Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020
CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH 6/1/2021, SAU BẦU CỬ MỸ.
Chuẩn bị cho chiến tranh: Sau ngày 6/1, “địa ngục” sẽ trỗi dậy khắp nước Mỹ
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020
CƠ TRỜI VÀ MỆNH NƯỚC
CƠ TRỜI VÀ MỆNH NƯỚC . Nói đến cơ trời , thì hầu như ai ai trong chúng ta vẫn thường nghe qua , từ những ngày rất lâu xa trong đời , củng không biết tự thưở nào . Phần đông trong chúng ta , khi gặp chuyện nguy nan , đau khỗ thái quá , đều ngước mặt lên bầu trời cao ( làm như có sẵn ở đâu đó trên trời , đang hiễn hiện một Ông Trời đang sẵn sàng cứu giúp cho ta vậy) hay vũà kêu lên hai tiếng Trời ơi ! Ông trời hình như ở ngôi vị chí tôn , ở cao lắm , mà thực ra trong chúnh ta củng chưa hề hay không hề thấy hay biết ông ấy ở nơi đâu nữa . Nhưng khi nói đến hai chử liền nhau , thì chử trời ở đây " tuy vẫn ngụ ngầm là trời cao , hay là bầu trời , trụ , vì cơ đi với trời thì ý nghĩa hoàn toàn khác hơn . Đây là điều mới lạ khi giãi thích từ ngữ nầy trên tinh thần khoa học , mới lạ đối với người thường , nhưng không hoàn toàn mới lạ với những người nghiên cứu , học hỏi về một thứ lý thuyết , mà từ lâu gần như thất truyền, Chử cơ nghỉa là máy móc , và chử trời có nghĩa là bầu trời hay vũ trụ chung quanh quã đất của chúng ta . Ngày xưa khi tiền nhân quan sát các sự chuyễn động của tinh tú , Sau một khoãng thời gian khá lâu ; Đã nhận thấy sự chuyễn động của tinh tú quã nhiên có ãnh hưỡng đến đời sống trên trái đất . Người xưa mới mệnh danh ( đặt tên cho thế giới hiện tượng đó là : "cơ trời" hay sự chuyễn động của guồng máy . Ví dụ như quã đất tứ quay chung quanh nó , và mặt trăng quay chung quanh trái đất . rồi trái đất và 5 hành tinh lớn vận chuyễn theo quỹ đạo của mặt trời " ta gọi đó là Thái Dương Hệ " Bài viết nầy không đào sâu vào càc mục đích nghiên cứu về Vũ trụ hay thiên văn học của Âu Tây . Mà chủ đích của người viết , nhằm chú tâm vào các biến chuyễn trên đất nước và con người Việt Nam . Nói như thế , không phải người viết có ý ngông cuồng hay ngạo mạn khi nói một cách lớn lối rằng nước Việt Nam đặc biệt Vĩ đại nhất thế giới , người viết không có ý đó . Suốt chiều dài cũa những trang Việt sữ , được ghi chép , khi trãi qua bao nhiệu sự kiện , bao nhiêu dữ kiện . Tiền nhân của chúng ta đã viết những trang sữ bằng con tim , bằng khối óc , với mồ hôi , máu xương và nước mắt . Bài hát mà tôi nghe từ thuỡ mà người viết hãy còn tuỗi thơ ấu : Tôi yêu... tiếng nước tôi ... Từ khi mới ra đời . Đất có Tuần , non sông có vận , Chữ tuần ngụ ý chỉ về thời kỳ ( theo người viết được hiễu ) và chữ Vận nghĩa là những biến đỗi thay đỗi xãy ra liên tục cho đời người , hoặc cho đất nước . Không hề có điều gì , sự việc gì xãy ra mà không có nguyên nhân , nếu không do con người do thiên tai dịch họa . Kinh dịch đã khẵng định điều nầy , thế nên có câu : Nhất Ẫm Nhất Trác Giai Do Tiền Định . Đời người có lúc thăng ( đi lên ) trầm ( đi xuống ) mà chúng ta thường nghe câu nói đầu môi : lên voi hay xuống chó . Bài viết nầy không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ học , chủ đích của bài viết muốn trình bày về tam thế " ba thế " Thế quá khứ từ năm tháng đã qua , Thế hiện tại ; những sự kiện đang diễn ra trên đất nước , và Thế tương lai . Vị thế nước Việt tương đối hơi đặc biệt ; Vị và Thế là hai điều khác nhau , vị tức là vị trí , và Thế là nơi dựa ( tựa ) vào , nói đến từ ngữ vị thế , tức có ý mượn lời lẽ trong Kinh Dịch để nói đến . Người viết chỉ xin nói sơ qua mà thơi , vì khi bàn đến Kinh Dịch , chúng ta lại rơi vào mê hồn trận . Thế tương lai , là chuyện sẽ diễn ra trong một tương lai ( gần hay xa ) . Bài viết chẵng qua là sự tiếp nối các bài viết đã qua , và đã được trình bà con cô bác làng lưới ( mạng lưới internet ) . Nếu tính từ khoãng thời gian gần đây nhất . Từ ngày Hãi quân Pháp tấn công vào cửa biễn Vũng Tàu năm Giáp Tý 1864 , cho đến năm Giáp Ngọ 1954 , khi quân Pháp thua trận Điện Biên Phũ , Và phải ký hoà ước tại Genève ngày 20/7/1954 . sau đó Pháp rút lui toàn bộ ra khỏi Đông Dương . Ngay từ việc nhỏ cho đến chuyện lớn là chuyện nước non , nếu có ý mốt chút , hay nếu những ai đã từng học hõi , từng nghiên cứu về kinh dịch " nguyên lý học ", tất nhiên sẻ hiểu . Hể có sinh ra tất nhiên sẻ có lúc chết đi , đó là quy luật vận hành của thế giới tự nhiên , sự vận hành diễn ra trong khoãng thời gian nhất định .Ta tính từ năm 1864 đến năm 1954 , tỗng cộng cả thãy 90 năm . Trong đời người 90 năm là một quãng thời gian dài cả đời người . Nhưng trong kinh dịch , nhất là trong cách tính vận hạn , mỗi tuần giáp là 10 can ( hay Thập can ) và có 12 chi , Nếu lập bảng tính Vận trên Cữu ( chín ) Cung Lạc Thư , ta thấy khi một nhóm sao di chuyễn ( gọi là phi tinh hay sao bay ) di chuyễn từ cung ( vị trí trên không gian ) đến cung khác là 10 năm , nếu ta quan sát bằng mắt thường , nếu di chuyễn đi hết chín cung thì số năm sẻ là 90 năm . Vì thế , sau ngày đỗi đời , có một số anh em quốc gia , những chiến hữu , những đồng đội củ , và nhiều anh em khác bất đầu nao núng , vì thời gian trôi qua , kễ từ ngày : Tháng tư là Tháng Tư Nào , Rừng Xưa Cỡi Giáp Quăng Bào Ngó Nhau . " ý thơ Hà Huyền Chi" đến nay đã là 36 năm lưu vong , trôi nỗi nơi đất lạ quê người . Viết đến đây , người viết nhớ đến tình cãnh của tiền nhân , ngày trước bõ làng nước ra đi vào phương trời vô định , trước mặt là rừng núi mênh mông , sau lừng đường xưa bít nẽo . Cùng ngoãnh lại mà cùng chẵng thấy , Thấy Xanh Xanh Những Mấy Ngàn dâu , Ngàn Dâu xanh Một màu , Lòng Chàng ý Thiếp Mối Sầu nào Hơn" Mượn lời thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc , để gỡi vào bài viết tâm tình của tiền nhân năm xưa và của chính chúng ta hôm nay . Từ ngày cỡi chiến y đến nay đã 36 năm dài gần nửa đời người . Một phần đời cho Tỗ Quốc , mười lăm năm sống lăn lóc với cuống trần ai khoai cũ , Hai mươi năm lưu vong nơi xứ người quã là dài , nhưng khi đi vào phần tính vận hạn đời người , củng như khi tính vận Nước , thì ba mươi mấy năm qua chĩ mới có ba tuần giáp ( mỗi tuần giáp có 12 chi X cho 3 tuần giáp = 36 năm , thành ra như một chớp mắt . Lời xưa nói đời người tữa như bóng câu :" Vó Ngựa Hồng Thoáng Qua cữa Sỗ " Rồi đây năm tháng qua nhanh , non nước tất sẽ đến kỳ khai thông bế tắc , người chủ nhân ngu sy dốt nát không khéo quãn Trị Điều hành tất nhiên sẻ phải về vườn đuổi gà cho vợ . Dó là sô" phận của người cán bộ đảng viên cộng sản củ , ( chuyện nầy đã xãy ra bên nước Nga xa xôi ) , đời xưa gọi là Quã Báo Nhãn Tiền , Gieo Gió Tất Gặt Bão ; chuyện đời ta lo gì . Chủ đích của bài viết , nhằm thức tỉnh cho những ai đang hoang mang vị vận nước đang rối ren . chúng ta nên bình thãn khi xem xét chuyện đời , cũng như chuyện nước non . Như kinh dịch dạy : Hễ âm thịnh dương suy , ngày xưa thễ chế tự do dân chủ VNCH , chủ trương theo dương , nghĩa là nói gì , làm gì củng đều rõ ràng , điều nầy gọi là dùng Dương mưu , mưu cầu công việc có tính cách ích quốc lợi dân . Người cộng sản bắc Việt theo âm , toàn sữ dụng âm mưu , tàng chứa bí mật , khi đã theo âm , làm việc âm , thì đa phần đều độc ác hại dân , hại nước . Giết hại chôn sống hơn 6000 ngàn người dân ở Huế , sau đó bắn giết tàn sát dân lành trên quãng "Xa Lộ Kinh Hoàng " từ ngày Tĩnh Quãng Trị thất thũ , khi người dân chạy bỏ nhà cửa vào Huế , vô số đồng bào đã bị cán binh cộng sản giết hại , họ giết dân không có vũ khí trong tay , như giết thú , cho thõa mãn thú tính của loài quỷ dữ . Dịch dạy âm hư , dương thực , dương minh bạch , âm đen tối . Từ trước ngày 30/4/1975 toàn miền bắc sống trong âm u , cho đến ngày cơ trời chuyễn động , miền nam tự do thất thũ , cả nước sống trong sợ hãi oán hờn chồng chất , oán thù chồng chất , chất chồng nên kẽ cai tri dân gieo quá nhiều điều tàn ác , vì thế lẽ đời oan oan tương báo không sai . Đây là người viết chỉ diễn dịch theo Lý Dích , chớ bản thân mình không bịa ra chuyện , người không làm điều ác độc , dối trá , thì ta không thễ vô cớ gieo tiếng xấu xa cho người , nay tội trạng đã rành rành , họ nhửng người chủ trương tàn ác ( cho dù họ nhân danh chủ nghĩa nào ) thì họ không thể tránh được lẽ trời báo ứng . Cho dù họ có tiền tài thế lực đương quyền , Chạy đi đâu củng không thể được ; vì lưới trời lồng lộng . Khi các thễ chế độc tài dần dần sụp đỗ , ở VN Trung Hoa , chỉ còn lại chút tàn dư phản động cộng sản ( lời lẽ của họ khi chiếm miền nam VN ngày nào , nay trở lại với họ , ) qua đầu thế kỹ thứ 21 , sẻ chấm dứt hết chủ nghĩa cộng sản ( ngày nay là độc tài quân phiệt ) Điều nầy bà con đã thấy , không cần bàn thêm . bài viết nầy nhắn gỡi đến Người Quốc Gia ngày trước hiện đang định cư ở ngoại quốc rằng , việc đời hể có lúc mất , thì sẽ có lúc được , có lúc buồn thì sẽ có khi vui ,người đã vượt lên trên thị phi phải trái tất sẽ không vui không buồn ; Nên nhớ Kinh Dịch đã nói : có khi ta rời nước đi tỵ nạn cộng sản thì củng có lúc ta sẻ hồi hương , bỡi lẻ thễ chế chính trị thì sẻ đào thãi khi đã đến hạn kỳ , nhưng đất nước và dân tộc thì trường tồn . Người viết sau một thời gian dài , kễ cả năm tháng còn phục vụ trong cuộc đời quân ngũ . Khi đơn vị được nghĩ xã hơi , và lúc đồn trú nơi chốn tiền đồn , người viết vẫn thường xem sách vỡ đời xưa , người viết vẫn thường nghe những buỗi phát thanh trên đài phát thanh , trong chương trình khuya với mục đọc truyện xưa . Những tấm gương xưa được ghi chép lại . Và người viết vẫn thường mang theo ba lô của người lính một ít sách loại gối đầu giường , đó là khoảng sau Tết Mậu Thân 1968 khi đồn trú tại Hậu Nghĩa . Những trang sách củ chuyện người xưa , vẫn còn phãng phất đâu đây , và củng nhờ chút vốn liếng qua sự đọc sách , nên người viết dù trãi qua những cơ cực của đời người , co thê cho nên có thễ vượt qua được nhiều nghịch cãnh thữ thách trên đời . Vận hạn của Đất Nước và của Dân Tộc Việt Nam , đã đến hạn kỳ tai qua nạn khỏi , thoát được tai trời ách nước . Sau quãng thời gian dài , lạc lối trong những tác phẫm kinh dịch , nay người viết đã có một ít kiến thưc , và những sự trãi nghiệm qua cuộc sống khi áp dụng những điều học hỏi qua kinh dịch và mang theo làm hành trang . Người Viết đã dùng những sự học hỏi nơi Lý dịch đem vào nhiều lĩnh vực ; điều hành quãn trị đôi khi đem ứng dụng vào lĩnh vực quăn sự và chính trị . Viết ra điều nầy , người viết không có ý tự khoe khoang hay tự cao tự đại tự mãn ; Mà người viết chĩ muốn dẫn chứng về sự ứng dụng áp dụng lý thuyết kinh dịch vào đời sống . Sau quãng thời gian dài , lạc lối trong những tác phẫm kinh dịch , nay người viết đã có một ít kiến thưc , và những sự trãi nghiệm qua cuộc sống khi áp dụng những điều học hỏi qua kinh dịch và mang theo làm hành trang . Người Viết đã dùng những sự học hỏi nơi Lý dịch đem vào nhiều lĩnh vực ; điều hành quãn trị đôi khi đem ứng dụng vào lĩnh vực quăn sự và chính trị . Viết ra điều nầy , người viết không có ý tự khoe khoang hay tự cao tự đại tự mãn ; Mà người viết chĩ muốn dẫn chứng về sự ứng dụng áp dụng lý thuyết kinh dịch vào đời sống . Lý dịch luôn luôn chỉ rõ cho chúng ta thấy những sự kiện hiển nhiên trong đời sống . Dịch không bao giờ sai , chĩ có điều chúng ta tính chưa tới , tính toán chưa cặn kẽ thế thôi . Dòng lịch sữ của Dân Tộc Việt Nam , khi thăng khi trầm , khi yên ỗn lúc lâm nguy . Có lúc tưởng chừng như dân tộc mãi mãi đọa lạc trong ách nô lệ ngoại bang . Vậy mà chừng khoãng vài trăm năm , lại nỗi lên một vị anh hùng dân tộc đứng lên lãnh đạo toàn dân , quật khỡi đánh đuỗi quân giặc ra ngoài bờ cõi . Những ai đã từng trãi qua thời trẽ n theo học trước ngày 30/4/1975 , đều chưa quên những bài học về lịch sữ của dân tộc . Sau nầy , khi miền nam thất thũ , khi cộng sản chủ trương ngu dân , nên bóp méo lịch sữ , và mưu định làm cho ngu dân , hầu dễ cai trị , vì lúc bấy giờ nhân dân sẻ thành đàn cừu non , kẽ chăn cừu chính là thành phần cán bộ đãng viên cộng sản chăn đuỗi . Tấm gương bán nước vì cầu vinh , của Hồ Quý Ly cùng Lê Chiêu Thống , sau nầy qua tàu , đành chịu nỗi nhục mất nước , làm thân tôi mọi cho đến chết . Nhưng ý định thâm độc của đảng cộng sản không bao giờ thành tựu , Kinh dịch đã cho thấy , Vật cùng tắc phãn , nhân cùng tắc biến , Nghĩa là mọi sự mọi vật , vận hành theo quy trình vòng tròn , khỡi đằu từ điểm 1 rồi chuyễn động theo vòng trò , khi chấm dứt ở điểm 12 , rồi quay trở lại , khỡi điểm 1 để bắt đầu vòng xoay mới . Người khi đi đến cùng cực , tất nhiên sẻ có biến động ( theo lẻ ta phải nên nói động biến nhưng vì khi nói động biến ta nghe không được êm tai ) quy luật chuyễn động "có động thì sẽ có biến đỗi " . Vì địa thế của miền Nam Việt Nam , là địa thế rất đặc biệt . Sự hùng mạnh về uy thế của Thăng long thũ đô Hà nội chỉ có tác dụng 500 năm trước , bằng chứng hôm nay uy thế đó không còn nữa ; Hiện nay trung ương đảng cộng sản chỉ toàn những thành phần ăn hại đái nát . chết nhác khiếp nhược , và không phãi là thành phần tài năng đặc biệt , nên Hà Nội thuần phục người Tàu . Hà nội đang đu dây giữa hai cường quốc tàu và Mỹ . Nhưng hai cường quốc nầy lại không bao giờ tin tưỡng ở con người bất nhân , bất nghĩa , bất trí và bất tín , đối xử với dân chúng lại phi lễ . Hiện tượng người dân lầm than đói khỗ , không thễ che đậy bằng cách xây cất nhà cao tầng , củng không thễ dấu diếm chuyện dân Oan Khiếu kiện nhà nước . Nguyên lý cho thấy khi nào nhà nước lấy bạo lực để đàn áp người dân , sự đaén áp càng khốc liệt , thì sự chống đối gia tăng , như khi tức nước vỡ bờ . cuối cùng sẽ xãy ra cuộc cách mạng của toàn dân . Ngày đó sẽ không xa . Theo lý dịch ta thấy hể âm thịnh dương suy , nhưng thời kỳ nầy chế độ cộng sản gian ác theo âm tà , mà âm tà cực thịnh , thì dương sinh , khi cộng sản tuyên bố đỗi mới , nhưng đỗi mới về đâu mới được , chẵng qua là đảng cộng sản bí lối chơi chử , đổi mới nghĩa là trở về cái nền móng ngày trước tức là vay mượn ý niệm cất trúc " Hạ Tầng Cơ sở Hành chánh thời Việt Nam Cộng Hoà " Bây giờ đã quá trễ đối với căn bệnh ung thư như dịch viết : ngoại giao với tư bản thì bế tắc , qua chuyện vay mượn hàng Tỹ US , nay không trã được đó là bất tín nhiệm khi bang giao với nhau lấy sự thành tín làm đầu , Nay không giử được lòng tin của người khác , thì không thể tiếp tục bang giao , đó là biễu tượng bên ngoài bế tắc không lưu thông , tượng quẻ Cấn , ngưng , dừng , tĩnh , đình chỉ . Bên trong dối trá , cán bộ đảng dối trên lừa dưới , tượng quẻ Tốn , cấn bên ngoài , tốn bên trong ; Cấn vi Sơn , Tốn vi Phong , tên quẻ là Sơn Phong Cỗ , tức là Ung Thư Cỗ Trướng , con bệnh hết thuốc chửa , đã đến thời kỳ cuối cùng , Nay Tư bản cho toàn thuốc an thần , morphine , chỉ giãm đau nhức , nhưng không chửa trị nữa . Cái chết của đảng cộng sản và ngụy quyền bán nước sẽ xãy ra trong ngày giờ mà thôi . Ngày trước ta còn tính năm tính tháng , nay ta có thễ tính ngày giờ. Không thể đão ngược được .Hãy nhìn thế giới sự kiện như là điều hiễn nhiên , không lạc quan , không bi quan , Nhìn sự dãy chết của cộng sản như là sự đương nhiên . Dịch viết ; trong tình hình nầy , con phải thay đổi lề lối cách làm của cha , bằng cách thay đỗi toàn thễ guồng máy , và không được vá víu bậy bạ . Phương cách cuối cùng chỉ có mỗi một việc nên làm , là tiễn đưa đảng cộng sản và ngụy quyền gian ác về địa ngục mà thôi . Rồi sau đó thay cũ đỗi mới , chớ còn tiếp tục mập mờ đánh lận con đen sẻ không có hiệu quã gì hết , mà còn tệ hại hơn nữa . Dịch còn khẵng định rằng âm cực thịnh thì Dương sinh , bỡi lẽ sau tháng chín âm lịch là quẽ Sơn địa bát , nghĩa là hết dương đễ chuyễn qua âm , đến tháng 10 âm lịch tháng Hợi , đó là quẽ Khôn , thuần âm , khi đã toàn âm , thì kế tiếp một hào dương sinh ở tháng 11 tức là quẻ Địa Lôi Phục , Phục là phãn phục tức là đi hết vòng thì trỡ lại ,, sự tuần hoàn luân chuyễn không sai chạy . Trong quẽ thuần âm đã thấp thoáng xuất hiện dương , người viết không thễ nói rõ trên diễn đàn về hiện tình , điều gì đã và đang xuất hiện manh nha chuẫn bị cuộc tỗng xuống đường biễu tình và nhân đó tiến hành lật đỗ đảng cộng sản và giãi tán ngụy quyền . Cho dù không nói rõ , nhưng căn cứ theo quẽ dịch ( do nơi tình thế mà ta xác định được ta đang ở quẽ nào) , vì quẽ tức là hoàn cãnh hay tình trạng hay thời kỳ mà ta hiễu được điều gì đã và đang xãy ra . khi đã xác định được tình thế , thì ta đã biết được kết quã . vì Dịch việt quẽ như thế nào thì ta như thế ấy . Ngư ời viết còn nhớ ngày còn thuơ ấu , khi theo học Tiễu Học Chí Hoà , hàng ngày đi đến trường , đều theo con đường hẽm nhỏ ; qua các ngôi nhà có tre làng ngày nọ , khi đi ngang qua một ngôi nhà , nghe loáng thoáng tiếng người trò chuyện : lời nói vẵng bên tay đến nay vẫn còn nhớ : Ngô Đình Diệm nguy rồi , lúc đó vào khoãng 1955 hay 1956 ; vì người viết mới học lớp Tư ( bây giờ là lớp Hai ) . không hiểu sao các cụ ( tiếng người Bắc nói chuyện với nhau ) lại đoán biết trước sự kiện xạy ra trong năm 1963 , Họ là thầy bói dịch hay là nhà tiên tri Các nhà tiên tri là chuyện khác, vì họ biết trước nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc sống có liên quan đến sinh mệnh người khác , còn nhà bói Dịch thì do nghiên cứu , sau đó áp dụng nguyên lý học , nên họ củng giống nhà Tiên Tri . Khi quý bà con cô bác xem bài viết nầy , có tin theo hay không , đối với người viết không có chi quan trọng . Vì người viết không viết vì tư lợi , vì bất kỳ một đảng chính trị nào , củng không viết để thỗi phòng quãng bá tên tuổi mình . Khi bản thân sống ẫn dật nơi thôn dã , có chút ít phương tiện đấp đỗi , không đến nỗi phải hành nghề bói toán kiếm tiền độ nhật qua ngày . Bài viết còn dài , phải tạm ngưng nơi đây , Xin hẹn lại dịp khác . / . Phương Đoài Tiết Đông 2011 lam Sơn họ Lê CƠ TRỜI VÀ VẬN MỆNH DÂN TỘC VIỆT NAM ( Tiếp Theo ) Tiềp theo sau phần một , là phần mỡ bài , sau đây là phần khai triễn vào chiều sâu của bài viết . Trở lại nội dung chính của phần một . Thường thường ở đời , không hề hay chưa hề có sư việc gì xãy ra mà không có duyên cớ . Ngay từ việc nhỏ như việc của một cá nhân , hay việc của một gia đình , cho đến các sự kiện trọng đại trong một nước . Thãy thãy đều có nguyên nhân sâu xa . Đây chính là điều hiễn nhiên , mà chúng ta đều nhận thấy , đó chính là việc đất nước bao nhiêu lần thay đỗi chế độ cầm quyền . Thành thữ câu : Thễ chế chính trị có thể thay đỗi nhưng Đất Nước và Dân Tộc thì trường tồn vạ. Không có bất kỳ một cá nhân nào biện luận khác đi được ; cho dù con người đó có uyên bác đến đâu chăng nữa , Thế nên đời xưa các vị nguyên thũ quốc gia tham quyền cố vị , mới bày cho ke( thuộc quyền tung hô : vạn .. vạn ... tuế . Vạn là 10ngàn nhân cho vạn là 10000 X 10000= đó là có tâng bốc vị vua chúa đó sống mãi không chết , như cán bộ cộng sản tung hô vị chủ tịch của họ là hồ chí minh ; như câu hồ chủ tịch muôn năm vạn tuế , nghĩa là muôn năm , chử muôn năm được bàng dân thiên hạ thêm dấu huyền cho oai như : hồ chủ tịch muôn năm thành ra hồ chủ tịch muốn nằm . và nhân dân tặng cho bác hồ thêm câu : hồ chủ tịch sống mãi trong quần chúng ta . và hơn nữa , có ông thầy giáo dạy học trò từ câu nói sơ xuất : " các em hãy đem hình bác lộng kiếng " vì câu nói đó mà ông thầy giáo đáng thương vô nhà đá ngồi gỡ lịch dài dài . vì chử lộng kiếng được đám cán bộ diễn dịch thành liệng cống . Như câu văn : . Hễ đầy thì tràn , hễ tức nước ắt vỡ bờ đấy thôi . Đó là lẽ muôn đời , Dịch đã khẵng định , quy định , thế giới sự việc đi đến một giới hạn nào đó sẽ co" biến đỗi " Khi hồ chí minh nói : sông có thễ cạn , núi có thễ mòn , song chân lý ấy không bao giờ thay đỗi , chính là ông ta ký cóp , đạo văn câu danh ngôn từ Kinh Dịch , dịch nói : sự biến đỗi thay đỗi trong đời sống chính là quy luật bất biến trong trời đất ; ông ta mượn lời danh ngôn và đỗi thành lời ông ta , cho có vẻ mới . Làm chính trị mà tâm địa gian tà thì chĩ là trộm cướp , ông ta liên kết đất nước và dân tộc cùng với đảng cộng sản ( cái quái thai ) là một tức là " number one " tàu nói là số dách . chuyện ông ta đạo văn ( đạo đây là trộm đạo ( ăn trộm , ăn cướp ) không có ai có thễ sống mãi được . cũng không có chủ nghĩa hay chũ thuyết nào trường tồn vĩnh viễn . Kinh nghiệm cho thấy khi cộng sản nói gì , ta nên hiểu ngược lại , thì hiểu họ sẻ làm gì . Dịch cho ta thấy đạo lý , chân lý bất biến . cho nên không sai , vặy thì chĩ vì ta không thông suốt lý lẽ , nên ta làm không đúng , thế thôi . Từ năm Giáp Tý 1864 cho đến năm 1954 Pháp đến chiếm Đông Dương , Việt ,Miên ,Lào . cho đến khi người Pháp rút khỏi Đông Dương , tính khoãng 90 năm , Rồi sau đó nước VN bị phân chia ra thành hai phần , tại vĩ tuyến thứ 17 Ta đã thấy tượng hình của quẽ dịch , vì nước Việt có 3 miền ( tuy do Pháp chia ra đễ cai trị ) mà sau hiệp định Genève ( 20/7/1954 ) miền Nam VN lại chiếm hai phần ba lãnh thỗ , còn lại miền bắc cộng sản có một phần , như vậy 1 trên / 2 dưới , Xếp theo quẽ Dịch thành ra Càn 1 trên , Đoài 2 ở dưới , thành quẽ Thiên Trạch Lý , quẻ Lý Tức là hợp chất âm dương kim . nghĩa của quẽ là cứng vì là hợp kim , Thiên trạch lý là nhỏ theo lớn , tức VN bị lệ thuộc vào thế lực của ngoại bang . Dù theo chủ thuyết cộng sản hay quốc gia , Nước VN tồn tại dưới ãnh hưỡng của ngoại bang , Dịch quyết ; dương trên âm dưới là tượng bị đè nén , đè nén mãi thì đão ngược thành Trạch Thiên quãi ; quãi là Quyết định , là dương trưỡng thành và tiêu diệt âm , âm sẽ bị hòa hợp theo dương . Quẻ trạch thiên quãi từ Khôn mà ra , quẽ khôn có sáu hào âm , khôn thịnh vào năm thái tuế khôn tức năm Đinh hợi 2007 , niên vận lưu thái tuế tại khôn , nên Khôn làm chủ quãn . khôn thịnh nghĩa là âm thịnh , mà khôn tượng trưng cho dân chúng , ta thấy các vụ khiếu kiện bùng lên vào năm Đinh Hợi 2007 . quẻ khôn có 6 hào mỗi hào là 6 năm , dương cữu ( 9 ) âm lục ( 6 ) quẻ khôn đến hết là 36 năm . Càng ngày các vụ thưa kiện của dân chúng bùng lên ban đầu ít sau nhiều hơn . Hiện nay hầu như lan tràn , nhà cầm quyền như bất lực , nhà cầm quyền bị đặt trước tình thế khó xữ , vì xữ ép dăn se( không được , mà không xử ép thí chính nhà cầm quyến là kẽ có tội . Khi người dân có lỗi thì chính quyền quở trách , nếu có tội thì bị pháp luật trừng phạt , nhưng ở đây lại ngược đời , kẽ phạm pháp luật lại chính là người đại diện pháp luật , khi người đại diện pháp luật phạm luật thì ai xữ ? Người làm việc ác thì trời xữ , nhưng tới phiên trời làm ác , thì ai xữ , như vậy lý lẽ đương nhiên cho thấy chính dân sẽ xét xử trời , bỡi thế ta nghe nói người dân thế trời ; đó là câu ý dân là ý trời xét xữ nhà nước , tức là ngày giờ đó , sẽ có cách mạng bạo lực . chúng ta nên nhớ vấn đề của nước VN , hoàn toàn không thễ dàn xếp ôn hoà đễ thay đỗi không đỗ máu như kiễu các nước tư do dân chủ , ở các quốc gia đó người dân dùng quyền công dân ( Dân Quyền ) để tõ ra tín nhiệm hay bất tín nhiệm chính phủ . Đàng nầy ở đất nước khốn khỗ , khốn nạn ( lại chính là quê hương thân yêu của chúng ta ) không thễ có chuyện thay đỗi chính trị một cách ôn hòa được . Khi nói đến Cách Mạng Bạo Lực , thì đây không phải là ý riêng hay chủ trương hay quan điểm của người viết . Mà chỉ là sự quan sát và mang ra phân tích mỗ xẽ cho bà con làng lưới xem chơi . Sỡ dĩ người viết đề cập đến Cuộc Cách Mạnh Bạo Lực , để chĩ ra quan điểm của nhà cầm quyền ( hay hiện nay gọi là ngụy quyến bán nước ) đảng cộng sản VN và bạo quyền , dám thách thức toàn dân VN dám làm gì họ , khi tiếp tục cai trị bằng ba'o lực , bất chấp công luận và dư luận quốc tế . Vấn đề người dân Vn có dám làm gì hay không thì trong ngày gần đây đảng cộng sản và toàn thể ngụy quyền bán nước sẽ được thắy , và chúng ta củng sẽ mục kích nhiều trò vui lắm sắp và sẽ xãy ra trên quê hương . Quê hương là của chung và Tỗ Quốc Việt nam không phải là sỡ hữu tài sản của riêng cá nhân nào , hay đảng phái chính trị nào . Thực tình mà nói về vận mệnh đất nước , là chuyện hết sức lớn lao . nói đến thay đỗi vận mệnh một cá nhăn còn khó khăn , huống hồ chi đến chuyện nước non .
Nguồn:file:///C:/Users/admin/Downloads/Documents/cc6a1-tre1bb9di-vc3a0-ve1baadn-me1bb87nh-dc3a2n-te1bb99c-vie1bb87t-nam.pdf
Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020
Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020
Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020
Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020
Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020
CSVN là 1 t̉ô chức phi pháp. Nhân dân Vịêt Nam là ch̉u đất nước, ph̉ai đưa CSVN ra pháp lụât trừng tṛi
Vì muốn kiếm đựơc vịêc làm ṭai bến tàu, Hồ Chí Minh gia nhập đ̉ang C̣ông S̉an Marseille (Pháp) năm 1920
Cái gọi là “Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN” là một tổ chức phi pháp
(Mác (Karl Marx)-Lê (Lenin)-Mao (Mao Trach Dong)-Hồ (Ho Chi Minh))
Theo tài liệu do đảng Cộng Sản VN (CSVN) phổ biến thì Hồ Chí Minh (HCM) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành sinh ngày 19-05-1890 tại làng Sen (Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đương sự là con của nhà giáo Nguyễn Sinh Huy tự Sắc và bà Hoàng Thị Hoan. Sau khi vào Phan Thiết sống bằng nghề dạy kèm, nhưng không chịu được kham khổ, Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành nộp đơn xin thi làm thông ngôn cho Tây (1910). Thất vọng vì bị rớt nên đổi tên là Nguyễn Văn Ba, trốn xuống tàu làm phu, rồi qua Pháp 1911.
Vì muốn kiếm được việc làm tại bến tàu, Y gia nhập đảng Cộng Sản Marseille (Pháp) năm 1920. Sau đó Nguyễn Ái Quốc lần qua Nga Sô rồi về Tầu và được đưa vào làm việc tại thư viện Hong Kong. Cho đến 1930 thì y được giao nhiệm vụ về VN thành lập “Việt Minh” mùa Thu 1940. Nhân tình hình xáo trộn khi Pháp rút lui khỏi Đông Dương, nhóm thổ phỉ này công bố cho ra đời “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” tại Hà Nội năm 1945, tiền thân của cái gọi là “CP/CHXHCNVN” hiện nay.
Trung Cộng (TC) muốn lợi dụng tình hình xáo trộn và lòng dân đang náo nức lúc bấy giờ, để đưa gián điệp vào nắm Đông Dương, bành trướng bá quyền về phía Nam.
Nhưng theo truy cứu của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CPQGVNLT) thì khi các cao trào chống thực dân Pháp dâng cao, đặc biệt sau khi Việt Nam Quốc Dân Đảng được thành lập 1927, Trung Cộng (TC) muốn lợi dụng tình hình xáo trộn và lòng dân đang náo nức lúc bấy giờ, để đưa gián điệp vào nắm Đông Dương, bành trướng bá quyền về phía Nam. Nhưng VN là một dân tộc kiên cường, bất khuất, mà kinh nghiệm suốt gần 2000 năm qua, Tầu chưa bao giờ có thể đồng hóa hay cai trị êm thấm. Do đó, TC phải xử dụng thủ đoạn thâm độc: “LẤY CỦI ĐẬU NẤU ĐẬU”, dùng người Việt triệt người Việt và HCM là tay sai trụ cột.
Do đó, hai năm sau y được chính phủ bảo hộ tô giới Anh Quốc thả ra với căn cước mới tên là Nguyễn Ái Quốc năm 1933.
HCM nguyên là 1 trùm thổ phỉ Vân Nam có tên là SCL, tay chân thân tín và rất ác độc theo đúng tiêu chuẩn của Mao Trạch Đông. Nhưng vì HCM là người Tầu, nên TC phải tìm cách ngụy tạo thân thế cho y trở thành một người Việt Nam. Trước đó, theo chỉ thị của CS, HCM tức SCL xâm nhập Thái Lan năm 1928, giả làm 1 nhà sư để hoạt động nhưng bị bại lộ, y trốn về Tầu năm 1930. Do gương mặt của HCM rất giống Nguyễn Ái Quốc tức “Nguyen the Patriot”, 1 người Việt đã gia nhập đảng CS Pháp (1920), mới đến Quảng Châu cuối năm 1924. Nguyễn Ái Quốc được gán ghép lập gia đình với 1 phụ nữ Trung Hoa tên Tăng Tuyết Minh năm 1926 và được nhận vào chân quản thủ thư viện Hong Kong. Sau 1 trận hỏa hoạn năm 1930, Nguyễn bị phỏng nặng cháy hết giấy tờ (?) Nhưng theo báo chí Hong Kong thì Nguyễn Ái Quốc đã bị chết cháy. Mà theo nhận định và truy cứu của chúng tôi thì đây là lúc HCM thay xác nhân vật tên “Nguyễn Ái Quốc”. Gián điệp Tầu Cộng đã dàn cảnh cho HCM bị cảnh sát Anh bắt (1931) vì phạm pháp, không có giấy tờ tùy thân. Khi bị bắt, HCM khai y là Nguyễn Ái Quốc. Do đó, hai năm sau y được chính phủ bảo hộ tô giới Anh Quốc thả ra với căn cước mới tên là Nguyễn Ái Quốc năm 1933.
Bởi vậy năm 1989, khi tập đoàn CSVN nộp đơn xin cơ quan UNESCO Liên Hiệp Quốc vinh danh HCM là “Danh Nhân thế Giới” nhân dịp sinh nhật (giả) 100 năm của y bị thất bại, vì CSVN không dám cung cấp dấu tay lấy từ xác của HCM đang phơi tại Ba Đình, để so sánh với dấu tay của Nguyễn Ái Quốc có trước năm 1930, vì đây là HAI NGƯỜI KHÁC NHAU. Do đó, Hội Lễ Nghĩa Liêm Sỉ và Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ đã phổ biến câu: LĂN (dấu) TAY GIÀ HỒ - (là) MỒ CHÔN CỘNG VIỆT từ năm 1990, để đánh dấu thành công to lớn này của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Bọn CSVN rất lo sợ tin tức này lan rộng, gây hoang mang nội bộ của chúng và có thể làm suy sụp chế độ, nên đã bằng mọi cách mua chuộc lũ truyền thông bất lương bưng bít sự kiện quan trọng này. Đặc biệt là giới truyền thông Việt ngữ. Có lẽ vì vậy mà không ít cơ quan ngôn luận, báo giới và truyền hình tại hải ngoại, đặc biệt là tại quận Cam, bỗng dưng phát tài và phát triển hơn kể từ sau năm 1990 cũng không có gì là lạ.
Dựa theo 1 tài liệu của CIA (US Naval Intelligence Mission to China in the 1930s) của Bác Sĩ Dennis L. Noble trong “Old Military China Hand” thì Tướng William A. Worton(USMC) không hoàn tất nhiệm vụ tuyển lựa và điều khiển các điệp viên từ Shanghai đến Nhật Bổn, không biết có liên quan gì đến vai trò của HCM hay không? Tuy nhiên, nếu không có tài liệu này thì vẫn rõ ràng là nhân vật Tầu HCM đã được khoác cái xác Việt Nam, do cảnh sát Anh Quốc vô tình cấp cho y giấy căn cước tên Nguyễn Ái Quốc, trong thời gian bị giam 2 năm này. (Theo“The Revolutionary Path (1927”: Ho allegedly married TangTuyet Minh in China in 1926 under the name Nguyen Ai Quoc (Nguyen the Patriot). After Chiang Kai-shek turned on his Communist allies, Ho fled to Moscow by the way of Gobi. In the late 1920 Ho's political activities took him to Europe, and in 1928 he spent some time in Siam (Thailand) disguised as a Buddhist monk. In 1930 he was again in China and established in Hong Kong the Communist Party of Vietnam. He was arrested in 1931 by the British police, and after he was released in 1933, he escaped back to the Soviet Union in the disguise of a Chinese merchant. The French had already sentenced him to death in absentia in 1930.)
Tuy nhiên, cho dù HCM là Tầu hay Việt, thì phương pháp DNA thử nghiệm đặc tính di truyền sẽ chứng thực và xác minh một cách khoa học, rõ ràng và công minh về sự liên hệ giữa HCM và Nguyễn Ái Quốc là 1 hay là 2 người khác nhau, không thể chối cãi được.
Hiện nay các trùm CSVN đang cuống cuồng lo sợ, muốn hủy xác HCM tại Ba Đình để chạy tội. Nhưng nếu chúng hủy xác HCM thì càng “LẠY ÔNG CON Ở BỤI NÀY” mà thôi. Tuy nhiên, dù có DNA hay không, thì đảng CSVN do HCM thành lập, là cha đẻ và lãnh đạo trực tiếp của cái gọi là “Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN” hiện đang đại diện cho nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, cũng chỉ là 1 tổ chức phi pháp và bất xứng, KHÔNG THỂ ĐẠI DIỆN CHO NƯỚC VIỆT NAM vì những yếu tố và lý do sau đây:
1- Trong khi Việt Cộng xuất phát chỉ là một tổ chức cướp của giết người do tên đầu Đảng Tầu Cộng Hồ Chí Minh lập ra từ Vân Nam, chỉ như là 1 đám thổ phỉ bên ngoài biên giới Việt, thì Hoàng Đế Bảo Đại đã là Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam từ 1949 cho đến 1955. Ngài đã được nước Pháp trao trả chủ quyền toàn thể Việt-Miên-Lào. Chính Phủ Hoa Kỳ cùng trên 26 quốc gia khác cũng đã công nhận Quốc Gia Việt Nam này ngày 7/2/1950. Vì vậy CSVN KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC GIA VIỆT NAM.
2- Hồ Chí Minh đã công bố trước Quốc Tế và tài liệu do chính đảng CSVN đã nêu rõ âm mưu xúi giục các Đảng viên CƯỚP CHÍNH QUYỀN Quốc Gia Việt Nam, thì đảng cướp này KHÔNG thể là “chính quyền” hợp pháp của Quốc Gia VN. Vì đây là nơi chốn, là xứ sở, là tài sản, tài vật mà chúng vừa cướp được cách phi pháp.
Quốc Tế có chấp nhận 1 đảng cướp có thể là 1 "Chính quyền" không?
3- Khi Pháp chuẩn bị rút lui, HCM cướp thời cơ tuyên bố “độc lập” và thành lập cái gọi là “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” vào mùa thu 1945 là bất hợp pháp, vì KHÔNG do dân bầu và cũng KHÔNG đại diện cho Quốc Gia Việt Nam. Cho dù sau khi CS chiếm trọn Trung Hoa 1949, đã gia tăng ủng hộ HCM bằng cách nhìn nhận cái “Chính Phủ” do y và chính Trung Cộng nhúng tay dựng lên này. Nhưng khối Tự Do và Hoa Kỳ cũng chỉ nhìn nhận vai trò của Hoàng Đế Bảo Đại, kể cả sau khi trận Điện Biên Phủ chấm dứt 1954 và vua Bảo Đại đã qua Pháp. Bằng chứng là Bảo Đại với tư cách là Quốc Trưởng, đã bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng Việt Nam về nước chấp chánh ngày 23/10/1955. Do đó, việc HCM công bố “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” là BẤT HỢP PHÁP và KHÔNG được Quốc Dân, đồng bào VN chính thức nhìn nhận. Nếu “Chính Phủ” Việt Nam mà KHÔNG ĐƯỢC người Việt Nam nhìn nhận, thì KHÔNG CÓ AI, kể cả Quốc Tế, có thể nhìn nhận một cách HỢP PHÁP. Tất cả chỉ là SỰ ÁP ĐẶT cường bạo, như hành động của thổ phỉ để cưỡng chế nhân dân Việt Nam chấp nhận 1 việc đã rồi mà thôi. Nếu đây là “Chính Phủ” Việt Nam, thì tại sao toàn dân Việt Nam lại không được có ý kiến gì trong việc bầu “Chính Phủ” này?
5- Trận chiến tại Điện Biên Phủ (13/7/1954) không phải là cuộc cách mạng giải phóng Quốc Gia, mà chỉ do TQ lợi dụng danh nghĩa giúp Đảng cướp CSVN, để có cớ đưa quân Tầu vào VN gây chiến loạn. Tại sao? Vì trước đó nước Pháp đã hoàn toàn trao trả toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền Quốc Gia cho Việt Nam rồi (3/8/1949-7/2/1950) nên sớm muộn gì thì quân Pháp cũng phải rút đi. Do đó, việc THẮNG-BẠI của trận Điện Biên Phủ KHÔNG QUAN TRỌNG, mà chỉ là thủ đoạn của CS mua chuộc truyền thông ngoại quốc thổi phồng lên nhằm đánh bóng hình nộm HCM mà thôi.
6- Cũng như cuộc chiến tại Việt Nam KHÔNG PHẢI LÀ NỘI CHIẾN, không phải là chiến tranh ý thức hệ, cũng không phải là HCM giải phóng dân tộc VN, hay vì Chính Phủ VNCH tham nhũng, bán nước cho Hoa Kỳ, như CS rêu rao, mà chỉ đơn thuần là cuộc chiến TỰ VỆ chống kẻ xâm lăng đến cướp nhà. Và thực chất, đây chỉ là cuộc xâm lăng CƯỚP NƯỚC do âm mưu Tầu Cộng chủ trương bành trướng.
Ngay trong đợt tấn công Tết Mậu thân 1968, CS đã lợi dụng Quân Lực VNCH để tiêu diệt bộ đội “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, cũng là người Việt Nam, là 1 bằng chứng tố cáo âm mưu diệt chủng của bọn đầu sỏ CSVN, tay sai Trung Cộng. Hiện nay chúng bị rơi mặt nạ, lộ rõ chân tướng tay sai HCM và tay sai CSVN đã và đang đàn áp sự phản đối của dân chúng, để tiếp tục bán nước cho Tầu với gía rẻ mạt.
7- Xét vì Quốc gia Việt Nam dưới chế độ VNCH và Đồng Minh tương trợ KHÔNG HỀ TUYÊN CHIẾN với thổ phỉ CSVN. Nên “Giải Phóng Quân” VC KHÔNG PHẢI LÀ QUÂN NHÂN, mà chỉ là thổ phỉ giả mặc đồ quân phục. Còn nhân dân Việt Nam KHÔNG PHẢI LÀ CHIẾN SĨ, mà chỉ là NẠN NHÂN của đảng cướp Tầu Cộng và HCM giả dạng Việt Nam để CƯỚP CHÍNH QUYỀN. Do đó, quân thổ phỉ CS miền Bắc dù có mặc quân phục, hay Tầu Cộng và Việt Cộng có dùng bất cứ chiêu bài, hoặc có bất kỳ lời hứa hoa hoè nào, cũng đều phi pháp trước Liên Hiệp Quốc. Yêu cầu tòa án Quốc Tế chú trọng thêm tội ác của CSVN là ĐẢNG CƯỚP GIẢ MẶC ÁO LÍNH.
8- Vì đảng cướp HCM và CSVN đã cướp được Nhà-Nước-Việt-Nam mới trở thành Đại Gia giầu xụ. Nên dù chúng có gia nhập thế giới Toàn Cầu Hoá Văn Minh, thì cốt tủy của chúng vẫn chỉ là chỉ là vô sản, là những kẻ cướp của, giết người không gớm tay, cần phải được xét xử công minh trước Công Pháp Quốc Tế và Luật Pháp của Quốc Gia Việt Nam.
9- Ngày nay nhiều nước phải giao thiệp với Đảng CSVN tay sai HCM chỉ vì nhân đạo, muốn bảo vệ sinh mạng của những người Việt trong nước, đang bị dùng làm con tin trong nhà tù lớn tại VN, nên CSVN mới có cơ hội trục lợi dễ dàng.
Nhưng bọn thổ phỉ luôn có lòng tham không đáy. Những hành động đàn áp, trấn lột, cướp của, giết người của CSVN hiện nay càng bộc lộ cho thế giới thấy CSVN chỉ là 1 đảng cướp tàn bạo, ác ôn, côn đồ khó dung thứ.
Những Quốc Gia nào vì muốn kiếm chút lợi nhuận nên xin LÀM ĂN với Đảng CSVN-HCM, đừng quên rằng đó là bằng chứng mình đang ĐỒNG LOÃ với TỘI ÁC CỘNG SẢN, kể cả tội OA TRỮ và TIÊU DÙNG đồ ăn cướp bất hợp pháp. Yêu cầu các gia đình nạn nhân cuộc thảm sát Mậu Thân Huế (1968), nạn nhân vượt biên sau 30/04/1975 nói riêng, và tất cả các gia đình nạn nhân trong các cuộc chiến do đảng cướp CSVN gây ra nói chung, và nhất là các Quân Nhân VNCH bị lao tù cải tạo còn sống, nếu đã chết, thì gia đình, thân nhân, chiến hữu, đồng đội hãy mạnh dạn tố cáo và có quyền đưa Đảng CSVN ra trước Công Lý và toà án Quốc Tế xét xử như bọn Hitler (Đức Quốc Xã), Khờ Me Đỏ (Cam Bốt),... để đòi bồi thường nhân mạng, thương tích, thương tổn và tài sản đã bị mất mát.
Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời sẽ chính thức đứng ra nhận đơn và hoàn toàn tri ơn, ủng hộ những luật sư, luật gia, giúp thêm tài liệu giá trị, khi có VĂN TỰ yêu cầu từ các thân nhân và gia đình nạn nhân. Đặc biệt Chính Phủ coi các cán-binh CS quy thuận đứng ra làm chứng, đều được nhìn nhận là đoái công chuộc tội và có thể cứu xét ân thưởng, nếu sự tố giác có đủ bằng chứng để thi hành án lệnh và tịch biên tài sản của tội phạm. Đương đơn khởi tố xin gửi về ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM hay Văn Phòng Thường Trực CPQGVNLT. Đã đến lúc tiến hành các thủ tục truy tố CSVN và những đầu sỏ đã thảm sát, bức tử, cướp của, cưỡng đoạt và trấn lột hàng triệu đồng bào VN, mà vẫn ngoan cố, không hối hận, không muốn và không chịu thức tỉnh.
Văn Phòng Thường Trực Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời
Công bố ngày 09 tháng 08 năm 2010
Selected works:
- La Race Noire, 1924
- Procès de la colonisation française, 1925
- Duong Kach Menh, 1927
- Thu gui tu nuoc ngoai, 1941
- Ve dao duc cach mang, 1958
- Selected Works, 1960-62 (4 vols., Hanoi: Foreign Languages Pub. House)
- Nhung mau chuyen ve doi hoat dong cua Ho Chu tich, 1960
- Nhat ky trong tu, 1960 - Prison Diary (translated by Aileen Palmer, 1962) / Reflections from Captivity (ed. by David G. Marr; translated by Christopher Jenkins, Tran Khanh Tuyet, and Huynh Sanh-Thong, 1978)
- On Revolution: Selected Writings, 1920-1966, 1967 (ed. by Bernard Fall)
- Di chuc cua chu tich Ho Chi Minh, 1969, 1989 (ed. by Nguyen Van Linh) - President Ho Chi Minh's Testament (tr. 1969)
- Selected Articles and Speeches, 1920-1967, 1969 (edited by Jack Woddis)
- Dan toc Viet-Nam ta la mot dan toc anh hung, 1974
- Ve Le-nin va chu nghia Le-nin, 1977
- Patriotism and Proletarian Internationalism, 1979
- Ho Chi Minh Toan tap, 1980-1989 (10 vols.; 2d ed., 12 vols., 1995-96)
- Ho Chi Minh: Selected Writings, 1981
- Ho Chi Minh thi hoa, 1945-1954, 1990
- Con duong giai phong, 1990
- Ho Chi Minh: Selected Writings, 1994 (3 vols.)
- Down With Colonialism!, 2007 (ed. by Bello Walden)
- For further reading: Ho Chi Minh: The Missing Years by Sophie Quinn-Judge (2002); Rhetoric of Revolt: Ho Chi Minh's Discourse for Revolution by Peter Anthony Decaro (2002); Ho Chi Minh by William J. Duiker (2000); Ho Chi Minh by Reinhold Neumann-Hoditz (1989); Ho by David Halberstam (1986); Ho Chi Minh by Dana Ohlmeyer Lloyd (1986); Ho Chi Minh by Charles Fenn (1973); Ho Chi Minh: Legend of Hanoi by Jules Archer (1971); Vision Accomplished? The Enigma of Ho Chi Minh by N. Khac Huyen (1971); Ho Chi Minh: A Political Biography by Jean Lacouture (1968)