Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020
Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2020
Lhq Nhận Cờ Vnch, Bỏ Cờ Csvn
Vào chiều ngày 10 tháng 9 năm 2000, một sự kiện trọng đại chưa từng có trong lịch sử tị nạn tại Hoa Kỳ của cộng đồng Việt Nam đã diễn ra tại thành phố New York. Cuộc diễn hành của đồng bào Việt Nam hải ngoại trên đại lộ Madison tới trụ sở Liên Hiệp Quốc đã gây sửng sốt và kinh ngạc cho các quan khách quốc tế. Đây là lần đầu tiên, Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận văn hóa Việt Nam dưới màu cờ vàng ba sọc đỏ. Họ đã công khai hứa với ban tổ chức rằng sẽ không có màu sắc nào khác ngoài màu cờ vàng duy nhất của đại diện Việt Nam trong cuộc diễn hành về văn hóa của hơn 100 nước tại Liên Hiệp Quốc.
Nhận thấy đây là một thiện ý tích cực của LHQ trong việc cô lập các chính phủ độc tài mà điển hình là CSVN, cộng đồng Việt Nam tại New York và các đoàn thể khắp nơi đã lên kế hoạch nhằm thực hiện một cuộc tuần hành rầm rộ nhất trong tất cả các quốc gia tham dự. Dự định đã thành công và mang lại kết qủa rực rỡ. Trước mặt quan khách liên Hiệp Quốc, quốc gia nào cũng muốn trổ hết sở trường để phô bày văn hóa nước mình ra thế giới. Nhưng sự hùng hậu, huy hoàng, khang trang, mỹ lệ của văn hóa Việt Nam đã làm họ thán phục.
Khoảng một ngàn người Việt Nam đã về tham dự diễn hành đi thành hai hành song song để tạo hình con rồng Việt Nam bằng màu cờ vàng dài tới ba dãy phố. Hai hàng cờ vàng tươi cuộn cuộn tung mình giữa thanh thiên bạch nhật, giữa đại lộ Madison danh tiếng của thành phố New York. Xe phải dừng lại, cùng với tiếng vỗ tay không ngớt của quan khách hai bên đường. Tầm mắt ai nấy đều ngút vàng lấy những là cờ và cờ, theo những đoạn đường tuần hành lên xuống. Nhưng, tất cả đó chỉ mới tạo nên nên thân dáng của rồng mà thôi! Xe hoa với đám rước đi đầu mới là Long Đầu đích thực... là một tác phẩm văn hóa Việt tộc, gây ấn tượng, sự cảm thông và niềm thán phục sâu sắc.
Mở đầu của đoàn diễn hành là một lá đại kỳ được nâng rước bởi sáu vị nữ lưu trong quốc phục áo dài truyền thống. Phái đoàn Việt Nam là phái đoàn có lá cờ lớn nhất trong hàng trăm lá cờ của các quốc gia tham dự. Chỉ tính bề ngang đã bằng một làn đường xe chạỵ Vì có kích thước lớn như vậy, nên khi căng ngang, phiến vải làm cờ bắt gió, tạo sóng cuộn phấp phới. Sóng cờ vàng sọc đỏ in lấp lánh lên những cao ốc bọc kiếng và đá hoa cương lộng lẫy tạo cảm giác ngập lòng nô nức cho đoàn người và quan khách. Sung sướng và hãnh diện thay cho ngọn màu cờ vàng! Dù chưa bao giờ có cơ hội tham gia chính thức vào LHQ bằng đơn vị quốc gia, nhưng vẫn được người Việt hằng nâng niu yêu mến và vẫn đang chinh phục lòng người cho lý tưởng cao cả. Sau phần rước lá đại kỳ là những đại biểu của các cộng đồng đến từ các tiểu bang trong các mẫu áo đồng phục đặc biệt để ghi dấu sự kiện trọng đạị Đây cũng chính là những bước chân chính nghĩa, khát vọng và là linh hồn của nền dân chủ và tự do cho dân tộc Việt Nam về sau mà vấn đề còn lại chỉ là thời gian.
Thế giới đã bắt đầu nhận ra thảm cảnh của CS như một cơn kiếp nạn, đã hủy diệt tất cả các năng lực và sức đề kháng của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam còn có những di sản cao quý hơn những điều mà CSVN thường khoe khoang và bóp méo để tô điểm cho tập đoàn gian trá. Để ghi dấu những năng lực và những kỳ tích oanh liệt đó, ban tổ chức diễn hành tại New York đã chọn lấy hình ảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi phất cờ khởi nghĩa làm biểu tượng cho lịch sử văn hóa. Trên một chiếc xe hoa được trang hoàng rực rỡ với màu vàng tươi viền đỏ chấm phá, hình tượng voi chiến được dựng lên với đầy đủ yên ngai cờ lọng. Đặc biệt nhất là hai cô gái xinh đẹp đóng vai Trưng Trắc và Trưng Nhị uy nghi trong bộ chinh y vàng chói, cầm gươm đánh đuổi quân nhà Hán. Thật không thể tưởng tượng nổi hình ảnh Hai Bà Trưng trên lưng voi giữa thành phố New York nguy nga của gần 2000 năm sau! Đân tộc Việt Nam đang chia xẻ với thế giới một huyền thoại đẹp đẽ làm vẻ vang người đức hạnh người phụ nữ. Đây cũng là niềm tự hào và tiêu chuẩn cho nhân loại nhằm khẳng định tính chính nghĩa được sàng lọc bởi lịch sử. Phần giới thiệu do người phát ngôn từ khán đài khi đoàn người đi qua cũng đã khẳng định chân lý ấỵ “Tuy sự nghiệp của hai bà Trưng chỉ có trong ba năm, sau đó lại rơi vào tay của nhà Hán và nước Việt lại bị các triều đại Trung Quốc thống trị” Tuy kẻ thù đã có cả ngàn năm để viểt sử, để bóp méo hình ảnh lẫm liệt của hai Bà. Nhưng hôm nay, bóng dáng hiển hách của hai Bà đã lồng lộng giữa thế giới. Còn hình ảnh quân thù quỷ quyệt tàn bạo, thì đang ở góc nào"
Đám rước voi của Hai Bà Trưng rộn ràng trong khí thế tiền hô hậu ủng. Tiếng trống quân vang lên rập ràng từ các thiếu nữ trong bộ xiêm y tứ thân và áo dài đủ màu sắc giữa lòng phố. Các quân lính nghiêm cẩn gươm giáo trong các bộ binh phục cổ truyền. Các bô lão râu dài tóc bạc ngồi phía sau trong quốc phục áo thụng khăn vành. Nhìn vào tác phẩm văn hóa trình giữa làng thế giới mới cảm phục sức sáng tạo đầy tình tự dân tộc của cộng đồng Việt Nam tại New York. Nhưng cũng chưa hết cho phần trình diễn, bản sắc văn hoá lại được giới thiệu bằng một nghi lễ đám cưới truyền gồm cô dâu chú rể cùng với đoàn người mang các lễ phẩm. Đến đoạn này, giữa lòng đại lộ hoa lệ bậc nhất của Tây phương lại thấp thoáng các bóng dài, áo thụng xanh xanh đỏ đỏ. Bên đường lại có các vị trưởng thượng khác cũng mặc áo dài đứng vẫy cờ. Chưa bao giờ giữa New York mà người Việt Nam lại nổi bật như hôm naỵ Thân dáng của rồng vẫn cuộn theo, ngợp tầm mắt, khiến bao du khách, ký giả phải đổ ra đường chụp những cảnh tượng hiếm có. Trong các tầng lớp quan khách, có người lại thì thầm giải thích về màu cờ vàng và vấn nạn của Việt Nam cho nhau nghẹ Có người lại biểu lộ sự thông cảm bằng tiếng reo hò và vỗ tạy. Có người phất cờ nhịp nhàng theo ngọn sóng cờ của đoàn người. Mọi người trong hàng đều cảm thấy lòng phơi phới như những nghệ sĩ được khán giả trao tặng tình cảm. Lại có người cảm thấy lòng rộn rã như đoàn quân trong khúc khải hoàn ca vì họ đang là một chiến sĩ làm vẻ vang văn hóa nước nhà. Có người đã rơi lệ và biểu lộ niềm xúc động với nhau rằng chưa bao giờ thấy lòng được tràn ngập sung sướng như hôm naỵ Và lên trên tất cả của mọi lý luận và tranh chấp về chính trị, màu cờ vàng hôm nay đã nghiễm nhiên trở người thừa kế chính thức của văn hóa ngàn năm dân tộc. Văn hóa Việt Nam ra nước ngoài bằng màu cờ vàng ba sọc đỏ. Những người có lương tâm sẽ không thể nào chối bỏ được sự kiện nàỵ.
Màu cờ vàng giữa chốn tai mắt quốc tế đã biểu hiện sức sống và sự quyết tâm của người Việt Nam hải ngoại. Vì vậy, không lý gì mà thế giới lại làm ngơ trước cảnh đại đa số người Việt Nam, vẫn đầy đủ các chủng tử năng lực ấy lại ngập chìm trong sự nghèo đói và lạc hậu. Móng vuốt của rồng Việt Nam vươn cao với thế giới trong tiếng quân nhạc hùng tráng gây thêm nổi niềm ngưỡng mộ và sự khâm phục. Nhưng, bên kia trời, các móng vuốt vô hình này đang xé nát tâm địa hắc ám cuối cùng của đám sư đồ cuồng dại còn bám theo chủ nghĩa CS phi văn hóa. Đối với người CSVN còn có chút lương tâm thì hình ảnh cuộc diễn hành hôm nay sẽ xói mòn hết những niềm tin cuối cùng vào nhà nước CS nhằm thăng hoa dân tộc. CSVN không thể nào đủ sức làm vẻ vang văn hóa Việt Nam như một cộng đồng Việt Nam lưu vong. Điểm mấu chốt quan trọng hơn hết, Liên Hiệp Quốc đã can đảm đẩy CSVN đứng ra ngoài tư cách đại diện văn hóa Việt Nam mặc dù về công pháp, đây là một nước cũng có môn bài tại tổ chức này từ năm 1976, sau khi chiếm xong VNCH, khai tử “đứa con yêu dấu” là mặt trận giải phóng miền Nam để nhuộm lấy non sông Việt Nam bằng màu cờ đỏ.
Hành động của Liên Hiệp Quốc được cộng đồng Việt Nam ghi nhận là dũng cảm vì đã tạo một môi trường thuận lợi cho hình ảnh của một chính nghĩa của Việt Nam giữa vũ đài quốc tế. Đây có lẽ là một sự kiện ý nghĩa và hiển hách nhất trong 25 năm lưu vong tại hải ngoại của người Việt quốc gia.
Sau đây là tin tóm lược bên lề của toàn bộ cuộc diễn hành cho ngày văn hóa tại Liên Hiệp Quốc.
Chương trình bắt đầu vào lúc 2 giờ theo thứ tự chữ cái nên các nước như Á Căn Đình được đi trước.
Các nước Nam Mỹ nói chung đã biểu diễn các vũ điệu sống động và áo quần rực rỡ.
Các nước Phi Châu cũng nhảy múa với các vũ điệu của các bộ lạc rừng núi.
Các nước ở Âu châu như Ba Lan, Bồ Đào Nha có xe hoa trưng bày các di sản của dân tộc họ.
Đại Hàn: Phái đoàn không phất cờ vì có lẽ tế nhị về vấn đề thống nhất Nam Bắc. Họ múa trống trong y phục cổ truyền cùng với một đội hình tai-won-do.
Trung Quốc: Không có bóng dáng của Đài Loan. Cờ đại lục do một nhóm người nói tiếng Quảng Đông phất. Đại Sứ Quán Trung Quốc thuê một con Lân dài múa ngoằn ngoèo giữa đường và làm cảnh Bát Tiên “lội bộ”. Phái đoàn Trung quốc là phái đoàn đã gây tiếng cười nhiều nhất vì cách ăn mặc lùi xùi của các “hán cộng”, và nhất là có câu tiếng Anh độc đáo. Số là một trong hai đoàn thể tham gia có một cái gọi là “Trung Quốc Phụ Nữ Hội”. Hội này quá sơ sài nên khi dịch tên ra tiếng Anh lại để tên tắt là Chinesse Woman’s Ass. (Ass = Association). Trước tấm vải đề tên hội, có ba bà xẩm mặc xường xám múa vòng veo khiến mấy người Mỹ bảo nhau: “Wow”. Trung Quốc phát cờ cho công chúng bên đường bị quăng lại bừa bãi.
Thái Lan: Đoàn trang trí xe hoa bằng một thứ Phong Lan màu tím rất đẹp và đắt tiền lại khó mua. Trên xe họ trưng bày cổ nhạc và một cái am có mái cong, rất đẹp mắt. Phụ nữ Thái Lan mặc quốc phục, múa rất đẹp và uyển chuyển. Phái đoàn Thái Lan được sắp xếp trước Việt Nam. Họ có khoảng trên 100 người.
Hầu như tất cả các phái đoàn đều dưới 100 người.
Nguồn: https://vietbao.com/a30469/dien-hanh-van-hoa-lhq-nhan-co-vnch-bo-co-csvn
Nguồn: https://vietbao.com/a30469/dien-hanh-van-hoa-lhq-nhan-co-vnch-bo-co-csvn
Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH (Vào những ngày cuối tháng 4/1975).
BỘ TỔNG THAM MƯU QUÂN LỰC VNCH
( và những ngày cuối tháng 4.1975)
Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan chỉ huy cao nhất của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Để thống nhất hệ thống chỉ huy các lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam, Bộ Tổng Tham mưu được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 5/1952 với vị Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên là Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh,https://www.facebook.com/ photo.php?fbid=280971215386 348&set=a.277563932393743. 1073741896.100004204144219 &type=3&theater
Tham mưu trưởng là Trung tá Lê văn Tỵ.
Trụ sở Bộ Tổng Tham mưu ban đầu đặt tại khu nhà số 606 Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Tổng số nhân sự Bộ Tổng Tham mưu lúc bấy giờ gồm khoảng 150 người, gồm 21 sĩ quan và 15 hạ sĩ quan Pháp, còn lại là Việt Nam.
Lúc mới thành lập, Bộ Tổng Tham mưu được tổ chức rất đơn giản, với các thành phần như sau:
- Tổng Tham mưu trưởng và Văn phòng TTMT
- Tham mưu trưởng Tham mưu Biệt bộ (nơi tập trung mọi tin tức để đệ trình Tổng thống)
- Ba Tham mưu phó: Tổ chức và Nhân viên, Hành quân và Huấn luyện, Tiếp vận
- Chỉ huy trưởng Viễn thông, ngang hàng Tham mưu phó
- Bốn Phòng Tham mưu chính: 1, 2, 3 và 4
- Nha An ninh Quân đội
- Ban Không quân
- Ban Hải quân
- Trung tâm Công văn và Công điện
- Bốn Nha: Nhân viên, Quân nhu, Quân cụ (trong đó có Sở Vật liệu Truyền tin) và Quân y
Tháng 7/1952, các quân khu được thành lập với các tư lệnh như sau: Đệ nhất Quân khu (Nam Việt) Đại tá Lê Văn Tỵ, Đệ nhị Quân khu (Trung Việt) Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ, Đệ tam Quân khu (Bắc Việt) Trung tá Nguyễn Văn Vận và Đệ tứ Quân khu (Cao nguyên Trung phần). Tháng 11/1954, Đại tá Lê Văn Tỵ thăng chức Thiếu tướng và ngày 1 tháng 12/1954, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh. Tháng 10/1955, Thiếu tướng Lê Văn Tỵ được thăng Trung tướng, rồi Đại tướng tháng 12/1956, tiếp tục giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội VNCH đến sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11/1963. Trong thời gian này (1956), Bộ Tổng Tham mưu được di chuyển vào trại Trần Hưng Đạo (Camp Chanson), Phú Nhuận, nơi đặt Bộ Chỉ huy của Quân đội Pháp trước đây.
Sau tháng 7/1965, chức vụ Tổng Tham mưu trưởng được kiêm nhiệm bởi Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng trưởng Quốc phòng. Vào ngày 14 tháng 10/1965, sau khi Tướng Nguyễn Khánh bị gạt bỏ khỏi chính quyền, Trung tướng Cao Văn Viên được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Năm 1967, khi Tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, Trung tướng Viên kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng trong một thời gian ngắn. Cũng trong năm này, ông được thăng Đại tướng.
Sau 1963, Bộ Tổng Tham mưu còn có Trung tâm Hành quân Bộ Tổng Tham mưu, để điều khiển và theo dõi mọi cuộc hành quân trên toàn quốc. Trung tâm Hành quân BTTM là một Bộ Tổng Tham mưu thu hẹp, có đủ các đại diện thẩm quyền từ các Phòng của Bộ Tổng Tham mưu, các Bộ Tư lệnh Không quân, Hải quân, các binh chủng yểm trợ hành quân và tiếp vận. Bộ Tổng Tham mưu có tới hai trung tâm truyền tin. Một trung tâm truyền tin Diện địa cố định gọi là Trung tâm Truyền tin Bộ Tổng Tham mưu, do Tiểu đoàn 650 thuộc Liên đoàn 65 Khai thác Truyền tin Diện địa quản trị, với những phương tiện viễn liên cố định. Ngoài ra, Trung tâm Hành quân BTTM còn có một Trung tâm Truyền tin Chiến thuật lưu động do Tiểu đoàn Truyền tin BTTM điều khiển và quản trị.
Từ 1965 khi Quân đội VNCH được cải tổ lại, Bộ Tổng Tham mưu bao gồm 7 phòng/nha và một số các cơ quan trực thuộc như Hành quân, Nhân viên, Huấn luyện, Tổng Cục Tiếp vận, và Tổng Cục Chiến tranh Chính trị. Các phòng/nha và đơn vị thường được nhắc đến là Phòng Tổng Quản trị, Phòng Tài ngân, Nha Tổng Thanh tra Quân lực, Nha Kỹ thuật Chiến lược, Đại đội Tổng Hành dinh, Đại đội 1 Quân cảnh, Đại đội Công vụ…Theo tinh thần của sắc luật về vai trò của Bộ Tổng Tham mưu được Tổng thống Thiệu ban hành vào tháng 7/1970 thì Bộ Tổng Tham mưu được định nghĩa là một Ban Tham mưu Liên quân. Trên thực tế và bản chất, Bộ Tổng Tham mưu là một Bộ Tham mưu Lục quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia, chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng trưởng Quốc phòng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và sử dụng quân đội trong đường hướng do Tổng thống định liệu. Khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các Tư lệnh Quân đoàn cùng các Tư lệnh Quân binh chủng như Hải quân, Không quân v.v. được diễn ra trong Dinh Độc Lập thay vì ở Bộ Tổng Tham mưu như thường lệ. Những buổi họp này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư lệnh Tối cao QLVNCH. Từ đó, Tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định và ra lệnh thẳng cho các nơi.
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4/1975, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng Tham mưu trưởng như thường lệ để gặp Đại tướng Cao Văn Viên theo dõi tình hình quân sự. Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Viên yêu cầu Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn cử người thay thế vì ông đã trình xin Tổng thống Trần Văn Hương cho được giải nhiệm. Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân của QLVNCH khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết tha với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Khi Tướng Viên trình xin Tổng thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm, Tổng thống Hương yêu cầu ông tiếp tục giữ chức vụ đến khi ông này trao quyền cho ông Dương Văn Minh.
Chiều 28 tháng 4/1975, Đại tướng Cao Văn Viên ra đi cùng với Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 BTTM. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân QLVNCH, kiêm Tổng Cục trưởng TCTV bỏ đi trưa ngày 29 tháng 4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng rời nhiệm sở. Khoảng 11 giờ 45, trực thăng của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đáp xuống ngay sân cờ tòa nhà chính đón Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Trước tình trạng này, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số (cựu) tướng lãnh như Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, cựu Trung tướng Nguyễn Hữu Có Phó Tổng Tham mưu trưởng, cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (Việt Cộng nằm vùng) làm Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng BTTM, cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Chuẩn tướng Lê Văn Thân, Tư lệnh phó Biệt khu Thủ đô, Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức giữ chức Tổng Cục trưởng TCTV.
● Trong quá trình hình thành, ngoài sự thay đổi về cơ cãu, Bộ Tổng Tham mưu cũng đã thay đổi danh xưng một vài lần. Tháng 4/1964, Trung tướng Nguyễn Khánh ký sắc lệnh đổi Bộ Tổng Tham mưu thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bao gồm Lục quân, Không quân, Hải quân và Địa phương quân-Nghĩa quân. Tổng Tư lệnh QLVNCH (tức Tổng Tham mưu trưởng) lúc bấy giờ là Trung tướng Trần Thiện Khiêm. Sau khi Tướng Khiêm đi làm Đại sứ, Tướng Khánh biến đổi Văn phòng Tổng Tư lệnh thành Nha Đổng lý Văn phòng Tổng Tư lệnh và bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Đổng lý Văn phòng (10/1964). Danh xưng Bộ Tổng Tư lệnh sau đó lại được đổi thành Bộ Tổng Tham mưu, khi Tướng Khánh bị gạt bỏ khỏi chính quyền (2/1965).
BỘ TỔNG THAM MƯU QL.VNCH, NHỮNG GIỜ CUỐI CÙNG
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởngphòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận rời Bộ Tổng Tham mưu từ trưa ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô vào cuối tháng 3/1975, cũng đã ra đi. ( Giữa năm 1968, Tướng Nguyễn Văn Minh đã giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lần thứ 1; đến năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 thay thế Trung tướng Đỗ Cao Trí tử nạn; từ tháng 11/1973 đến tháng 3/1975, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, Tổng thanh tra Quân đội).
Trước tình trạng nhiều vị tướng lãnh đã "từ nhiệm", tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Lâm Văn Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận. Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm".
Về tình hình chiến sự, từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút (theo ghi nhận của cựu đại tá Phạm Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận, có mặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô sáng 30/4/1975 và nghe đài Sài Gòn vào giờ phút đó), Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh Bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời:
- "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống".
Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
- "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?"
Thiếu tá Tài trình bày:
- "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.
Tướng Minh trả lời:
- "Các em chuẩn bị bàn giao đi!",
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại:
- "Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không?"
Tướng Minh đáp:
- "Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập".
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay:
- "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống".
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp:
- "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu."
Tướng Minh trả lời:
- "Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã gặp Trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
- Lúc đó, moa đứng cạnh Tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.
Thiếu tá Tài giải thích:
- Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.
ĐỌC THÊM
1. "Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH: Những Ngày Cuối Cùng":http://motgoctroi.com/ StLichsu/LSCandai/VNCH/ Ngaycuoi_BTTMuu.htm
2.Tử Thủ Sau Lệnh Đầu Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe Tăng CS. http://hoa-hao.com/kktd/ binh_luan/ bl_30_tu_thu_sau_lenh_dau_h ang_vc_bi_giet.html
3. Danh sách các Tướng Lảnh VNCH
Trinh khánh Tuấn, 21.2.2014
8 comments:
Links to this post
Create a Link