “lưỡi hái tử thần của tình báo Hoa nam- MSS” không?
Nếu CIA bảo vệ ‘3X’ thì CIA cũng đương nhiên điều khiển được ‘3X’! (Nếu 3X thoát khỏi sự bảo vệ của CIA thì MSS – tình báo Hoa nam sẽ “cắc bùm” – tiễn 3X lên đường gặp “Bá Thanh” và “Phùng Lợn” trong vài tiếng đồng hồ sau đó! ‘3X’ buộc phải ở trong sự bảo vệ của CIA).
Biết rằng “theo Mỹ là mất đảng”… nhưng rõ ràng những diễn biến gần đây cho thấy đảng CSVN “không còn sự lựa chọn nào khác”! Vì sao? Câu trả lời phải chăng là “thế lực đằng sau 3X mạnh hơn” nếu không muốn nói là quá mạnh, so với thế lực chống lưng cho “bác Cả Lú và tướng Phùng Quang Lợn”! Ai chống lưng cho ‘3X’ - nếu không phải là CIA?
Sang năm 2016, sau đại hội XII của đảng CSVN, ‘3X’ sẽ ngồi cùng lúc hai ghế: Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Đây là lộ trình… khả thi.
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…).
Sau khi ngồi ghế “tổng thống” rồi, ‘3X’ bị buộc phải bàn giao chính phủ cho… để “bản thân và gia đình được tha mạng” (tài sản tính sau… - ‘3X’ như một tài xế taxi, bị ba thằng ‘C, I, A’… ngồi phía sau vừa bảo vệ, vừa xỉ súng vô lưng, bảo đi đâu thì đi đó… thoát ra khỏi xe thì bị MSS- tình báo Hoa nam “cắc bùm” cũng thế thôi! Thà làm theo lệnh để bản thân và gia đình còn có cơ hội sống…)
Và Tt Huỳnh Thúc khải cho rằng Nguyễn Tấn Dũng bàn giao chính phủ cho thủ tướng ...........- Vì sao?
Từ đầu năm 2000, khi Tổng thống Bill Clinton sắp qua VN… Một quan chức Hoa kỳ công tác tại VN có nói “VN cần một ‘New blood’…” (VN cần một “dòng máu mới”, thế hệ mới…)
Nếu Hoa kỳ vì quyền l
ợi
“cốt lõi” ở Biển đông thì Hoa kỳ cũng không vì đó mà tiếp tục sử dụng
“dòng máu cũ”- đảng CSVN- một tập đoàn đã bị đưa danh sách lên tòa án
Quốc tế (ICC) với tội danh “khủng bố, giết người, cướp của”… rồi! (Tòa
án quốc tế đang thụ lý hồ sơ)
Hoa kỳ sẽ làm TẤT CẢ để đưa VNCH đến chiến thắng cuối cùng. Nói cách khác, Hoa kỳ sẽ đưa người Việt quốc gia tị nạn và “cờ vàng” trở về phục hưng lại quê hương, như cách mà Hoa kỳ và Liên hiệp quốc đã giúp người Do thái Hồi hương và phục dựng lại quê hương! (1948)
Hoa kỳ sẽ không sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”… Trái lại, trong 40 năm qua, đám con em của quân dân cán chính VNCH đã được HK tuyển dụng và “âm thầm” đào tạo… được học hành có chủ đích hoặc không chủ đích… sẽ trở về phục dựng lại quê hương. Hoa kỳ không “âm thầm đào tạo” những thế hệ người Việt này, rồi “bỏ đi” mà sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”! (đoàn Thanh niên CS- HCM)
Song song với việc đào tạo nhân tài cho “quốc gia VN” trong tương lai… Hoa kỳ cũng đã chuẩn bị sẵn một “Chính phủ Lưu vong” được nuôi dưỡng và chuẩn bị bài bản… để chờ ngày trở về “nói chuyện với tà quyền CSVN”! Nếu không có sự công nhận của chính phủ Hoa kỳ và các tổ chức quốc tế thì cũng sẽ không bao giờ có chuyện “cờ vàng tồn tại trên đất Mỹ” và tung bay ngang hàng với cờ Hiệp Chủng quốc Hoa kỳ, cũng như một số quốc gia Tự do trên thế giới như Canada, Úc…! (cờ đỏ chỉ là “chấp nhận một hiện tại để ngoại giao” thôi… người ta thừa biết nó là cờ của tỉnh Phúc kiến – Trung cộng - giống như cờ của một tiểu bang tại Hoa kỳ)
Tất nhiên, Nguyễn Tấn Dũng, để toàn mạng, sẽ phải bàn giao chính quyền cho một Tân Chính Phủ là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu cho đó là “ván cờ của CIA đã sắp”… (không có dân chủ, dân chiết gì ở đây đâu) thì rất chủ quan.
(CÒN TIẾP)
Hoa kỳ sẽ làm TẤT CẢ để đưa VNCH đến chiến thắng cuối cùng. Nói cách khác, Hoa kỳ sẽ đưa người Việt quốc gia tị nạn và “cờ vàng” trở về phục hưng lại quê hương, như cách mà Hoa kỳ và Liên hiệp quốc đã giúp người Do thái Hồi hương và phục dựng lại quê hương! (1948)
Hoa kỳ sẽ không sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”… Trái lại, trong 40 năm qua, đám con em của quân dân cán chính VNCH đã được HK tuyển dụng và “âm thầm” đào tạo… được học hành có chủ đích hoặc không chủ đích… sẽ trở về phục dựng lại quê hương. Hoa kỳ không “âm thầm đào tạo” những thế hệ người Việt này, rồi “bỏ đi” mà sử dụng đám “con cháu Hồ Tập Chương”! (đoàn Thanh niên CS- HCM)
Song song với việc đào tạo nhân tài cho “quốc gia VN” trong tương lai… Hoa kỳ cũng đã chuẩn bị sẵn một “Chính phủ Lưu vong” được nuôi dưỡng và chuẩn bị bài bản… để chờ ngày trở về “nói chuyện với tà quyền CSVN”! Nếu không có sự công nhận của chính phủ Hoa kỳ và các tổ chức quốc tế thì cũng sẽ không bao giờ có chuyện “cờ vàng tồn tại trên đất Mỹ” và tung bay ngang hàng với cờ Hiệp Chủng quốc Hoa kỳ, cũng như một số quốc gia Tự do trên thế giới như Canada, Úc…! (cờ đỏ chỉ là “chấp nhận một hiện tại để ngoại giao” thôi… người ta thừa biết nó là cờ của tỉnh Phúc kiến – Trung cộng - giống như cờ của một tiểu bang tại Hoa kỳ)
Tất nhiên, Nguyễn Tấn Dũng, để toàn mạng, sẽ phải bàn giao chính quyền cho một Tân Chính Phủ là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu cho đó là “ván cờ của CIA đã sắp”… (không có dân chủ, dân chiết gì ở đây đâu) thì rất chủ quan.
(CÒN TIẾP)
Loan Nguyen Sang
năm 2016, sau đại hội XII của đảng CSVN, ‘3X’ sẽ ngồi cùng lúc hai ghế:
Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Đây là lộ trình… khả thi.
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…)...Xem thêm
Sau khi ngồi cùng lúc hai ghế rồi, ‘3X’ sẽ đổi chức danh thành“Tổng thống” (một ghế, cho dễ gọi- theo chỉ đạo của CIA…)...Xem thêm
Trinh Ngoc Toan Cẩm nang của Hậu vệ VIỆT NAM CỘNG HOÀ
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1075198472513851&set=a.525788770788160.126348.100000711245175&type=3...Xem thêm
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1075198472513851&set=a.525788770788160.126348.100000711245175&type=3...Xem thêm
Trứng rồng lại nở ra rồng (khởi đầu bằng tia lữa soi sáng đêm đen)...Xem thêm Cộng Hòa Thời Báo
Mai Nguyễn Huỳnh Xin được chia sẻ bài viết về Bloge Mai đây Hòa Bình- Rất cảm ơn tác giả và Loan nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét