Những người bức tử Chúa Giê-su cuối cùng có kết cục như thế nào?
Rất nhiều người đều biết rằng Chúa Giê-su vì để chuộc tội cho loài
người đã phải chịu bị đóng đinh lên thập tự giá. Tuy nhiên, có lẽ không
có mấy người biết những ngươi đã phán Chúa Giê-su tội tử hình cuối cùng
đã nhận phải báo ứng.
Kẻ phán Chúa Giê-su tội tử hình là Phi-la-tô, ông được đế quốc La Mã cử
đến vùng đất của người Do Thái đảm nhận chức tổng đốc. Tổng đốc có đại
quyền chỉ huy quân đội, quản lí tài chính, đúc chế tiền đồng thông hành
khắp tỉnh, thu thuế, thẩm án, quyết định sống chết của phạm nhân. Đồng
thời, đế quốc La Mã vì để thuận tiện trong việc thống trị vùng Do Thái,
còn sắc phong một vị vua trực thuộc tại vùng đó, vị vua được đế quốc La
Mã sắc phong lúc bây giờ là Hê-rô-đê. Còn trong dân chúng Do Thái, Do
Thái giáo vì được quần chúng nhân dân tín ngưỡng, nên cũng có thế lực
rất lớn mạnh.
Đương thời, người tin vào Chúa Giê-su mỗi lúc một nhiều, dẫn đến sự đố
kỵ và oán hận của các tư tế và trưởng lão trong Do Thái giáo, họ bàn bạc
với nhau rằng nhất định phải giết chết Giê-su, nếu không như thế thì sẽ
chẳng còn ai tin và chu cấp cho họ nữa. Thế là họ bèn mua chuộc phản đồ
Giu-đa, bắt trói Chúa Giê-su lại, rồi áp giải đến chỗ đại tư tế. Các tư
tế, trưỡng lão và văn sĩ đã ngụy tạo tội danh, rồi tiến hành xét xử và
đánh đập Đức Giê-su.
Tuy nhiên, vì dưới sự thống trị của người La Mã, hội đồng phán xét tối
cao của Do Thái giáo không có quyền lợi trong việc chấp hành tội tử
hình, nên họ bèn trói Chúa Giê-su lại rồi áp giả đến nha môn của tổng
đốc La Mã, giao cho Phi-la-tô thẩm vấn. Họ đã vu cáo Giê-su xúi giục dân
chúng nổi loạn, phản đối việc nộp thuế cho hoàng đế La Mã, hy vọng
Phi-la-tô có thể kết án Giê-su tội tử hình. Tổng đốc Phi-la-tô trước đó
cũng biết đến danh tiếng của Chúa Giê-su, con trai duy nhất của ông là
Phê-rô, một chân bị tê liệt và khô cứng, lại mắc phải bệnh lạ nằm liệt
giường không dậy được, tất cả bác sĩ đều đã hết cách, về sau lại được
Giê-su dùng phép lạ mà trị khỏi.
Phi-la-tô tiến hành xét hỏi lần đầu tiên đối với Chúa Giê-su, Người đã
phủ nhận hết thảy những lời vu cáo của các trưởng lão Do Thái giáo, rồi
còn nói với Phi-la-tô về mục đích mà Người đến thế gian: “Tôi vì điều
này mà sống, vì điều này mà đến thế gian, đến để làm chứng cho sự thật”.
Phi-la-tô nhanh chóng biết rõ rằng Đức Giê-su vô tội. Ông bèn nói: “Ta xét thấy người này không hề phạm phải tội gì cả”.
Phi-la-tô thừa biết các tư tế vì lòng đố kỵ nên mới hãm hại Chúa Giê-su,
hơn nữa Giê-su lại là ân nhân cứu mạng của con trai mình, nên ông không
muốn phán Ngài có tội. Tuy nhiên, các trưởng lão Do Thái giáo không
muốn bỏ qua cho Ngài, nên vẫn tiếp tục kiên trì việc tố cáo của mình,
nếu không dồn được Người vào chỗ chết, thì họ quyết không cam lòng.
Bản thân Phi-la-tô hy vọng trong nhiệm kỳ của mình, người Do Thái sẽ
không mang lại những phiền phức và rắc rối, có như vậy sau khi hết nhiệm
kỳ, ông sẽ dễ dàng thăng quan tiến chức, vậy nên ông không muốn đắc tội
với các trưởng lão Do Thái. Thế nên, ông đã nghĩ ra một cách vô cùng
khôn khéo: Đem Chúa Giê-su nộp cho vua Hê-rô-đê xử trí.
Vua Hê-rô-đê lúc đó đang ở Giê-ru-sa-lem, trông thấy Giê-su liền bảo
Người làm một vài phép lạ để cho ông ta mở rộng tầm mắt, nhưng Chúa
Giê-su lại kiên quyết không làm bất cứ màn trình diễn nào. Cuối cùng,
vua Hê-rô-đê đã bỡn cợt Người. Trước những lời bỡn cợt ấy, Giê-su không
nói một lời nào. Còn các trưởng lão Do Thái giáo đứng ở bên cạnh mà vu
khống hãm hại Chúa Giê-su, mong sao vua Hê-rô-đê sẽ phán tội chết cho
Người. Vua Hê-rô-đê không muốn đắc tội với thế lực của Do Thái giáo, thế
là hạ lệnh đưa Giê-su trả về chỗ Phi-la-tô, đồng thời còn viết cho ông
ta một bức thư. Trong thư nói: “Nội trong đêm nay, hãy mau chóng xử
lí tên phạm nhân này, vì ngày mai ta sẽ đi La Mã và nói những lời tốt
đẹp về ông trước mặt hoàng đế”. Cùng lúc cũng phái người ám thị rằng
nhất định phải xử tử Chúa Giê-su, nếu không ông ta sẽ tố cáo Phi-la-tô
trước mặt hoàng đế.
Tổng đốc Phi-la-tô bắt buộc phải thẩm vấn Giê-su lần nữa, dưới sự kích
động của các trưởng lão Do Thái, quần chúng Do Thái lớn tiếng hò hét
khẩu lệnh phải giết chết Chúa Giê-su. Phi-la-tô cho gọi toàn thể tư tế
và dân chúng, nói với họ rằng: “Các người giải người này đến đây, nói
rằng ông ta mê hoặc dân chúng. Hãy nhìn xem, ta đã đem các việc mà các
người tố cáo ông ta ra thẩm vấn trước mặt các người, nhưng lại không xét
thấy ông ấy có tội gì cả, ngay đến cả vua Hê-rô-đê cũng thế, vậy nên
Ngài đã đem ông ấy thả về. Điều đó có thể thấy rằng ông ta không làm
điều gì phạm tội cả; vì vậy, ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra”. Nguyên
lúc đó chính là lễ Vượt Qua của Do Thái giáo. Theo thông lệ của người Do
Thái, mỗi lần qua lễ họ sẽ theo ý nguyện của mọi người mà có thể phóng
thích một tù nhân. Dân chúng Do Thái thà rằng phóng thích một tên cường
đạo giết người, chứ cũng không muốn thả Chúa Giê-su. Các trưởng lão Do
Thái giáo thậm chí còn nói thẳng với Phi-la-tô rằng: “Nếu như ông thả Giê-su, vậy ông không phải là trung thần của hoàng đế La Mã”.
Phi-la-tô nghe xong kinh hồn khiếp vía, liền dẫn Giê-su ra, đi đến một
nơi gọi là “Đồi Sọ”, chính thức thăng đường thẩm án tại nơi đó.
Phi-la-tô vẫn muốn thả Đức Giê-su, liền nói lại lập trường cũ của mình.
Tuy nhiên, dân chúng cứ một mực la lớn: “Đóng đinh nó đi! Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá!”.
Phi-la-tô hỏi lại lần thứ ba: “Tại sao vậy? Ông ấy rốt cuộc đã phạm
tội gì? Ta quả thực không tìm thấy bằng chứ phạm tội nào cả, vì vậy ta
sẽ khiển trách ông ta một phen, rồi phóng thích ông ta”. Dân chúng càng la hét dữ dội, đòi Phi-la-tô phải đóng đinh Đức Giê-su vào thập tự giá.
Cuối cùng, Phi-la-tô không muốn dân chúng nổi loạn mà ảnh hưởng đến việc
thăng quan của mình, thêm vào đó bản tính ông ta vốn hèn nhát, liền lấy
một chậu nước ra mà rửa tay trước mặt dân chúng, nói: “Vụ đổ máu này
vốn không hề liên can gì đến ta, các ngươi hãy tự mình gánh lấy vậy!”.
Thế là Phi-la-tô truyền lệnh đánh đòn Chúa Giê-su, rồi đóng đinh Người
vào thập tự giá.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa Giê-su, tuyệt đối không phải vì Phi-la-tô nói: “Vụ đổ máu lần này vốn không liên can gì đến ta cả, các người hãy tự mình gánh lấy vậy”
thì ông lập tức vô tội rồi. Ngay cả đứng trên góc độ luật pháp ở thế
gian con người mà xét, khi phán một người có tội hay không cần phải dựa
trên điều khoản của luật pháp và bằng chứng phạm tội.
Phi-la-tô là quan tư pháp tối cao của vùng đó, trong tình huống Chúa
Giê-su không có vi phạm điều khoản luật pháp nào cả, cũng không có bằng
chứng nào chứng mình Ngài có tội cả, thì ông lại không đi duy hộ sự tôn
nghiêm của luật pháp, trái lại còn chối bỏ trách nhiệm mà thuận theo tà
ác, phán người vô tội tội tử hình; ngoài ra, đứng từ trách nhiệm của
tổng đốc mà nói, dân chúng nếu làm loạn mà vi phạm pháp luật đế quốc,
thì ông phải có trách nhiệm dẹp yên bạo loạn, chứ không phải hèn hạ
khuất phục trước loạn dân.
Đứng ở góc độ của thế gian mà nói, cái chết của Chúa Giê-su, một là bị
chết bởi phản đồ Giu-đa đã bán đứng Ngài; hai là chết bởi lòng đố kỵ
điên cuồng của các trưởng lão và tư tế Do Thái, cùng với vua Hê-rô-đê và
đám dân chúng bị sự kích động làm ảnh hưởng đến họ; ba là chết bởi lòng
ích kỉ, sợ sệt và hèn nhát mà thuận theo tà ác của Phi-la-tô. Phi-la-tô
tuyệt đối không thể vô tội trong chuyện này được, vì thế ông đã để lại
vết nhơ vĩnh viễn không bao giờ rửa sạch được.
Vậy thì Phi-la-tô đã bị báo ứng như thế nào? Sau khi Phi-la-tô tuyên
phán Đức Giê-su tội tử hình xong, đứa con trai độc nhất của ông là
Phê-rô, người từng được Đức Giê-su chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo mà giữ
được tính mạng, liền lăn xuống đất chết ngay tại chỗ, Phi-la-tô không
lâu sau đó cũng lâm bệnh nặng, hôn mê rất lâu mà không hay biết gì cả.
Tuy nhiên quả báo chỉ mới bắt đầu.
Không lâu sau đó, vua Hê-rô-đê đã làm trái lời hứa, ông ta tẩy chay
Phi-la-tô mà tiến cử người thân tín của mình trước mặt hoàng đế La Mã,
cắt cử người này đến Giê-ru-sa-lem. Phi -la-tô bị gọi về La Mã để từ
chức, tại quốc hội La Mã vì có người làm chứng gian hãm hại ông, vì vậy
ông đã bị đưa ra xét xử đánh đập, rồi bị lưu đày đến Gallia, giấc mộng
thăng quan tiến chức của Phi-la-tô đã sụp đổ hoàn toàn.
Lần này Phi-la-tô hoàn toàn mất hết danh dự, ai nấy đều khinh thường xa
lánh. Tất cả gia sản của ông ở La Mã đều bị sung vào công quỹ, cuối cùng
rơi vào cảnh không đồng xu dính túi, sống cuộc đời giống như một người
nô lệ. Sau khi đến nơi lưu đày, mọi người đều khinh thường, chế giễu
ông, ngay đến cả trẻ con cũng đều xa lánh ông.
Hoàng đế La Mã vẫn không nguôi giận, không lâu sau lại hạ lệnh giết chết
ông. Phi-la-tô sau khi nghe xong tin này, vô cùng tuyệt vọng, cuối cùng
ông đã như điên như dại mà tự châm lửa thiêu sống chính mình. Thi thể
của ông bị buộc vào một tảng đá mà quăng xuống sông, tuy bị cột vào tảng
đá, nhưng lại không có chìm xuống, mà trôi nổi trên sông để cho lũ cá
cắn xé.
Không chỉ Phi-la-tô, tất cả những người có tham dự vào việc bức tử Chúa
Giê-su đều gặp phải báo ứng vô cùng khủng khiếp: phản đồ Giu-đa treo cổ
tự sát, nghe nói sau khi chết liền bị đọa vào ngục vô gián ở âm ty, chịu
đựng thống khổ ngày đêm không ngừng nghỉ; các trưởng lão và tư tế Do
Thái cho đến cả dân chúng đã bị họ xúi giục cùng với con cháu của họ,
còn có con cháu của vua Hê-rô-đê sau này đều bị đại quân La Mã giết chết
hoặc bắt làm tù binh, Thánh điện của Do Thái giáo cũng bị phá hủy triệt
để. Con cháu người Do Thái sau này đối mặt nạn diệt chủng mà Hitler
phát động, cũng là một phần trong hành trình trả nợ nghiệp vì ông cha họ
đã bức tử một vị Thần xuống thế nhân để cứu độ con người.
Lời cảnh tỉnh người đời vẫn còn đó, nhưng con người hiện nay không hề
quan tâm, vẫn luôn trong vô minh hoặc bị danh lợi mê hoặc mà làm chuyện
trái lương tâm. Như việc tại Trung Quốc đương thời, chính quyền Đảng
Cộng sản không ngừng bức hại người tu Phật là những học viên Pháp Luân
Công, hay Phật tử Tây Tạng, tất cả đều xuất phát từ những lời vu khống
vô căn cứ. Độc ác hơn khi họ còn tiến hành hoạt động buôn bán nội tạng
của những học viên này để mưu lợi.
Không kể họ là những người tu Phật, một lòng hướng vào Chân Thiện Nhẫn
thì họ cũng là con người như chúng ta, ĐCSTQ lấy quyền gì để tàn sát họ,
mổ cắp nội tạng của họ.
Những con người dám thực hiện hành vi độc ác kinh thiên động địa, khiến
trời không dung, đất không tha ấy liệu có thể không bị quả báo.
Còn những ai trước tội ác kinh hoàng này mà không cất lên tiếng nói của
lương tâm, liệu có thể không chịu chung số phận với người chủ mưu.
Bài học còn đó, tương lai là do bạn lựa chọn, đừng mê mờ dửng dưng để thống khổ vạn kiếp về sau.
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=35234
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét