Chủ Nghĩa Be-Bờ & Chiến Tuyến Việt Nam: Từ Chiến Lược Không “Đánh Thực”, “Không-Cốt-Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN
Căn Bản của Chủ Nghĩa Be-bờ
Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1]
là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh
hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên
thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2]
ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo. Chính sách này
nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng
Domino” [“domino effect”][3]
gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng
sản chiếm đoạt. Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F.
Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]
Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]
- Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
- Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
- Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;
- Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.
Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9] Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:
- hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2, song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
- cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
- Thu thập tin tức cẩn mật từ quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]
Về
mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề
phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp
dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].
Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh
Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng”
hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê
là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13]
Khai mở Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa ky tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.
TT
Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO]
trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông
Dương.
TT
Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng
domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông
Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ
Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài
domino và rơi vào khối cộng sản.[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:
- tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
- Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
- Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến.
Trước
tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội
Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để
tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội
Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ. Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã
chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi
để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt
Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.
Việt Nam Thành Thí Điểm Chủ Nghĩa Be-Bờ
TT
JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức
vụ Cố vấn An ninh Quốc gia. Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo
Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến
lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản
địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó
là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào
Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân
đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.
Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:
Từ
năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền
Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300
binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng
tốt.
Trong
khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng
Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền
Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể
của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng
tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và
lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo. Hậu
quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như
Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức
độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v. đã mất cơ hội tham dự
vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của
Chiến Tuyến này. Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá
trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất
đáng tiếc. Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong
tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự
do.
Sau
hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các
cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị
bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng
lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963. Nhiều tài liệu lịch sử
[mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA
Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17]
dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn
khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở. Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng
Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và
ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu.[18]
Từ
góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu
là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b]
ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và
[c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT.
Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]
Biến Hoá Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
TT
Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối
ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ
Ngô. Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT
đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:
Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22] để lấy cớ trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;
Quyết
định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng
và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa
phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa
tới thảo luận ngưng chiến;
Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân]
đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng
Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm
1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm
1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung
quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam
Việt Nam.
TT
Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ
Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các
tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng”
đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô &
Trung cộng] phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử. Đó là lý
do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William
Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt. Đó
cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản
“thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám
phương hại nội tuyến.
Về
phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân
quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những
cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng
Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia,
Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi
thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm
Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó. Sự bất ổn nội bộ gây
thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các
nơi sôi động.
Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:
- về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
- Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN. Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích. Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23] Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ.
Chấm Dứt Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Khi
thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét
Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng
sản hoặc bênh vực dân chủ. Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ
mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại
trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam
Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài
thêm.
Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26] tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.
Trong
tinh thần đó, Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ 537,000
xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt
Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27]
bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác
chiến cho Quân Đội VNCH. Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc
ác liệt như sau:
- Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến. Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.
- Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972. Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại. Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công. Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
- Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ. QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn. Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.
Sau
nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam
kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa
Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền
Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].
Năm
1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả
bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ
đem quân đánh lớn tại Miền Nam. Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28]
Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với
TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.
Trong
khi đó, QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn
vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp
do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính
từ 1975 tới 1976. Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng
Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà
Nội. Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút
quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975. Huế, rồi Đà Nẵng
thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4
năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]
- hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật].
- khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
- khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
- Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.
Phản Diện Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Chủ
nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn: [1] Khai
mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [2] xác định vị trí
“be-bờ“ do TT JK Kennedy & Co Vấn Bundy, [3] biến hoá cao độ với TT
Lyndon Johnson, [4] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30] với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.
Sự
thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền
bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản. Căn cứ
vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt
trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :
- vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
- vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
- Nhưng cũng có thể bị mắc kẹt vào cái nạn của đà vận chuyển guồng máy sản xuất do tư bản ứng vốn. Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng: “This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]
Quyền
lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng
trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực
của dân chúng. Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111
Tỷ Mỹ Kim [khoảng hơn 700 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2008], dù hạn chế
vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào
đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân sẽ
chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết
lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu
liệu đó chấm dứt cái một.
Với
cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao
chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một
trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả
tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”,
nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở
hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn. Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh
đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một
“bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt
vô cảm. Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ
tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực
sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt. Nhưng chúng ta
vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics]
cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của
chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng
ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành,
đồng minh kém vế.
Ngay
cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa
gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân đội và Nhân dân Bắc
Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và
nhất là của Trung cộng. Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc.
Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ
đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất
Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và
nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung
Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán
đảo, bán dân.
Đó cũng là bài học chung cho những thế hệ sau:
Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại
nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ. Cái khôn là biết hợp tác
để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng
nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc,
từng thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền
lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt. Không ai sống hộ
chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và
con cháu chúng ta. Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi
theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay
tương tự.
Chúng
ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những
cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này
sang thế hệ khác. Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở
thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững
bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo
trọng, thân thương. Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.
Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân
dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những
Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây
giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài.
Dù
là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài
phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi
và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây
dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân
Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy.
Trân trọng,
TS & LS Lưu Nguyễn Đạt
cập nhật April 12, 2014 & Nov. 6, 2015
cập nhật April 12, 2014 & Nov. 6, 2015
CHÚ THÍCH
[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon sanitaire,
or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating
this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.”
Both phrases analogize communism to a contagious disease.
[3]
Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D.
Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news
conference: Finally, you have broader considerations that might follow
what you would call the “falling domino” principle. You have a row of
dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to
the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you
could have a beginning of a disintegration that would have the most
profound influences.
[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[5]
Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word
telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to
Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to
handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the
Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the
traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the
Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist
ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.
Soviet
behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on
the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to
Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own
autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification
for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the
dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties
they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to
demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their
moral and intellectual respectability.”
[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727
[7]
At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan
argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of
insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity
became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and
conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan,
depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime;
according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to
legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as
a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the
outside world, for the dictatorship without which they did not know how
to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice
they felt bound to demand…
[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402
[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press
[10]
Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan,
and the Triumph of Democracy. (1993). Gimbel, John, The origins of the
Marshall plan (Stanford University Press, 1976).
[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives
[12] Amy B. Zegart, Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC
[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy
[14]
Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D.
Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news
conference: “Finally, you have broader considerations that might follow
what you would call the “falling domino” principle. You have a row of
dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to
the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you
could have a beginning of a disintegration that would have the most
profound influences.”
[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)
[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia
[17]
Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963
that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in
Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they
will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem,
he should also be sent outside Southeast Asia.” He further went on to
anticipate what he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should
encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the
palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be
the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver
both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the
Nhus should be banished to France or any other country willing to
receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer,
Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.
[18]
According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs
of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were
aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we
Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese
found themselves.”
[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.
[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”
[21]
President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback
risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting
the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”
[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25
[23] Television
brought the brutality of war into the comfort of the living room.
Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields
of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.
[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).
[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]
[26] With honor
[27] Vietnamization or Nixon Doctrine
[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam Syndrome. Karnow, Stanley (1991)
[29] Battlefield:Vietnam | Timeline
20
Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike
Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam
Archive, Texas Tech University.
R.J.
Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources &
Calculations”. web site.
http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01.
Tran Van Tra, Tet,
pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide
Offensive”. web site.
http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm.
Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF
Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.
[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon.
Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and
television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement
on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’
[31]
Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to
strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to
the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet
regime.
[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.
[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961
Nguồn: http://www.vietthuc.org/ch%E1%BB%A7-nghia-be-b%E1%BB%9D-chi%E1%BA%BFn-tuy%E1%BA%BFn-vi%E1%BB%87t-nam/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét