Thứ Tư, 4 tháng 11, 2015

10 lý do nhân dân VN không chào đón Tập Cận Bình

10 lý do nhân dân VN không chào đón Tập Cận Bình

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Sau khi cơn hờn giận HD-981 tạm thời dịu xuống, Tập Cận Bình, vào đầu tháng Tư 2015, đã dành cho Nguyễn Phú Trọng một buổi tiếp đón trịnh trọng ngoài sự tưởng tượng của y mặc dù trước đó họ Tập đã từ chối tiếp y. Đáp lại ơn mưa móc, cuối tuần này, đảng CSVN cũng sẽ tiếp đón Tập Cận Bình bằng những lễ nghi vô cùng trịnh trọng dù trên con đường biên giới hài cốt của hàng vạn thanh niên Việt Nam vẫn còn rơi rớt và trong vùng biển Việt Nam máu ngư dân vẫn ngày đêm đổ xuống trong tức tưởi âm thầm.

Rất nhiều lý do tại sao nhân dân Việt Nam không chào đón Tập Cận Bình, tôi chỉ tóm tắt 10 lý do tiêu biểu:

1. Truyền bá tư tưởng CS độc hại sang Việt Nam

Mặc dù máu của hàng vạn đồng bào Việt Nam đổ xuống trong cuộc chiến tranh chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước chân thành và trong sáng, cuộc chiến gọi là “chống Pháp giành độc lập” do CSVN phát động, về mặt chiến lược (lấy nông thôn bao vây thành thị) và chiến thuật (biển người) đều hoàn toàn do Trung Cộng quyết định. CSVN chỉ biết thừa hành. Và để rồi, sau khi chiếm được nửa nước, tư tưởng CS và đường lối độc tài toàn trị dã man của Mao Trạch Đông được áp dụng một cách triệt để tại miền Bắc, cụ thể nhất qua các cuộc Cải cách ruộng đất giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Chiến tranh là phương tiện để đạt đến quyền lực chứ không phải giải phóng dân tộc như bộ máy tuyên truyền của đảng rêu rao.

2. Liên đới chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 3 triệu người Việt Nam

Cùng với đảng CSVN, Trung Cộng phải liên đới chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 3 triệu người Việt Nam trên cả hai miền trong giai đoạn từ 1955 đến 1975 dưới chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước”. Cuộc chiến này thực chất chỉ nhằm bành trướng chủ nghĩa CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam và mở rộng vùng an toàn biên giới phía Nam của Trung Cộng như chính Mao thừa nhận. Dưới mắt Mao Trạch Đông và các lãnh đạo Trung Cộng sau y, vị trí của Việt Nam không khác gì vị trí của Bắc Triều Tiên và Đài Loan. Ngoài ra, các lãnh đạo CSVN chỉ là những con cờ trong cuộc chạy đua của Trung Cộng để giành ảnh hưởng trong phong trào CS quốc tế với Liên Xô. Ngay cả khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” một thời là mệnh lệnh thiêu thân của hàng triệu thanh niên miền Bắc trước 30-4-1975 cũng phát xuất từ Trung Cộng trong chiến tranh Triều Tiên. Bằng chứng, ngày 7 tháng 7 năm 1954, khi chưa có một người Mỹ nào đến Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tuyên bố “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”. Câu nói đó lập lại câu của Mao Trạch Đông khi nói về Mỹ.

3. Cướp Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam

Bất chấp luật pháp quốc tế, ngày 19 tháng 1, 1974 Trung Cộng đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hải quân Việt Nam Cộng Hoà có 75 sĩ quan và binh sĩ hy sinh trong đó Hộ Tống Hạm Nhật Tảo (HQ-10) có 63 người chết bao gồm hạm trưởng Ngụy Văn Thà. Vào ngày 14 tháng 3, 1988, hải quân Trung Cộng đã bắn chìm 3 tàu, giết chết 74 binh sĩ Việt Nam ở phía nam bãi đá Gạc Ma. Quốc Vụ Viện Trung Cộng, ngay sau đó, đã hợp thức hóa hành động cướp đảo này khi phê chuẩn thành lập thành phố Tam Sa bao gồm các đảo vừa chiếm được trên biển Đông trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà chúng gọi là Tây Sa và Nam Sa.

4. Ủng hộ Pol Pot tàn sát dân Việt Nam

Chính Mao Trạch Đông, ngày 21 tháng 6, 1975 đã tuyên bố ủng hộ Pol Pot gây hấn với Việt Nam và sau đó viện trợ cho Pol Pot hàng trăm xe tăng, đại pháo và nhiều máy bay chiến đấu để chuẩn bị cho các trận đánh lớn có thể xảy ra. Trong giai đoạn này, Trung Cộng là đồng minh duy nhất của Khmer Đỏ. Pol Pot chủ trương chỉ cần một người Campuchia giết được ba chục người Việt, dân Campuchia sẽ tiêu diệt toàn bộ dân tộc Việt Nam. Các cuộc đột kích vào đảo Thổ Châu, Phú Quốc, nhiều địa phương thuộc các tỉnh An Giang, Tây Ninh, đốt phá làng mạc, giết người, bắt cóc, bịt mắt thả sông của Khmer Đỏ trong giai đoạn 1977-1978 phát xuất từ chủ trương này.

5. Giết chết 30 ngàn thanh niên Việt Nam trong chiến tranh biên giới 1979

Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam trong cuộc chiến gọi là Chiến Tranh Biên Giới Việt-Trung. Kết quả, hơn 30 ngàn thanh niên Việt Nam đã bị giết trong hơn ba tuần lễ chiến tranh xâm lược này. Trên đường rút lui, binh lính Trung Cộng được lệnh san bằng các thị xã, thị trấn mà Trung Cộng chiếm được, dùng thuốc nổ phá sập từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ búa đến cầu cống. Cuộc chiến tranh biên giới là để thanh toán nợ máu xương giữa hai đảng CS, không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu từ bao nhiêu thế hệ trước năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết nợ giùm cho đảng CSVN.

6. Phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam

Dù sở hữu một lãnh thổ bao la, các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng vẫn hèn hạ tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam. Hàng loạt các trận xoi mòn biên giới đã xảy ra khi chiến tranh Việt Nam còn đang diễn ra trước 1975. Sau chiến tranh biên giới 1979, Trung Cộng tiếp tục các trận chiến xoi mòn như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Riêng trận Lão Sơn ngày 26 tháng Tư, 1984, theo lời kể của viên tư lịnh quân Trung Cộng mà người viết đã dịch từ China Defence vài năm sau đó, đã có 3700 binh sĩ Việt Nam bị giết. Thân xác họ, thay vì được trao trả cho phía Việt Nam hay chôn cất, đã bị đốt cháy bằng xăng dọc chân núi Lão Sơn trong lãnh thổ Việt Nam. Trung Cộng có thể khoác lác tuyên truyền về con số và cách chết của tuổi trẻ Việt Nam, nhưng Lão Sơn rơi vào tay Trung Cộng là sự thật.

7. Ngang nhiên vi phạm các quy định của Công ước Luật biển 1982 và luật pháp quốc tế

Tháng 5, 2009 Trung Cộng trình lên Liên Hiệp Quốc bản đồ mới trong đó có “Đường lưỡi bò 9 đoạn” bao gồm bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển với khoảng 80% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ chừa lại khoảng 20% cho tất cả các nước còn lại. Việt Nam, nếu căn cứ vào “đường lưỡi bò” của Trung Cộng, chỉ có bờ mà không còn biển. Dù lời tuyên bố không được quốc tế chấp nhận, Trung Cộng vẫn ngang nhiên tiến hành việc xây dựng các cơ sở không chỉ về hành chánh, y tế, du lịch mà cả phi đạo quân sự trong vùng biển Việt Nam. Từ đầu năm 2015, Trung Cộng đã tiến hành xây dựng 5 đảo nhân tạo chung quanh quần đảo Trường Sa với mục đích kiểm soát khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên hiện đang có 5 quốc gia tuyên bố chủ quyền trong đó có Việt Nam. Thái độ và hành động bá quyền của Trung Cộng vi phạm các quy định của Công ước Luật biển 1982 cũng như luật pháp quốc tế về hàng hải.

8. Tàn sát ngư dân Việt Nam

Trung Cộng thẳng tay tàn sát một cách dã man tầng lớp ngư dân Việt Nam vô tội trên những chiếc thuyền gỗ thô sơ và không một tấc sắt trong tay. Những tên cướp biển nói tiếng Quan Thoại này trong 40 năm qua đã giết rất nhiều ngư dân vô tội. Trong thời kỳ internet tương đối phổ biến, những tin tức như cái chết thảm thương của 9 ngư dân Thanh Hóa còn được biết đến nhưng 30 năm trước đó thì không ai biết. Không có một kết toán nào tổng kết bao nhiêu ngư dân Việt Nam đã chết dưới tay của hải quân Trung Cộng. Nỗi bất hạnh của ngư dân Việt Nam đã âm thầm hòa tan vào sự chịu đựng triền miên của dân tộc Việt Nam như máu của họ đã và đang hòa tan vào nước Biển Đông xanh thẳm.

9. Nuôi dưỡng tập đoàn lãnh đạo độc tài CSVN

Lãnh đạo Trung Cộng nuôi dưỡng một tập đoàn lãnh đạo độc tài CSVN đan tâm rước voi giày mả tổ. Lãnh đạo Trung Cộng hơn ai hết biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng hiểu hiện nay chỉ còn năm đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ CSVN về mặt lý luận tư tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Về phía CSVN, chủ trương “hợp tác hổ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN là một bằng chứng đầu hàng và tuân phục tuyệt đối quan thầy Trung Cộng. Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương “hợp tác bình đẳng” nói chi là những nước mang số phận nhược tiểu, sân sau như Việt Nam. Lãnh đạo các nước nhỏ sở dĩ vượt qua được những nhược điểm khách quan của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

10. Thiếu tư cách của một lãnh đạo

Tập Cận Bình không có tư cách của một lãnh đạo cũng như một con người với những nhận thức lịch sử tối thiểu để nhân dân Việt Nam có thể tha thứ và chào đón y. Lãnh đạo Trung Cộng tận dụng bộ máy tuyên truyền để đưa biến cố Tàn Sát Nam Kinh (Nanking Massacre) thành một trong những cuộc thảm sát khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người sau khi thành phố này rơi vào tay Nhật trong chiến tranh Hoa-Nhật lần thứ hai (1937–1945). Từ 1950 đến 2010, lãnh đạo các chính phủ Nhật đã 52 lần xin lỗi về các lỗi lầm do quân đội Nhật gây ra nhưng các lãnh đạo Trung Cộng vẫn chưa vừa ý. Nhật Bản chỉ chiếm đóng Trung Hoa 9 năm còn Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam hàng trăm lần lâu hơn thế. Các lãnh đạo Trung Cộng có bao giờ xin lỗi một cách chính thức dân tộc Việt Nam về bao nhiêu tội ác mà tổ tiên của Tập Cận Bình đã gây ra cho dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử?

Với điều kiện địa lý chính trị hiện nay, Việt Nam dù có tự do dân chủ vẫn phải đối đầu với các lãnh đạo Trung Cộng và vẫn phải gặp nhiều khó khăn nhưng chắc chắn sẽ đối đầu trong cương vị một chính phủ hợp hiến, chính danh của một nước có chủ quyền được quốc tế cảm tình chứ không phải đám lãnh đạo chỉ biết cúi đầu tuân phục thiên triều Trung Cộng như hiện nay. Nhưng dù sao đó cũng là chuyện ngày mai, còn hôm nay, nhân dân Việt Nam dứt khoát không có lý do gì để chào đón Tập Cận Bình.

04.11.2015
Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com

 
M&M M&M is offline
Tướng 5 sao



Mất đảng có mất nước?

Blog VOA
Nguyễn Hưng Quốc
4011-2015


Theo báo chí trong nước, chiều ngày 22 tháng 10 vừa qua, trong một phiên họp tại Quốc hội, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, có bài nói chuyện về tình hình quốc phòng và an ninh của đất nước, trong đó, ông liệt kê những thắng lợi của Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như biện hộ cho vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giữ nước. Ông nhấn mạnh: “Nếu mà mất Đảng, mất chế độ thì biển đảo cũng mất”.

Để khẳng định như vậy, ông Phùng Quang Thanh đưa ra hai lập luận chính:
Thứ nhất, sự lãnh đạo độc tôn của đảng sẽ mang lại ổn định trong xã hội và sự độc lập của đất nước. Ông lập luận: “Nếu mà trong nội bộ đất nước để xảy ra bạo loạn, biểu tình, ly khai, xảy ra tổ chức đối lập, để xảy ra lực lượng vũ trang đối lập (như một số nước đã có), mà lại phải dùng lực lượng chức năng trấn áp, để xảy ra thương vong, đổ máu thì bên ngoài sẽ lấy cớ vi phạm dân chủ, nhân quyền, dùng biện pháp này, biện pháp khác để bao vây, cấm vận, cô lập chính trị, chia rẽ nội bộ, thừa cơ đó lật đổ chế độ.”

Thứ hai, ông cho chính nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của đảng Cộng sản nên cho đến nay, Việt Nam mới vừa giữ được chủ quyền trên Biển Đông vừa duy trì được hoà bình cho đất nước. Ông cho biết trong mấy chục ngày Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, Bộ Chính trị đã có 12 phiên họp để bàn về kế sách đối phó. Kết quả là, sau đó, Trung Quốc cho kéo giàn khoan về nước và Biển Đông đã lặng sóng. Ông cũng nói thêm là các hòn đảo ở Trường Sa do bộ đội Việt Nam trấn giữ vẫn thuộc Việt Nam; các giếng khoan dầu ngoài khơi vẫn tiếp tục hoạt động và ngư dân vẫn tiếp tục đánh cá an toàn.

Những lập luận ấy, thật ra, hoàn toàn nguỵ biện.

Thứ nhất, liệu dân chủ hoá có dẫn đến hỗn loạn, từ đó, sự can thiệp của nước ngoài hay không? Câu trả lời rất rõ: Không. Cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản tại Nga và Đông Âu sụp đổ, không có nước nào lâm vào cảnh bạo loạn cả. Trừ Nga, tất cả các nước khác đều ngày một trở thành dân chủ hơn, và cùng với dân chủ, thịnh vượng hơn. Trong hai năm 2011 và 2012, các chế độ độc tài ở một số quốc gia Trung Đông và Bắc Phi lần lượt sụp đổ và dù gặp rất nhiều gập ghềnh và khúc khuỷu, con đường dân chủ hoá cũng càng lúc càng mạnh mẽ. Sự hỗn loạn chỉ có ở Syria và Libya nhưng ở cả hai nước này, sự hỗn loạn đến từ những nguyên nhân khác: sự phân hoá về chủng tộc và, đặc biệt, tôn giáo với sự tham gia của các lực lượng Hồi giáo cực đoan. Ngay ở Á châu, từ mấy năm nay, Miến Điện cũng dần dần dân chủ hoá nhưng không gây nên bất cứ sự bất ổn nào. Bởi vậy, không có lý do gì để sợ khi chế độ Cộng sản sụp đổ, Việt Nam sẽ lâm vào khủng hoảng. Hơn nữa, khi sự thay đổi ấy xuất phát từ chính đảng Cộng sản với một lộ trình dân chủ hoá mạnh mẽ và rõ ràng, nguy cơ khủng hoảng càng giảm thiểu.

Thứ hai, liệu không còn đảng Cộng sản, biển đảo Việt Nam có bị mất? Câu trả lời cũng không.

Có hai lý do chính.

Một là, sự thật lịch sử trong mấy chục năm vừa qua chứng minh một điều ngược lại: chính chế độ cộng sản tại Việt Nam mới làm cho Việt Nam mất biển đảo vào tay Trung Quốc. Ai cũng biết công hàm Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, trong đó, thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa). Ai cũng biết năm 1974, khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, chính những người lính Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam đã liều mình để bảo vệ đảo trong khi đó, ở miền Bắc, chính quyền do đảng Cộng sản lãnh đạo thì hoàn toàn im lặng. Ai cũng biết năm 1988, khi Trung Quốc đánh chiếm mấy bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, chính quyền Việt Nam chỉ phản ứng lấy lệ và cuối cùng, các bãi đá ấy đều lọt vào tay Trung Quốc. Ai cũng biết từ mấy năm nay, trước các hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, kể cả việc bắt bớ, thậm chí giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam cũng chỉ phản ứng một cách rất “ngoại giao”. Phản ứng cho có để dân chúng khỏi lên án, vậy thôi. Nói chung, trước dã tâm xâm lấn biển đảo của Trung Quốc, chính quyền Việt Nam chưa hề chứng tỏ có một chiến lược đối phó nào cho thật rõ ràng trừ sự nhường nhịn. Hơn nữa, với những khẩu hiệu “4 tốt” và “16 chữ vàng”, dường như họ cũng không thấy hết nguy cơ đến từ Trung Quốc.

Hai là, tuyệt đối không có bằng chứng nào cho thấy một chế độ dân chủ sẽ trở thành yếu ớt hơn trong việc bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước. Nếu không muốn nói, ngược lại. Chế độ dân chủ có hai mặt mạnh mà một chế độ độc tài không có: Thứ nhất là dễ có liên minh rộng rãi và vững chắc với các nước khác trên thế giới; và thứ hai là dễ nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng.

Nói tóm lại, lập luận “mất đảng, mất chế độ thì mất biển đảo” chỉ là một sự nguỵ biện. Nó không đúng. Nó chỉ biện hộ cho việc duy trì chế độ độc tài tại Việt Nam mà thôi.
 
 Nguồn: ww.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=36570 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét