'Đức năng thắng số': Hiểu sao cho đúng và những câu chuyện nhân quả
Ngày đăng: 10/10/2015 00:00:00
Trong cuộc sống, khi gặp những điều không may hoặc tai ương, tật ách chúng ta thường nghe những lời khuyên như "Đức năng thắng số", hoặc "Tu thân tích đức" thì sẽ qua khỏi. Vậy tại sao, người đời lại có những lời khuyên như vậy? Và hiểu thế nào cho đúng về câu "Đức năng thắng số"!
"Đức năng thắng số" có thể hiểu là Phúc Đức thắng số mệnh. "Đức
năng" ở đây chính là sự Đức độ và tình yêu thương giữa con người với con
người. Ngay cả trong các tôn giáo lớn như Phật giáo hay Thiên chúa giáo
cũng đều nhấn mạnh đến phần Đức lên hàng đầu. Chữ “Đức” được mọi người
nhắc đến thường xuyên trong cuộc sống, trong sự dạy dỗ con cái, khuyên
răn con người sống cho phải đạo, đẹp đời.
Trong kinh Dịch xem việc tu dưỡng “Đức” còn quan trọng hơn nuôi
dưỡng hình hài, vì thế mới nói “Dữ thiên đồng đức” có nghĩa “Đức” có giá
trị vai trò ngang bằng với trời.
Còn trong giáo lý phương Đông, "Đức năng thắng số" hay "Nhân định
thắng Thiên" đều nhấn mạnh đến cái Đức và Đạo, bao trùm trong cuộc sống
và trên mọi lãnh vực của văn hóa Đông Phương, ngay cả trong triết ly
hiện sinh và trong lãnh vực binh pháp, từ cổ chí kim đến hiện đại.
Ngay trong môn khoa học Tử vi, tất cả những nguyên lý đạo giáo được
thấy trong Tử vi qua cung Phúc Đức và những bộ Phúc Tinh chuyên đi cứu
giải. Cái mờ ảo của "Đức năng thắng số" là khi xem 1 lá số. Chọn con
đường hướng thiện "lấy đức thắng số" đòi hỏi sự bền bỉ lâu dài cho đến
cùng của con người, để đến hướng đến cái Chân - Thiện, tìm thấy hạnh
phúc cho chính mình.
Ở bên kia phương trời Tây, Rene Descartes một nhà toán học, nhà vật
lý cũng còn là triết gia nổi tiếng vào thế kỷ thứ 17 đã nói một câu đã
được ghi mãi mãi trong lịch sử tư tưởng nhân loại bằng tiếng La Tinh
“Cogito ergo sum” (I think, therefore I am; Je pense, donc Je suis) có
nghĩa “tôi có suy nghĩ do đó tôi hiện hữu”. Descartes đã nói một điều
con người là sinh vật biết tư duy, có suy nghĩ, phân biệt phải trái,
hiểu rõ sự hiện hữu kiếp nhân sinh, từ đó con người cần phải sống sao
cho có ý nghĩa. Phải chăng câu nói của Descartes cũng đồngnghĩa với chữ
“Đức” trong tư tưởng Đông Phương, là “tu đức” để có sống một cuộc sống
cao thượng, trong sạch và hợp với đức trời.
Còn trong cuộc sống đời thường, ta có thể thấy và gặp nhiều người
nghèo khó, nhưng lúc nào họ cũng đầy bình an và hạnh phúc. Tiêu biểu
nhất trong lich sử Việt Nam là Thọ Tường Tử Nguyễn Công Trứ, cuộc đời
thăng trầm lên voi xuống chó, ông vẫn sống tự tại và để lại một triết lý
sống cho hậu thế đáng ngưỡng mộ: "Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc/ Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn".
Dưới đây là một số câu chuyện về “Đức năng thắng số” mà chuyên mục Lý Dịch tổng hợp và chia sẻ:
Câu chuyện 1: Việc thiện nên làm, tránh làm điều ác
Vào triều Bắc Tống, ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mười tuổi, gãy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ.
Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ.
Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin bị tật gom những tảng đá về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến.
Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm.
Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù đã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.
Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ.
Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.
Bấy giờ đúng lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo ra kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết câu: Ninh hành ác vật hành thiện (tức thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện).
Trở về Kinh thành sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy trong lòng không thoải mái, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không tâu lên Hoàng thượng về sự kiện hy hữu đó.
Hoàng thượng hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Hoàng thượng cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc.
Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là câu Ninh hành ác vật hành thiện: thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện). Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.
Hoàng thượng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Hoàng thượng xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Hoàng thượng bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.
Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời:
Đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù lòa, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù.
Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời.
Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn được chuyển sinh làm đương kim Thái tử, hưởng thụ phúc phận của Thiên tử”.
Việc thiện nên làm, việc ác nên tránh. “Đức năng thắng số” là vậy!
Câu chuyện 2: Tướng mạo thay đổi tùy theo hành động
Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.
Sau một thời gian, nhà tướng số gặp lại Bùi Độ và kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ. Đúng vậy, sau khi được cứu sống thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử.
Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi. Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh. Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại.
Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu
chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng
mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp.
Câu chuyện 3: Tướng thay đổi tùy Tâm
Tào Bân là vị đại tướng nổi tiếng triều Tống, giúp Tống Thái Tổ
bình định thiên hạ, có công lao chinh chiến rất lớn. Có một lần, Tào Bân
gặp Trần Hi Di là một người có học vấn rất uyên bác, giỏi xem tướng
thuật. Ông này xem qua tướng mạo của Tào Bân rồi nói:
Hai bên thành xương của ông lồi lên, ấn đường rộng, mắt dài phóng
ánh sáng, chắc chắn sớm trở nên giàu có, song có tướng xấu là quai hàm
cao, miệng trệ, xem ra ông không được hưởng phước khi tuổi già. Cứ theo
đây mà nói, mỗi khi xuất binh chinh chiến ông nên đối xử khoan hồng,
gieo trồng phước đức cho lúc tuổi già.
Tào Bân nghe Trần Hi Di nói liền cúi đầu cảm tạ, ghi nhớ lời ấy.
Một lần, khi Tào Bân xuất trận, phó tướng Toại Ninh và rất nhiều
tướng sĩ thuộc hạ đều chủ trương giết sạch dân trong thành để thị uy.
Tào Bân biết được liền ra lệnh nghiêm cấm giết hại dân lành, cấm xâm hại
phụ nữ hoặc cướp bóc tài sản của dân. Sau khi chiến sự kết thúc, ông
còn cấp lương thực cho những người xa quê muốn trở về, dân chúng không
ai không cảm tạ tấm lòng nhân đức của ông.
Sau đó, Tào Bân nhận lệnh dẫn binh đánh Giang Nam. Bởi không nỡ
nhìn thấy cảnh dân tình khốn khổ lầm than vì chiến cuộc nên ông cáo bệnh
không đi. Các võ tướng dưới quyền ông lúc đó đều kéo đến thăm hỏi bệnh
tình của ông trước khi xuất chinh. Tào Bân nói với tất cả những người
đến thăm bệnh:
Bệnh của tôi không thuốc gì chữa khỏi, nhưng chỉ cần tất cả anh em
thành tâm thành ý cùng thề rằng ngày tiến công Giang Nam tuyệt đối không
được tùy tiện giết hại dân lành, như thế thì bệnh của tôi sẽ tự nhiên
thuyên giảm thôi.
Các tướng sĩ vốn hết sức kính trọng Tào Bân, nên họ liền cùng nhau
phát lời thệ nguyện đúng như vậy. Đến ngày đánh Giang Nam, nhờ đó mà có
vô số dân thường được thoát khỏi sự lạm sát. Tấm lòng từ bi của vị tướng
quân họ Tào được truyền rộng khắp Giang Nam, dân chúng ai nấy đều cảm
kích. Vì thế, mọi người cùng rủ nhau mang lương thực đi đón quân triều
đình. Sức chống cự của phản quân vì thế rất yếu ớt. Nhờ vậy mà trận
chiến này không phải tốn hao nhiều nhân mạng, hơn nữa còn bảo vệ được
tài sản của nhân dân không bị tàn phá.
Sau đó ít lâu, Tào Bân có dịp tình cờ gặp lại Trần Hi Di. Ông ta nhìn tiên sinh một lúc rồi nói:
Lạ thật! Năm trước tôi xem tướng của ông thấy quai hàm cao
miệng trệ, lúc đó tôi khẳng định ông không có phước về già, nhưng hiện
tại đã biến đổi, miệng mép đầy đặn xinh đẹp, ánh kim quang thù diệu nhìn
thấy khắp mặt và râu tóc, nhất định sẽ được sống lâu nhiều phước lộc.
Tào Bân hỏi lại: Sao gọi là kim quang?
Đó là ánh sáng hiển hiện của phước đức, nếu người có âm đức thì mặt
hiện ánh sáng màu vàng y, mắt sáng, cả khuôn mặt đều tỏa ra khí sắc tốt
lành. Người như vậy không chỉ tăng tuổi thọ, con cháu nhiều đời về sau
cũng đều hưởng nhờ phước đức.
Quả nhiên, về già Tào Bân sống trong cảnh an nhàn thư thái, lúc ra
đi cũng hết sức nhẹ nhàng, thọ 69 tuổi, sau khi chết được truy phong
tước hiệu Tể Dương quận vương. Tiên sinh có cả thảy 9 người con trai,
con trưởng là Vĩ, con thứ là Tông, con thứ ba là Xán, đều là những tướng
lãnh nổi tiếng; nhiều đời con cháu về sau đều vinh hiển không ai sánh.
Nguồn:
http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/39duc-nang-thang-so39-hieu-sao-cho-dung-va-nhung-cau-chuyen-nhan-qua
http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/39duc-nang-thang-so39-hieu-sao-cho-dung-va-nhung-cau-chuyen-nhan-qua
Cúng lễ Vu Lan thế nào cho đúng với đạo Phật?
Ngày đăng: 28/08/2015 00:00:00
Thưa thầy, ngày lễ Vu
Lan đang đến gần. Theo truyền thống, đây là ngày người việt bày tỏ lòng
biết ơn, nhớ về ông bà, cha mẹ. Vậy, trong giáo lý nhà Phật, chữ
"Hiếu"được hiểu như thế nào?
Chúng ta biết rằng, chữ "Hiếu" của đạo Phật và lòng hiếu đạo của người Việt Nam luôn được coi trọng bậc nhất. Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam được hơn 2000 năm, do đó, tư tưởng, quan niệm và cách hành xử hiếu đạo của người Việt và chữ "Hiếu" trong giáo lý Phật giáo gần nhau và có thể coi là một. Trong Kinh điển, Đức Phật rất đề cao hiếu đạo. Đức Phật cũng là một người con có hiếu. Trong các điều phúc, không có điều phúc nào lớn bằng con cái có hiếu với cha mẹ. Và ngược lại, trong các điều tội, bất hiếu là tội nặng nhất.
Hiện nay, người ta thường cúng lễ Vu Lan vào ngày Rằm tháng 7 nhưng cách cúng thì mỗi nơi, mỗi người một kiểu... Có người cúng bằng cỗ mặn, có người cúng chay... Vậy theo quan điểm nhà Phật thì lễ cúng ngày nay như thế nào mới đúng đạo?
Trên tinh thần hiếu đạo, Đức Phật có dạy rằng, người con có hiếu là người con biết vâng lời và theo sự hướng nghiệp của cha mẹ. Lúc cha mẹ còn sống thì lo chăm sóc, lúc cha mẹ thác đi thì lo lễ cầu siêu. Đây là việc rất đơn giản nhưng cần nhất là cái tâm, sự thành ý của mỗi người. Nhưng sau này, một bộ phận không nhỏ người Việt lại biến lễ Vu Lan thành một nghi lễ báo đáp nhưng mang hình thức phàm tục nhiều hơn. Ví dụ như Rằm tháng 7, nhà nào cũng làm một mâm cỗ cúng thật hoành tráng và đặt lên ban thờ để làm lễ. Người ta quan niệm rằng, ngày này các vong linh được xá tội, cửa ngục được mở, cha mẹ, ông bà của họ có thể về nhà để nhận sự hiếu kính của con cháu. Con cháu thi nhau làm mâm cao, cỗ đầy để cầu cúng, báo đáp. Và họ tự nhủ với nhau rằng, lễ càng to càng tốt, càng thể hiện sự hiếu lễ.
Thầy có thể nói cụ thể hơn trong ngày lễ Vu Lan, người dân muốn cúng ở nhà thì nên sắm sửa những vật phẩm gì?
Ông cha ta có dạy rằng "trách bỏ giỗ chứ không ai trách giỗ mọn". Cho nên, việc cầu cúng ngày nay, dù giàu hay nghèo, các gia chủ chỉ cần bát cơm, quả trứng, tượng trưng cho sự tinh khiết, thanh cao đạm bạc là đủ. Quan trọng là ở lòng thành của mỗi người. Cúng tổ tiên, cúng Phật, Trời cũng vậy, điều cốt là tỏ lòng thành kính của mình. Không cúng những lễ vật mang tính vật chất để cầu khấn, vì điều đó tỏ cái tâm của người vụ lợi.
Ngoài việc cúng lễ chay, để tỏ lòng thành kính, biết ơn đến ông bà, cha mẹ đã khuất, con cháu nên làm những công việc gì?
Cứ đến lễ Vu Lan, trên các tuyến đường lại nườm nượp người mua vàng mã để đốt cho cha mẹ, ông bà. Quan điểm của thầy như thế nào về vấn đề này?
Người dân thời hiện đại có quan niệm "trần sao, âm vậy". Lúc sống có nhà cửa, xe máy, ô tô, điều hòa tủ lạnh... thì lúc thác đi cũng cần phải có những thứ đó. Thế nên, họ thi nhau đốt vàng mã, xe máy, ô tô giấy... như một cách báo hiếu "hiệu quả" nhất.Trong quan niệm của Phật giáo, những hành động đó không hề có lợi ích gì cả. Vì khi người ta thác đi, thần thức có thể trở lại dân gian đầu thai làm người hoặc vãng sinh Phật quốc, không ai muốn người thân của mình thác sinh vào cảnh giới khổ đau. Ai cũng muốn người thân của mình khi mất đi, thần thức được về cảnh giới an lành của nhà Phật. Mà cảnh giới của Phật thì không cần phải những đồ vàng mã như thế.
Rõ ràng việc người còn sống đốt vàng mã cho người đã khuất chẳng khác nào luôn nghĩ rằng người khuất đã về cảnh giới khổ đau. Trong giáo lý nhà Phật không dạy như vậy. Chính vì thế, mùa Vu Lan, tất cả các tăng ni, Phật tử đều giải thích cho người dân nếu hiếu kính với cha mẹ thì chỉ cần hương hoa lễ Phật, làm việc thiện và con cháu họp mặt nhau lại để cùng cầu nguyện cho người đã mất siêu thoát. Đốt vàng mã vừa tốn kém tiền bạc, lại có thể sinh ra hỏa hoạn và nhạo báng cuộc sống của người quá cố. Tôi từng thấy không ít người ra thành phố, để cha mẹ ở nông thôn cơm niêu, nước lọ nhưng khi cha mẹ mất thì cúng lễ linh đình lắm. Vô hình trung, đã không đối tốt với cha mẹ lúc sống, lại không cung kính, hiếu thảo khi họ đã về thế giới bên kia.
Thưa thầy, không ít người dân rất muốn lên chùa để hương khói, cầu khấn cho người quá cố trong lễ Vu Lan? Tuy nhiên họ không biết nên làm thế nào và lễ lạt ra sao?
Việc lên chùa lễ Phật mùa Vu Lan không có gì khó khăn cả. Người dân có thể tham gia cầu cúng, tụng kinh và phóng sinh làm phúc ở các chùa. Bên cạnh đó, nên viết tên tuổi của người quá cố để đọc trước bàn thờ Phật, cầu xin được sự tiếp độ. Đó là lời cầu nguyện thành ý của mỗi người, giúp cho các vong linh về cõi lành.
Nhân câu chuyện ngày Xá tội vong nhân, có người cho rằng các "vong dữ" thì nên được"nhốt" lại để tránh làm hại cho người đang sống. Quan điểm của nhà Phật về vấn đề này như thế nào?
Tôi rất buồn về cách suy nghĩ này của một số người dân hiện nay. Tôi từng nghe những câu chuyện như con làm lễ "nhốt vong" mẹ, cháu làm lễ nhốt vong ông bà vì sợ rằng họ chết vào ngày, giờ dữ sẽ bắt các con cháu đi theo. Nhà Phật không có và không chấp nhận quan niệm này.Tôi cho rằng, chẳng có cha mẹ, ông bà nào khi thác đi lại quay về hãm hại con cháu cả. Cách làm này không những thể hiện sự mê tín dị đoan mà còn mang cả hàm ý phỉ báng vong linh của người đã chết.
Chúng ta biết rằng, chữ "Hiếu" của đạo Phật và lòng hiếu đạo của người Việt Nam luôn được coi trọng bậc nhất. Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam được hơn 2000 năm, do đó, tư tưởng, quan niệm và cách hành xử hiếu đạo của người Việt và chữ "Hiếu" trong giáo lý Phật giáo gần nhau và có thể coi là một. Trong Kinh điển, Đức Phật rất đề cao hiếu đạo. Đức Phật cũng là một người con có hiếu. Trong các điều phúc, không có điều phúc nào lớn bằng con cái có hiếu với cha mẹ. Và ngược lại, trong các điều tội, bất hiếu là tội nặng nhất.
Hiện nay, người ta thường cúng lễ Vu Lan vào ngày Rằm tháng 7 nhưng cách cúng thì mỗi nơi, mỗi người một kiểu... Có người cúng bằng cỗ mặn, có người cúng chay... Vậy theo quan điểm nhà Phật thì lễ cúng ngày nay như thế nào mới đúng đạo?
Trên tinh thần hiếu đạo, Đức Phật có dạy rằng, người con có hiếu là người con biết vâng lời và theo sự hướng nghiệp của cha mẹ. Lúc cha mẹ còn sống thì lo chăm sóc, lúc cha mẹ thác đi thì lo lễ cầu siêu. Đây là việc rất đơn giản nhưng cần nhất là cái tâm, sự thành ý của mỗi người. Nhưng sau này, một bộ phận không nhỏ người Việt lại biến lễ Vu Lan thành một nghi lễ báo đáp nhưng mang hình thức phàm tục nhiều hơn. Ví dụ như Rằm tháng 7, nhà nào cũng làm một mâm cỗ cúng thật hoành tráng và đặt lên ban thờ để làm lễ. Người ta quan niệm rằng, ngày này các vong linh được xá tội, cửa ngục được mở, cha mẹ, ông bà của họ có thể về nhà để nhận sự hiếu kính của con cháu. Con cháu thi nhau làm mâm cao, cỗ đầy để cầu cúng, báo đáp. Và họ tự nhủ với nhau rằng, lễ càng to càng tốt, càng thể hiện sự hiếu lễ.
Tuy nhiên, dưới con mắt và giáo lý của nhà
Phật thì việc làm trên lại sinh ra cái tội cho ông bà, cha mẹ, người đã
thác. Bởi khi còn sống, ông bà, cha mẹ của họ cũng gây ra tội khi sát
sinh, cúng lễ mặn vào ngày Rằm. Và bây giờ, con cháu của họ lại tiếp tục
sát sinh để cúng ông bà, cha mẹ khiến cho tội lỗi của họ càng thêm
nặng. Theo quan niệm của người Việt thì khi cúng phải đầy đủ "4 bát, 6
đĩa" mới là cỗ to, mới đầy đủ. "4 bát, 6 đĩa" đồng nghĩa với 10 món, họ
phải sát sanh 10 con vật. Trong kinh Phật có nói làm như vậy là "tội
chồng tội", chẳng khác nào cha mẹ, ông bà họ đang gánh nặng, leo dốc cao
vào trời nắng. Con cháu không những không đỡ mà còn tiếp tục chất thêm
đồ đạc. Chính vì thế, khi cúng vào ngày lễ Vu Lan, con cháu nên cúng ông
bà, cha mẹ bằng lễ chay. Tuyệt đối tránh việc sát sinh.
Ảnh minh họa |
Ông cha ta có dạy rằng "trách bỏ giỗ chứ không ai trách giỗ mọn". Cho nên, việc cầu cúng ngày nay, dù giàu hay nghèo, các gia chủ chỉ cần bát cơm, quả trứng, tượng trưng cho sự tinh khiết, thanh cao đạm bạc là đủ. Quan trọng là ở lòng thành của mỗi người. Cúng tổ tiên, cúng Phật, Trời cũng vậy, điều cốt là tỏ lòng thành kính của mình. Không cúng những lễ vật mang tính vật chất để cầu khấn, vì điều đó tỏ cái tâm của người vụ lợi.
Ngoài việc cúng lễ chay, để tỏ lòng thành kính, biết ơn đến ông bà, cha mẹ đã khuất, con cháu nên làm những công việc gì?
Để
thể hiện lòng biết ơn, báo đáp người đã khuất, con cháu nên chú ý làm
việc thiện, bố thí cho người nghèo, giúp đỡ người khốn khổ. Ngoài ra, để
tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ đã khuất núi, thế hệ sau nên nhắc nhở cho
con cháu sống noi gương theo truyền thống hiếu đạo của người Việt.
Đấy
là sự tưởng nhớ, sự báo đáp lớn nhất đối với người đã nhắm mắt, xuôi
tay. Còn ở chùa, chúng tôi khuyên các Phật tử nên làm việc phúc trong
tháng 7 này như cúng dường, bố thí, chia sẻ cho những người khổ đau hay
lên chùa tụng kinh lễ bái để cầu sự siêu thoát cho ông bà, tổ tiên; cầu
phúc cho cha mẹ sống thọ, khỏe mạnh. Đấy là ý nghĩa của chữ "Hiếu" trong
mùa Vu Lan này.
Cứ đến lễ Vu Lan, trên các tuyến đường lại nườm nượp người mua vàng mã để đốt cho cha mẹ, ông bà. Quan điểm của thầy như thế nào về vấn đề này?
Người dân thời hiện đại có quan niệm "trần sao, âm vậy". Lúc sống có nhà cửa, xe máy, ô tô, điều hòa tủ lạnh... thì lúc thác đi cũng cần phải có những thứ đó. Thế nên, họ thi nhau đốt vàng mã, xe máy, ô tô giấy... như một cách báo hiếu "hiệu quả" nhất.Trong quan niệm của Phật giáo, những hành động đó không hề có lợi ích gì cả. Vì khi người ta thác đi, thần thức có thể trở lại dân gian đầu thai làm người hoặc vãng sinh Phật quốc, không ai muốn người thân của mình thác sinh vào cảnh giới khổ đau. Ai cũng muốn người thân của mình khi mất đi, thần thức được về cảnh giới an lành của nhà Phật. Mà cảnh giới của Phật thì không cần phải những đồ vàng mã như thế.
Rõ ràng việc người còn sống đốt vàng mã cho người đã khuất chẳng khác nào luôn nghĩ rằng người khuất đã về cảnh giới khổ đau. Trong giáo lý nhà Phật không dạy như vậy. Chính vì thế, mùa Vu Lan, tất cả các tăng ni, Phật tử đều giải thích cho người dân nếu hiếu kính với cha mẹ thì chỉ cần hương hoa lễ Phật, làm việc thiện và con cháu họp mặt nhau lại để cùng cầu nguyện cho người đã mất siêu thoát. Đốt vàng mã vừa tốn kém tiền bạc, lại có thể sinh ra hỏa hoạn và nhạo báng cuộc sống của người quá cố. Tôi từng thấy không ít người ra thành phố, để cha mẹ ở nông thôn cơm niêu, nước lọ nhưng khi cha mẹ mất thì cúng lễ linh đình lắm. Vô hình trung, đã không đối tốt với cha mẹ lúc sống, lại không cung kính, hiếu thảo khi họ đã về thế giới bên kia.
Thưa thầy, không ít người dân rất muốn lên chùa để hương khói, cầu khấn cho người quá cố trong lễ Vu Lan? Tuy nhiên họ không biết nên làm thế nào và lễ lạt ra sao?
Việc lên chùa lễ Phật mùa Vu Lan không có gì khó khăn cả. Người dân có thể tham gia cầu cúng, tụng kinh và phóng sinh làm phúc ở các chùa. Bên cạnh đó, nên viết tên tuổi của người quá cố để đọc trước bàn thờ Phật, cầu xin được sự tiếp độ. Đó là lời cầu nguyện thành ý của mỗi người, giúp cho các vong linh về cõi lành.
Nhân câu chuyện ngày Xá tội vong nhân, có người cho rằng các "vong dữ" thì nên được"nhốt" lại để tránh làm hại cho người đang sống. Quan điểm của nhà Phật về vấn đề này như thế nào?
Tôi rất buồn về cách suy nghĩ này của một số người dân hiện nay. Tôi từng nghe những câu chuyện như con làm lễ "nhốt vong" mẹ, cháu làm lễ nhốt vong ông bà vì sợ rằng họ chết vào ngày, giờ dữ sẽ bắt các con cháu đi theo. Nhà Phật không có và không chấp nhận quan niệm này.Tôi cho rằng, chẳng có cha mẹ, ông bà nào khi thác đi lại quay về hãm hại con cháu cả. Cách làm này không những thể hiện sự mê tín dị đoan mà còn mang cả hàm ý phỉ báng vong linh của người đã chết.
Xin cảm ơn thầy!
Nguồn: http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/cung-le-vu-lan-the-nao-cho-dung-voi-dao-phat
Câu chuyện huyền bí nơi Tây Tạng
Ngày đăng: 25/07/2015 00:00:00
Xứ Tây Tạng, được xem là
"thánh địa" của những câu chuyện kỳ bí và tâm linh mà khoa học đang tìm
cách lý giải. Đã có rất nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng "đơn
phương độc mã" trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của
"đỉnh trời" không ngoài mục đích là tìm hiểu những gì thuộc lãnh vực
siêu linh huyền bí.
Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba.
Khai mở "Huệ nhãn"
Tại Tây Tạng, nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn.
Khám phá
Nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người phụ nữ, một nữ văn sĩ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của "đỉnh trời" là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận nơi những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà "Trời" và "Đất" gần như giao hòa với nhau thành một thể.
Nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người phụ nữ, một nữ văn sĩ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của "đỉnh trời" là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận nơi những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà "Trời" và "Đất" gần như giao hòa với nhau thành một thể.
Điểm
đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận
thức, họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói
hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt
Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong
đầu.
Ngoài ra, những vị này còn có khả năng phân tích vầng
màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu
mà người đó đang dự định. Đây chính là nguồn năng lực của con mắt thứ ba
đã được nhiều tài liệu nhắc tới với tên gọi là "Thần nhãn" hay "Huệ
nhãn".
Trở
lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng người khác cũng như thấy rõ và
phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự
kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng.
Lý
do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích
về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy,
người Tây Tạng ai cũng có một "nhãn lực" đặc biệt, nhãn lực
này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con
mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là
Huệ nhãn.
Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường
vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong
sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ
ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa.
Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba.
Khi khảo sát bộ xương của
loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một
chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là
vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang
bàn là "con mắt thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các
loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận
trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm
khuất ở vị trí phía trên đầu.
Khai mở "Huệ nhãn"
Những
khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết
là trong não người có một tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh
nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố
đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm
cầu nguyện với tất cả thành tâm, hay vào các giai đoạn con người ở tình
trạng nguy biến, thập tử nhất sinh.
Cái tuyến lạ lùng đó
là tuyến Tùng quả (Pineal gland). Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu
thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không
có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal
glandcòn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ
ba.
Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ,
quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính
phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao
tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng
"thượng thừa" ấy mà thôi. Tuy nhiên, theo các vị Đại sư thì không phải
tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta
tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì ngoài hội đủ các điểm cần yếu như
đã nói trên, còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu
luyện cao siêu mới được.
Phép
tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có
Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng
sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay
chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.Tại Tây Tạng, nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn.
Cứ thế
mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua
khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo viện này đến đạo viện khác, từ hang
động này đến hang động khác. Theo bà Alexandra David Neel thì dãy Hy Mã
Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng
của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi nơi...
Nguồn: http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/cau-chuyen-huyen-bi-noi-tay-tangChuyện kỳ bí về những vết sẹo luân hồi (kỳ 2)
Ngày đăng: 18/05/2014 00:00:00
Vốn là tiến sĩ có tiếng của
ngành tâm lý Mỹ, Ian Stevenson từng làm việc tại các bệnh viện và nhiều
trường đại học, tác giả của nhiều công trình có giá trị về tâm lý, thế
nhưng đến năm 48 tuổi, ông lại từ bỏ lĩnh vực đã đem lại có mình vị trí
vững chắc trong giới khoa học đó để điều tra và nghiên cứu về luân hồi.
Lý do là, kinh nghiệm trị liệu tâm lý nhiều năm cho ông thấy, cá tính
của nhiều bệnh nhân không liên quan gì đến tính chất di truyền hay môi
trường giáo dục, và ông nghĩ đó là do tiền kiếp.
Để nghiên cứu, khảo sát các “bằng chứng sống về luân hồi”, Ian Stevenson đã vận dụng kiến thức và các phương pháp chuyên môn về sử học, luật học, tâm lý học, trực tiếp gặp gỡ nhân vật và nhân chứng, tìm các tài liệu (báo chí, nhật ký, báo cáo, giấy khai sinh, hồ sơ bệnh án…). Từ con số rất lớn những trường hợp luân hồi được khảo cứu, ông đã viết nhiều bài khảo luận đăng báo và xuất bản 5 cuốn sách về lĩnh vực này.
Những trường hợp dưới đây đều đã được Ian Stevenson khảo cứu, mà điểm chung là những người đã chết khi đầu thai đã “đánh tiếng” sự trở lại của mình bằng những dấu vết trên cơ thể đứa bé mới ra đời.
Cặp song sinh nhà Pollock
Tháng 5.1057, tại Hexam Northumberland, Anh, một chiếc xe hơi mất lái lao bổ lên vỉa hè đã đâm chết Joanna11 tuổi, và Jacqueline 6 tuổi. Không chấp nhận nổi việc mất một lúc 2 đứa con gái, John Pollock đinh ninh rằng, chúng nhất định sẽ đầu thai trở lại làm con ông, dù vợ ông, bà Florence, không bao giờ tin điều đó.
Khi bà Florence mang thai vào đầu năm 1958, ông John quả quyết vợ sẽ sinh đôi dù bác sĩ khám lần nào cũng khẳng định chỉ sinh một. Nhưng sự thật là hai bé gái đã cùng ra đời vào ngày 4.10 năm đó, đặt tên là Gillian và Jennifer. Ông Pollock giật mình khi thấy Jennifer cũng có một vết bớt trên trán gần sống mũi, hệt như vết sẹo do ngã của bé Jacqueline đã chết, cũng ở vị trí đó, và cả cũng như Jacqueline, bé Jennifer có một nốt ruồi màu nâu ở vùng thắt lưng trái.
Khi nghiên cứu trường hợp này, tiến sĩ Ian Stevenson đã lấy mẫu xét nghiệm để xác định cặp song sinh này cùng trứng hay khác trứng. Kết quả: hai cô bé được tách ra từ một hợp tử duy nhất, nghĩa là có cùng một “bản sao di truyền”. Thế nhưng, trên người bé Gillian không có vết bớt hay nốt ruồi nào cả, còn 2 dấu hiệu này ở Jennifer thì giống người chị quá cố Jacqueline cả về kích thước, hình dáng lẫn vị trí.
Mặc dù ông bà Pollock không bao giờ nói với các con về những người chị đã chết, nhưng Gillian và Jennifer, trong thời gian từ 2 đến 4 tuổi, lại hay nhắc đến Joanna và Jacqueline. Chúng nhận ra ngay những đồ chơi cũ của hai chị và chơi một cách thành thạo, quen thuộc, dù lần đầu tiên trông thấy. Jennifer cũng dựa dẫm, “bám váy” chị là Gillian như Jacqueline thường ỷ lại vào Joanna trước đây.
Đến tuổi học viết, cô chị Gillian ngay từ lần đầu đã cầm bút thành thạo như người chị đã chết ở tuổi 11, còn Jennifer thì không.
Tiến sĩ Ian Stevenson theo dõi trường hợp này suốt 19 năm và nhận thấy, Gillian và Jennifer quên dần chuyện tiền kiếp, và đến năm 1985 thì hai cô không còn nhắc gì đến nữa.
Cô bé Susan chính là chị gái Winni quá cố?
Bà Charlotte Eastland ở Idaho có một đứa con gái tên là Winnie chết vì đụng xe năm 1961 khi mới 6 tuổi. Là người Cơ đốc giáo, nhưng vì quá tiếc đứa con, bà ước con gái đầu thai trở lại như trong những câu chuyện của người Ấn Độ mà bà được nghe.
Khi Winnie chết được 6 tháng và lúc bà Charlotte mang thai 2 năm sau đó với người chồng mới, cô con cả của bà là Sharon đều nằm mơ thấy Winnie trở về với gia đình. Khi bà đang nằm trên bàn đẻ, người chồng cũ cũng tưởng như nghe thấy Winnie nói: “Bố ơi con đang về”.
Susan không giống hệt Winnie về vẻ ngoài. Bé tóc vàng, mắt xanh trong khi người chị quá cố tóc đỏ, mắt nâu. Thế nhưng, cả hai cô bé đều có lông mọc sau lưng, và bên hông trái của Susan cũng có vết sẹo nhỏ đúng chỗ vết tử thương do bị xe đụng của Winnie. Tính nết, hành vi, cử chỉ của Susan cũng giống hệt Winnie ngày trước.
Lên 2 tuổi, Susan luôn tự nhận mình là Winni và nói rằng mình 6 tuổi (tuổi Winnie lúc bị chết). Khi lên 5, cô bé khẳng định mình nhiều tuổi hơn anh trai Richard, lúc đó đã 11 tuổi (so với cô bé Winnie quá cố, Richard ít hơn 3 tuổi). Xem ảnh Winnie, Susan khăng khăng đó là ảnh mình và đòi giữ. Có lần cô bé cầm bút viết vào cánh cửa bếp cái tên Winni. Bé hay nói lúc nào đi học sẽ chơi đu ở trường; đây từng là trò chơi yêu thích của Winni khi đến lớp.
Hồi Winnie còn sống, khi bé muốn ăn bánh, bà Charlotte Eastland lấy cái lọ bánh có hình con mèo, hỏi con mèo có thể cho bé mấy chiếc, rồi giả giọng mèo trả lời: “Meo, con có thể lấy một chiếc”. Chiếc lọ bị cất đi rồi quên lãng sau khi Winni chết, và chỉ được nhớ để lôi ra đựng bánh khi Susan lên 4 tuổi. Khi Susan nhìn thấy và đòi, bà vô tình hỏi con mèo nói sao, cô bé lập tức nói ngay: "Meo, con có thể lấy một chiếc".
Susan còn kể nhiều chuyện xảy ra cho Winnie khi còn sống, chẳng hạn như cuộc dạo chơi bờ biển. Bà mẹ khẳng định, cô bé nhắc lại đúng những người tham gia buổi chơi đó, thậm chí cả người chồng trước của bà và là bố đẻ của Winni, nhắc những trò họ đã chơi. Susan còn nhắc đến cậu bé Gregory, bạn chơi với Winni hồi trước, dù chưa hề nghe nói đến cậu. Cô bé cũng “nhớ” về chú George, người mà bé bảo là “con vẫn hay dừng lại thăm chú và chơi với chú một lát trên đường đến trường”. Cả cậu bé Gregory và chú George đều không sống cùng thành phố khi Susan ra đời và chưa hề gặp bé.
Susan cũng “kể”, có lần bé (thực ra là Winni) theo mẹ đến bãi chơi ném bóng, và trong lúc mẹ chơi, bé đi mua kẹo gần đấy, rồi bị một cậu bé chạy đến ôm hôn. Chuyện này, bà Eastland vẫn nhớ rất rõ chuyện này và nhớ rằng chồng bà đã rất tức giận khi nghe kể.
Bà Eastland khẳng định, tuy tin Susan chính là Winni đầu thai nhưng và chưa hề nói với các con về luân hồi vì nếu cộng đồng Cơ đốc giáo biết và tin hay “giáo dục” con về điều đó, họ sẽ trục xuất bà. Vì vậy những biểu hiện của Susan là hoàn toàn tự nhiên chứ không hề chịu ảnh hưởng, định hướng nào từ bà cả.
Còn nhiều “nghi án” khác về luân hồi với “bằng chứng” trên cơ thể người mới tái sinh, được các học giả khác ghi nhận. Chẳng hạn, một cậu bé Ấn Độ tự xưng mình là Maha Ram, người đàn ông đã chết vì bị bắn ở cự ly gần. Người ta đã tìm được một người đàn ông có tên như vậy bị dí súng săn vào ngực mà bắn. Không chỉ kể đúng chi tiết nhiều chuyện của Maha Ram lúc sinh thời, cậu bé còn có vết bớt ở ngực giống hệt vết sẹo trúng đạn của Ram.
Một người đàn ông Thái Lan cũng khẳng định ông nhớ rất rõ những kỷ niệm kiếp trước, và những chuyện này hoàn toàn trùng khớp với chuyện đời người chú đã chết vì dao đâm của ông ta. Trên ngực người đàn ông cũng có vết bớt, vị trí và hình dáng giống hệt vết dao đâm đã lấy đi tính mạng người chú.
Để nghiên cứu, khảo sát các “bằng chứng sống về luân hồi”, Ian Stevenson đã vận dụng kiến thức và các phương pháp chuyên môn về sử học, luật học, tâm lý học, trực tiếp gặp gỡ nhân vật và nhân chứng, tìm các tài liệu (báo chí, nhật ký, báo cáo, giấy khai sinh, hồ sơ bệnh án…). Từ con số rất lớn những trường hợp luân hồi được khảo cứu, ông đã viết nhiều bài khảo luận đăng báo và xuất bản 5 cuốn sách về lĩnh vực này.
Những trường hợp dưới đây đều đã được Ian Stevenson khảo cứu, mà điểm chung là những người đã chết khi đầu thai đã “đánh tiếng” sự trở lại của mình bằng những dấu vết trên cơ thể đứa bé mới ra đời.
Cặp song sinh nhà Pollock
Tháng 5.1057, tại Hexam Northumberland, Anh, một chiếc xe hơi mất lái lao bổ lên vỉa hè đã đâm chết Joanna11 tuổi, và Jacqueline 6 tuổi. Không chấp nhận nổi việc mất một lúc 2 đứa con gái, John Pollock đinh ninh rằng, chúng nhất định sẽ đầu thai trở lại làm con ông, dù vợ ông, bà Florence, không bao giờ tin điều đó.
Khi bà Florence mang thai vào đầu năm 1958, ông John quả quyết vợ sẽ sinh đôi dù bác sĩ khám lần nào cũng khẳng định chỉ sinh một. Nhưng sự thật là hai bé gái đã cùng ra đời vào ngày 4.10 năm đó, đặt tên là Gillian và Jennifer. Ông Pollock giật mình khi thấy Jennifer cũng có một vết bớt trên trán gần sống mũi, hệt như vết sẹo do ngã của bé Jacqueline đã chết, cũng ở vị trí đó, và cả cũng như Jacqueline, bé Jennifer có một nốt ruồi màu nâu ở vùng thắt lưng trái.
Khi nghiên cứu trường hợp này, tiến sĩ Ian Stevenson đã lấy mẫu xét nghiệm để xác định cặp song sinh này cùng trứng hay khác trứng. Kết quả: hai cô bé được tách ra từ một hợp tử duy nhất, nghĩa là có cùng một “bản sao di truyền”. Thế nhưng, trên người bé Gillian không có vết bớt hay nốt ruồi nào cả, còn 2 dấu hiệu này ở Jennifer thì giống người chị quá cố Jacqueline cả về kích thước, hình dáng lẫn vị trí.
Mặc dù ông bà Pollock không bao giờ nói với các con về những người chị đã chết, nhưng Gillian và Jennifer, trong thời gian từ 2 đến 4 tuổi, lại hay nhắc đến Joanna và Jacqueline. Chúng nhận ra ngay những đồ chơi cũ của hai chị và chơi một cách thành thạo, quen thuộc, dù lần đầu tiên trông thấy. Jennifer cũng dựa dẫm, “bám váy” chị là Gillian như Jacqueline thường ỷ lại vào Joanna trước đây.
Đến tuổi học viết, cô chị Gillian ngay từ lần đầu đã cầm bút thành thạo như người chị đã chết ở tuổi 11, còn Jennifer thì không.
Tiến sĩ Ian Stevenson theo dõi trường hợp này suốt 19 năm và nhận thấy, Gillian và Jennifer quên dần chuyện tiền kiếp, và đến năm 1985 thì hai cô không còn nhắc gì đến nữa.
Cô bé Susan chính là chị gái Winni quá cố?
Bà Charlotte Eastland ở Idaho có một đứa con gái tên là Winnie chết vì đụng xe năm 1961 khi mới 6 tuổi. Là người Cơ đốc giáo, nhưng vì quá tiếc đứa con, bà ước con gái đầu thai trở lại như trong những câu chuyện của người Ấn Độ mà bà được nghe.
Khi Winnie chết được 6 tháng và lúc bà Charlotte mang thai 2 năm sau đó với người chồng mới, cô con cả của bà là Sharon đều nằm mơ thấy Winnie trở về với gia đình. Khi bà đang nằm trên bàn đẻ, người chồng cũ cũng tưởng như nghe thấy Winnie nói: “Bố ơi con đang về”.
Susan không giống hệt Winnie về vẻ ngoài. Bé tóc vàng, mắt xanh trong khi người chị quá cố tóc đỏ, mắt nâu. Thế nhưng, cả hai cô bé đều có lông mọc sau lưng, và bên hông trái của Susan cũng có vết sẹo nhỏ đúng chỗ vết tử thương do bị xe đụng của Winnie. Tính nết, hành vi, cử chỉ của Susan cũng giống hệt Winnie ngày trước.
Lên 2 tuổi, Susan luôn tự nhận mình là Winni và nói rằng mình 6 tuổi (tuổi Winnie lúc bị chết). Khi lên 5, cô bé khẳng định mình nhiều tuổi hơn anh trai Richard, lúc đó đã 11 tuổi (so với cô bé Winnie quá cố, Richard ít hơn 3 tuổi). Xem ảnh Winnie, Susan khăng khăng đó là ảnh mình và đòi giữ. Có lần cô bé cầm bút viết vào cánh cửa bếp cái tên Winni. Bé hay nói lúc nào đi học sẽ chơi đu ở trường; đây từng là trò chơi yêu thích của Winni khi đến lớp.
Hồi Winnie còn sống, khi bé muốn ăn bánh, bà Charlotte Eastland lấy cái lọ bánh có hình con mèo, hỏi con mèo có thể cho bé mấy chiếc, rồi giả giọng mèo trả lời: “Meo, con có thể lấy một chiếc”. Chiếc lọ bị cất đi rồi quên lãng sau khi Winni chết, và chỉ được nhớ để lôi ra đựng bánh khi Susan lên 4 tuổi. Khi Susan nhìn thấy và đòi, bà vô tình hỏi con mèo nói sao, cô bé lập tức nói ngay: "Meo, con có thể lấy một chiếc".
Susan còn kể nhiều chuyện xảy ra cho Winnie khi còn sống, chẳng hạn như cuộc dạo chơi bờ biển. Bà mẹ khẳng định, cô bé nhắc lại đúng những người tham gia buổi chơi đó, thậm chí cả người chồng trước của bà và là bố đẻ của Winni, nhắc những trò họ đã chơi. Susan còn nhắc đến cậu bé Gregory, bạn chơi với Winni hồi trước, dù chưa hề nghe nói đến cậu. Cô bé cũng “nhớ” về chú George, người mà bé bảo là “con vẫn hay dừng lại thăm chú và chơi với chú một lát trên đường đến trường”. Cả cậu bé Gregory và chú George đều không sống cùng thành phố khi Susan ra đời và chưa hề gặp bé.
Susan cũng “kể”, có lần bé (thực ra là Winni) theo mẹ đến bãi chơi ném bóng, và trong lúc mẹ chơi, bé đi mua kẹo gần đấy, rồi bị một cậu bé chạy đến ôm hôn. Chuyện này, bà Eastland vẫn nhớ rất rõ chuyện này và nhớ rằng chồng bà đã rất tức giận khi nghe kể.
Bà Eastland khẳng định, tuy tin Susan chính là Winni đầu thai nhưng và chưa hề nói với các con về luân hồi vì nếu cộng đồng Cơ đốc giáo biết và tin hay “giáo dục” con về điều đó, họ sẽ trục xuất bà. Vì vậy những biểu hiện của Susan là hoàn toàn tự nhiên chứ không hề chịu ảnh hưởng, định hướng nào từ bà cả.
Còn nhiều “nghi án” khác về luân hồi với “bằng chứng” trên cơ thể người mới tái sinh, được các học giả khác ghi nhận. Chẳng hạn, một cậu bé Ấn Độ tự xưng mình là Maha Ram, người đàn ông đã chết vì bị bắn ở cự ly gần. Người ta đã tìm được một người đàn ông có tên như vậy bị dí súng săn vào ngực mà bắn. Không chỉ kể đúng chi tiết nhiều chuyện của Maha Ram lúc sinh thời, cậu bé còn có vết bớt ở ngực giống hệt vết sẹo trúng đạn của Ram.
Một người đàn ông Thái Lan cũng khẳng định ông nhớ rất rõ những kỷ niệm kiếp trước, và những chuyện này hoàn toàn trùng khớp với chuyện đời người chú đã chết vì dao đâm của ông ta. Trên ngực người đàn ông cũng có vết bớt, vị trí và hình dáng giống hệt vết dao đâm đã lấy đi tính mạng người chú.
Nguồn:http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/chuyen-ky-bi-ve-nhung-vet-seo-luan-hoi-ky-1
Lý giải thế nào về thế giới khác sau khi chết?
Ngày đăng: 16/08/2013 00:00:00
Sau khi chết chúng ta sẽ thế nào?
Ra sao? Đó là câu hỏi mà từ xưa tới nay loài người luôn tìm kiếm mà đến
giờ vẫn chưa có câu trả lời. Khi đi tìm hiểu câu hỏi đó, đã hình thành
nên các tôn giáo. Một điều đáng lưu ý là dù ở phương Tây hay phương
Đông, người ta luôn tin rằng có một thế giới khác sau khi con người rời
bỏ cuộc sống.
Cả Phật giáo và Thiên Chúa Giáo đều cho rằng con
người sau khi chết sẽ được lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục tùy vào sự
tu dưỡng của họ khi còn sống. Người Việt Nam ta, bên cạnh việc chịu ảnh
hưởng của các tôn giáo về thế giới bên kia, bản thân chúng ta cũng đã
có 1 tín ngưỡng thể hiện niềm tin rằng “chết chưa phải là hết”. Niềm tin
đó được ghi nhận bởi tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Người Việt
luôn tin rằng, ông bà, cha mẹ tuy mất đi nhưng vẫn dõi theo con cháu và
phù hộ cho con cháu.
Hình minh họa. |
Trên
thế giới có biết bao câu chuyện có những người chết rồi bất thần sống
lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết
ấy.
Trường hợp của bác sĩ George Ritchie dưới đây là một
trong những trường hợp lạ lùng nhất trên thế giới bởi những gì mà ông kể
lại sau khi thoát khỏi “lưỡi hái của tử thần”.
Vào năm
1943, lúc này ông mới 20 tuổi, đang là một binh lính quân sự ở bang
Texas. Trước khi tới thành phố Virginia để học Y khoa, Ritchie đã bị
viêm phổi nặng, không lâu sau đó thì ông tắt thở.
Bệnh
viện đã tiến hành khám nghiệm và chuẩn bị đưa ông vào nhà xác. Thật bất
ngờ, sau đó 9 phút, ông đã tỉnh lại cùng với lời kể gây chấn động dư
luận thời bấy giờ.
Ông kể mình đã ra ngoài đường trong
tình trạng nhẹ bẫng. Khi ngang qua quán cà phê, George hỏi đường một
người đàn ông nhưng ông ta hoàn toàn chẳng hề để ý tới những lời nói của
George.
Thấy ngạc nhiên, George chạm thử vào một chiếc
dây điện thoại công cộng thì kỳ lạ thay, bàn tay ông có thể xuyên thấu
chúng. Biết mình đã rời khỏi thể xác, George vô cùng hoảng hốt quay trở
lại bệnh viện và ở đó có một sinh vật ánh sáng bí ẩn giúp linh hồn của
ông nhập vào thân xác.
Sau khi tỉnh dậy trong chính thân
thể mình, ông mới biết mình được bệnh viện xác nhận đã chết và đang làm
giấy báo tử. Không ai có thể tin, ông lại “cải tử hoàn sinh” như thế.
Cho
đến nay, nhiều sự mô tả về cõi chết đã được nhiều người chết đi sống
lại tường thuật và người ta vẫn mơ hồ về "thế giới bên kia". Tại Pháp,
ngay giữa thủ đô Paris đã quy tụ các nhà sinh lý, tâm lý và các nhà khoa
học nghiên cứu nghiêm túc về linh hồn con người có tồn tại thật không
sau khi chết đi.
Những người này đang cố gắng gạt bỏ ra
mọi ý nghĩ có tính cách mê tín dị đoan khi nghĩ về vấn đề của sự chết để
có thể tự nhiên đón nhận và nghiên cứu các trường hợp liên quan về cõi
chết. Qua hàng ngàn hồ sơ lưu trữ tại các viện nghiên cứu đằng sau sự
chết, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, gom góp được một số sự kiện trên
đoạn đường mà sau khi thở hơi cuối cùng, người chết đã đi qua.
Dĩ
nhiên, những người này vì lý do nào đó được sống lại và mô tả tỉ mỉ.
Hiện nay, phân tâm học, thôi miên học góp phần đắc lực thêm cho sự kiểm
tra, nghiên cứu về vấn đề này.
Tại Việt Nam từng xôn xao
câu chuyện kỳ lạ của cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến ở thị trấn Vụ Bản, huyện
Lạc Sơn, Hoà Bình. Cháu tên là Bình, sinh ngày 6/10/2002 - con của anh
Hoan, chị Dự nhưng cháu cứ nằng nặc nhận mình là cháu Quyết Tiến (con
chị Thuận - anh Tân) - đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở
với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều "bằng chứng" chứng tỏ
mình là cháu bé đã chết, cháu Bình đã được nhận về nuôi như một sự sống
lại của linh hồn đã chết trước đó.
ThS Vũ Đức Huynh, một
chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực cuộc sống của con người sau khi chết
cho biết, khi một người chết, phần hồn chuyển sang dạng thức thành vong
hồn. Từ cấu trúc nửa đậm đặc sang cấu trúc mang hạt hoàn toàn lỏng,
loãng, nhẹ. Ở cõi vong, các vong hồn hấp thu năng lượng qua các hạt điện
sinh học tự do có trong bao la và các hạt điện sinh học toát ra từ các
thức dâng cúng.
Nhờ vào nguồn năng lượng đó, vong hấp thụ
và “cứng cáp” dần. Sau một khoảng thời gian, nó mới có thể thực sự hoạt
động được ở cõi mới và những thực thể (vong hồn) có đủ năng lượng có thể
vượt lên cõi cao hơn tức là cõi linh vong hay siêu linh và chính là cõi
Niết bàn của Đạo phật và Thiên Đàng của Thiên Chúa Giáo.
Ngày
nay, khoa học không gian đã bay được lên không gian, đã nhìn được hết
lòng đất, lòng biển. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa một lần nhìn
thấy thiên đường hay đia ngục. Mặc dù vậy, khoa học đã tin và chứng minh
được hiện tượng thần giao cách cảm, tin vào điện trường sinh học cùng
nhiều vấn đề mà trước đây người ta cho là huyền hoặc.
Nguồn: http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/ly-giai-the-nao-ve-the-gioi-khac-sau-khi-chet
Vòng luân hồi: Tìm lời giải chuyện có một hay nhiều... kiếp sống
Ngày đăng: 16/10/2013 00:00:00
Từ hàng nghìn năm nay, con
người vẫn luôn tìm tòi và khám phá để trả lời câu hỏi kinh điển nhất của
nhân loại: "Chuyện gì xảy ra sau khi ta chết đi?" hay "Cuộc sống
sau cái chết sẽ như thế nào?".
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?
Nhiều
người tự hỏi, mỗi con người sinh ra chỉ có duy nhất một cuộc sống hay
đó là một vòng luân hồi: sinh ra - chết đi - tái sinh vào cuộc sống mới.
Giả thuyết mỗi linh hồn có nhiều kiếp sống được tiến sĩ Ian Stevenson
thuộc ĐH Virginia (Mỹ) nghiên cứu một cách khách quan từ năm 1958. Ông
đã tìm hiểu rất nhiều trường hợp và chỉ ra rằng, con người có lẽ không
chỉ có duy nhất một cuộc sống.
Tiến sĩ Ian Stevenson.
Bài
viết dưới đây không nhằm khẳng định hay cố thuyết phục bạn rằng, thật
sự có thêm một hay nhiều kiếp sống sau khi chết mà chỉ dừng lại ở việc
nêu lên những nhân chứng được xác thực về việc đầu thai trên khắp thế
giới. Qua đó, nó giúp bạn có cái nhìn rộng hơn về bí ẩn sự sống của con
người sau cái chết.
Từ những đoạn ký ức của nhân chứng...
Trường hợp đầu tiên là câu chuyện của Gamini Jayasuriya được sinh ra ở Sri Lanka vào năm 1962. Khi còn là một đứa trẻ, Gamini đã kể rằng cậu nhớ kiếp trước của mình.
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.
Nếu
sự việc chỉ dừng lại ở đây thì việc tìm ra kiếp trước của Gamini sẽ
không thể thực hiện được. Thật may là trong một lần tình cờ đi qua khu
vực Nittambuwa (Sri Lanka), Gamini nói rằng em nhận ra mình đã từng sống
ở đó. Mọi người cùng nhau quay lại Nittambuwa để tìm hiểu. Họ xuống xe ở
chỗ Gamini nói và đi về phía cuối con đường. Tuy nhiên, họ đã không
bước vào căn nhà mà Gamini chỉ - nơi mẹ em sống ở đó bởi đó là một gia
đình theo đạo Thiên Chúa.
Nghĩ lại, mọi người trong nhà
đều cảm thấy có sự trùng hợp khi mỗi lần cầu nguyện, Gamini thường quỳ
thẳng lưng (giống như khi cầu nguyện theo đạo Thiên Chúa) chứ không quỳ
ngồi như người khác. Có một lần, em còn đòi mẹ treo cây Thánh giá em tìm
được lên tường.
Tình cờ, họ gặp được người đi đường và
nghe kể về gia đình nơi Gamini nói tới. Gia đình này theo đạo Thiên
Chúa, có một cậu con trai tên Palitha nhưng đã qua đời 2 năm trước khi
Gamini sinh ra (tức là năm 1960). Palitha có một người em tên là Nimal -
người hay cắn cậu. Vài ngày trước khi qua đời, cậu được nghỉ lễ và đã
để chiếc cặp lên ghế thay vì cất trong tủ như thường lệ...
Trường
hợp thứ hai được đề cập đến là một cậu bé 6 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ -
Kemal Atasoy. Vào năm 1997, tiến sĩ Jurgen Keil - nhà tâm lý học người
Úc đã lắng nghe và ghi nhận những miêu tả một cách tự tin về cuộc sống
trước kia của cậu bé Kemal.
Kemal kể rằng ở kiếp trước,
cậu đã từng sống ở Istanbul (cách đó 800km), trong dòng họ Karakas và
cậu là một tín đồ Cơ đốc giáo giàu có người Armenia. Nhà của Kemal sống
cạnh bờ sông và gia đình cậu chỉ sống tại đây trong một thời gian nhất
định trong năm. Cậu thường có thói quen mang theo túi da lớn bên người
khi ra ngoài. Cậu có vợ người Hy Lạp và có con.
Tiến
sĩ Keil đã bỏ công sức đi kiểm chứng lời nói của Kemal. Tuy rất vất vả
nhưng cuối cùng, tiến sĩ cũng tìm gặp được một cụ già chắc chắn có gia
đình người Armenia sống ở ngôi nhà đó nhưng thông tin về mọi người trong
gia đình để tại nhà thờ đã bị thiêu trụi trong một vụ hỏa hoạn.
Tiến
sĩ Keil tiếp tục tìm đến một nhà sử học uy tín trong vùng và được nghe
kể câu chuyện gần như trùng khớp với những lời Kemal đã nói. Nhà sử học
kể rằng, có một gia đình đạo Cơ-đốc giàu có sống trong căn nhà bên hồ.
Ông ta là người Armenia duy nhất trong vùng và có họ Karakas. Vợ ông là
người Hy Lạp và họ có ba người con.
Người đàn ông thường
mang theo một túi da lớn và vì dòng họ Karakas chuyên kinh doanh đồ da ở
một khu vực khác của Istanbul nên ông ta chỉ sống ở nhà vào những tháng
mùa hè. Người đàn ông đó chết khoảng năm 1940-1941.
Câu
hỏi được đặt ra là làm thế nào một cậu bé lại có thể biết những thông
tin về một người đàn ông sống cách đó 800km và không có bất cứ một liên
hệ nhỏ nào tới gia đình cậu?
Và đặc biệt hơn, cậu không
thể nghe kể về một người đã chết cách đó 50 năm mà tiến sĩ Keil phải rất
vất vả mới tìm được một chút thông tin ít ỏi? Liệu Kemal có cách giải
thích nào không hay đơn giản, Kemal khẳng định kiếp trước của mình - cậu
chính là người đàn ông đó.
... đến những vết bớt trên cơ thể...
Nhiều
người cho rằng, những dấu vết trên cơ thể như vết bớt có liên quan tới
cuộc sống của một người trước đó, là dấu vết của sự luân hồi. Nhiều câu
chuyện, trường hợp được kể dưới đây mang màu sắc về sự luân hồi, ở đó
con người sau khi chết sẽ chuyển thành một cơ thể khác ở kiếp sống mới.
Trong sự thay đổi đó có những dấu vết của cơ thể cũ còn lưu lại, tạo
thành vết bớt.
Nhiều người cho rằng, vết bớt là dấu vết của sự luân hồi.
Chanai
Choomalaiwong được sinh ra ở miền Trung Thái Lan vào năm 1967 với hai
vết bớt, một ở sau đầu và một ở phía trên mắt trái. Khi cậu bé được sinh
ra, gia đình Chanai không cho rằng các vết bớt này có ý nghĩa đặc biệt
gì, nhưng khi được ba tuổi, cậu bé bắt đầu kể chuyện về cuộc sống ở kiếp
trước.
Cậu bé nói mình từng là một thầy giáo tên Bua Kai
và bị bắn chết trên đường đến trường. Chanai nhớ được tên bố mẹ, vợ và
hai con trong kiếp trước, cậu liên tục đòi người bà hiện tại của mình
đưa tới nhà bố mẹ trước kia của mình ở Khao Pra.
(Ảnh minh họa)
Cuối
cùng, chiều lòng Chanai, hai bà cháu đi đến một thị trấn gần Khao Pra.
Chanai dẫn bà tới ngôi nhà mà em nói là nơi bố mẹ mình sống. Ngôi nhà
thuộc về một cặp vợ chồng già sống cùng người con trai làm thầy giáo tên
Bua Kai Lawnak nhưng đã mất 5 năm trước khi Chanai được sinh ra.
Chanai
đã nói bố mẹ của Bua Kai chính là bố mẹ mình. Bị ấn tượng bởi vết bớt
và lời kể của Chanai, cặp vợ chồng già đã mời cậu ở lại một thời gian.
Trong khoảng thời gian này, Chanai đã chỉ ra đúng những đồ vật Bua Kai
hay dùng và yêu cầu con gái của Bua Kai gọi mình là bố.
Tiến
sĩ Ian Stevenson không tìm thấy một hồ sơ pháp y nào về các vết thương
của Bua Kai nhưng theo lời kể của những người trong gia đình thì Bua Kai
bị một viên đạn xuyên qua đầu từ phía sau. Do đó, vết thương ở sau đầu
(khi đạn tiếp xúc) nhỏ hơn nhiều so với vết thương trên trán (khi đạn
xuyên ra), điều này trùng khớp với hai vết bớt trên đầu Chanai (một vết
nhỏ sau đầu và một vết to phía trên mắt trái).
Trường
hợp này đã chỉ ra, không thể có sự "trùng hợp ngẫu nhiên" nào khi một
cậu bé có những vết bớt trùng khớp hoàn toàn với vết thương của người
quá cố. Bên cạnh đó, cậu còn nhớ rất rõ về các chi tiết của cuộc đời
thầy giáo Bua Kai - người mà cậu chưa từng quen biết .
Trường hợp khác được nhắc tới tiếp theo là Necip
Unlutaskiran từ Thổ Nhĩ Kỳ. Khi vừa chào đời, người ta thấy cậu bé có
một số vết bớt trên đầu, mặt và trên người. Lúc đầu, bố mẹ cậu định đặt
tên cho cậu là Malik nhưng trong giấc mơ vào thời điểm ba ngày trước khi
cậu được sinh ra, mẹ cậu mơ thấy con mình nói nó tên là Necip.
Sau
đó, bố mẹ cậu đổi tên cậu thành Necati vì 2 tên này tương tự nhau và
trong gia đình đã có đứa bé tên Necip. Tuy nhiên, khi biết nói, cậu liên
tục đòi được gọi là Necip và không chịu đáp lại khi bị gọi bằng tên
khác.
Trên người Necip có rất nhiều vết bớt. (Ảnh minh họa).
Necip
bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước từ khi lên 6. Cậu nói trước đây mình
sống ở Mersin, đã có vợ, con, và đã bị đâm liên tiếp cho tới chết. Chỉ
tới khi cậu được tới thăm ông bà ngoại - lúc 12 tuổi thì những lời kể
của cậu bé mới được kiểm chứng.
Lúc trước, bà ngoại Necip
sống ở Mersin và có người hàng xóm tên Necip Budak. Anh ta bị đâm đến
chết một thời gian ngắn trước khi bé Necip ra đời. Khi ông ngoại đưa
Necip tới Mersin, em đã nhận ra người nhà của Necip Budak và nói rằng,
mình từng dùng dao cứa vào chân vợ mình trong một trận cãi vã.
Dĩ
nhiên, trước đó Necip chưa hề nhìn thấy chân của người quả phụ. Sau đó,
một người trong nhóm nghiên cứu đã kiểm chứng, xác nhận, chị có một vết
sẹo trên đùi và thừa nhận vết sẹo này do chính chồng mình gây ra.
Tiến
sĩ Stevenson đã lấy được một bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của
Necip Budak và ông phát hiện rằng, những vết bớt trên người Necip trùng
khớp với vết thương được miêu tả trong biên bản. Điều này quả là một sự
trùng hợp đến khó tin.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.
Những lời giải thích đầu tiên…
Nói dối và tưởng tượng
Giả
thuyết này không đứng vững được lâu bởi lẽ, xét về khía cạnh động cơ,
những nhân vật này hoàn toàn không có động cơ nào để "sáng tạo" ra một
câu chuyện như vậy.
Bên
cạnh đó, tiến sĩ Keil và cộng sự không có sự giao lưu, trao đổi thân
mật trước đó, có chăng chỉ là những bức thư thông báo họ sẽ tới nhà và
đặt ra rất nhiều câu hỏi. Có không ít người nghi ngại rằng, gia đình các
nhân chứng sẽ dựa vào đó để trở nên nổi tiếng, tuy nhiên, họ không hề
có lợi ích vật chất nào bởi những thông tin này sẽ được đề cập trong tập
hồ sơ dài cùng hàng nghìn trường hợp khác.
Mặt khác, cũng
có thể nhóm nghiên cứu "sáng tác" ra câu chuyện bởi chỉ có họ tiếp xúc
và ghi nhận trực tiếp những thông tin nên họ hoàn toàn có thể nói dối mà
không ai kiểm chứng được. Tuy nhiên, với hơn 2.500 hồ sơ nhân chứng lưu
trữ ở ĐH Virginia được ghi chép cẩn thận thì đây quả là giả thuyết tồi.
Những thông tin được biết đến bằng cách thông thường
Một
giả thuyết khác được đề cập đến đó là nhân chứng vô tình biết được
thông tin về người được cho là tiền kiếp của mình. Và vô tình, những
thông tin đó ăn sâu vào tiềm thức, biến thành một ký ức giả - thuật ngữ
mà các nhà tâm thần thường dùng để chỉ ký ức không phải của bản thân
nhưng bệnh nhân lại tưởng tượng đó là của chính mình.
Dù
vậy, giả thuyết không lý giải được việc một đứa trẻ có thể biết được
những thông tin cá nhân của một người nào đó ở rất xa và không có một
mối liên hệ nào với gia đình đứa bé ấy. Rất có thể, người "tiền kiếp" đã
qua đời rất lâu và cũng không hề nổi tiếng để thông tin cá nhân của họ
có thể lọt ra ngoài.
"Trí nhớ gene"
Người
ta cho rằng, những ký ức có thể được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác nhờ gene. Theo đó, từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã
tồn tại vùng lưu giữ ký ức của những việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông
bà, cụ kỵ...
"Trí
nhớ gene" được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có
một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước
sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với
tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình. Tuy vậy, giả thuyết
này vẫn vấp phải nhiều sự phản đối của các nhà nghiên cứu.
Liệu con người có nhiều kiếp sống?
Những
niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các
tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, những
người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về
đạo đức và sinh tồn như là "Tại sao chúng ta lại ở đây"?...
Quan
niệm về sự đầu thai, luân hồi cho rằng, một người đã ở sẽ trở lại thế
gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa
những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, nhưng sâu xa trong đó là
bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời.
Dù đưa ra
rất nhiều bằng chứng chứng minh về hiện tượng đầu thai, luân hồi...
nhưng Ian Stevenson nói rằng, lời giải thực sự về những trường hợp này
vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn:
- Book: Life before Life/Return to Life (by Dr Jim B.Tucker, foreword by Professor Ian Stevenson)
- Scientific Exploration, Virginia.edu, Bmeihadaga, IIsis
- Book: Life before Life/Return to Life (by Dr Jim B.Tucker, foreword by Professor Ian Stevenson)
- Scientific Exploration, Virginia.edu, Bmeihadaga, IIsis
Nguồn:http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/vong-luan-hoi-tim-loi-giai-chuyen-co-mot-hay-nhieu-kiep-song
HÉ MỞ NHỮNG MINH CHỨNG ĐẦU TIÊN VỀ GIÁC QUAN THỨ 6
Ngày đăng: 19/03/2013 00:00:00
Có người từng thoát chết nhờ linh cảm, dự đoán trước thất bại, còn cún con có thể tìm đường về nhà dù bị phá hủy 3 giác quan...
Nhà thơ người Nga Lermontov (1814 - 1841) cũng từng kể lại câu chuyện khó lý giải khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kavkaz. Hôm đó, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình thì nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết
Con
người nhận thức thế giới bằng 5 giác quan: thính giác, khứu giác, thị
giác, xúc giác và vị giác. Những sự việc khó tưởng tượng, vượt ra ngoài 5
giác quan được gọi là giác quan thứ 6. Giác quan thứ 6 cho phép con
người đón nhận thông tin từ thế giới xung quanh thông qua một kênh đặc
biệt, còn gọi là “siêu nhiên”, vượt trội hơn hẳn sức mạnh của 5 giác
quan cơ bản.
Giác quan thứ 6 đến nay vẫn còn là bí ẩn đối với con người, nhưng có nhiều chuyện lạ về khả năng đặc biệt này được kể lại.
Chức năng cảm giác kỳ lạ của cún, cá và chim
Tác giả Thẩm Chưởng Vinh có ghi lại trong cuốn sách Con người những điều kỳ diệu
những phát hiện đầu tiên về thứ được gọi là giác quan thứ 6 ở động vật.
Ví dụ như năm 1812, tại thành phố Milan của Italia có một con cún đi
tuần cùng chủ bị lạc. Nơi con chó bị lạc cách thành phố Milan 2.800 km.
Một năm sau, con cún bình yên trở về với chủ cũ khiến người ta khó có
thể lý giải.
Năm
1931, một nhà khoa học người Đức đã nuôi mấy con cún, rồi phá hủy ba
giác quan: khứu giác, thính giác và thị giác của chúng. Sau đó, nhà khoa
học này mang những con cún để ở một nơi xa. Thế nhưng cuối cùng, chúng
vẫn tìm đuợc đường về nhà. Nhà khoa học người Đức cho rằng, chúng được
một giác quan chưa biết dẫn dắt, và ông gọi đó là giác quan thứ 6.
Ở
miền Chiết Giang của Trung Quốc có loài cá ngát, hàng năm, chúng thường
bơi ra vùng biển sâu để đẻ trứng. Con cá sống ở đó một thời gian rồi
kết đàn quay về sống vùng biển quê hương, men theo đường tổ tiên chúng
từng đi qua. Ngay cả khi phá hủy hai giác quan là khứu giác và thính
giác, loài cá này vẫn không đi sai đường, và người ta cho rằng, chúng có
giác quan thứ 6.
Khả
năng biết đưa thư của chim bồ câu cũng là một trong những minh chứng
đầu tiên về sự tồn tại của giác quan thứ 6. Theo các nhà sinh vật học,
trên mình bồ câu có loại tế bào trường, đặc tính của loài tế bào này
biết tìm phương hướng theo từ trường tính, do đó làm bồ câu biết đường
bay, phân biệt được phương hướng. Người ta cho rằng, chức năng của tế
bào trường ở chim bồ câu chính là giác quan thứ 6.
Chuyện thật hay sự trùng hợp ngẫu nhiên
Lịch
sử ghi nhận nhiều minh chứng, con người có chức năng cảm giác đặc biệt.
Nhà bác học Nga, Mendeleev (1834 - 1907), người phát minh ra định luật
tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nhìn thấy rõ toàn bộ bảng tuần hoàn
hiện ra trước mắt trong giấc mơ và ông chỉ việc ngồi dậy ghi chép lại.
Tất nhiên, ông cũng phải nghiên cứu về định luật này hàng chục năm trước
khi có giấc mơ đó.
Trong giấc mơ, bảng tuần hoàn hóa học đã hiện rõ ra trước mắt nhà bác học Mendeleev. |
Nhà thơ người Nga Lermontov (1814 - 1841) cũng từng kể lại câu chuyện khó lý giải khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kavkaz. Hôm đó, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình thì nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết
Hay
như Napoleon (1769 - 1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm
là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành và kết quả đúng như điều ông
linh cảm.
Khi đánh vào nước Nga năm 1812, Napoleon đã linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành. |
Không
những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng
có khả năng linh cảm đặc biệt. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill (1874
- 1965) đã một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát
xít Đức, do linh tính mách bảo. Năm 1944, ông Churchill vừa chuẩn bị rời
trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội
vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchill không chịu vào xe mà
vòng chạy ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm
thành một hố bom lớn, ngay chỗ Churchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của
ông, Churchill viết: "Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi
phải rời ngay chỗ đứng".
Linh
tính, chức năng cảm giác kỳ lạ của người, cá, cún, chim... tương đối
phức tạp và đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, từ những câu
chuyện có thực kể trên có thể khẳng định, khả năng cảm giác kỳ lạ là
loại vật chất có nguồn gốc mà không nhận biết được bằng mắt, tai, lưỡi,
cơ thể nhưng con người, động vật có thể tiếp thụ tin tức của loài vật
chất đó do cơ cấu cơ thể, hệ thần kinh nội tạng truyền liên hệ thần kinh
đại não mà nhận biết.
Anh Tuấn
Nguồn: http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/he-mo-nhung-minh-chung-dau-tien-ve-giac-quan-thu
Vòng luân hồi: Tìm lời giải chuyện có một hay nhiều... kiếp sống
Ngày đăng: 16/10/2013 00:00:00
Từ hàng nghìn năm nay, con
người vẫn luôn tìm tòi và khám phá để trả lời câu hỏi kinh điển nhất của
nhân loại: "Chuyện gì xảy ra sau khi ta chết đi?" hay "Cuộc sống
sau cái chết sẽ như thế nào?".
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?
Nhiều
người tự hỏi, mỗi con người sinh ra chỉ có duy nhất một cuộc sống hay
đó là một vòng luân hồi: sinh ra - chết đi - tái sinh vào cuộc sống mới.
Giả thuyết mỗi linh hồn có nhiều kiếp sống được tiến sĩ Ian Stevenson
thuộc ĐH Virginia (Mỹ) nghiên cứu một cách khách quan từ năm 1958. Ông
đã tìm hiểu rất nhiều trường hợp và chỉ ra rằng, con người có lẽ không
chỉ có duy nhất một cuộc sống.
Tiến sĩ Ian Stevenson.
Bài
viết dưới đây không nhằm khẳng định hay cố thuyết phục bạn rằng, thật
sự có thêm một hay nhiều kiếp sống sau khi chết mà chỉ dừng lại ở việc
nêu lên những nhân chứng được xác thực về việc đầu thai trên khắp thế
giới. Qua đó, nó giúp bạn có cái nhìn rộng hơn về bí ẩn sự sống của con
người sau cái chết.
Từ những đoạn ký ức của nhân chứng...
Trường hợp đầu tiên là câu chuyện của Gamini Jayasuriya được sinh ra ở Sri Lanka vào năm 1962. Khi còn là một đứa trẻ, Gamini đã kể rằng cậu nhớ kiếp trước của mình.
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.
Nếu
sự việc chỉ dừng lại ở đây thì việc tìm ra kiếp trước của Gamini sẽ
không thể thực hiện được. Thật may là trong một lần tình cờ đi qua khu
vực Nittambuwa (Sri Lanka), Gamini nói rằng em nhận ra mình đã từng sống
ở đó. Mọi người cùng nhau quay lại Nittambuwa để tìm hiểu. Họ xuống xe ở
chỗ Gamini nói và đi về phía cuối con đường. Tuy nhiên, họ đã không
bước vào căn nhà mà Gamini chỉ - nơi mẹ em sống ở đó bởi đó là một gia
đình theo đạo Thiên Chúa.
Nghĩ lại, mọi người trong nhà
đều cảm thấy có sự trùng hợp khi mỗi lần cầu nguyện, Gamini thường quỳ
thẳng lưng (giống như khi cầu nguyện theo đạo Thiên Chúa) chứ không quỳ
ngồi như người khác. Có một lần, em còn đòi mẹ treo cây Thánh giá em tìm
được lên tường.
Tình cờ, họ gặp được người đi đường và
nghe kể về gia đình nơi Gamini nói tới. Gia đình này theo đạo Thiên
Chúa, có một cậu con trai tên Palitha nhưng đã qua đời 2 năm trước khi
Gamini sinh ra (tức là năm 1960). Palitha có một người em tên là Nimal -
người hay cắn cậu. Vài ngày trước khi qua đời, cậu được nghỉ lễ và đã
để chiếc cặp lên ghế thay vì cất trong tủ như thường lệ...
Trường
hợp thứ hai được đề cập đến là một cậu bé 6 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ -
Kemal Atasoy. Vào năm 1997, tiến sĩ Jurgen Keil - nhà tâm lý học người
Úc đã lắng nghe và ghi nhận những miêu tả một cách tự tin về cuộc sống
trước kia của cậu bé Kemal.
Kemal kể rằng ở kiếp trước,
cậu đã từng sống ở Istanbul (cách đó 800km), trong dòng họ Karakas và
cậu là một tín đồ Cơ đốc giáo giàu có người Armenia. Nhà của Kemal sống
cạnh bờ sông và gia đình cậu chỉ sống tại đây trong một thời gian nhất
định trong năm. Cậu thường có thói quen mang theo túi da lớn bên người
khi ra ngoài. Cậu có vợ người Hy Lạp và có con.
Tiến
sĩ Keil đã bỏ công sức đi kiểm chứng lời nói của Kemal. Tuy rất vất vả
nhưng cuối cùng, tiến sĩ cũng tìm gặp được một cụ già chắc chắn có gia
đình người Armenia sống ở ngôi nhà đó nhưng thông tin về mọi người trong
gia đình để tại nhà thờ đã bị thiêu trụi trong một vụ hỏa hoạn.
Tiến
sĩ Keil tiếp tục tìm đến một nhà sử học uy tín trong vùng và được nghe
kể câu chuyện gần như trùng khớp với những lời Kemal đã nói. Nhà sử học
kể rằng, có một gia đình đạo Cơ-đốc giàu có sống trong căn nhà bên hồ.
Ông ta là người Armenia duy nhất trong vùng và có họ Karakas. Vợ ông là
người Hy Lạp và họ có ba người con.
Người đàn ông thường
mang theo một túi da lớn và vì dòng họ Karakas chuyên kinh doanh đồ da ở
một khu vực khác của Istanbul nên ông ta chỉ sống ở nhà vào những tháng
mùa hè. Người đàn ông đó chết khoảng năm 1940-1941.
Câu
hỏi được đặt ra là làm thế nào một cậu bé lại có thể biết những thông
tin về một người đàn ông sống cách đó 800km và không có bất cứ một liên
hệ nhỏ nào tới gia đình cậu?
Và đặc biệt hơn, cậu không
thể nghe kể về một người đã chết cách đó 50 năm mà tiến sĩ Keil phải rất
vất vả mới tìm được một chút thông tin ít ỏi? Liệu Kemal có cách giải
thích nào không hay đơn giản, Kemal khẳng định kiếp trước của mình - cậu
chính là người đàn ông đó.
... đến những vết bớt trên cơ thể...
Nhiều
người cho rằng, những dấu vết trên cơ thể như vết bớt có liên quan tới
cuộc sống của một người trước đó, là dấu vết của sự luân hồi. Nhiều câu
chuyện, trường hợp được kể dưới đây mang màu sắc về sự luân hồi, ở đó
con người sau khi chết sẽ chuyển thành một cơ thể khác ở kiếp sống mới.
Trong sự thay đổi đó có những dấu vết của cơ thể cũ còn lưu lại, tạo
thành vết bớt.
Nhiều người cho rằng, vết bớt là dấu vết của sự luân hồi.
Chanai
Choomalaiwong được sinh ra ở miền Trung Thái Lan vào năm 1967 với hai
vết bớt, một ở sau đầu và một ở phía trên mắt trái. Khi cậu bé được sinh
ra, gia đình Chanai không cho rằng các vết bớt này có ý nghĩa đặc biệt
gì, nhưng khi được ba tuổi, cậu bé bắt đầu kể chuyện về cuộc sống ở kiếp
trước.
Cậu bé nói mình từng là một thầy giáo tên Bua Kai
và bị bắn chết trên đường đến trường. Chanai nhớ được tên bố mẹ, vợ và
hai con trong kiếp trước, cậu liên tục đòi người bà hiện tại của mình
đưa tới nhà bố mẹ trước kia của mình ở Khao Pra.
(Ảnh minh họa)
Cuối
cùng, chiều lòng Chanai, hai bà cháu đi đến một thị trấn gần Khao Pra.
Chanai dẫn bà tới ngôi nhà mà em nói là nơi bố mẹ mình sống. Ngôi nhà
thuộc về một cặp vợ chồng già sống cùng người con trai làm thầy giáo tên
Bua Kai Lawnak nhưng đã mất 5 năm trước khi Chanai được sinh ra.
Chanai
đã nói bố mẹ của Bua Kai chính là bố mẹ mình. Bị ấn tượng bởi vết bớt
và lời kể của Chanai, cặp vợ chồng già đã mời cậu ở lại một thời gian.
Trong khoảng thời gian này, Chanai đã chỉ ra đúng những đồ vật Bua Kai
hay dùng và yêu cầu con gái của Bua Kai gọi mình là bố.
Tiến
sĩ Ian Stevenson không tìm thấy một hồ sơ pháp y nào về các vết thương
của Bua Kai nhưng theo lời kể của những người trong gia đình thì Bua Kai
bị một viên đạn xuyên qua đầu từ phía sau. Do đó, vết thương ở sau đầu
(khi đạn tiếp xúc) nhỏ hơn nhiều so với vết thương trên trán (khi đạn
xuyên ra), điều này trùng khớp với hai vết bớt trên đầu Chanai (một vết
nhỏ sau đầu và một vết to phía trên mắt trái).
Trường
hợp này đã chỉ ra, không thể có sự "trùng hợp ngẫu nhiên" nào khi một
cậu bé có những vết bớt trùng khớp hoàn toàn với vết thương của người
quá cố. Bên cạnh đó, cậu còn nhớ rất rõ về các chi tiết của cuộc đời
thầy giáo Bua Kai - người mà cậu chưa từng quen biết .
Trường hợp khác được nhắc tới tiếp theo là Necip
Unlutaskiran từ Thổ Nhĩ Kỳ. Khi vừa chào đời, người ta thấy cậu bé có
một số vết bớt trên đầu, mặt và trên người. Lúc đầu, bố mẹ cậu định đặt
tên cho cậu là Malik nhưng trong giấc mơ vào thời điểm ba ngày trước khi
cậu được sinh ra, mẹ cậu mơ thấy con mình nói nó tên là Necip.
Sau
đó, bố mẹ cậu đổi tên cậu thành Necati vì 2 tên này tương tự nhau và
trong gia đình đã có đứa bé tên Necip. Tuy nhiên, khi biết nói, cậu liên
tục đòi được gọi là Necip và không chịu đáp lại khi bị gọi bằng tên
khác.
Trên người Necip có rất nhiều vết bớt. (Ảnh minh họa).
Necip
bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước từ khi lên 6. Cậu nói trước đây mình
sống ở Mersin, đã có vợ, con, và đã bị đâm liên tiếp cho tới chết. Chỉ
tới khi cậu được tới thăm ông bà ngoại - lúc 12 tuổi thì những lời kể
của cậu bé mới được kiểm chứng.
Lúc trước, bà ngoại Necip
sống ở Mersin và có người hàng xóm tên Necip Budak. Anh ta bị đâm đến
chết một thời gian ngắn trước khi bé Necip ra đời. Khi ông ngoại đưa
Necip tới Mersin, em đã nhận ra người nhà của Necip Budak và nói rằng,
mình từng dùng dao cứa vào chân vợ mình trong một trận cãi vã.
Dĩ
nhiên, trước đó Necip chưa hề nhìn thấy chân của người quả phụ. Sau đó,
một người trong nhóm nghiên cứu đã kiểm chứng, xác nhận, chị có một vết
sẹo trên đùi và thừa nhận vết sẹo này do chính chồng mình gây ra.
Tiến
sĩ Stevenson đã lấy được một bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của
Necip Budak và ông phát hiện rằng, những vết bớt trên người Necip trùng
khớp với vết thương được miêu tả trong biên bản. Điều này quả là một sự
trùng hợp đến khó tin.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.
Những lời giải thích đầu tiên…
Nói dối và tưởng tượng
Giả
thuyết này không đứng vững được lâu bởi lẽ, xét về khía cạnh động cơ,
những nhân vật này hoàn toàn không có động cơ nào để "sáng tạo" ra một
câu chuyện như vậy.
Bên
cạnh đó, tiến sĩ Keil và cộng sự không có sự giao lưu, trao đổi thân
mật trước đó, có chăng chỉ là những bức thư thông báo họ sẽ tới nhà và
đặt ra rất nhiều câu hỏi. Có không ít người nghi ngại rằng, gia đình các
nhân chứng sẽ dựa vào đó để trở nên nổi tiếng, tuy nhiên, họ không hề
có lợi ích vật chất nào bởi những thông tin này sẽ được đề cập trong tập
hồ sơ dài cùng hàng nghìn trường hợp khác.
Mặt khác, cũng
có thể nhóm nghiên cứu "sáng tác" ra câu chuyện bởi chỉ có họ tiếp xúc
và ghi nhận trực tiếp những thông tin nên họ hoàn toàn có thể nói dối mà
không ai kiểm chứng được. Tuy nhiên, với hơn 2.500 hồ sơ nhân chứng lưu
trữ ở ĐH Virginia được ghi chép cẩn thận thì đây quả là giả thuyết tồi.
Những thông tin được biết đến bằng cách thông thường
Một
giả thuyết khác được đề cập đến đó là nhân chứng vô tình biết được
thông tin về người được cho là tiền kiếp của mình. Và vô tình, những
thông tin đó ăn sâu vào tiềm thức, biến thành một ký ức giả - thuật ngữ
mà các nhà tâm thần thường dùng để chỉ ký ức không phải của bản thân
nhưng bệnh nhân lại tưởng tượng đó là của chính mình.
Dù
vậy, giả thuyết không lý giải được việc một đứa trẻ có thể biết được
những thông tin cá nhân của một người nào đó ở rất xa và không có một
mối liên hệ nào với gia đình đứa bé ấy. Rất có thể, người "tiền kiếp" đã
qua đời rất lâu và cũng không hề nổi tiếng để thông tin cá nhân của họ
có thể lọt ra ngoài.
"Trí nhớ gene"
Người
ta cho rằng, những ký ức có thể được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác nhờ gene. Theo đó, từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã
tồn tại vùng lưu giữ ký ức của những việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông
bà, cụ kỵ...
"Trí
nhớ gene" được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có
một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước
sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với
tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình. Tuy vậy, giả thuyết
này vẫn vấp phải nhiều sự phản đối của các nhà nghiên cứu.
Liệu con người có nhiều kiếp sống?
Những
niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các
tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, những
người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về
đạo đức và sinh tồn như là "Tại sao chúng ta lại ở đây"?...
Quan
niệm về sự đầu thai, luân hồi cho rằng, một người đã ở sẽ trở lại thế
gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa
những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, nhưng sâu xa trong đó là
bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời.
Dù đưa ra
rất nhiều bằng chứng chứng minh về hiện tượng đầu thai, luân hồi...
nhưng Ian Stevenson nói rằng, lời giải thực sự về những trường hợp này
vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn:
- Book: Life before Life/Return to Life (by Dr Jim B.Tucker, foreword by Professor Ian Stevenson)
- Scientific Exploration, Virginia.edu, Bmeihadaga, IIsis
- Book: Life before Life/Return to Life (by Dr Jim B.Tucker, foreword by Professor Ian Stevenson)
- Scientific Exploration, Virginia.edu, Bmeihadaga, IIsis
Những câu chuyện siêu linh kỳ bí
Ngày đăng: 04/04/2012 00:00:00
1. Những khuôn mặt ở Belmez
Khuôn mặt "Ma Quỷ" xuất hiện dưới nền gạch một cách kỳ bí
Một sự kiện kỳ bí đã tồn tại trong một ngôi nhà bình thường ở
Tây Ban Nha trong suốt hơn 30 năm qua, và cho đến nay nó vẫn chưa được
giải thích. Sự việc bắt đầu vào năm 1971, khi Maria Gomez Pereira phát
hiện một hình thù kỳ lạ giống khuôn mặt người (hình) trên sàn gạch phía
trước lò sưởi. Sau đó, chồng cô đã phá sàn gạch này và lát lại bằng gạch
khác, tuy nhiên, 1 tuần sau đó khuôn mặt lại tiếp tục xuất hiện trên
nền gạch mới.
Gia đình này đã nhờ đến các chuyên gia để
giải thích hiện tượng trên. Sau nhiều tuần đào xới phía dưới nền nhà
này, họ đã tìm thấy một cái huyệt chứa nhiều xương người ngay phía dưới
sàn lò sưởi. Người ta đã lấp cái huyệt này và lót gạch mới cho nền nhà.
Nhưng trong vài tuần sau đó, tình trạng cũ lại tái diễn, và lần này lại
xuất hiện thêm những khuôn mặt mới.
Dù gia đình Pereira
đã tìm mọi cách để phá hủy chúng, những khuôn mặt vẫn kiên trì quay trở
lại. Trong suốt hơn 30 năm sau đó, sàn lò sưởi kỳ lạ của nhà Pereira đã
được nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các phóng viên nghiên cứu ghé thăm. Nhiều người đã cho rằng khuôn mặt là giả tạo, nó đã được người ta vẽ lên. Tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu và
kiểm tra đã chứng minh những khuôn mặt nằm chìm bên trong lớp gạch chứ
không phải được vẽ trên bề mặt. Và đây đã được coi là hiện tượng siêu
linh kỳ bí nhất.
2. Chuyến bay 401
Cơ trưởng và chuyến bay cuối cùng
Cơ trưởng quá cố Loft thường xuất hiện trên các chuyến bay.
Một buổi tối tháng 12 năm
1972, chuyến bay 401 chở 101 hành khách và phi hành đoàn đã rơi xuống
một đầm lầy ở Miami. Toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đã thiệt mạng.
Các mảnh vỡ của máy bay và thi thể các nạn nhân vương vãi trên một diện tích rộng gần 1km.
Sau vụ rơi máy bay này, tin đồn về những bóng ma trên những chiếc máy bay khácbắt đầu lan rộng. Các chuyên gia đã vào cuộc để tìm hiểu thực hư những tin đồn này.
Thành
viên phi hành đoàn trên các máy bay cho biết rằng, 2 bóng ma thường
xuất hiện trên các chuyến bay là cơ trưởng Bob Loft và cơ phó Don Repo
của chuyến bay 401. Phó chủ tịch của một hãng hàng không
Châu Âu cho biết có lần ông đã nói chuyện với một cơ trưởng mà ông nghĩ
rằng đang chịu trách nhiệm trên một chuyến bay, tuy nhiên sau đó ông đã
nhận ra đây chính là cơ trưởng quá cố Loft.
Nguyên nhân nào khiến cơ trưởng Loft và cơ phó của mình thường ghé thăm các chuyến bay này? Có giả thiết cho rằng, sau khi tìm lại được một vài bộ phận vẫn còn hoạt động của 401, họ đã tận dụng chúng trên các máy bay khác, do đó cơ trưởng và cơ phó đã "lần theo dấu vết” của chúng để lên các máy bay này.
Nguyên nhân nào khiến cơ trưởng Loft và cơ phó của mình thường ghé thăm các chuyến bay này? Có giả thiết cho rằng, sau khi tìm lại được một vài bộ phận vẫn còn hoạt động của 401, họ đã tận dụng chúng trên các máy bay khác, do đó cơ trưởng và cơ phó đã "lần theo dấu vết” của chúng để lên các máy bay này.
3. Biệt thự Woodchester
Ngôi biệt thự này bị rất nhiều hồn ma ám.
Woodchester
là một biệt thự được xây dựng từ thời Victoria, nhưng nó chưa bao giờ
được hoàn tất và không ai dám đến ở đây lâu dài. William Leigh – một hội viên hội Tam điểm – đã cho xây dựng
nó, nhưng kể từ khi ông ta chết vào năm 1873, tòa biệt thự đã là tâm
điểm chú ý của các cuộc điều tra vì những hiện tượng kỳ dị xảy ra ở đây.
Trong vòng 200 năm qua, có đã có vô số người nhìn thấy “họ”.
Năm 1902, một cha sở nhiều lần nhìn thấy một bóng ma ở cổng vào biệt thự, và vài năm sau người ta cũng thấy bóng ma của một kỵ sĩ. Nhưng chính bản thân tòa biệt thự mới là tâm điểm của của sự kỳ bí. Từ người đàn ông ở nhà nguyện đến những cái bóng trong hầm rượu. Tòa biệt thự là một nơi rợn tóc gáy nhất ở Anh.
Năm 1902, một cha sở nhiều lần nhìn thấy một bóng ma ở cổng vào biệt thự, và vài năm sau người ta cũng thấy bóng ma của một kỵ sĩ. Nhưng chính bản thân tòa biệt thự mới là tâm điểm của của sự kỳ bí. Từ người đàn ông ở nhà nguyện đến những cái bóng trong hầm rượu. Tòa biệt thự là một nơi rợn tóc gáy nhất ở Anh.
Rất nhiều du khách đã bị các “thế lực vô hình”
tấn cồng bất ngờ, thậm chí họ còn bị bất tỉnh đột ngột khi tham quan
khu biệt thự này. Trong một phòng tắm là bóng ma của một người đàn ông thường hiện hình dưới dạng một cái đầu nổi lềnh bềnh, phòng kế bên là một người phụ nữ già thường tấn công phụ nữ bằng cách chụp lấy tay họ trong bóng tối.
Chưa ai dám chắc tại sao ngôi nhà lại bị nhiều hồn ma ám như vậy, nhưng có 1 giả thiết là nó được xây dựng trên nền móng cũ của 3 tòa nhà, và có lẽ nó bị tất cả các hồn ma của cả 3 tòa nhà đó ám.
4. Biệt thự Winchester
4. Biệt thự Winchester
Khu nhà này cho đến ngày nay vẫn còn là một nơi làm lạnh gáy nhất ở Mỹ.
Sau khi người thừa kế củả Công ty sản xuất vũ khí William Winchester chết, bà quả phụ Sarah đã dần nhận ra bà đang bị nguyền rủa. Theo bà, những vũ khí do gia đình bà sản xuất đã khiến hàng ngàn sinh mạng phải chết, và họ tìm đến đây để trả thù.
Bà
tin rằng cơ hội duy nhất của bà để được tiếp tục sống bình yên là phải
xây dựng một ngôi nhà, và không bao giờ hoàn thành nó để những hồn ma
không có nơi nương náu. Ngôi nhà có nhiều đặc điểm được thiết kế
để bẫy hoặc làm rối trí các hồn ma như những cửa ra vào rất nhỏ, những
cái cửa cụt (chẳng dẫn đến đâu hết), các cửa sổ được thiết kế
để có thể quan sát được các phần khác của ngôi nhà. Toàn bộ khu nhà có 4
tầng, 467 cái cửa, 47 lò sưởi nhưng chỉ có 2 chiếc gương. Sarah tin
rằng các hồn ma rất sợ nhìn vào gương.
Việc xây dựng kéo dài trong suốt 39 năm cho đến lúc Sarah qua đời ở tuổi 83. Các nhà tâm linh học vẫn thường
nghiên cứu khu nhà, và họ cho biết có rất nhiều linh hồn lang thang
quanh đây, bao gồm cả linh hồn của Sarah Winchester. Họ đã được chứng
kiến những hiện tượng dị thường như những dấu chân, những tiếng sập cửa,
những giọng nói kì lạ… Khu nhà này đã được công nhận là di tích lịch sử
quốc gia, và cho đến ngày nay nó vẫn còn là một nơi làm lạnh gáy nhất ở
Mỹ.
Nguồn: http://lyhocdongphuong.org.vn/tam-linh/nhung-cau-chuyen-sieu-linh-ky-bi
CHUYỆN KINH DỊ (2)
Posted on 12.07.2014 by Thiên Việt
9 ĐỊA ĐIỂM RÙNG RỢN
NHẤT SÀI GÒN
Ít ai biết rằng, hầu hết các địa điểm này
đều gắn liền với những câu chuyện thương tâm, oan khuất ngút trời. Vì
thế, ít người dám lui tới và lâu dần bức màn tang tóc với những câu
chuyện bí ẩn càng làm cho những nơi này thêm hoang phế…
Gần đây, các bạn trẻ và nhiều diễn đàn
thường rỉ tai nhau về 9 địa điểm mang tin đồn ma ám vô cùng ghê rợn tại
Sài Gòn. Các phóng viên đã tìm đến 9 địa điểm này và ghi lại những câu
chuyện ít ai biết ngoài những tin đồn ma ám.
1/. Chuyện dùng trinh nữ trấn yểm 4 góc chung cư 727 – Trần Hưng Đạo
Địa điểm đầu tiên và có thể nói là nơi
đáng sợ nhất Sài Gòn đó chính là khách sạn Building President – mà nay
đã trở thành chung cư 727 nằm trên đường Trần Hưng Đạo B, phường 1, quận
5. Sở dĩ vậy, vì theo các cao niên cư trú lâu năm tại Sài Gòn – Chợ Lớn
thì Building President gắn liền với một loại thuật phong thủy cổ quái,
được áp dụng để trấn yểm tòa nhà.
Khách sạn Building President được ông
Nguyễn Tấn Đời – một đại gia giàu có nhất phương Nam lúc bấy giờ, đầu tư
khởi công vào năm 1960.
Theo bản thiết kế, khách sạn gồm 13 tầng,
chia làm 6 tòa và ngăn ra thành 530 phòng. Giai thoại truyền miệng
rằng, khi nhận được bản thiết kế, cộng sự của ông Nguyễn Tấn Đời là một
người Pháp đã tỏ ra rất lo ngại với con số 13 tầng, vốn được cho là xui
rủi theo quan niệm phương Tây. Nhưng ông Đời không mấy quan tâm và vẫn
cho xây đúng 13 tầng theo bản vẽ.
Ngay khi tầng 13 đang đặt những viên gạch
cuối cùng thì hàng loạt tai nạn chết người xảy ra. Khi thì nhân công bị
rớt giàn giáo, lúc lại bị điện giật trụy tim… án mạng liên tiếp khiến
cho tầng 13 mãi mà chẳng thể xây xong.
Đứng
trước nguy cơ Building President không thể hoàn thành kịp tiến độ và
giới chức chế độ cũ lúc bấy giờ cũng đang rục rịch vào cuộc điều tra,
ông Đời liền cho tạm ngưng thi công tầng 13. Sau đó, mời về một thầy
pháp sư, cho công nhân nghỉ phép liên tục 3 ngày để làm phép và trấn yểm
tòa nhà.
Cụ Lưu Phục Chấn, 72 tuổi, ngụ tại đường
Nguyễn Thi, phường 13, quận 5 kể lại: “Dạo xây khách sạn lớn, gia đình
tôi có ông cậu ở gần đó. Cậu hay kể lại rằng, thầy pháp đã cho người đến
bệnh viện mua lại xác của 4 trinh nữ, đem về chôn ở 4 góc của khách sạn
để trấn tại 4 hướng”.
Cũng theo lời cụ Chấn, thì đây không phải
là “tin đồn lẻ tẻ” mà nó lan rộng khắp khu Chợ Lớn, Sài Gòn. Điều này
khiến Building President trở nên nổi như cồn bởi những câu chuyện thêu
dệt về thuật phong thủy cổ quái, hồn ma trinh nữ và cả oan hồn của nhân
công bỏ mạng tại đây.
Qua bao phen lận đận, cuối cùng khách sạn
Building President cũng được khánh thành. Bấy giờ, quân đội Mỹ liền
thuê lại toàn bộ khu nhà bề thế này để dành làm nơi nghỉ ngơi cho lính
của họ. Nhưng không hiểu sao, tầng 13 vẫn không được đưa vào sử dụng.
Tầng
12, Mỹ cải tạo thành quán bar, nhà hàng, nơi vui chơi cho lính. Đến
ngày giải phóng, khu khách sạn đồ sộ được sung vào công quỹ. Hơn 400
phòng khách sạn được cải tạo thành nhà ở và cấp cho cán bộ, công nhân
viên nhà nước. Tầng 12 khó có thể sử dụng được nên bị khóa lại, còn tầng
13 thì bỏ hoang vĩnh viễn.
Nhưng những tin đồn ma ám còn bởi chung
cư 727 quá cũ đến mức có thể sập bất cứ lúc nào. Quả thật, chung cư 727
mang trong mình cái vẻ thâm u, cũ kỹ đến đáng sợ. Có những nơi bỏ hoang
lâu ngày, mùi rác, mùi ẩm mốc, xác động vật chết bốc lên nồng nặc. Chưa
kể đến chuyện ma cỏ, chỉ cần mới bước vào khu chung cư, người ta đã dễ
dàng bị choáng bởi mùi hôi tanh cùng thứ không khí lạnh lẽo do ít ánh
sáng và thiếu hơi người.
2/. Thai phụ bên cửa sổ ngôi nhà số 24 – Lý Thái Tổ
Ngôi nhà số 24 – Lý Thái Tổ bỏ hoang đã
lâu cũng lọt vào danh sách những địa điểm đáng sợ nhất Sài Gòn. Nhưng ít
ai biết, nơi đây gắn liền với một án mạng gia đình hết sức thương tâm.
Chỉ
vì người con tâm thần giận cả nhà “bắt uống thuốc” mà 7 mạng người
trong căn nhà số 24, mặt tiền đường Lý Thái Tổ đã ra đi tức tưởi trong
cơn hỏa hoạn kinh hoàng. Hơn 13 năm về trước, đây là một cửa hàng bán xe
máy khá sung túc.
Nhưng rạng sáng cận ngày lễ Giáng sinh
năm ấy, ngọn lửa bùng cháy, thiêu chết 7 mạng người trong đó có một phụ
nữ mang thai và đứa trẻ mới tròn 3 tuổi. Cả gia đình bị thiêu sống, chỉ
có người em trai bị mắc bệnh tâm thần của gia chủ và người mẹ già thoát
khỏi ngọn lửa kinh hoàng.
Nhưng càng đau đớn hơn, khi thủ phạm của
vụ hỏa hoạn lại chính là người em trai tâm thần kia. Khi được hỏi, tại
sao lại phóng hỏa đốt nhà, anh ta hướng đôi mắt lơ ngơ về phía người hỏi
và trả lời : “Tại không cho đi theo chơi, tại bắt uống thuốc hoài à”.
Và kể từ đó, ngôi nhà luôn cửa đóng then
cài, còn hai mẹ con người đàn ông tâm thần kia thì đi đâu biệt tích.
Chính vì thế, những lời đồn đại kỳ dị về ngôi nhà số 24, đường Lý Thái
Tổ cứ thế lan ra.
Ông Trần Quốc Hưng, ngụ phường 2, quận 3,
gần ngôi nhà này tỏ vẻ e dè kể lại: “Chuyện xảy ra quá lâu rồi, mà ánh
mắt của cô con gái trong nhà này vẫn làm tôi ám ảnh. Lúc xảy ra hỏa
hoạn, chúng tôi nhìn thấy cô gái mặc váy ngủ, bụng mang dạ chửa, tay
bồng đứa con trai 3 tuổi đứng ngay cửa sổ. Chúng tôi la hét bảo cô nhảy
xuống, hay
ném đứa con xuống, vì ngôi nhà này chỉ có 2 tầng thôi, té xuống thì
trường hợp xấu nhất là sẽ sảy thai, chứ không đến nỗi chết.
Nhưng cô gái lại chạy vào trong ngọn lửa,
vẻ mặt hoảng loạn vô cùng. Sau đó cô lại ôm con trở ra cửa sổ, ánh mắt
bình thản nhìn xuống phía dưới, mặc cho mọi người la hét, cô vẫn đứng
yên nhìn.
Lúc này một số người cho rằng, cô gái và
cả đứa con đã chết rồi, bên cửa sổ chỉ là linh hồn của cô thôi. Náo loạn
một lúc nữa thì không thấy cả 3 mẹ con đâu hết”.
Theo ông Hưng, chính hành động lạ lùng đó
của cô gái nạn nhân vụ hỏa hoạn mà ngôi nhà bị đồn thổi là có ma. Người
dân sống gần ngôi nhà số 24 cho biết, họ thường xuyên nghe thấy tiếng
động lạ phát ra từ phía bên trong ngôi nhà.
Một số người còn khẳng định, vẫn thường
thấy một thai phụ lảng vảng trên bao lơn của ngôi nhà còn ám đen những
vệt khói của trận hỏa hoạn hơn mười mấy năm về trước.
3/. Hố chôn tập thể tại công viên Lê Thị Riêng
Với hàng cây xanh mướt mắt, hồ câu cá,
khu trò chơi thiếu nhi… công viên Lê Thị Riêng vốn là trung tâm vui
chơi, giải trí quen thuộc của người dân Sài Gòn ngày nay. Nhưng ít ai
biết, công viên này xưa kia chính là nghĩa trang Đô Thành, sau đổi tên
thành nghĩa trang Chí Hòa.
Nghĩa
trang Đô Thành rộng 25 ha, cổng chính hướng ra đường Lê Văn Duyệt (nay
là đường Cách mạng tháng 8) thuộc khu Chí Hòa – Hòa Hưng của Sài Gòn –
Gia Định.
Theo các cao niên cư trú tại đây nhiều
năm thì xưa kia, nghĩa trang Đô Thành vốn là vùng đất linh thiêng. Đặc
biệt là trong thời kỳ chiến tranh, hàng loạt nấm mồ không tên mọc lên
tại đây, mà đa phần là của lính chết trận không người thân nhận xác.
Ông Phan Thành Tài, 62 tuổi, ngụ Cư xá
Bắc Hải gần công viên Lê Thị Riêng kể lại: “Nghĩa địa mà bị đồn là có ma
là chuyện thường, không có ma mới là chuyện lạ. Huống hồ chi trước giải
phóng, nghĩa trang Đô Thành còn có cái hố chôn tập thể vô cùng lớn”.
Theo ông Thành Tài, thì sau trận chiến
Tết Mậu Thân lịch sử, xác lính chết trận la liệt mà hầu như không có ai
đến nhận về. Chính quyền chế độ cũ không biết xử lý làm sao với hàng
ngàn xác người đang đến hồi hoại tử, liền cho đào một hố to trong nghĩa
địa Đô Thành đổ xác người xuống rồi chôn tập thể.
Dù hố đào rất sâu, nhưng do vận chuyển
một số lượng xác khá lớn, nên mùi hôi thối vẫn bốc lên cả mấy ngày liền.
Người dân xứ Bắc Hải thuở ấy phải khóa kín cửa nhà, hoặc lánh đi đâu đó
chờ mùi tử khí tan bớt đi mới dám trở về.
Chính vì thế, nên dân vùng này vẫn hay
truyền miệng những câu chuyện huyền bí về những âm hồn lính chết trận,
bị chôn tập thể nên chẳng siêu sinh, thường xuyên hiện về lởn vởn khóc
than.
Các cao niên còn kể lại, nổi tiếng nhất
vẫn là chuyện ban đêm, oan hồn hiện hình thành những người bưng thúng
bánh chưng, bánh giò đứng trên đường Lê Văn Duyệt. Người âm cứ đứng đó
chờ có người mua rồi “dẫn” họ vào trong mộ ngủ qua đêm.
4/. “Xoáy nước nuốt người” tại hồ Đá làng đại học Thủ Đức
Từ lâu, người dân xung quanh khu vực hồ
Đá thường đồn đại rằng, vong linh người chết đuối đã quyến rũ người
dương gian lao xuống lòng hồ rồi bỏ mạng dưới đáy sâu.
Càng
đông dân cư, tin đồn hồn ma quyến rũ người trần xuống hồ “thế mạng” cho
mình lại càng rầm rộ. Có người còn mạnh miệng kể rằng, đã từng mục sở
thị “xoáy nước bí ẩn” thỉnh thoảng lại cuồn cuộn giữa lòng hồ.
Sở dĩ, lời đồn trên hình thành là bởi người ta khó có thể giải thích tại sao có quá nhiều cái chết tại khu vực Hồ Đá.
Trên thực tế, một vài cụ lão niên tại
Bình Dương, Thủ Đức hoàn toàn có thể giải thích được vì sao Hồ Đá lại
gây ra quá nhiều cái chết thương tâm đến như vậy.
Ông Trần Quý, 52 tuổi, là thợ lặn có thâm
niên, ông Quý đã từng có lần tham gia lặn mò xác người tại Hồ Đá. Ông
lắc đầu nói : “Nước trong hồ lạnh vô cùng do bao quanh là tường đá cheo
leo, lởm chởm, rớt xuống hồ mà may mắn không bị đập đầu vào đá thì cũng
khó lòng mà sống sót nổi”.
Theo ông Quý, sở dĩ vậy là do nước quá
lạnh, nên khi rơi xuống hồ, người ta khó có thể thích ứng ngay với nhiệt
độ thay đổi đột ngột và dễ dàng bị chuột rút. Ông nói thêm : “Nước ở
đây là nước đứng, nghĩa là không có dòng chảy, nên người bị chuột rút
không thể nương theo dòng mà bơi vào bờ. Mà
ở vùng nước đứng, càng vùng vẫy lại càng dễ bị chìm. Bởi vậy, người ta
đoán Hồ Đá có xoáy nước ngầm, xoáy nước bí ẩn nọ kia cũng có lý do”.
Bên cạnh đó, dưới đáy hồ không phải là
bùn đất thông thường mà là đá nhọn lởm chởm. Còn có vô số hố lớn nhỏ với
độ nông sâu khác nhau. Ông Quý tặc lưỡi nói: “Tôi làm thợ lặn biết bao
nhiêu lâu mà chưa bao giờ thấy cái hồ nước ngọt nào nguy hiểm như cái
này. Nhìn nó yên ả vậy, ai cũng tưởng an toàn mà bơi sâu sâu vô một chút
là nước đột ngột thay đổi nhiệt độ, lạnh như nước đá. Đã vậy, trong bán
kính chừng 3m mà có nơi nước chỉ đến đầu gối, ngang hông, còn có chỗ hố
sâu đến hơn 20m. Bởi vậy, mấy đứa sinh viên cứ tưởng gần bờ là cạn,
nhảy xuống tắm, sập hố một cái hụt chân là chỉ có nước chết”.
Ước
tính, chỗ sâu nhất của hồ có thể hơn 50m. Hơn nữa, theo quan sát của
chúng tôi thì quanh bờ hồ có rất nhiều dốc đá lởm chởm, cheo leo, mũi đá
nhọn hoắc… Chỉ cần bất cẩn, rất dễ vấp phải đá và rơi xuống lòng hồ.
Hiện, chính quyền đã dựng rào chắn, biển
báo nguy hiểm xung quanh hồ, nhưng không hiểu sao vẫn có rất nhiều người
lao xuống Hồ Đá để tắm, bơi thi… hay leo lên những vách đá cheo leo để
ngắm cảnh, chơi đùa. Điều này, khiến sinh viên lẫn người dân tỏ ra coi
thường nơi nguy hiểm tiềm tàng này và những án mạng thương tâm năm nào
cũng diễn ra tại đây…
5/. “Vật thể không xác định” ghẹo người trong căn nhà 1/5D Quang Trung
Căn nhà 1/5D Quang Trung, quận 12 là một
trong những nơi “rùng rợn” khiến cho những người hiếu kỳ không thể bỏ
qua. Sở dĩ vậy là vì nơi đây mang tin đồn về “thứ gì đó không xác định”
thường xuyên trêu ghẹo chủ nhà trong giấc ngủ.
Căn
nhà này nổi tiếng bởi không ai có thể “trụ” nổi ở đây quá 2 tuần. Người
dân xung quanh kể lại rằng, hầu hết người dọn đến đây đều bị “bóng đè”
trong khi ngủ đến không thở được. Đó là chưa kể người dân còn đồn đại,
mỗi khi nửa đêm, chủ nhà lại nghe tiếng khua xoong nồi, chén bát. Tìm
xuống bếp để “đuổi” đi chỉ có cảm giác rợn người và như có “thứ gì đó
không xác định” cứ lởn vởn quanh mình.
Những tin đồn “nổi da gà” cộng với sự
chuyển đến, chuyển đi trong một thời gian quá ngắn của những người thuê
trọ, nhà 1/5D trở thành một trong những địa điểm rùng rợn nhất Sài Gòn.
Nhưng sự việc khiến ngôi nhà này nổi
tiếng đó là vụ công nhân ngất xỉu tập thể trong khi ngủ. Sau một thời
gian bỏ hoang do quá nhiều người đến rồi đi, một công ty may mặc gần khu
Chợ Cầu đã thuê căn nhà cho công nhân ở. Nhưng mới ngày đầu tiên, hàng
chục công nhân đang ngủ nửa khuya bỗng nhiên bị ngẹt thở, cứng miệng như
ai bóp cổ. Sau đó, họ được người dân xung quanh tức tốc đưa đi bệnh
viện.
Vụ việc đã khiến những tin đồn rùng rợn
về ngôi nhà số 1/5D lại có cơ hội bùng phát. Người dân rầm rộ đồn rằng,
những người công nhân kia đã bị hồn ma bóp cổ, rằng, đó
là nơi trú ngụ của những linh hồn chết đường, chết chợ, không được siêu
sinh nên họ thường về quấy phá những ai dám đến ở căn nhà này.
Trước vấn đề quá nhạy cảm, cơ quan chức
năng quận 12 đã vào cuộc tìm hiểu nguyên nhân vì sao người đến ở căn nhà
này đều bị ngất, bị nghẹt thở khi ngủ. Kết quả thu được cho biết, sở dĩ
vậy là bởi kiến trúc của căn nhà này khá bí, thiếu ôxy, cùng với những
lời đồn đại hoang đường, khiến người ở luôn căng thẳng, hồi hộp nên
thường xảy ra vụ việc như trên.
Tuy lời giải thích đó của cơ quan chức
năng đã tạm dẹp yên dư luận tại xóm Chợ Cầu, nhưng ngôi nhà số 1/5D
đường Quang Trung vẫn không ai thuê mướn và bị bỏ hoang từ đó cho đến
giờ.
6/. Cánh đồng hoang quận 8
Cánh đồng hoang Quận 8 với ông lái đò chỉ
chở khách từ 23h đêm đến 3h sáng thật ra chỉ là sản phẩm của mê tín dị
đoan, mua thần bán thánh.
Chuyện bắt đầu từ khi ngôi miếu thờ hài
cốt ở cánh đồng hoang quận 8, đoạn gần cầu Chà Và rước thêm “Cô và Cậu”
về thờ. “Cô”, “Cậu” mà người dân vẫn kiêng dè đó là hũ cốt của hai chị
em, người chị tên Lan, em trai tên Hành. Vào khoảng năm 2004, vì gia
đình không hạnh phúc, chồng đánh đập liên miên, nên chị Lan tìm đến một
gốc cây già trong cánh đồng hoang treo cổ tự vẫn.
Sau
đó không lâu, người em trai tên Hành cũng đến gốc cây nơi người chị
quyên sinh để uống thuốc sâu tự tử. Hai cái chết đầy uất ức cùng một nơi
của 2 chị em đã khiến người dân tôn họ lên hàng “cô cậu”.
Và trên thực tế, lão lái đò kỳ dị hằng
đêm đưa khách sang sông cũng không có gì là kỳ dị. Bởi người dân muốn
đến được ngôi miếu ở cánh đồng hoang phải qua đò, và hầu hết người dân
tìm tới đây là để “cầu cơ”, “gọi hồn”, “xin số” nên phải đi vào 23h – 3h
khuya mới … linh.
Chính quyền địa phương tại phường 7, quận
8, đã nhiều lần kiên quyết dẹp bỏ tệ nạn mê tín dị đoan tại ngôi miếu
này. Nhưng khó khăn ở chỗ miếu thờ người đã khuất vốn thuộc về văn hóa
“nghĩa tử là nghĩa tận” của người dân, không thể đập phá hay dẹp bỏ, mà
còn miếu thì còn “ma đề” về cầu cơ, xin số … Cứ thế tệ mê tín ở cánh
đồng hoang quận 8 cứ tái diễn và khiến nơi này “lọt top” những nơi bí ẩn
nhất Sài Gòn.
7/. Nhà Vĩnh Biệt bệnh viện Chợ Rẫy
Ít ai biết, Bệnh viện Chợ Rẫy có một căn
nhà dùng để chứa xác bệnh nhân mất đi mà không có người thân nhận về,
nơi ấy gọi là “nhà Vĩnh Biệt”. Nhà Vĩnh Biệt nằm trên đường Thuận Kiều,
quận 5.
Trái với sự đông đúc, ồn ào của các tòa
nhà thuộc Bệnh viện Chợ Rẫy, nhà Vĩnh Biệt lọt thỏm trong sự hoang vắng
và trầm mặc hiếm hoi tồn tại ở chốn này. Bệnh nhân mất mà không có người
thân sẽ được đưa về đây rồi bảo quản trong vòng 30 ngày. Hết
thời hạn mà thi hài vẫn vô thừa nhận thì bệnh viện sẽ mang đi hỏa táng.
Tất cả các chi phí chi cho nhà Vĩnh Biệt do Quỹ từ thiện của bệnh viện
trích ra.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà Vĩnh Biệt
lại trở thành một trong những địa điểm “đáng sợ” nhất Sài Gòn. Ai cũng
biết, Bệnh viện Chợ Rẫy nằm trong số các công trình tồn tại lâu nhất ở
Sài Gòn, lượng bệnh nhân mắc các căn bệnh khó trị tập trung rất nhiều ở
đây. Nên chuyện “tử biệt” là thường tình ở Bệnh viện Chợ Rẫy.
Không những thế, người dân xung quanh vẫn
thường hay kể về các “hồn ma bệnh viện”, và hầu hết đều luẩn quẩn bên
cạnh nhà Vĩnh Biệt. Sở dĩ vậy là bởi, các xác chết được giữ trong nhà
Vĩnh Biệt đều không có người thân vuốt mặt lúc lìa đời. Tất cả họ dẫu
mất đi vẫn đau đáu một nỗi không còn ai bên cạnh, không còn ai đưa họ về
với đất.
Chú Sáu – nhân viên giữ xe tại Bệnh viện Chợ Rẫy nói ngắn gọn về nhà Vĩnh Biệt : “Những linh hồn đau khổ, khó được siêu sinh”.
Có thể do “thần hồn nát thần tính”, hoặc
chứng sợ xác chết mà khi mới bước vào nhà Vĩnh Biệt, chưa thăm hỏi điều
chi chúng tôi đã có cảm giác rợn người. Dãy đèn trắng lạnh lẽo kéo dài
từ cửa đến cuối hành lang như xa hút.
Sự lặng lẽ, nét u hoài của những người
đến thăm nhà xác như càng tô đậm thêm không khí đau thương bao trùm cả
nơi đây. Mùi hóa chất ướp xác và hơi dễ khiến những người yếu sức choáng
váng.
Nhưng dẫu thuộc danh sách những nơi đáng
sợ nhất Sài Gòn, thì nhà Vĩnh Biệt vẫn như một minh chứng cho chữ tình
giữa người với người, minh chứng cho câu “nghĩa tử là nghĩa tận” truyền
đời của người Việt.
8/. Người con gái duy nhất trong biệt thự nhà họ Hứa
Tuy giờ đây, đã trở thành Viện bảo tàng
mỹ thuật Thành phố nhưng tòa nhà của ông chủ họ Hứa vẫn mang nhiều bí ẩn
về hồn ma của cô con gái duy nhất trong gia đình này.
Tọa
lạc tại số 97, Phó Đức Chính, quận 1, dinh thự có 99 cửa này là một
trong những công trình có kiến trúc đẹp nhất Sài Gòn xưa và cả ngày nay.
Đây là ngôi nhà của đại gia Hứa Bổn Hỏa, từ trước 1975 đã có rất nhiều
lời đồn đại cho rằng ngôi nhà này có ma.
Rất nhiều người kể rằng nghe thấy tiếng
khóc thảm thương văng vẳng từ căn phòng khóa kín cửa trong tòa nhà,
chuyện về bóng cô gái mặc đầm ngủ trắng lướt nhanh qua các dãy hành
lang, chuyện khuôn mặt người thảng thốt bỗng đâu xuất hiện… khiến người
ta trở nên khiếp sợ tòa nhà này.
Nguyên nhân của những tin đồn rùng rợn
này xuất phát từ việc đứa con gái duy nhất của ông Hứa Bổn Hỏa bỗng
nhiên biến mất. Có hàng chục người con trai nhưng chỉ được 1 mụn con gái
nên đại gia Bổn Hỏa hết mực yêu chiều.
Rồi một ngày không ai nhìn thấy cô con
gái xinh đẹp xuất hiện nữa, từ đó những đêm khuya thanh vắng, từ trong
toà nhà vẳng ra tiếng kêu khóc thảm thiết.
Rồi đến một buổi sáng, người dân Sài Gòn
bất ngờ thấy chú Hỏa đăng cáo phó thông báo con gái duy nhất của ông đã
chết. Thông tin còn cho biết, do chết bất ngờ vào ngày trùng tang nên
chỉ làm lễ sơ sài và an táng tại khu đất ở Long Hải thuộc khu nghỉ dưỡng
của gia tộc.
Người
ta không tin Hứa Tiểu Lan – con gái Hứa Bổn Hỏa chết, vì có vài tên
trộm đã cả gan đào mộ cô với hy vọng trộm được chút của cải chôn theo.
Nhưng bất ngờ thay, quan tài trống rỗng và đây chỉ là “mộ gió”. Sự biến
mất của Tiểu Lan, cùng tiếng khóc văng vẳng trong tòa nhà rơi vào vòng
bí ẩn.
Cho đến khi một quyển sách có nhan đề
“Ngôi mộ cổ nhà họ Hứa” do tác giả Phạm Phong Dinh viết ra mắt tại hải
ngoại người ta mới tạm giải thích được vì sao cửa phòng Hứa Tiểu Lan tuy
đầy đủ tiện nghi nhưng lại luôn luôn đóng kín, tại sao quan tài không
có thi hài, và tiếng khóc, và bóng cô gái mặc váy ngủ trắng rũ rượi lướt
qua các hành lang.
Lý do Phạm Phong Dinh đưa ra là Hứa Tiểu Lan bị mắc bệnh phong, vốn là một bệnh vô phương cứu chữa thời xưa.
Vừa thương con, lại vừa sợ căn bệnh quái ác lây lan, nên ông đành phải nhốt con mình trong căn phòng kín.
Từ một cô gái xinh đẹp, nay dung nhan tàn
tạ vì phong cùi, Hứa Tiểu Lan trở nên điên loạn, hay gào thét thảm
thiết trong đêm. Đó cũng giải thích lý do tại sao ngôi mộ kia lại không
có xác người. Tuy nhiên, thực hư thế nào vẫn chưa rõ.
9/. Thuận Kiều plaza vì sao hoang phế ?
Cách đây 15 năm trước, Thuận Kiều plaza,
với 3 tòa nhà cao chọc trời ở vị trí đắc địa nhất đã trở thành biểu
tượng cho sự thịnh vượng của Sài Gòn. Cứ
ngỡ nơi đây sẽ là một trong những nơi giao thương, sinh sống sầm uất,
tất bật nhất thành phố, nhưng cuối cùng Thuận Kiều plaza lại rơi vào
hoang phế, vắng vẻ lạ thường.
Đến “thám hiểm” Thuận Kiều plaza, chúng
tôi hết sức ngạc nhiên khi Tòa tháp A kín cổng cao tường và dường như
không có dấu vết của con người. Tòa tháp B là một khu phức hợp mua sắm
nhưng cũng khá vắng vẻ, hàng loạt ky ốt bỏ hoang, đèn tắt tối tăm, bụi
phủ.
Một vài khu nhà dưới trệt vẫn rực rỡ ánh đèn, nhưng vẻ thâm u, vắng lặng của tòa nhà chọc trời vẫn khiến người ta e ngại.
Nằm trên đường Hồng Bàng, ngay khu trung
tâm mua sắm của quận 5 và của cả thành phố, vậy tại sao Thuận Kiều plaza
lại dần hoang phế ? Câu hỏi này khiến người ta thêu dệt khá nhiều tin
đồn về tòa nhà chọc trời này. Do trong lúc xây dựng, có 3 nhân công mất
mạng tại công trình này nên người ta đồn rằng, linh hồn của 3 người đã
ám lấy tòa nhà, không thể phát triển thịnh vượng.
Có người còn cho rằng, 3 tòa tháp chọc trời rất giống hình… 3 cây nhang bốc khói giữa đất trời thì làm sao mà làm ăn nổi.
Tuy tất cả các tin đồn ma quỷ về Thuận
Kiều plaza chỉ là thêu dệt… cho vui nhưng lý do vì sao tòa nhà đồ sộ này
thất thu trầm trọng vẫn là điều rất khó để giải thích. (theo Bá Nguyễn)
Lan Hương chuyển tiếp
Advertisements
NHỮNG CHUYỆN KHÓ TIN NHƯNG CÓ THẬT
Posted on 19.08.2012 by Thiên Việt
BÓNG MA HOÀNG HẬU
KHÔNG ĐẦU
Ở tuổi 30, hoàng hậu tuyệt sắc của nước
Anh bị chặt đầu vì tội ngoại tình. Người ta cho rằng vì chết oan mà hồn
ma của bà thường xuyên xuất hiện.
Cuộc đời của Anne Boleyn (1507 – 1536 /
thế kỷ XVI) là một thiên tiểu thuyết bởi nhan sắc huyền thoại của bà
cũng như cuộc đời khi ở đỉnh cao của danh vọng và tình yêu, lúc phải
bước lên đoạn đầu đài.
Vì Anne, một hoàng hậu đã bị phế truất
Trước khi cưới Anne Boleyn, vua Henry 8
đã có vợ là hoàng hậu Catherine xứ Aragon. Nhà vua vốn là người tình của
chị gái Anne là Mary Boleyn, nhưng khi gặp cô em có đôi mắt nhung đen
láy và chiếc cổ thanh tú trắng ngần, ngài lập tức chết mê chết mệt. Henry
đã đổ rất nhiều công sức để chinh phục trái tim người đẹp. Nhưng nếu
như bất kỳ cô gái nào cũng thấy mình diễm phúc được làm tình nhân của
đức vua thì Anne thông minh lại dứt khoát không chấp nhận điều đó. Nghĩa
là muốn có Anne, nhà vua phải cưới nàng và phong nàng làm hoàng hậu.
Để cưới được Anne, nhà vua vận động cho
cuộc ly hôn của mình với hoàng hậu Catherine xứ Aragon, lấy lý do bà
không sinh được con trai kế vị, nhưng giáo hoàng kiên quyết từ chối.
Henry bèn cách chức Hồng y nước Anh, bổ nhiệm Hồng y mới và người này đã
hủy hôn thú cho nhà vua. Và khi bị Vatican rút phép thông công, Henry
phản ứng lại bằng cách tuyên bố tách giáo hội Anh ra khỏi giáo hội công
giáo La Mã, và đức vua sẽ là người đứng đầu Anh giáo.
Trở thành hoàng hậu năm 1533 nhờ tình yêu
say đắm của Henry, Anne sống trong sự xa hoa cực điểm với 250 người hầu
riêng và 60 viên chức phục vụ chuyện giao tế. Nàng vung tiền để đặt mua
những món hàng đắt giá từ khắp nơi trên thế giới, từ giường tủ, kiệu
hoa đến xiêm y, trang sức. Hoàng
hậu xinh đẹp không ngờ hạnh phúc của mình cũng ngắn ngủi. Một hoàng hậu
đã vì nàng bị mất ngôi, và đến lượt nàng cũng nhanh chóng từ bỏ phú quý
và mất cả tính mạng.
Hoàng hậu không đầu
Tình yêu của Henry với Anne tuy vô cùng
mãnh liệt nhưng chẳng mấy chốc đã lụi tàn. Có thể vì nàng không sinh
được con trai, chỉ có một công chúa (sau này là nữ hoàng Elizabeth I),
cũng có thể vì Henry là ông vua cả thèm chóng chán, đã phải lòng mỹ nhân
khác. Chỉ biết rằng sau vài năm hương lửa, vị quân vương ấy bắt đầu tìm
cớ để loại bỏ Anne và cưới tình nhân mới, người thứ ba trong số 6 người
vợ của ông.
Các “thám tử” bắt đầu vào cuộc tìm chứng
cứ kết tội hoàng hậu. Hàng loạt người đàn ông bị bắt, bị tra tấn bắt
nhận tội thông dâm với hoàng hậu, bao gồm thầy giáo dạy nhạc của nàng,
hai nhà quý tộc, và đặc biệt là một người em ruột của chính Anne. Với
những “chứng cứ” này, Anne bị bắt giam vào tháp London vì tội ngoại
tình, mà một hoàng hậu ngoại tình cũng được coi là phản quốc. Một
phiên tòa được mở ra, hoàng hậu bị khép tội chết. Án được thi hành vào
ngày 19/5/1936, ba năm sau khi nàng trở thành quốc mẫu.
Người ta kể rằng, hoàng hậu nước Anh đã
bình thản bước lên đoạn đầu đài, thậm chí còn nói với đao phủ : “Anh sẽ
không gặp khó khăn đâu vì ta có cái cổ rất mảnh”. Và nàng nhắc đi nhắc
lại : “Ta sẽ là một hoàng hậu không đầu”. Còn đức vua chồng nàng, người
từng vì nàng mà bạc tình bạc nghĩa với vợ cũ, lại hồi hộp mong ngóng
giây phút đầu Anne rơi xuống để được giải phóng khỏi hôn nhân với nàng,
tự do cưới vợ mới. Thi hài Anne xấu số được táng sơ sài trong một chiếc
hòm đựng cung tên.
Là xứ sở quanh năm sương mù bảng lảng, âm
u, nước Anh nổi tiếng có nhiều hồn ma lẩn quất, trong đó hoàng hậu Anne
là hồn ma được nhắc đến nhiều nhất. Những câu chuyện ly kỳ này bắt đầu
xuất hiện ngay sau cái chết của bà và ngày một nhiều thêm trong suốt mấy
trăm năm sau.
Một trong những địa điểm mà hồn ma hoàng
hậu hay xuất hiện là lâu đài Blickling Hall, nơi bà sống thời thơ ấu.
Theo các câu chuyện dân gian, cứ đến ngày 19/5, ngày Anne bị chặt đầu,
là cố hoàng hậu lại xuất hiện trên một cỗ xe ma bốn ngựa kéo, phóng như
bay trên đường trở về ngôi nhà tuổi thơ của bà. Bóng
ma trắng toát, không đầu, còn người đánh xe chính là hồn ma của Thomas
Boleyn, cha ruột Anne, người đã vì danh vọng mà ép hai con gái lao vào
mối quan hệ tình ái với vua Henry và khi tình thế thay đổi, ông đã tham
dự vào phiên tòa kết tội con gái. Vì món nợ oan cừu đó, ông phải làm
người đánh xe chở Anne về nhà trong ngày giỗ của nàng suốt 1.000 năm.
Nhiều du khách cũng đồn rằng, hồn ma
không đầu của Anne cũng lảng vảng trong lâu đài Blickling Hall, chiếc
đầu nhỏ máu được gói trong vạt váy, đi vật vờ từ phòng này sang phòng
khác, thậm chí đi xuyên tường ngay trước mặt người chứng kiến rồi lập
tức biến mất. Một số người canh gác ở lâu đài cũng kể rằng họ hay nhìn
thấy hoàng hậu đi cùng một đoàn tùy tùng trang nghiêm, và từ hoàng hậu
cho đến những người đi theo, thậm chí cả ngựa, đều không đầu.
Giữa thế kỷ 19, một người lính ở vùng này
phải ra tòa vì tội ngủ trong khi canh gác. Anh bào chữa rằng mình bị
ngất xỉu do quá sợ khi nhìn thấy bóng ma của một phụ nữ không đầu, dường
như là hoàng hậu Anne. Một số nhân chứng đứng gần anh thời điểm đó cũng
khẳng định họ nhìn thấy điều tương tự. Và thế là anh lính được tha
bổng.
Tháp London, tòa lâu đài 1.000 năm tuổi
từng là nơi cầm tù, tra tấn và chém đầu nhiều ông hoàng bà chúa và các
vị quý tộc, cũng được cho là nơi hồn ma Anne hay xuất hiện. Hiện cả tháp
London và lâu đài Blickling Hall đều là những điểm tham quan hấp dẫn du
khách. Ngôi nhà thơ ấu của hoàng hậu Anne còn được bầu là một trong
những ngôi nhà bị ma ám nổi tiếng nhất nước Anh.
Xuân Mai (theo nguồn Xzone)
CÂU CHUYỆN TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
NHÀ BÁO RAY BRYANT
(ANH QUỐC)
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần
tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những
bằng chứng về tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh,
44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì
khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã
tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimeé vô cùng khủng
khiếp. Ðó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp,
Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp
nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã một thời làm xôn xao dư
luận nước Anh.
Lúc bấy giờ chính Bộ Quốc Phòng Anh phải
nhờ đến Ðại Tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Ðại Tá này đã cùng
với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha Văn Khố, Quốc Phòng Bảo
Tàng Viện Chiến Tranh, các thư Viện Quốc Gia, các tài liệu xưa và đã đi
đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của
một trung sĩ tên là Reuben Stafford. Ðiều chính xác là qua giấc ngủ thôi
miên, nhà báo Anh này còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ
Stanfford, đã chết ở Sebastopol thì trong tài liệu tìm được tại Bảo Tàng
Viện Chiến Tranh Anh Quốc cũng có sự kiện này. Ðó là chưa kể những
trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà báo Anh này đã mô
tả vào thời đó : Nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân đội, tên
người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
BÉ GÁI JIMMY Ở CANADA
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi
sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết
là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây :
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà
thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi bà rằng : Tại sao
không có gì mà tự nhiên chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết :
– Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời.
Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói :
Bà Emma ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi :
– Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy.
Bé Jimmy ngồi trên ghế rồi nói như phân trần :
– Ðể con kể cho bà nghe về chuyện một
người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết
và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh
chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây
con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy !
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh
ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong
gia đình bà có người bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xác xuống sông
và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Ðiều cần lưu ý là gia đình giòng dõi của
bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu,
họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái
sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
CON RANH CON LỘN :
HẬU KIẾP TRỞ VỀ THANH TOÁN
Câu chuyện có thật này xảy ra trong gia
đình Traveed ở nước Pháp. Gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con
hai lần nhưng lần nào đứa con mới chào đời được vài giờ cũng đều chết
cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa
đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời, bà Traveed lại chuyển bụng.
Ðây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi
con trai hay con gái, con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh
khỏe sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.
Quả
thật trời không phụ lòng họ, đứa con sinh ra lần này trông vui vẻ, khoẻ
mạnh. Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Ðiều kỳ lạ chỉ có
bà Traveed để ý theo dõi là trên ngực Paul có cái vết giống cái vết mà
đứa con thứ hai của bà lúc chào đời cũng có.
Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu
xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà
nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi thì đứa con kế tiếp cũng có thể là
nó sẽ lại ra đời. Bà Traveed làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ
ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà
nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực
đứa con thứ ba thì bà Traveed vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói :
– Anh ơi, xem này, thằng bé này cũng có
dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất
hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì ? Có phải là dấu trước
đây không ? Hay là… Paul chính là đứa con thứ hai của mình ? Ngoài ra
thằng Paul lại còn có thêm một vết sẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình
đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào
ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paul rõ ràng có một dấu
chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong
lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng
thế rồi suốt trong 12 năm dài đằng đẵng, Paul vẫn khoẻ mạnh, ăn ngủ,
học hành, đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Ðiều kỳ lạ là mặc
dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ, lời nói của Paul lại giống như
người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull
thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó
lại nói được những câu như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
– Mẹ à ! Bên cạnh cửa ngỏ vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy ?
Bà
Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây mà
con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy
bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paull :
– Tại sao con lại biết cây này vì lúc ba con đốn ngã nó thì con chưa ra đời mà ?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói :
– Tại sao ba lại đốn cây ấy đi ?
Bà Traveed giải thích :
– À ! là tại vì cây này dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rất rõ ràng :
– Trong số những kẻ trộm ấy có một đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không ? Ðứa bị đâm chết ấy tên là Jainqueville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paul dồn dập.
– Này con ! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con ! Ai ? Nói cho mẹ biết đi…
Paul nói như phân bua :
– Việc này xảy ra đã lâu rồi má à ! Con
biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc
là ba đã dùng dao đâm Jainqueville chết gục nơi gốc cây ấy. Jainqueville
có một vết sẹo ở đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói :
– Thôi đi ! Con nói nghe ghê quá ! Ai dạy con nói thế ? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé !
Paul vẫn tiếp tục nói có vẻ hằn học :
– Con phải nói; vì đó là sự thật. Con cũng có một vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau
đó, Paul đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã
nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ ràng. Ông có cảm
tưởng như tên cướp Jainqueville đã nhập vào xác thân Paul để nói chuyện
với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường
tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở
đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ đâu không biết
chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên : Paul, gì thế con, có
việc gì xảy ra thế ? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có
viết chữ. Trong thư là lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi
trường học tìm cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng
mình viết chớ không ai xa lạ. Bà sợ quá nói với Paul : Trời ơi ! Sao lại
có chuyện xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy ? Vậy con cứ ở đây với mẹ,
đừng đi đâu cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh
giường mẹ.
Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà
Traveed tự nhiên choàng tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng hốt, bà
xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp
việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng như ông Traveed lên tiếng trả
lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa
mở tung, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra : Ông Traveed và thằng Paul
đều nằm chết dưới sàn nhà, máu ra lênh láng. Nơi ngực ông Traveed, con
dao mà thằng Paul thường mân mê hằng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đây đã được tờ
báo của Pháp tên là Revua des Derx Mondes đăng tải vào năm 1889 và mới
đây được tác giả Thiện Nhật lược thuật lại trong một đặc san Phật Ðản
xuất bản tại Hoa Kỳ.
NGƯỜI THANH NIÊN TÊN MICHAEL WRIGHT
Walter Miller là một thanh niên bảnh trai
có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất
là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào
năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin
bất tỉnh mấy lần. Cô
quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đên liền
cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đứng trước mặt cô nét mặt hớn hở
và nói : “Em à ! Anh sẽ trở lại với em !”.
Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì
nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ mà thôi vì không bao giờ người yêu của cô
lại có thể trở về với cô một lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ
anh đã bị phủ biết bao lần lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ
một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Micheal Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi
nó trở nên khôn lanh lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm
Micheal nói : “Con chính là Walter Miller. Cách đây khoảng ba bốn năm đã
bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vở tan…” Sau đó,
Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính
là mẹ của Micheal) và còn nói rõ tên người em gái của Micheal Miller
nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Micheal Miller đã cùng người bạn dừng
lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lái xe lên đường rồi tai nạn chết
người xảy ra… Câu chuyện này đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật lại
trong Tiền Phong (1991 – Hoa Kỳ).
SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CON GÁI ÚT
Vợ chồng anh chị T. Nh. (chồng người Mỹ,
vợ người Việt) có một người con gái rất dễ thương nhưng không may cháu
lại qua đời (ngày 2 tháng 2 năm 1992). Ðiều kỳ lạ là trước khi mất độ ba
ngày, cô con gái này đã gọi điện thoại nói với mẹ là : “Mẹ đừng lo cho
con, con lớn rồi, con sẽ trở lại sớm.” Rồi cô con gái lại gọi tiếp :
– Ba mẹ à ! Con sẽ là một người mới lạ mà chính ba mẹ sẽ không ngờ tới. Rất đặc biệt !
Hai vợ chồng anh chị T. Nh. không hiểu con gái nói gì lạ quá. Khi cô gái qua đời một tháng thì người cha là anh R. K. nằm mơ thấy cô con gái đứng trước mặt anh ta và nhắc lại một câu thật lạ lung :
Hai vợ chồng anh chị T. Nh. không hiểu con gái nói gì lạ quá. Khi cô gái qua đời một tháng thì người cha là anh R. K. nằm mơ thấy cô con gái đứng trước mặt anh ta và nhắc lại một câu thật lạ lung :
– Từ nay ba đừng ra thăm mộ con nữa vì con sắp đi rồi, con sẽ đầu thai lại vào tháng 11 tới đây.
Ðiều
kỳ dị là đúng vào ngày 11 năm đó người con gái lớn thứ hai của anh chị
T. Nh. bấy lâu có vẻ đăm chiêu tư lự bỗng nhiên trong bữa ăn tối đã nói
với gia đình như sau :
– Ba mẹ ơi! Con đã có thai.
Ðối với bậc cha mẹ khi nghe con gái mình
chưa tổ chức cưới hỏi mà thốt ra câu đó thì đều hốt hoảng, lo buồn nhưng
đối với hai vợ chồng anh chị T. Nh. lại như bàng hoàng rung động theo
một nỗi vui mừng khó tả. Người chồng (anh R. K.) đã nói với chị T. Nh :
– Anh biết cháu ngoại mình không ai khác hơn là con gái mình đã đầu thai lại.
Thế rồi hai vợ chồng anh chị T. Nh. lo chuẩn bị đám cưới gấp cho con gái. Hôn lễ cử hành ngày 27 tháng 12 năm 1992.
Khi cháu bé ra đời, càng ngày gương mặt
cháu càng giống cô con gái của anh chị T. Nh. như đúc. Hàng ngày hai vợ
chồng chị T. Nh. đi làm về là không còn muốn ngủ nữa, cứ lo bế ẵm bé vì
đây không những là cháu ngoại họ mà còn là con gái muôn vàn mến yêu của
họ nữa…
Khách giang hồ (lược thuật theo Đặng Văn Thông)
CẢNH GIÁC VỚI “THÔI MIÊN”
Posted on 23.12.2010 by Thiên Việt
THÔI MIÊN LÀ GÌ ?
Không chỉ đột nhập vào nhà để trộm cắp,
hiện giờ gần giáp Tết âm lịch, các băng nhóm sẽ lộng hành tiếp cận người
đi đường để bắt chuyện khiến nạn nhân không còn tỉnh táo và ra tay đoạt
tài sản. Đó là dùng “thuật thôi miên” để cướp đoạt hiện vật – hiện kim
trên người các nạn nhân.
Như vào tối 10/12/2010, chị Võ Thị H…
(ngụ quận Bình Thạnh) đang chạy xe máy đến gần ngã tư Hàng Xanh, bỗng có
một phụ nữ xin đi nhờ một đoạn. Ngồi sau xe, chị ta nói đủ thứ chuyện.
Khi phụ nữ này xuống xe, một lát sau, chị H… mới tỉnh táo và phát hiện
mình đã bị mất chiếc điện thoại di động trong túi quần.
Như ảo thuật
Trước đó, tối 7/12, anh Nguyễn Văn S…
(ngụ quận Tân Bình) đi bộ trên đường Trường Sơn, khi đến gần công viên
Hoàng Văn Thụ thì có hai phụ nữ tới hỏi đường. Họ hỏi đi hỏi lại rồi một
người đập nhẹ vào vai anh S… Khi hai phụ nữ bỏ đi một đoạn, anh này mới
tỉnh lại và phát hiện mình đã bị mất bóp tiền, trong đó có hơn 4 triệu
đồng. Anh S.. cho biết sau khi bị đập tay lên vai, anh không nhớ gì nữa
và đến giờ cũng không thể lý giải vì sao như vậy.
Còn
anh Nguyễn Mạnh T…, bán hàng ở đường 154 ấp Cây Dầu, Q.9, cho biết :
“Lợi dụng tôi đi lấy hàng, 2 phụ nữ đã vào ki-ốt hỏi mua card điện thoại
khi chỉ có vợ tôi ở đó. Hai phụ nữ này nói chuyện rồi không biết làm
sao mà sau đó, vợ tôi đã đưa hết tiền trong hộc bàn cho họ. Thấy tôi về,
họ liền vội vã lên xe phóng đi. Một lúc sau, vợ tôi mới tỉnh lại”.
Những “nhà ảo thuật” này còn đóng vai
người đi bán nhang, vé số, đồ dùng trong gia đình để tiếp cận nạn nhân.
“Mới đây, 2 người đàn ông bán thuốc khử trùng đến mời tôi mua. Không
biết bằng cách nào mà họ lấy được của tôi 1 triệu đồng và một điện thoại
di động. Sau vụ đó, tôi không dám cho người lạ mặt vào nhà nữa”- chị
Thủy, ngụ phường 22 – Q. Bình Thạnh, lo lắng.
Tình trạng nêu trên diễn ra trên nhiều
tuyến đường, nhiều nhất là khu vực gần sân bay Tân Sơn Nhất, xung quanh
công viên Hoàng Văn Thụ đều thuộc quận Tân Bình. Đây là địa điểm có
nhiều đối tượng nghiện ngập, gái mại dâm thường xuyên tụ tập thâu đêm
suốt sáng.
Mới đây, chị Hồ Thị M… ngụ Q.3, đi trên
đường Hoàng Văn Thụ (Q. Tân Bình) đã bị một số người dùng chiêu đập nhẹ
vào vai, sau đó phải ngoan ngoãn lột hết nữ trang, tiền, đồng hồ, điện
thoại di động đưa cho chúng. “Những đối tượng này ra tay rất táo bạo,
ngay cả nơi đông người. Không rõ những người này “thôi miên” thế nào mà
tôi không còn tự chủ được nữa, đến khi choàng tỉnh thì họ đã cao chạy xa
bay” – chị M… bức xúc nói.
Các băng nhóm trộm cắp này thường tụ tập
vào đêm khuya, khi đường phố vắng vẻ để dễ dàng ra tay. Chúng thường
đóng vai người hỏi đường, xin đi nhờ xe, khi thấy “con mồi” có thể ra
tay được thì bám theo. Thậm chí, chúng còn đóng vai người chạy xe ôm rồi
chở khách đến một địa điểm vắng người để ra tay.
Anh Nguyễn Văn Đ… ở Q. Phú Nhuận, đã có
lần bị một phụ nữ dùng “ảo thuật” lấy hết ví tiền, máy ảnh và giấy tờ
tùy thân. Sau đó, khi anh Đ.. đang đi trên đường, có hai thanh niên đi
xe máy bám theo và buộc anh đưa 500.000 đồng mới cho chuộc lại giấy tờ.
Nhiều nạn nhân khác cũng bị các băng nhóm dàn cảnh lấy hết ví tiền, giấy
tờ quan trọng rồi đòi họ chuộc lại với giá cao.
Trao đổi với chúng tôi, một cán bộ Đội 4 –
Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội cho biết đã có nhiều nạn nhân đến
phản ánh họ bị “thôi miên” và để mất tài sản. Tuy nhiên, có nhiều băng
nhóm trộm cắp bị bắt nhưng chưa đối tượng nào khai nhận dùng thủ thuật
này. “Không loại trừ đây là một “chiêu” mới mà các băng nhóm trộm cắp
đang sử dụng. Hiện chúng tôi đang mở chuyên án, cho một số chiến sĩ trà
trộn vào các khu vui chơi, siêu thị và trên các tuyến đường để truy bắt
những đối tượng trên”.
Theo thạc sĩ Nguyễn Ngọc Quang, Giám đốc
Trung tâm Giám định Pháp y – Tâm thần, những kẻ đoạt tài sản như nêu
trên đã sử dụng hình thức ám thị tri thức, dân gian gọi nôm na là “thôi
miên”.
“Đây là một hiện tượng phân tâm, ám thị
tri thức khiến bộ não người ở trong trạng thái mất ý thức, thay đổi ý
thức, quên đi thực tại trong thời gian ngắn. Nạn nhân phải thực hiện
hành vi theo sự điều khiển của người khác, sau đó trở lại bình thường” –
ông Quang giải thích.
Theo ông Quang, ám thị tri thức là một
thủ thuật rất phức tạp, không phải ai cũng thực hiện được. Nó không phụ
thuộc vào yếu tố trình độ, học thức nhưng phải những người trong “nghề”
mới làm được. “Ám thị tri thức đòi hỏi có một khoảng thời gian và không
gian thích hợp thì mới phát huy được tác dụng. Thời gian dễ bị ám thị
tri thức nhất là vào sáng sớm, trưa và chiều tối”.
T.Đồng (Theo Người Lao Động)
Nghệ thuật “Thôi miên”
Giáo sư Charcot nổi tiếng về những cuộc
biểu diễn với những người phụ nữ bị kích động mạnh về cảm xúc trong
những buổi giảng của mình ở bệnh viện Salpêtrière.
Người đàn bà trong ảnh là bệnh nhân được ông quan tâm nhất. Nhà tâm
thần học này ủng hộ việc sử dụng thôi miên như là một phương pháp để trị
chứng rối loại cảm xúc.
Các tài liệu nói về “Thôi miên” : Đây là
một quá trình mà trong đó các chức năng suy nghĩ có ý thức của đầu óc bị
qua mặt và một dạng suy nghĩ cảm nhận có chọn lọc được thiết lập. Mặc
dù có một số người trải qua kinh nghiệm về sự thay đổi trạng thái của
nhận thức và dễ bị thuyết phục hơn, điều này không đúng cho tất cả mọi
người. Thực ra, một số dấu hiệu của sự thôi miên và sự thay đổi khách
quan có thể đạt được mà không cần sự nghỉ ngơi hay một quá trình thôi
miên lâu dài, một điều làm tăng tính nghi ngờ và nhiều sự hiểu lầm về
thôi miên và trạng thái bị thôi miên.
Lịch sử : Thôi
miên có một lịch sử lâu đời, được biết đến từ những năm 1700 trở lại
đây. Người đầu tiên phát hiện ra thôi miên là Franz Anton Mesmer, một
bác sĩ người Áo sống ở thế kỷ 18 đã sử dụng công năng của thôi miên để
chữa bệnh. Điều này đã mang lại cho ông nhiều tai tiếng nhưng sau đó
người ta vẫn sử dụng cách thôi miên của ông.
Thuật ngữ thôi miên (hypnosis) được đặt
tên bởi bác sĩ người Xcôt-len (Scottish), James Braid, ông đã sử dụng từ
ngủ trong tiếng Hy lạp để tạo nên thuật ngữ. Braid đã nghĩ có thể sử
dụng thôi miên trong phẫu thuật, và ông đã đúng đến tận ngày nay nó vẫn
được sử dụng bởi nhiều bác sĩ, nha sĩ, nhà tâm lý học. Từ khi nó xuất
hiện, thôi miên và những người sử dụng nó là đối tượng cho nhiều nghiên
cứu, sự chỉ trích, sự tò mò và huyền bí.
(theo Wikipedia)
NHÂN ĐIỆN
VÀ THÔI MIÊN
(Trích trong cuốn Almanach “Thế Giới Tâm Linh”
tác giả Nguyễn Việt, đã xuất bản)
Trong vu thuật còn có nhiều thuật thần
bí, nhưng phát sinh ra là dùng để tà mị mọi người rất nhiều. Trong đó có
thuật thôi miên hay còn gọi là thuật nhiếp hồn.
Người biết dùng thuật thôi miên phải có
đôi mắt sáng hoặc có nhân điện cao, mới có thể khuất phục được người
khác. Chúng ta thường thấy một vu sư trước khi thôi miên ai, đôi mắt họ
mở to, không chớp, lòng đen trắng lóng lánh, vì rằng họ đang sử dụng đến
nhân điện là dùng đôi mắt chiếu tia điện thẳng vào mắt người khác, cùng
những lời thì thầm như đọc bùa chú, còn hai bàn tay cứ quơ qua lại
trước mặt đối tượng.
Người bị thôi miên sẽ bị cuốn hút vào đôi
mắt sáng ấy trong trạng thái mất phương hướng, tinh thần trống rỗng và
dễ suy sụp mau lẹ sau những câu nghe như ru ngủ. Đấy là lúc người bị
thôi miên mê sảng, mất phần hồn chỉ còn cái xác vô tri thức.
Như đã nói người sử dụng thôi miên phải
có nhân điện cao ngoài đôi mắt sáng, muốn phá thôi miên ít nhất người bị
thôi miên phải có tần số nhân điện lớn hơn hoặc bằng họ. Hoặc nếu
không, là dòng điện Âm chọi lại với dòng điện Dương hay ngược lại sẽ có
biến động
Tác giả Michael Halbert trong cuốn “Thần
giao cách cảm” cho biết, muốn luyện môn thôi miên phải tập từ nhỏ, có
chế độ ăn uống với nhiều chất đạm và những thực phẩm giàu chất kim loại
như sắt, kẽm, mangan… vì những chất này sinh ra điện tích trong người
mang tần số cao.
Ngoài ra hằng ngày phải ngồi Thiền bất
định trong nhiều giờ, đôi mắt phải chăm chú nhìn vào tâm một vật thể
không được chớp. Khổ luyện thành công là khi, dùng ánh mắt nhìn vào vật
trong một giờ mà không chớp, từ nhân điện mới có thể thôi miên nhiếp hồn
đối tượng. Thuật này còn có thể đọc được ý nghĩ trong đầu kẻ khác, tức
thực hiện được cả môn “thần giao cách cảm”, còn được gọi là người có
“giác quan thứ sáu”.
Trong nhân điện có người tích lũy được
điện Âm hay điện Dương; người có điện Dương chỉ nhiếp hồn được người có
tần số điện Dương thấp hơn, nếu là nguồn điện Âm chỉ có thể nhiếp hồn
được người có dòng nhân điện Âm thấp hơn. Khi điện Dương gặp người mang
tính điện Âm cao, sẽ không thể thôi miên được, vì khi Âm Dưong gặp nhau
sẽ sinh biến đổi, như dòng điện Âm Dương khi gặp nhau sinh ra cháy nổ.
Với nhân điện, chúng ta thường nghe nói
đến những người có biệt tài, chân tay sờ nắn được dòng điện mà không bị
giật, hay dùng thân nhiệt đưa 2 dòng điện Âm Dương cho cháy sáng bóng
đèn v.v…
Trên
đây là thuật dùng nhân điện để thôi miên nhiếp hồn, còn những người
biết vu thuật thường biểu hiện trạng thái tự thôi miên và thôi miên
người khác mà không qua tập luyện, như người “cầu Thần nhập xác” bằng
hình thức như :
1/- Nhảy múa :
vào thời đại vua chúa, nhảy múa là bộ phận không thể tách rời trong đời
sống cung đình. Nên các thần linh hiển thánh đa số là các ông hoàng, bà
chúa, các quan tướng từng sống trong môi trường ấy. Nên nhảy múa được
coi là biểu hiện cho tính chất nguyên thủy, đưa các vị Thần Thánh dễ hòa
nhập với xác hơn.
Đồng thời nhảy múa theo tiếng nhạc, lời
ca sẽ đưa những ông bà đồng bước vào trạng thái như tự bị thôi miên,
thần trí mê sảng, có ảo giác qua hiện tượng “thần giao cách cảm” hay
“giác quan thứ sáu”, “tự kỷ ám thị”, từ đó não bộ bị hôn mê phấn kích
làm dễ dàng bộc lộ sự liên kết giữa người và thần thánh.
2/- Che mặt :
người lên đồng có khăn phủ diện, người đồng cốt có quạt hoặc hai tay
che lấy mặt, người sa-man giáo khi đánh đồng thiếp thì nhắm nghiền đôi
mắt, đầu cúi xuống chờ thần linh giáng vào. Khi thần linh nhập xác, bấy
giờ mọi người mới được nhìn rõ mặt.
Đây là phương pháp bước vào thế giới tâm
linh, che mặt dùng để tập trung tư tưởng, định thần, không bị phân tâm
trước những ánh mắt tò mò của mọi người đang nhìn. Đây cũng thuộc trạng
thái để tự thôi miên
Nhảy múa và che mặt là hai điểm chính
yếu, khi các ông bà đồng tiến hành việc “cầu Thần nhập xác”, ngoài ra
còn có những hình thức biểu hiện khác như :
– Hun khói :
tức dùng lửa, dùng nhang đang cháy (thường cả bó nhang) cho có khói bốc
to; các dân tộc ít người (như thầy mo trên cao nguyên) dùng cành cây,
rễ cây, lá cây chưa khô hẳn, đốt cho có khói thật nhiều. Đây chỉ là tục
lệ, vì mọi người cho rằng các thần linh thường hay cuỡi mây bay xuống
nhập vào làn khói để nhập xác.
Nhưng thật ra, việc hun khói là cách
khiến cho tư tưởng không bị phân tán, do phải chăm chú cách tránh khói
cay bay vào mắt, đôi mắt đôi khi phải nhắm lại là lúc họ đang tự thôi
miên chính mình.
– Soi gương :
trong buổi lễ lên đồng mời Thánh, trước mặt người đánh đồng thiếp đều
đặt một cái gương soi. Đây có lẽ cũng theo tục lệ xưa, vì bây giờ gương
soi có thể chỉ để nhìn lại cách trang phục có đúng với giá Thánh nhập
hay không mà thôi.
Theo tục xưa, vị vu sư dùng gương để tiến
hành đánh đồng thiếp (cầu Thần nhập xác), khi đó cho thân chủ ngồi đối
diện trước một tấm gương, bên trái đặt 1 chén gạo có cắm 3 cây nhang.
Khi cho thân chủ đi vào cõi âm, vị vu sư ra lệnh cho người này tập trung
tinh thần đưa mắt nhìn vào tấm gương không chớp mắt, vị vu sư ở phía
sau đốt bùa niệm chú rồi nhón tay lấy một ít gạo rải lên gáy thân chủ
đang ngồi đồng.
Chỉ một lát người ngồi đồng liền thể hiện
trạng thái cưỡi ngựa, chân dẫm chân đạp, miệng bắt đầu kể đường xuống
âm phủ, tìm linh hồn người chết ra sao, và đang nói chuyện với linh hồn
người chết như thế nào v.v… Đó là cách các vu sư làm người ngồi đồng tự
thôi miên chính mình, đi vào trạng thái ảo giác…
BÙA CHÚ
Vào thời Pháp thuộc ở nước ta khám phá
trên Thất Sơn có hàng loạt vụ giết người luyện phép, có rất nhiều cô gái
còn đồng trinh bị giết chết không do bị hãm hiếp, mà vì các đạo sĩ dùng
xác các cô để luyện bùa “thiên linh cái”. Sau năm 1975 chúng ta cũng
phát hiện một pháp sư giết hại ba cô gái còn trinh trắng để luyện thứ
bùa yêu này.
Vậy bùa “thiên linh cái” có thật sự đúng
như lời đồn đại, chỉ cần quyệt nhẹ mùi hương của nó vào người ai, tức
thì người đó mất hết tri giác, nghe theo lời không chút phản kháng, như
chứng bệnh “liệu” ?
Cũng theo lời đồn, bùa “thiên linh cái”
ngoài công dụng bắt đối tượng phải nghe theo người sử dụng, thuộc vào
dạng “bùa mê thuốc lú”, nó còn có tác dụng quấy rối tình dục để đối
tượng dễ dàng sa ngã vào vòng tay người khác giới hơn nữa là “thôi miên”
(theo cách không nói năng nhìn ngó như phần trên giải thích, mà chỉ cần
quyệt nhẹ mùi hương vào người đối tượng).
BÙA MÊ THUỐC LÚ
Theo các đạo sĩ chân chính cho biết, có
nhiều pháp sư, thầy pháp học được môn bùa này từ các ông Lục thuộc phái
thầy tụng (tức thầy cúng, thầy pháp). Những ông Lục này thường được mọi
người tán tụng là cao tay ấn biết các thuật nhiếp hồn, gọi hồn người
chết về trò chuyện, hay luyện ngải tìm trầm, luyện các loại “bùa Lỗ
ban”, loại bùa mê thuốc lú, nhất là môn luyện “thiên linh cái”.
Để luyện nó cần có xác một cô gái còn
đồng trinh, trên mộ trồng những cây chuối hột; khi cây chuối đơm hoa kết
nải tức bắt đầu thu hoạch được thứ bùa yêu này. Tuy nhiên cách luyện
bùa không chỉ dễ dàng như thế, bởi hằng đêm họ phải ra nằm ngủ dưới thân
cây chuối, từ khi thân chuối chỉ cao hơn nửa thước cho đến khi thân cây
đã trĩu nặng những buồng, những nải.
Trong thời gian nói trên, ngoài việc lập
trang thờ nạn nhân, hằng ngày còn cúng cơm ba bữa, ban đêm ra ngủ bên
thân chuối, ve vuốt thân cây như ve vuốt người vợ đầu gối tay ấp. Thời
gian kéo dài đến lúc các trái chuối đã chín vàng.
Còn
từ khi cây chuối trổ hoa, mỗi buổi sáng tinh mơ sương mai còn đọng trên
các bông, các quày, họ phải hứng từng giọt sương cho vào lọ. Các trái
chuối chín thì bóc lấy hột phơi khô. Nước sương mai hòa cùng dầu thơm để
thành “bùa mê thuốc lú”, còn hột được tán nhỏ thành chất kích dục. Họ
còn phải chôn dưới đất đủ 49 ngày để mang âm khí, để trên trang thờ đủ
100 ngày cho có dương khí, mỗi đêm cầu thần niệm chú, như thế mới linh
ứng.
Còn trong thực tế rất ít người dám luyện
“thiên linh cái”, thứ nhất bởi có thể gây ra án mạng nếu không may mắn
tìm được xác nữ đồng trinh vừa qua đời, thứ hai ngày đêm phải sống găn
bó với ma quỷ; còn giết người lấy xác có thể dẫn đến hậu quả hồn ma báo
oán, làm cho tan cửa nát nhà, tù tội, thứ ba trong luyện bùa còn phải
biết các câu thần chú để đọc hằng đêm v.v…
Nên nhiều người lấy danh nghĩa là bùa
“thiên linh cái” hay những thứ bùa ngải khác, nhưng thực chất là dùng y
thuật cổ truyền từ các sách thuốc, như lấy sừng lấy pín và tinh hoàn của
dê đực, lấy nhủ hoa của dê cái, hay lấy xương cọp nấu thành cao, giết
gấu lấy mật, lấy tay gấu làm thuốc tăng lực.
Vùng Tịnh Biên tỉnh An Giang, người dân
còn đi bắt các loại côn trùng như bò cạp, rắn rết, nhền nhện hùm, tắc
kè, bổ củi, sống trong mấy gò đất, bụi rậm quanh triền núi bán cho các
đạo sĩ đưa về chế thành “bùa mê thuốc lú”.
Bò
cạp trị được bệnh yếu sinh lý cho nam giới, bệnh nhức mỏi cho người
già, còn nhền nhện hùm hay con rết trị được chứng thấp khớp, đau thần
kinh tọa, với trẻ em nhền nhện trị được cả bệnh hen suyễn.
Thứ nào dùng làm thuốc trị bệnh họ ngâm
với rượu, còn thứ chế biến “bùa mê thuốc lú”, tùy theo tính chất của mỗi
con vật mà khai thác, như hải mả, đuôi bò cạp phơi khô tán nhuyễn cho
uống nhằm tăng cường khả năng sinh lý, dùng valium tán với hoa phù dung
để có “bùa mê” v.v…
BÁCH NHẬT NGẢI
Nói về ngải như loại “ngậm ngải tìm
trầm”, theo tương truyền ở vùng phía nam Trung Bộ nước ta, có loại cây
có tên gọi “bách nhật ngải” mọc tự nhiên trong rừng sâu, những người đi
rừng cho rằng nếu ngậm được cây “bách nhật ngải” – cây ngải 100 ngày –
đi rừng không còn sợ thú dữ, không sợ rừng thiêng nước độc, mắt trông
thấu xuống lòng đất, có thể biết nơi nào có trầm hương hay kỳ nam.
Nhưng nếu để quá 100 ngày trong miệng mà không nhả, người sẽ mọc lông, mọc đuôi, thành cọp.
Thiên Việt (tổng hợp nhiều nguồn)NHỮNG CHUYỆN “ĐẦU THAI” KỲ LẠ
Posted on 17.12.2010 by Thiên Việt
CHUYỆN “ĐẦU THAI”
CÓ THẬT KHÔNG ?
Câu chuyện về cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến
(thị trấn Vụ Bản, Nam Định) đã nổi tiếng tới mức khắp cái thị trấn nhỏ
này, từ già đến trẻ ai ai cũng có thể kể rành mạch, thông tường.
Cổng nhà anh Tân có 3 cháu nhỏ khoảng
9-10 tuổi đang nô đùa. Thấy tôi cất lời hỏi thăm, một cháu bé nhìn trắng
trẻo, ngôi ngô nhất trong đám trẻ nhanh nhảu : “Cô hỏi bố cháu à ! Bố
cháu đang ở trong nhà. Cô vào uống nước để cháu gọi bố”. Trong lúc chúng
tôi đang ngờ ngợ đoán chừng cậu bé lúc nãy chính là bé Tiến “nổi tiếng”
tiêu tốn không ít giấy mực của báo chí, thì anh Tân bước ra.
Câu chuyện “tái sinh” kỳ lạ
Anh Tân và chị Thuận cưới nhau được 6 năm
mới sinh được cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến (28/2/1992). Cháu Tiến lớn lên
bụ bẫm, xinh xắn, trong sự yêu chiều hết mực của cả gia đình. Thế
nhưng, đến năm cháu 5 tuổi, tai họa bất ngờ ập xuống.
Hôm đó vào buổi chiều tháng Giêng, anh
Tân đang nằm đọc báo bỗng giật nảy mình chồm dậy, ruột gan như lửa đốt.
Anh gọi vợ hỏi : “Thằng Tiến đâu, tìm nó về đi”. Chị Tân tìm gọi mãi
nhưng không thấy Tiến đáp lại, ra phía bờ sông gần nhà chị chỉ nhìn thấy
đôi dép cháu để trên bờ. Dưới dòng nước xanh ngắt nhìn thấu tận đáy,
không thấy điều gì bất thường. Chị chạy về báo anh Tân. Bỏ tờ báo, anh
hớt hải ra phía bờ sông thì nhìn thấy xác cháu Tiến nổi cách bờ 3m. “Tôi
lao xuống dòng nước, ôm chặt lấy con nhấc lên bờ. Nhưng tất cả đã quá
muộn !”, giọng anh lạc đi, không giấu vẻ kinh hoàng khi nhớ về cái ngày
đau thương ấy.
Cháu
Tiến mất đi khiến cả anh Tân, chị Thuận đều như kẻ mất hồn. Nỗi đau
càng nhân lên gấp bội khi chị Thuận do vấn đề sức khỏe đã “không còn khả
năng làm mẹ” nữa. Trong cơn vật vã, bà cụ hàng xóm mà sau này anh Tân
mới biết là “bà mế” có sang vỗ vai anh và bảo : “Con yên tâm, sớm muộn
gì nó cũng tìm về với con thôi !”. Khi ấy vì quá đau buồn anh cũng coi
lời bà như lời an ủi của những người hàng xóm tốt bụng khác.
Năm 2006, cả hai vợ chồng vẫn chưa nguôi
nỗi đau mất con thì nghe có người rỉ tai ở Xóm Cọi, xã Yên Phú, Lạc Sơn,
cách nhà anh chị chừng 3km có cháu bé nghi là “con lộn” của Tiến. Cháu
tên Bùi Lạc Bình (sinh ngày 6/10/2002) là con một gia đình người Mường
nhưng ngay từ khi biết nói đã khăng khăng bảo mình là con người Kinh,
nhà trên thị trấn Vụ Bản.
Vốn chưa bao giờ tin có chuyện “đầu thai”
như kiếp luân hồi của nhà Phật, nhưng hai anh chị vẫn đánh bạo tìm đến
nhà cháu bé nọ. Thật bất ngờ khi anh chị đến nơi cháu không hề thấy lạ
mà gọi bố mẹ xưng con và quấn quít không rời. Anh chị ngỏ lời mời chị
Dự, người sinh cháu Bình, tên bố mẹ “mới” đặt, đến nhà chơi. Nghe thấy
thế, Bình vui lắm, trèo phắt lên xe hào hứng như đứa trẻ lâu ngày được
về nhà.
Vừa vào nhà, Bình đã chạy quanh nhà tìm
đồ chơi mà Tiến trước kia thích. Cháu còn tự nhiên vào giường anh Tân,
chị Thuận nằm lên đó rồi bi bô : “Ngày xưa con thường ngủ chỗ này nhỉ bố
nhỉ ?”. “Ngay khi nhìn thấy cháu, nghe cháu nói, và thấy những hàng
động của cháu vợ chồng tôi như chết đứng. Tất cả đều giống hệt như cháu
Tiến thủa trước, có khác chỉ là khác về hình hài mà thôi”, anh Tân kể.
Kể từ ngày gặp cháu Bình thì ăn ngủ chẳng
yên bởi giữa hai người với đứa trẻ xa lạ dường như có mối thâm tình gì
đó day dứt lắm. Nhớ
cháu, thương cháu nhưng lại sợ người ngoài bảo muốn cướp con. Vợ chồng
anh hiếm muộn, nhưng vợ chồng chị Dự – anh Hoan cũng chỉ có duy nhất
cháu Bình là con.
Về phần chị Dự, sau lần đến chơi nhà ấy,
cháu Bình cứ nằng nặc đòi về “nhà bố mẹ”. Thấy con nhèo nhẹo khóc, chị
Dự cũng không biết phải làm sao. Đưa cháu về nhà anh Tân, chị Thuận chơi
thì sợ người ta dị nghị là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Nhưng
sau một lần Bình bị ốm nặng, sốt cao, cháu cứ luôn miệng “dọa” : “Mẹ
không cho con về, con lại chết lần nữa !”. Hoảng quá, lần này chị đánh
liều gọi cho anh Tân đưa cháu về nhà chơi. Cháu Bình về nhà anh thì khỏe
khoắn, vui vẻ, không còn đau ốm nữa.
“Thấy cháu tha thiết quá, sau bao đắn đo
chúng tôi dè dặt đề nghị gia đình anh Hoan, chị Dự cho cháu về ở với
chúng tôi. Thật bất ngờ là cả vợ chồng anh chị và bà nội cháu đều gật
đầu đồng ý. Chính bà nội cháu cũng bảo rằng : Ngay từ lúc thằng bé biết
nói tôi đã biết nó không phải người Mường rồi”, anh Tân nói.
Theo lời anh Tân, kể từ ngày cháu về với
anh chị, hết lần này đến lần khác hai người “thử” cháu. Thậm chí, nhiều
người hàng xóm cũng sang nhà để “hỏi chuyện ngày xưa”. Tất cả cháu đều
trả lời vanh vách. Từ tên bác hàng xóm, đến cô giáo mẫu giáo rồi bạn bè
thân của cháu, cháu đều nhớ tên.
Đường về nhà, hay những câu chuyện nhỏ nhặt như ngày xưa bà nội cho
cháu uống bia ở đầu làng cháu cũng nhắc lại, ngay cả việc, “cháu đã từng
chết như thế nào, bị ngã xuống nước ra sao”…
“Dù trước đó, chưa một lần tin có chuyện
“hoang đường” như thế, nhưng đến lúc ấy cả vợ chồng tôi đều hoàn toàn
tin rằng Bình chính là cháu Tiến, con chúng tôi 10 năm về trước”, anh
Tân kể.
Từ ngày về ở với anh chị Tân, Thuận, Bình nằng nặc đòi gọi tên là Tiến, ngay cả tên đệm cháu cũng đòi giữ.
“Hãy coi con cháu những đứa trẻ bình thường”
Bé Tiến bây giờ đã bước sang tuổi thứ 9.
Cháu trắng trẻo, khôi ngô, ngoan và lễ phép nhưng cũng hiếu động hệt như
những đứa trẻ cùng trang lứa khác. Khi chúng tôi ngồi nghe anh Tân kể
chuyện thì Tiến không ngừng nô đùa trước sân, chọc tổ ong khiến anh Tân
mấy bận phải đứng dậy nạt cháu.
Câu chuyện dang dở thì chị Thuận mẹ cháu
về, thoáng qua những dè dặt ban đầu, nhắc đến con chị cười nói xởi lởi
lắm. Lần dở từng trang sách của cháu, đôi mắt chị vẫn ánh lên niềm hạnh
phúc vô hạn : “Cháu đi học mấy năm liền đều đạt học sinh giỏi…”. Rồi
chuyện trường, chuyện lớp, chuyện nghịch ngợm của trẻ nhỏ làm bầu không
khí rộn ràng hẳn lên.
Mãi chuyện đã quá trưa tự lúc nào, chị
Thuận giữ chúng tôi ở lại ăn cơm, chúng tôi cũng vui vẻ đồng ý. Khi mâm
cơm đã dọn tinh tươm, Tiến vẫn đứng ngoài sân mê mải đọc cuốn Hương Hiếu Hạnh
của nhà sư Thích Tâm Hiệp viết về trường hợp “đầu thai” của Tiến. Nghe
anh Tân bảo, nhà sư sau khi nghe câu chuyện của Tiến đã viết một bài in
trong tập sách Hương Hiếu Hạnh và tặng anh chị một cuốn. Từ
lúc rõ mặt chữ, Tiến lúc nào cũng cầm cuốn sách và đọc đi đọc lại câu
chuyện kể về mình. Những câu chuyện ngày xưa cháu cũng dần quên.
Tôi đứng dậy gọi Tiến vào ăn cơm thì bất
chợt cậu bé nắm tay tôi lắc lắc, chỉ ra phía con sông sau nhà : “Cô ơi,
ngày xưa cháu chết ở kia kìa”. Dù đã nghe câu chuyện của cháu nhưng câu
nói bất chợt của Tiến vẫn khiến tôi lạnh sống lưng.
Sau bữa cơm đầm ấm, chúng tôi xin phép
hai anh chị tiếp tục lên đường. Trước khi đi, anh Tân trầm ngâm : “Nhà
nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm tiềm năng con người đã nhiều
lần điện thoại gặp nhưng tôi đều từ chối. Hiện giờ, tôi chỉ muốn mọi
người hãy coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Cháu Tiến giờ ở
nhà tôi với tư cách là “con nuôi”. Cháu vẫn thường xuyên qua lại nhà mẹ
đẻ…”.
NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐẦU THAI KỲ LẠ
Trong những ngày ở xóm Cọi
để tìm hiểu về trường hợp của cháu Bình – Tiến, chúng tôi còn biết thêm
tại xóm này còn có thêm hai trường hợp “con lộn”. Cả hai trường hợp này
cũng ly kỳ và lạ lùng rất khó giải thích.
Tiền kiếp con trai, bây giờ hóa gái
Không đến mức đòi về ở hẳn như Bình về
với gia đình anh Tân – chị Thuận, nhưng câu chuyện “con lộn” của Bùi Thị
Hồng Thắm, ở Xóm Cọi cũng được người dân ở Lạc Sơn bàn tán xôn xao.
Thắm là con gái nhưng người “lộn” vào cháu lại là con trai.
Tôi
tìm đến nhà Thắm khi bóng chiều đã khuất dần sau núi. Nhà cháu nghèo
lắm, căn nhà gỗ bé xíu nằm chênh vênh bên sườn núi. Thắm sinh năm 1991,
trước Thắm còn có một chị gái. Cũng vì nhà nghèo nên hai chị em đang
phải làm phụ hồ ở Hà Nội, bố cháu anh Bùi Thanh Minh cũng đi làm ăn nơi
xa thỉnh thoảng mới về một lần.
Hôm tôi đến, một mình chị Bùi Thị Toàn,
mẹ Thắm ở nhà. Đã mấy năm nay, chỉ có những ngày lễ tết gia đình chị
Toàn mới được tề tựu đông đủ. Ngày thường, chỉ có mỗi chị Toàn vò võ
mong ngóng chồng con, ba bố con đi làm ăn xa thế nhưng nhà nghèo thì vẫn
hoàn nghèo.
Khi tôi hỏi đến chuyện “con lộn”, chị Toàn nhớ lại rồi cười ngặt ngẽo. Chị bảo ngày mới phát hiện Thắm bị “lộn”, cháu có những biểu hiện lạ lùng, nhưng cũng buồn cười lắm.
Chị Toàn kể : Khi Thắm bi bô biết nói, một lần hai mẹ con đang chơi đùa bỗng cháu “xị” mặt rồi nằng nặc đòi : “mẹ đưa con về nhà”,
dù lúc đó đang ở trong nhà mình. Nghĩ trẻ con chưa hình dung được đâu
là nhà mình nên chị Toàn đã cố diễn giải đây chính là nhà. Thế nhưng
Thắm vẫn không chịu, chị Toàn nghĩ chắc cháu đòi sang nhà bà nội ngay
sát vách. Chị bế cháu sang nhà bà nhưng vẫn không phải. “Nhà ở ngoài kia cơ”, Thắm bảo.
“Thì ra con bé này đòi đưa đi chơi nên nói thế”,
chị Toàn nghĩ vậy và quát Thắm. Sợ mẹ, cháu không dám đòi nữa. Một hôm,
ở ngoài nhà kho của thôn chơi, hôm đó là ngày hội làng nên người trong
làng tụ tập tại đây rất đông. Đang chơi đùa ở sân bỗng nhiên Thắm nói
với bà nội: “Mẹ cháu kia kìa”.
Đó là bà Nguyễn Thị Nghe, người ở đầu
làng. Do xóm Cọi rộng, nên nhà chị Toàn và nhà bà Nghe dù cùng xóm nhưng
cũng chỉ biết nhau qua loa. Mới 3 tuổi, Thắm có thể nhận nhầm mẹ nên bà
nội nói với cháu : đó không phải mẹ cháu, mẹ hôm nay lên nương.
Lúc Thắm được 5 tuổi, hôm đó cháu được bố mẹ cho ra đồng. Khi trở về, đi qua nhà bà Nghe, cháu chỉ tay rồi bảo với bố mẹ “nhà con đây này”. Nghĩ buồn cười quá, chị Toàn bảo lại con “con thích thì mẹ đưa vào nhà con”, thế nhưng khi vừa bước vào cổng Thắm đột nhiên dừng lại : “Con không vào nữa đâu, chị Hằng đang ở trong đó, con ghét chị ấy vì chị đã xui con trèo cây làm con ngã chết”.
Nghe con nói vậy, chị Toàn bèn hỏi lại nửa đùa nửa thật : “Thế con là ma Ly à”. Người Mường thường gọi người chết là “ma”,
vì biết Ly, con trai bà Nghe đã chết nên chị Toàn mới hỏi vậy. Tưởng
trêu vậy thôi, ai ngờ con bé gật đầu. Từ hôm đó, chị Toàn mới “xâu
chuỗi” lại toàn bộ những biểu hiện lạ thường từ ngày con bé cứ đòi chị “đưa về nhà con”.
Chị bắt đầu nghĩ đến chuyện thằng ma Ly
nó đã “lộn” về con Thắm nhà mình. Người Mường vốn xem đây là chuyện bình
thường nên vợ chồng chị Toàn chẳng sợ sệt một chút nào, thậm chí ngày
ngày vẫn hỏi chuyện và trêu đùa con bé.
Nói thêm về ma Ly, bà Nghe sinh được bốn
người con, trong đó Ly và Hương (con gái) là cặp song sinh. Một hôm Ly
và Hương (lúc đó 7 tuổi), được chị gái tên Hằng dẫn đi hái ổi ở bên
triền núi. Là con trai nên Ly được phân công trèo lên hái quả. Quả ổi
nằm tít ngoài xa, Ly rất vất vả nhưng vẫn không tài nào hái được. Hằng ở
dưới cứ động viên em cố lên và trong một phút sẩy chân, Ly ngã rơi
xuống đất. Cháu bị chấn thương sọ não và mất ngay sau đó.
Có một câu chuyện mà mãi đến khi Thắm nói
rằng cháu chính là ma Ly thì chị Toàn mới nhớ lại. Đó là ngày còn mang
thai Thắm, chị vốn là người yếu nên khi mang thai ốm đau liên miên. Một
hôm đi chợ ngoài thị trấn về chị bị cảm, trong cơn mê man chị mơ một
giấc mơ rất sợ.
Một đứa bé rách rưới cứ đuổi theo làm chị
chạy trốn mãi, thế nhưng vì mệt quá nên đến lúc thằng bé cũng đuổi kịp
và bắt lấy chị. Giật mình tỉnh dậy, đem câu chuyện vừa mơ kể lại với
chồng nhưng anh bảo mệt trong người mơ thấy những điều sợ hãi là chuyện
bình thường.
Chị Toàn sau đó cũng chỉ nghĩ vậy và cho
đến ngày Thắm nhận mình là ma Ly chị mới nghĩ lại và cho rằng đó không
chỉ là giấc mơ. Có thể thằng bé trong giấc mơ đó chính là ma Ly và nó đã
theo chị về nhà từ đó.
Chị Toàn đã có lần hỏi Thắm, sao con
không theo về những nhà giàu cho sướng lại theo mẹ nghèo mà khổ. Thắm
bảo, hôm đó mẹ đi chợ về, con nhìn thấy mẹ xinh nên đi theo mẹ. Như vậy,
giấc mơ của chị Toàn ngày đó là đúng sự thật.
Chuyện ma Ly “lộn” vào Thắm cũng nhanh
chóng lan toản ra khắp nơi. Mọi người lạ ở chỗ, đây là trường hợp đầu
tiên một người con trai lại “lộn” vào người con gái. Trước đây, Thắm học
cùng với cậu út nhà bà Nghe và chơi rất thân với cháu này. Ban đầu mọi
người không biết chuyện nên cứ trêu “chắc con bé này nó thích con bà
Nghe”.
Sau khi mọi người đã biết không còn ai
trêu đùa nữa. Thắm giờ đã đi lại với gia đình bà Nghe và nhận bà làm mẹ.
Thắm được gia đình bà Nghe xem như người con ruột rà trong nhà. Dù
không về ở cùng nhưng tình cảm giữa Thắm và gia đình bà Nghe là rất sâu
đậm.
Ông Bùi Văn Tỉnh, xóm trưởng xóm Cọi cho
biết : “Ở xóm Cọi đã ghi nhận ba trường hợp con lộn. Người Mường quan
niệm, những đứa trẻ dưới 12 tuổi bị chết bất đắc kỳ tử có khả năng “lộn”
về và vào một người nào đó. Người bị lộn sẽ có khả năng nhớ và kể lại
những gì diễn ra trước khi chết một tháng. Thế nhưng, sau 12 tuổi người
được “lộn” lại trở về trạng thái bình thường”.
Trái với những gì ông Tỉnh nói, theo như
lời chị Toàn kể thì Thắm nhớ được rất nhiều chuyện. Có lần Thắm tự dưng
nói với chị hàng xóm cạnh nhà bà Nghe rằng “ngày xưa em trèo ổi nhà chị bị chị đánh mấy lần”. Chị này khẳng định đúng là ngày xưa Ly hay trèo ổi nhà chị và bị chị đuổi thật.
Một hôm Thắm gặp người trong làng, người
đó bằng tuổi Ly và hơn cháu rất nhiều tuổi và bảo : “Mày nhớ tao không,
ngày trước tao với mày toàn đi đá bóng với nhau nhỉ”. Người này nghe
Thắm xưng mày tao, ban đầu nghĩ cháu hỗn, nhưng sau biết đó là Ly lộn về
nên cười xoà bởi cháu nói hoàn toàn chính xác.
Thắm hiện nay vẫn được mọi người trong
gia đình, bạn bè và cả xóm bản gọi bằng cái tên thân thương – Ma Ly. Chị
Toàn bảo cháu rất vui với cái tên đó. Chị cũng thoải mái cho cháu đi
lại vì nhà bà Nghe cũng rất nghèo. Thắm đi lại vì cái tình của… người
con lộn, chứ không vì mục đích gì khác.
Ngoài Bình, Thắm, tại bản Cọi còn có cháu
Thu con cô giáo tiểu học Quách Thị Đức. Thu cũng được một người chết
trong bản lộn về từ bé. Ngày bé, Thu cũng nằng nắc đòi “về nhà con”. Tuy
nhiên, vì nhà có người chết đó rất giàu có nên chị Đức đã không cho
cháu về ở cùng gia đình đó, chị sợ mang tiếng hám tiền nên bịa ra chuyện
này.
Thu hiện nay cũng được gia đình nhà đó nhận làm con và đi lại rất gần gũi. Chị Đức bảo : “Nếu tôi không ngăn cấm quyết liệt từ bé thì nó về ở hẳn bên đó thật”. Hiện Thu đã lớn và đang học lớp 9 trường huyện.
Khi đi tìm hiểu thực hư câu chuyện “con
lộn” tại Vụ Bản, chúng tôi cũng thật sự bối rối và không biết khẳng định
thế nào. Tiếp xúc với những người trong cuộc như bố mẹ những người
chết, bố mẹ những cháu được coi là có “con lộn” họ đều khẳng định đó là
câu chuyện có thật.
Kể cả cô giáo Đông, cô Đức cũng khẳng
định điều đó. Cả ba trường hợp vẫn đang là “người thật việc thật” ở Lạc
Sơn chứ không chỉ là câu chuyện kể hay truyền thuyết gì.
Thực hư chuyện ‘đầu thai’
Câu chuyện “đầu thai” của cậu bé Nguyễn Phú Quyết Tiến ở Vụ Bản mà chúng tôi đã ghi lại, theo TS.KTS.Vũ Thế Khanh, tổng giám đốc Liên Hiệp Khoa học Công nghệ – Tin học Ứng Dụng (UIA) không có gì lạ.
Ông
Khanh cho hay, chương trình “nghiên cứu về ngoại cảm và các khả năng
đặc biệt” do UIA kết hợp với Viện khoa học hình sự, Bộ Công An, Trung
tâm bảo trợ Văn Hóa kỹ thuật Truyền Thống cũng đã ghi nhận nhiều trường
hợp “đầu thai” ở Việt Nam. Dưới đây là một trong những câu chuyện ông
Khanh chia sẻ với phóng viên :
Câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1990 tại
làng Tân Việt ở Cà Mau (vùng Đầm Dơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ
chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình này là ông Cả Hiêu. Cô
con gái trong gia đình được ông Hiêu rất mực cưng chiều, nhưng không
may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương
xót, ông Cả Hiêu thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời
của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu. Cách làng Tân Việt khoảng 100 cây
số là làng Vĩnh Mỹ, Bạc Liêu cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian
với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời.
Người nhà khóc lóc lo việc khâm liệm thì
bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại, làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô
gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm gì cả. Điều lạ
lùng là từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực đòi người trong gia đình
đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu.
Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc
nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết
cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người làng Tân Việt. Người nhà hết sức
lo lắng nghĩ rằng cô có bệnh. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp
cha mình và bảo rằng cô biết đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường
đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người
nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình,
cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến
làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư.
Khi đến bến xe, mọi người xuống xe còn
đang bỡ ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô
gái nói : “Đừng có ngại, để con dẫn đường cho”. Thế rồi khi đến cổng nhà
ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Cô gái
chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói : “Ba ơi, con đây ba
ơi !”.
Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ
ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà
kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu
lấy làm lạ, cũng kể lại chuyện con gái mình bị bệnh qua đời cho cha mẹ
cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô gái con
ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là
người đã ở đó lâu lắm rồi.
Câu chuyện đã đến hồi kết thúc khi sự
kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông
bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà
ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rõ chuyện gia đình ông
bà. Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mau,
Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hãn hữu.
“Hiện tượng tái sinh không phải là mê tín”
TS.Khanh
cho biết, ở nhiều nước trên thế giới, “tái sinh” còn mang cả hình ảnh
của quá khứ (trong sinh học gọi là Lại giống) và những câu chuyện tương
tự như bé Tiến hay con gái ông Cả Hiêu. Chính vì thế, theo ông, hiện
tượng “tái sinh” cần được nhìn nhận và nghiên cứu trước khi khẳng định
hoặc phủ định.
“-
Chúng tôi sẽ tổ chức hội thảo khoa học về tâm linh trong thời gian sắp
tới. Hiện tượng “đầu thai, tái sinh” cũng được đưa ra thảo luận”. Ông
Khanh khẳng định, không thể coi “đầu thai” là hiện tượng mê tín dị đoan
mà chỉ nên coi nó là hiện tượng khó lý giải mà khoa học chưa thể với tới
được. “Trên thực tế những câu chuyện về “tái sinh” vẫn tồn tại bất chấp
chúng ta có tin hay không.
Có người thật, việc thật nếu phủ định
hoàn toàn thì đó chính là mê tín cực tả (thái độ chủ quan, coi nhận thức
của mình là cao nhất, đúng nhất, coi những hiện tượng mình không biết
là không đúng, không có thật). Tuy nhiên, cũng không nên để mình rơi vào
trạng thái mê tín cực hữu (tin mê muội, không cần biết đúng sai). Đó
chính là nguyên nhân sinh ra những chuyện lừa đảo, mị dân, những dị nhân
hoang tưởng bịp bợm…”.
Lê Trang (theo tin trên net)
Filed under: Chuyện kinh dị, Phong Tục, Tín ngưỡng | Tagged: Ma nhập, Quỷ ám, Tín ngưỡng | 15 Comments »
HỒN MA NHẬP XÁC
Posted on 29.10.2010 by Thiên Việt
CHUYỆN TRỪ MA
ẾM QUỶ
– NGUYỆT HẠ
Hiện tượng ma quỷ nhập, thánh thần ngự,
cô cậu ‘về’, đồng lên xác… không phải mới mẻ gì. Kinh sách tôn giáo, tác
phẩm văn học, kiến trúc, hội họa, điêu khắc của các nước Châu Á, Châu
Âu, nhất là Ấn Độ, Trung Quốc và các nước chung quanh đầy rẫy những
trang viết về nó, tiêu biểu nhất là tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân –
Trung Quốc kể về chiến công hàng phục yêu ma của Tôn Ngộ Không trên
đường phò Tam Tạng từ Tràng An (Trung Quốc) sang Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh
kinh. Ngồi trước màn hình tivi xem phim Tây Du Ký, khán giả nào cũng bị
cuốn hút say sưa, nhất là trẻ em. Trong trí mọi người đó là chuyện ngụ
ngôn hơn là chuyện thực trong đời.
Nhưng đi thực tế các vùng hẻo lánh, rậm
rạp, hoang vu kẻ viết bài khá ngỡ ngàng vì thấy hiện tượng ma nhập, ma
bắt, bắt ma không hề hiếm gặp. Xin kể hầu vài chuyện mới nhất. Quí vị
độc giả đọc cho vui, không cần phải tin.
Đi mời sư Tranh đi
Ngày 11/7/2010, nhà bà Mai con cháu tụ
hội đông đủ, mừng thượng thọ tám mươi cho hai ông bà. Hoa quàng cổ kết
bông vạn thọ tươi, những lời chúc tụng, những bao lì xì mừng thọ, bánh
trái cỗ bàn, chụp ảnh quay phim, chẳng thiếu thứ gì… Không khí trong nhà
đang tươi vui rộn rã, bỗng dưng bà Mai dẫy dụa đòi… về chầu tiên tổ.
Mắt
đỏ đòng đọc, khóc ngất, chạy ra thềm, rối rít kêu ‘ông nội ơi chờ con
với’. Con cháu sợ hãi, chạy vội theo, kéo lại. Bà lão tám mươi tuổi,
ngày thường đau yếu, không biết lấy đâu ra sức khoẻ, gạt phăng mọi
người. Một ông khách tỏ ra hiểu biết, kêu ‘Mời thầy liền đi, bả bị nhập
rồi’. Người cháu bà Mai, đứng dậy lấy xe đi ngay. ‘Thầy’ mà ông khách
vừa nói đó là ai, ở đâu, mời cách nào, khắp vùng này không ai không
biết.
Đó là sư Tranh, tu trì ở tịnh xá Liên
Hoa, xã Bạch Đằng, nổi tiếng cao tay ấn. Thành tích trừ ma bắt quỷ của
sư được truyền tụng khắp nơi. Sau năm 75, công an địa phương sang Bạch
Đằng ‘trừ tà’ cho sư. Sư ngồi ung dung trong tịnh xá nhưng công an cương
quyết đốt đám mía vì ‘rõ ràng ổng lủi vô đó, kêu ra không ra’. Đám mía
đốt xong, nhưng xương cốt sư Tranh tìm không thấy. Công an kéo về, đến
ngang bến đò, nhìn ra giữa sông, thấy sư ung dung tọa thiền trên mặt
sóng.
Lại một lần khác, khi một thanh niên mắc
bệnh ‘đường dưới’, chiều chiều ra sông khóc ngất. Người nhà không dám
rời mắt phút nào vì chỉ sơ sẩy một chút anh ta lao vội ra sông, chạy
theo tiếng gọi ái tình của… công chúa thủy tề. Sư Tranh đã mời được Long
Vương trị nhậm sông Đồng Nai lên quở trách vì quản công chúa không
nghiêm, để nàng lên trần nhiễu hại lê dân. Rốt cuộc, cả công chúa, hoàng
tử, lẫn Long Vương đều biết lỗi, hứa sửa sai. Giai thoại về sư kể cả
ngày không dứt. Kẻ viết bài rất muốn không tin, nhưng người kể hầu hết
đều là con bệnh hoặc người nhà con bệnh đã được sư chữa hết nên chẳng
dám mạnh miệng bảo họ mắc bệnh tưởng hoặc vẽ rắn thêm chân.
…Khi sư Tranh được mời tới nhà bà Mai,
nhìn sắc mặt lạc thần, lơ láo của bà, sư bảo ra bàn ngồi xuống đàng
hoàng, đoạn sư bắt ấn, nắm tay bà hỏi ‘là ai, lên mượn khẩu nói chuyện.
Có gì oan ức, cứ nói hết’. Bà ngần ngừ, rồi cất giọng đàn ông lí nhí tên
đó, việc nọ, vì thế cho nên… Người nhà nhìn nhau kinh hãi. Tất cả không
ai bảo ai, đều nhận ra đó là giọng của anh con trai thứ sáu, chết đã
lâu. Càng ớn lạnh hơn khi anh ta khai lý do kéo mẹ cho đi theo ông cố,
chỉ là dịp thượng thọ vui mừng, ai cũng chúc tụng, ăn uống đông vui mà
không nhớ, không nhắc, cũng không mời anh ta ăn uống dù anh ta về, đứng
ngoài thềm, trước mặt mọi người. Lập tức một mâm cơm canh được biện tử
tế, kèm theo quần áo, vàng vòng, tiền Mỹ, tiền Việt, thêm một chiếc
‘Mẹc’ được dọn cúng. Lúc thắp nhang, mấy cây nhang rung tít.
Chuyện bà Mai chỉ là bình thường. Xứ này
ít nhà cửa, lắm đồng bãi, rừng rú, lại sông dài quanh co. Bởi vậy âm khí
thịnh hơn dương khí. Gia đình nào, dòng họ nào cũng ít nhiều có người
bị nhập. Ít thì chốc lát, nhiều thì cả đời. Hiền thì chỉ khóc cười lảm
nhảm, dữ thì đánh người thân, đốt nhà, đập phá. Lý do bị hành, bị nhập
thì nhiều. Có thể do bị xúc phạm, do ‘hạp vía’, không có chỗ cư ngụ,
muợn xác ở đỡ. Điển hình là trường hợp của ông cụ Qui Nhơn. Hôn mê thoi
thóp cả mấy tháng trời chưa ‘đi’ được. Đầu tháng Sáu âm lịch, tình hình
càng ngày càng xấu hơn, gia đình chuẩn bị làm đám. Trong số các sư được
mời đến hộ niệm, có sư Thuần N. Nhìn sắc diện ông Qui Nhơn ngày đổi bốn
lần từ xanh sang đỏ tía, vàng ệch rồi trắng bệch, sư sinh nghi bèn làm
một cuộc hỏi đáp kéo dài mười phút. Mới hay ông cụ bị một thằng bé ‘vào
chơi’. Thằng bé chết lúc còn nhỏ, rất mê sữa, bánh ngọt. Tưởng hành hạ
ông cụ dữ dội thì người nhà sẽ sợ, cúng bánh trái sữa sùng, tha hồ ăn
uống. Nào ngờ ‘chúng nó’ chỉ mua thuốc tây, lớp chích lớp bắt uống.
Thuốc vào người đắng nghét, cu cậu khó chịu, bèn bóp miệng, bóp cổ ‘cho
bố chúng nó khỏi ăn’.
Trường hợp của cô bé tên Nga lại khác.
Nga mười tám tuổi, nghe báo tin người nhà mất, cô và mẹ tất tả vào nhà
xác bệnh viện Nguyễn Văn Học, lật khăn phủ mặt. Té ra không phải. Đột
nhiên Nga chúi mặt xuống đất, chổng mông lên trời, cứ thế đi giật lùi
leo lên tận lan can lầu ba. Sợ cô gái nhảy xuống, vài người vội xông
vào, Nga bỗng cất giọng đàn ông lớn tiếng đe dọa. Và không chỉ dọa, ‘ông
ta’ hạ lệnh ‘Nhảy đi !’.
Đám đông rú lên khi nhìn xuống đất, Nga
nằm một đống nhầy nhụa, đỏ lòm. Bác sĩ y tá ‘hốt’ đống bầy nhầy lên
cáng, cẩn thận ràng rịt trước khi đẩy vào phòng cấp cứu. Lập tức đống
bầy nhầy vùng dậy, bứt đứt dây ràng, đi vào phòng cấp cứu bằng cách tông
thẳng cửa kính, làm vỡ một lỗ to, lọt luôn vào phòng. Nhìn cảnh cô gái
máu me đầy người, gẫy hết hai chân, dập gan, vỡ xương chậu, xương sườn
mà vẫn hung hăng đập hết thứ này đến thứ khác bằng sức khoẻ của anh lực
điền, quả là một ấn tượng kinh khủng.
Chỉ
khi sư Đồng D. tới, thương lượng, cô gái mới nằm im, chịu cho bác sĩ
cứu chữa. Theo lời khai của kẻ ẩn mặt, thì y là biệt động, tấn công vào
Sài Gòn, hy sinh ở ngay vùng bây giờ là công viên Lê Văn Tám. Cùng y, có
thêm tám đồng đội nữa, tất cả đều chưa vợ. Trông thấy cô Nga xinh tươi,
anh biệt động sinh lòng ham thích, muốn bắt cô làm vợ cho cả bọn, vì
‘nó mười tám tuổi, đẻ đái được rồi’. Vừa đánh vừa đàm, cuối cùng sư Đồng
D tìm được tới chỗ của tám anh chưa vợ, làm lễ cầu siêu, đưa tro cốt cả
bọn về chùa. Còn Nga, hết bao nhiêu tiền của thuốc thang mới sống được,
nhưng cũng chịu tật nguyền, ngồi xe lăn vĩnh viễn.
Thấy tận mắt
Tất cả những chuyện trên, dù sao cũng chỉ
là nghe, cái kẻ viết bài muốn chính là được thấy tận mắt. Vừa hay tuần
qua xuống chơi với bạn, ở thị trấn Uyên Hưng, Bình Dương, vô tình được
sở cầu như ý.
Nhà bạn khá rộng, gần chợ nhưng không ồn
ào vì có khu vườn yên tĩnh vây quanh. Giữa vườn sừng sững một cây dầu cổ
thụ trăm năm tuổi. Sát vườn, bên kia tường là ba ngôi mộ nằm dưới bóng
chuối, tre um tùm, mát mẻ. Sáng chiều ngồi uống cà phê, nghe chim hót,
gió thổi, mưa rơi…bao nhiêu ô trược trần gian tưởng như tan hết. Em gái
bạn, tu theo Mật Tông Tây Tạng, mới đi Ấn Độ về, thấy chỗ lý tưởng để tu
thiền, bèn xin một chỗ làm tịnh thất. Cô em pháp danh Pháp Tấn này, kẻ
viết bài gặp vài lần, thấy trẻ trung, hòa nhã nên cũng mến.
Nhân buổi thư nhàn, nhà bạn bầy tiệc nhỏ,
mời ‘tao đàn thi hữu’ đến chơi. Đang cùng nhau cao đàm khoát luận, chợt
tiếng chuông hòa mùi hương trầm trong tịnh thất bay ra, chị C bỏ dở
cuộc vui, mặt biến sắc, mắt đảo lia, đứng dậy chạy cuống cuồng…. Từ đó,
suốt ba ngày liền, kẻ viết bài được chứng kiến cuộc đấu sức kỳ lạ giữa
chị C mặt lầm lì, không nhận ra ai, không nhớ chuyện gì, ban ngày nằm
như chết, ban đêm lần xuống bếp kiếm dao và sư cô Pháp Tấn.
Nội dung cuộc đấu sức thế nào, mắt trần
tai trần không biết, chỉ ghi nhận lưng áo lam đẫm mồ hôi, bàn tay bắt ấn
và những khẩu quyết rền vang bằng thứ tiếng chưa nghe bao giờ của sư cô
và những lốt chân đầy cát vô hình xuất hiện rành rành trên thảm trải
phòng, kéo từ Phật điện ra tận thềm nhà.
Chưa hết, ban đêm chen lẫn tiếng gió mưa
là tiếng binh khí va chạm vẳng lại từ phía cây dầu cổ thụ. Trong ngôi
nhà bật đèn sáng trưng không ai dám ngủ. Trước bóng đêm mịt mù và những
hiện tượng huyền bí trong lòng nó, bao nhiêu kiến thức khoa học hóa ra
vô dụng. Sang đến ngày thứ tư chị C bắt đầu tỉnh lại. Pháp Tấn đứng dưới
cây dầu già, lắc đầu, nói một mình ‘hung dữ quá thể !’.
Tác dụng của chuyện giao lưu với thế giới
siêu nhiên, với một số người có khả năng ngoại cảm xem ra là việc thực.
Chẳng thế mà cô Bích Hằng, ông Nguyễn Lưu ở miền Bắc nổi danh tìm mộ
giỏi. Khả năng tìm mộ của họ đã được quay video, được xác nhận là chính
xác từng chi tiết. Một số thầy bà dân gian khác, đông hơn, sử dụng khả
năng ‘ông lên bà xuống’ của mình để chữa bệnh, (hầu hết không lấy tiền
công khai trực tiếp). Chính khả năng này là chỗ nhập nhèm nhất. Có khả
năng đó thực không, thực đến đâu, hay không có nhưng lợi dụng lòng tin
của thân chủ, ít xít ra nhiều, vẽ vời roi dâu, tàn nhang nước thải, bùa
đeo lòng thòng để trục lợi khiến người bệnh hoặc thiệt mạng oan uổng,
hoặc mê mụ đầu óc dâng hết thân thể, nhà cửa, của tiền… cái đó không ai
biết chắc. Chỉ biết dù chính quyền tích cực dẹp trừ, thậm chí bắt giam
các thầy bói thầy bùa thầy pháp, nhưng các hiện tượng siêu nhiên vẫn
thách thức sự vào cuộc của các nhà tâm lý học, thần kinh học, tôn giáo
học, văn hóa học, y học…
Từ góc độ của người bàng quan, kẻ viết
bài không tiếp tay phổ biến, lôi kéo ai tin vào ma quỷ, càng không báng
bổ niềm tin của ai. Chỉ nghĩ, thời mông muội, khi khoa học còn chưa giải
thích được hiện tượng tự nhiên thì tôn giáo, và cả ma thuật đã làm
nhiệm vụ giải thích. Ngày nay, tuy đã vào kỷ nguyên khoa học cực kỳ hiện
đại, đủ loại máy móc tân kỳ giúp con người thăng thiên độn thổ, đi mây
về gió, kéo thế giới lại gần gang tấc, kết nối quá khứ, hiện tại, phóng
chiếu tương lai, nhưng trước câu hỏi con người thực có hồn vía không,
chết rồi đi đâu, cõi chết có giống cõi sống không, người sống có thể
liên lạc với ngưòi chết không vẫn không có lời giải đáp đủ khiến mọi
người tâm phục khẩu phục. Thế nên thái độ kính nhi viễn chi là an toàn
nhất. Tín ngưỡng đành là có, là cần, nhưng mê tín, thì chỉ nên ghi nhận,
miễn bàn! Còn nhớ trong mùa world cup năm nay, ở Nam Phi giới thầy bói,
thầy mo hoạt động hết công suất. (Ngạc nhiên nhất, thú vị nhất khi vị
bốc sư đoán trúng 100% kết quả thắng thua giữa các đội lại chẳng phải là
người, mà là con bạch tuộc tên Paul). Đến thế đủ thấy, chuyện mê tín dị
đoan đã phủ sóng toàn thế giới, chả riêng gì Việt Nam. Nhổ bật gốc rễ
nó lên, có lẽ cả con người cũng bật theo. Lợi không bằng hại!
MỘT CHUYỆN MA
Khi
thủ-đô Phnôm-Penh của Vương-quốc Cao-Miên (Royaume du Cambodge/ Kingdom
of Cambodia) được nới rộng vào những năm 1956 đến năm 1960), có một
chuyện ma sau đây :
Chú Thiệt làm chung với cha tôi tại Toà
Đô-Chính ở Phnôm-Penh (mairie de Phnôm-Penh/Phnom-Penh city hall) có một
đứa con trai tên Thà mới dậy-thì. Chú được chính-phủ cấp cho một miếng
đất có diện-tích là 8m x 18m. Chú cho cất một căn nhà sàn bằng loại gỗ
chịu được nắng mưa và mối mọt, cao 3m (mùa mưa nước trong những ao quanh
thủ-đô đều tràn nước nên đa-số nhà được cất trên một sàn được chống đỡ
bằng những cột trụ bằng gỗ).
Căn nhà được cất xong được chú Thiệt cho
ngăn ra 5 phòng riêng biệt (tất cả được đóng bằng gỗ như đã nói trên)
phòng khách, phòng ăn và hai phòng ngủ cùng một phòng tắm luôn bồn cầu
có hố vệ-sinh nằm sâu dưới lòng đất. Sau đó, chú trả lại căn phố đã mướn
trên đường Pasteur thuộc Quận 3 của Phnôm-Penh.
Ngày hôm sau của ngày mà gia-đình dọn vô
căn nhà mới, trong thời-kỳ nghỉ hè của các trường học, chú thấy thằng
Thà thức dậy sớm và đi giặt quần. Chú cho là thằng con trai của chú bị
mông-tinh hoặc nó thủ dâm. Mỗi đêm, sau mười hai giờ, chú Thiệt đi tiểu
và đi ngang phòng ngủ của thằng Thà. Chú nghe có tiếng thì-thầm bên
trong.
Chú lắng tay nghe thì chú nghe thằng con
của chú nói với ai đó : “Em đẹp và con con gái. Anh yêu em”. Chú không
nói gì, thằng Thà vẫn thức dậy sớm và giặt quần. Chỉ ba, bốn đêm, thằng
Thà teo nhách, tóp rọp, đi không muốn vững. Chú Thiệt vào sở làm và nói
cho cha tôi nghe chuyện kỳ-bí của thằng Thà về đêm. Cha tôi bảo rằng
thằng Thà đang lấy ma con gái.
Cha
tôi bèn giới-thiệu một ông thày pháp người Quảng-Đông cho chú. Ông thày
Tàu biết nói tiếng Việt và đọc thơ Đường bài Lương-Châu Từ của Vương
Hàn bằng tiếng Hán-Việt rành-rẽ. Ông ấy đem đồ nghề tới nhà chú Thiệt.
Ông bảo thằng Thà tắm rửa sạch-sẽ và bảo nó lấy miếng vải bùa được viết
bằng chu-sa chi-chít chữ Tàu quấn chặt bên ngoài một cây kéo mới. Xong
xuôi, ông chỉ nó đào một lỗ sâu chừng nửa thước tây ở một nơi mà ông nói
trong lòng đất có một bộ xương của một trinh-nữ người Việt đã tắm ao và
chết đuối được chôn nơi đây. Nàng này thấy thằng Thà khá đẹp trai cùng
trang lứa với nàng nên hiện hồn lên mỗi đêm vầy cuộc mây mưa với nó.
Thằng Thà để cây kéo có quấn là bùa vào trong lỗ và lấp đất lại. Ông
thày Tàu nói là bùa của Trương tiên-sư rất linh-nghiệm và quả-nhiên ông
không nói láo.
Kể từ ngày mà thằng Thà ếm bùa con ma
cái, nó ngủ thẳng giấc tới sáng, con ma cái không thể lên được. Chú
Thiệt mua thuốc đa sinh-tố (comprimés de multivitamines/tablets of
multivitamins) cho thằng Thà uống mỗi ngày một viên để bồi-bổ sức khoẻ
của nó và để nó đi học trở lại, lớp 7 trường trung-học Descartes (lycée
Descartes/Descartes secondary school) trong niên-học 1959-1960.
THẾ GIỚI TÂM LINH
Cõi người mà chúng ta đang sống không
phải là cõi duy nhất trong vũ trụ mênh mông. Mời các bạn khám phá những
cõi vô hình mà xưa nay ít ai nói đến http://www.tamlinh.net/coivohinh/index.html
Thưa các bạn.
Thưa các bạn.
Mục đích của tôi viết tập Cõi Vô Hình nầy là để giúp các bạn đã có sẵn lòng tin ở Thiên cơ được nghe thêm một tiếng chuông.
Từ trước đến nay, chúng ta chỉ nghe được
có một tiếng chuông Ðông Phương, chúng ta tin có Trời Phật, có Âm Dương,
nhưng không có gì là bằng chứng cụ thể. Cũng vì không có bằng chứng cụ
thể nên có một số người hoài nghi cho rằng đạo Phật chỉ là lý thuyết
suông, và có khuynh hướng theo đa số người Tây Phương chỉ tin vào khoa
học, tin vào những gì mắt thấy tai nghe, tin rằng ngoài cái đời vật chất
nầy không có gì khác cả.
Nhưng gần đây có một số học-giả Tây
Phương đã cố công tìm hiểu, họ đã biết được nhiều điều ở bên kia cửa tử,
và đã viết ra nhiều sách, những sách ấy ta có thể tin là đứng đắn,
không phải hồ đồ, vì với óc khoa học sẵn có, họ chỉ tin những gì mà họ
không thể chối cãi được.
Ðây chỉ là một tiếng chuông thứ hai từ Tây Phương.
Trong khi tìm hiểu sự thật huyền bí, được
nghe thêm một tiếng chuông nữa là điều rất quý. Tuy nhiên không thể coi
tiếng chuông nào là hơn, vì chúng ta là người phàm mắt thịt, có mắt
cũng như đui, có tai cũng như điếc, ngoài những điều mắt thấy tai nghe
không hiểu một điều gì khác, vậy nên không thể xét đoán tiếng chuông nào
là đáng tin hơn.
Ví dụ trong những sách của Tây Phương mà tôi đã lược dịch ra đây, có đoạn nói rằng không có thiên đường không có địa ngục mà chỉ có lương tâm của chúng ta,
xem vậy biết vậy, nhưng không phải vì thế mà coi hai cuốn Thiên Ðường
Du Ký và Ðịa Ngục Du Ký là vô giá trị. Chúng ta chỉ chú trọng đến những
điểm tương đồng là có Thượng Ðế, có Âm Dương có linh hồn bất diệt, có
luân hồi nhân quả, đó
là những điểm quan trọng nhất, những điểm ấy khiến cho chúng ta càng
vững lòng tin vào luật Tạo Hóa, luật Tạo Hóa là lòng Từ Bi, là Tình
Thương, là lòng Vị Tha. Không thể tu lấy riêng mình mà mong đắc đạo,
sách cũng nhấn mạnh không bao giờ có chuyện đó, phải coi người khác cũng
như ta, phải giúp người khác cùng tiến với ta, và trước hết phải làm
tròn phận sự của ta.
Tin nhiều hay tin ít là tùy tâm mỗi
người, tôi không dám có tham vọng gây lòng tin cho ai cả. Tôi đọc sách
thấy điều hay thì tôi kể lại để các bạn cùng chia sẻ với tôi, kể bằng
lời e còn thiếu sót nên phải viết ra giấy. Nếu bạn nào xem mà cũng cho
là hay, thì ấy là tôi đã làm được một chút việc có ích, và tiết kiệm
được thì giờ quý báu của bạn ấy không phải mất công đọc sách nguyên văn.
Nhất là đối với những ai không có đọc được sách Mỹ sách Pháp. Tôi chỉ
mong đem chút tài mọn giúp các bạn
Hoàng Ðạo Lượng
Mời các bạn click vào đây để xem những gì muốn xem :
2. Sau Khi Chết
Thuở Sơ Khai Người Trên Trái Ðất Ðại Lục Lemuria Dòng Dõi Thiên Thần
Những Máy Bay… Atlantics Hiển Nhiên Có Thật Ðời Sống Trên Atlantic Trái Ðất Chuyển Trục Biển Sargasso Bí Mật Thế Giới Thời Tiền Sử Những Thiên Thần… Những Giòng Tái Sanh Ði Sang Tinh Cầu Khác Main
Những Máy Bay… Atlantics Hiển Nhiên Có Thật Ðời Sống Trên Atlantic Trái Ðất Chuyển Trục Biển Sargasso Bí Mật Thế Giới Thời Tiền Sử Những Thiên Thần… Những Giòng Tái Sanh Ði Sang Tinh Cầu Khác Main
Và các trang mạng khác :
Chuyện Huyền Bí http://www.tamlinh.net/chuyenhuyenbi.html
Chuyện Tâm Linh http://www.tamlinh.net/chuyentamlinh.html
Chuyện Khó Tin http://www.tamlinh.net/kho-tin/khotin.html
Thuyết ăn chay http://www.tamlinh.net/an_chay/index.shtml
Yên Huỳnh post
NHỮNG CHUYỆN MÊ TÍN DỊ ĐOAN
Posted on 16.10.2010 by Thiên Việt
MÊ TÍN DỊ ĐOAN
CHA RUỘT ĐỒNG Ý
CHO NGƯỜI GIẾT CON
16 dân làng đã đồng lòng giết chết một
người vô tội chỉ vì tin rằng người này có bùa chú thư yểm. Chuyện không
thể tin được này xảy ra đầu năm nay ở xã Tân Khánh Hòa, huyện Giang
Thành, tỉnh Kiên Giang.
“Xã các bị cáo ở là xã vùng sâu, gần biên
giới, trình độ văn hóa thấp, người dân rất mê tín dị đoan. Khi nói đến
vụ án mạng này, ngay cả một vài cán bộ của xã vẫn còn tin rằng chuyện
bùa ngải là có thật, có người còn nghĩ nên tha bổng cho các bị cáo…”.
Ông Danh Bé nói như thế (ông là phó trưởng Ban dân tộc tỉnh Kiên Giang,
hội thẩm nhân dân của phiên tòa).
Sau gần 8 tuần xác minh điều tra, ngày
9/3, cơ quan điều tra Công an tỉnh Kiên Giang đã có đủ chứng cứ về vụ án
giết người xảy ra vào lúc 6h ngày 14/1 tại ấp Tiên Khánh, xã Tân Khánh
Hòa, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang. Các đối tượng là Tiên Qui, 30
tuổi, Tiên Dao, 38 tuổi, Tiên Dép, 30 tuổi, Tiên Thái, 27 tuổi, Tiên
Khắt, 25 tuổi, Tiên Sim, 40 tuổi, Tiên Tuôl, 23 tuổi, Tiên Bi, 32 tuổi,
cùng ngụ tại ấp Tà Teng, xã Phú Lợi, huyện Giang Thành và Tiên Chai, 18
tuổi, ngụ xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành; Tiên Ram, 25 tuổi, ngụ xã Tân
Khánh Hòa, huyện Giang Thành; đã đuổi bắt anh Tiên Som, 38 tuổi, ngụ tại
ấp Tà Teng, xã Phú Lợi, huyện Giang Thành. Cả bọn dùng vật nhọn là cây
tre, cây trúc đâm, dùng dây buộc vào tay, đánh chết nạn nhân.
Diễn biến câu chuyện
Anh Tiên Som ở xã Tân Khánh Hòa khi có
rượu thường hay khoe mình từng học gồng, học bùa. Đầu năm 2010, mẹ của
anh Tiên Som bệnh chết. Kế đến em và cha của Tiên Qui – một người cùng
ấp với anh Tiên Som – qua đời. Qui và những người địa phương cho rằng
anh Tiên Som đã làm bùa ngải thư chết người.
Ngay
cả ông Tiên Xem là cha của anh Tiên Som cũng tin vậy nên nhóm của Qui
xin ông Xem cho phép giết Tiên Som để trả thù cho những người đã mất,
đồng thời trừ họa cho dân làng. Ông Xem đồng ý.
Ngày 14-1-2010, thấy anh Tiên Som đang
cắt cỏ, 15 người với dao, búa, cây tre, cây tràm… đầy sát khí ào đến.
Anh Tiên Som hoảng hốt bỏ chạy vào nhà người dân gần đó, đóng chốt cửa
bên trong. Nhóm Qui rượt theo dùng cây tre đâm vào vách, phá tung cửa,
xông vào lôi anh Tiên Som ra ngoài. Cả nhóm xúm lại dùng dao, búa, cây…
chém đâm túi bụi vào người anh Tiên Som.
Sợ nạn nhân sẽ dùng bùa sống dậy trả thù
nên họ tiếp tục dùng dây trói tay, trói cổ kéo lê nạn nhân trên đường
kênh dẫn nước, rồi lại chém, đánh anh Tiên Som. Do bị kéo lê và đánh đập
dã man nên quần áo anh Tiên Som bị sút ra hết, trần truồng nằm trên
ruộng.
Gây án xong, Qui báo cho ông Xem rằng đã
giết chết Tiên Som. Ông Xem bảo : “Coi nó chết thật hay giả”. Qui trả
lời : “Chết thật”. Ông Xem nói : “Nếu ai có đến bắt, tao ở tù cho”.
Những con người tăm tối
16 bị cáo đứng chen chúc trước vành móng
ngựa trong phiên tòa sơ thẩm ngày 28-9-2010 vừa qua tại tòa án tỉnh Kiên
Giang với tội danh “giết người”.
Nghe mô tả hành vi, tưởng chừng như họ là
những tên sát nhân máu lạnh, nhưng những gì diễn biến tại phiên tòa cho
thấy họ là những nông dân chất phác, do mê tín, trình độ thấp nên mới
có những hành động hết sức tàn nhẫn như vậy.
Trước tòa, tất cả bị cáo đều cho rằng
không có mâu thuẫn hay gây gổ gì với anh Tiên Som. Lúc đánh anh Tiên Som
cũng thấy tội nghiệp nhưng “nếu không giết Tiên Som thì Som sẽ tiếp tục
dùng bùa chú giết hết cả làng”.
Khi tòa hỏi có chứng cứ không, toàn bộ nói rằng chỉ nghe lời đồn, vả lại chính Tiên Som đã từng khoe mình biết bùa chú.
– “Tại sao bị cáo lại giết anh Tiên Som.?”.
Bị cáo trả lời :
– “Do bị cáo rất tức giận vì cha và em ruột bị Tiên Som thư chết nên mới giết Som trả thù, cũng để cứu nguy cho mọi người”.
Chủ tọa hỏi :
– “Thế bị cáo có biết anh Tiên Som dùng bùa giết người như thế nào không ?”.
Qui đáp :
– “Bằng cách bỏ trứng gà, lưỡi lam vào trong bụng khiến người đó chết”.
– “Thế bị cáo có tận mắt chứng kiến không ?”.
– “Tuy không thấy nhưng bị cáo nghĩ là Tiên Som có làm”.
Chủ tọa thở dài :
– “Việc đó là do bị cáo suy diễn vô căn cứ, chứ có ai thấy anh Tiên Som thư người khác đâu”.
Vị đại diện viện kiểm sát hỏi bị cáo Xem :
– “Tuy bị cáo không trực tiếp giết chết
con mình nhưng chính bị cáo đã hỗ trợ đắc lực về mặt tinh thần cho các
bị cáo khác. Tại sao bị cáo lại đồng ý cho Qui giết chết Tiên Som.?”.
Bị cáo Xem nói :
– “Chính Tiên Som đã dùng bùa thư chết mẹ nó. Nó còn thư làm tui bệnh, nên tui mới đồng ý cho Qui giết nó”.
Khi
được tòa hỏi, người vợ của nạn nhân trình bày mong tòa xử nhẹ các bị
cáo, bù lại các bị cáo phải trả giùm 50 triệu đồng mà gia đình chị nợ
người ta. Tất cả các bị cáo, kể cả thân nhân, đều đồng loạt giơ tay hùn
tiền trả nợ giùm cho chị, để đổi lại việc không phải ở tù.
Vị chủ tọa phiên tòa phân tích : Luật
không cho phép dùng tiền trả để khỏi tội. Đây là tội hình sự nên ngoài
việc phải chịu hình phạt tù, các bị cáo còn phải bồi thường cho thân
nhân bị hại. Số tiền đó do tòa quyết định chứ không phải các bị cáo muốn
hùn tiền trả bao nhiêu thì hùn.
Chắc có lẽ đến lúc đó các bị cáo mới lờ
mờ hiểu ra ít nhiều. Bởi khi gây án, họ đã tin rằng giết “kẻ ác” trừ hại
cho xóm làng chắc không đến nỗi bị tội. Nhưng đến khi nghe hội đồng xét
xử phân tích, rồi tiếng người dự khán chắc lưỡi, ồ lên kinh sợ trước
hành động quá dã man và vị đại diện viện kiểm sát đề nghị mức án lần
lượt từ 7-16 năm tù, các bị cáo mới hốt hoảng, lo sợ.
Khi được nói lời sau cùng, 16 bị cáo đồng loạt xin giảm án để sớm về đoàn tụ với gia đình.
Tương lai mịt mờ
Trong khi tòa nghị án, tôi đến hỏi ông Xem :
– Tính tình anh Tiên Som thế nào, có hỗn
hào với vợ chồng ông không ? Tại sao ông cứ khăng khăng khẳng định con
mình dùng bùa giết người và anh Tiên Som thư chết người để làm gì ?
Giọng ông Xem quyết liệt :
– “Tính nó ít nói, nó cũng không có mắng
chửi tui, nhưng nó rất ác bởi nó thư chết mẹ nó. Có lần nó cho tui ăn
bánh, rồi tui bị sình bụng, tui đi coi thầy, thầy lang nói là chính nó
thư tui. Giết nó, cái lòng tui cũng xót, nó là con tui mà. Tui đã nhiều
lần la mắng nó đừng làm thế, nó vẫn không nghe. Bà con xóm làng ai cũng
sợ nó hết. Để nó sống nó sẽ thư hết cả xóm…”.
Thân nhân các bị cáo đều ủng hộ việc các
bị cáo làm ! Họ nói Tiên Som dùng bùa thư rất nhiều người nhưng may mắn
đều qua khỏi, chỉ có ba người chết. Bị cáo Tiên Chia còn nói :
– “Lần đó Tiên Som thư tui, khiến người
tui nóng ran, bứt rứt, khó chịu, may mà tui qua khỏi. Xóm có đám tiệc,
Som mà ngồi bàn nào là người ta dạt ra hết, không dám ngồi cùng bàn vì
sợ bị thư chết”.
Tòa tuyên án 16 bị cáo, người cao nhất là
Tiên Qui lãnh 15 năm tù, người thấp nhất là bị cáo Tiên Xem bị phạt 7
năm tù. Những tiếng khóc vỡ òa ra. Đa số các bị cáo đều nghèo, lại là
trụ cột của gia đình nên thời gian thụ án lâu chừng nào thì chắc chắn
gia đình điêu đứng đến chừng đó và con cái sẽ bỏ học. Riêng anh Tiên Som
chết ở tuổi 38, để lại bốn đứa con, đứa lớn nhất 16 tuổi, nhỏ nhất 6
tuổi.
Hôm nghe cha bị giết, cô con gái lớn rất sợ, ngồi co rúm trong góc nhà. Em mếu máo :
– “Cha rất hiền. Chỉ khi có rượu cha mới la nhưng cha rất ít uống rượu”.
Vợ anh Tiên Som khóc :
– “Mấy người đó ở tù rồi cũng được ra. Còn chồng tui không sống lại”.
Khi còn sống, ngoài việc chăm sóc 3 công
ruộng, anh Tiên Som còn đi làm thuê nên cuộc sống không đến nỗi túng
quẫn. Giờ gánh nặng dồn trên đôi vai người vợ. Chị cùng con gái lớn làm
lụng vất vả để nuôi ba đứa nhỏ tiếp tục đến trường. Nhưng sức phụ nữ có
hạn nên giờ nợ nần chồng chất.
Ông Trương Thành Đức, trưởng Công an xã Phú Lợi, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang, cho biết :
– “Nạn nhân và thủ phạm đều là những nông
dân nghèo chân chất, siêng năng chuyện đồng áng, chỉ vì mê tín mới gây
ra câu chuyện thương tâm như thế”.
MINH TÂM
THÁNH CÔ TRỊ BỆNH
THEO “BỀ TRÊN”
“Thánh cô” thì lên đồng, xem bói, còn cô
em gái thì mở dịch vụ châm cứu ngay tại đó, cho dù mới chỉ học khóa Châm
Cứu Trị Bệnh 2 tháng. Nhưng “Thánh cô” bảo : “Đấy là người do bề trên
phán về phải làm công việc phúc đức”.
Đúng như lời giới thiệu, khi chúng tôi
vừa đặt chân tới xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh, nhiều bà con
trong làng đã kháo nhau về chuyện bà Oanh “hiển thánh” chữa bách bệnh
cho khách thập phương.
Chị Nguyễn Thị An (Can Lộc) kể cho chúng
tôi biết : “Hồi thánh cô mới hành nghề, hàng ngày có đến hàng trăm người
đến xem, vì thế, các tín đồ nhiều khi phải đợi cả tháng. Giờ có số báo
danh nên đơn giản hơn. Nhưng một ngày, thánh cô chỉ giới hạn xem 15
người nên ai đến sớm ghi danh trước mới may mắn được gặp”.
Trong vai đôi vợ chồng mới cưới đến xin
“thánh cô” xem gia sự, nhưng để gọi tên, chúng tôi buộc phải nhờ đến
người quen đặt vấn đề mong “thánh cô” ưu ái cho xem trước. Tuy nhiên,
cũng phải mất năm lần, bảy lượt chúng tôi mới được chiếu cố đến. Ngồi
quan sát “thánh cô” phán cho một cô gái 18 tuổi : “Trong người con đang
xuất hiện một con ma nữ, có phải 3 tháng trước con ăn phải quả ổi khu
vực sau vườn nhà không ? Giờ con ma này cứ lớn lên dần mà không chịu ra.
Có phải con thường xuyên bị đau bụng quằn quại không ???”.
Khi thấy cô gái vừa khóc, vừa gật đầu lia
lịa, “thánh cô” nói tiếp : “Giờ ta cho con lá bùa về sắc lên uống mà
đuổi nó ra…”. Nhân được “lộc thánh” (thuốc), cả hai mẹ cô gái đều mừng
rỡ ra mặt.
Một thanh niên khác, “thánh” Oanh vừa xem
quẻ đã phán : “Đồ sát sinh, ta nhìn thấy tâm địa ngươi xấu lắm. Đã ăn
thịt chó mà còn đến nhờ ta chữa bệnh ? Về đi”.
Được cái, các tín đồ đều tỏ ra sợ hãi và
tin tưởng tuyệt đối. “Ngươi ra ngoài kia quỳ gối xuống đất mà sám hối
đi. Nếu ngươi biết ăn năn hối cãi thì ta xin bề trên tha tội cho ngươi”.
“Thánh” Oanh không cần bắt mạch, không
cần khám, chỉ nhìn, bấm bấm một hồi đầu các ngón tay rồi phái đệ tử ban
thuốc cho khách đưa về uống. Khi tín đồ nhận thuốc, “thánh cô” không
quên dặn các đệ tử nhớ bỏ tờ giấy (hay còn gọi là phép) vào thang thuốc
“mầu nhiệm”, còn nếu không làm như thế, thì không có công hiệu.
Không
những thế, “thánh cô” còn đưa một cô em tên Quỳnh về mở dịch vụ châm
cứu tại nhà. Được biết, cô em gái này của bà Oanh mới học xong khóa châm
cứu 2 tháng nhưng đã “hiên ngang” hành nghề tự do. Bà Oanh còn nói thêm
: Đây là người do bề trên phán về phải làm công việc phức đức”.
“Chuyện du khách hằng ngày đỗ xô về nhà
“thánh cô” chữa bệnh ngày càng đông thêm đang là vấn đề khó giải quyết
đối với chính quyền địa phương. Có hay không chuyện “lên đồng, lên bóng”
thì chưa có cơ quan chức năng nào xác định được”.
Bà Dương Thị Oanh năm nay (42 tuổi), văn
hoá 7/12, quê xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Từ khi về Thạch
Bằng làm vợ anh Đỗ Văn Bình, gia cảnh khó khăn, hai vợ chồng sống bằng
nghề thả câu trên sông nước. Sau đó, hai người dựng lều, sinh con đẻ cái
ở hẳn trên một bãi tha ma (nay là nhà bà Oanh). Chị Oanh đã tham gia
công tác đoàn thể, từng là một phụ nữ gương mẫu, đi đầu trong phòng trào
bài trừ mê tín, dị đoan vùng này.
Minh San
TIN KINH KHỦNG
CHÂU ÂU CÓ KHẢ NĂNG BỊ HỦY DIỆT VÀO NĂM 2013 ?!
Các quan chức NASA đã chính thức thông
báo, năm 2013 trái đất của chúng ta sẽ bị chấn động bởi một vụ nổ mặt
trời do bởi nguyên nhân : mặt trời đã đạt tới cực đại của sự vận động
nội tại của nó.
Vụ nổ này sẽ gây nên những thảm họa điện
từ cho toàn thế giới. Tất cả các vệ tinh do con người phóng lên vũ trụ
sẽ bị tê liệt, tất các các chuyến bay sẽ bị hủy bỏ, các máy phát điện sẽ
nóng lên và toàn thế giới có khả năng sẽ chìm trong bóng tối.
Theo The Telegraph, các chuyên gia của
NASA đã cho biết : Một cơn bão mặt trời siêu mạnh có khả năng gây nên
những thảm họa lớn nếu con người không chuẩn bị có hình thức ứng phó.
Cơn bão mặt trời tạo nên những cơn sóng điện từ đến một cách bất ngờ như
những tia chớp, có khả năng phá hủy bất cứ dụng cụ điện nào. Như vậy sẽ
dẫn tới hệ thống an ninh của các quốc gia sẽ bị tê liệt trong một thời
gian không xác định, hệ thống ngân hàng sẽ không hoạt động.
“Chúng tôi biết thảm họa này đang tới gần
nhưng không lường được hậu quả xấu của nó gây ra đến đâu. Tất cả các hệ
thống thong tin liên lạc vệ tinh sẽ bị phá hủy hoàn toàn; các vệ tinh
thám không sẽ bị hư hại và hệ thống máy tính toàn thế giới sẽ bị phá
hỏng. Nhiều vùng đất sẽ không có điện…”
Đó là tuyên bố của Giám đốc Cơ quan
nghiên cứu mặt trời của NASA : Tiến sĩ Richard Fisher. Trong cơn bão mặt
trời, nhiệt độ của mặt trời sẽ vượt quá 5.500 độ bách phân… (Nguồn:http://www.adevarul.ro/actualitate/VIDEO-NASA)
Châu Âu bị hũy diệt vào năm 2013 ?!
Tờ Telegraph vừa đưa tin : Các nhà khoa
học vừa dự đoán về một thảm họa có thể xảy ra : một vụ nổ của mặt trời
vào năm 2013 tại khu vực châu Âu. Như cơ quan NASA dự đoán.
Trong
một cuộc họp báo Tiến sĩ Richard Fisher đã thông báo : sẽ có vụ va chạm
của những tia sóng điện từ với một mức độ không thể lường định được.
Rất nhiều nhà nghiên cứu cho biết : “vụ nổ mặt trời” sẽ xảy ra vào năm
2013 khi mà trái đất có thể bị tiếng nổ cực mạnh này xô vào. “Khu vực
xảy ra vụ nổ sẽ dẫn tới bị mất điện kéo dài. Sóng điện tử này sẽ lan tỏa
điên cuồng như ánh chớp…”
Theo các nhà khoa học Anh, vụ nổ mặt trời
sẽ rất mạnh có thể phá hủy toàn bộ hệ thống thông tin và gây hậu quả
khủng khiếp đối với con người; nó có sức công phá mạnh tương đương với
100 quả bom Hidrogen… Theo các nhà khoa học thì nếu vụ nổ mặt trời này
gần quả đất thì rất nhiều quốc gia sẽ bị hủy diệt. Trong một cuộc họp
báo Tiến sĩ Liam Fox đã thông báo : Nước Anh, Bắc Triều Tiên, Iran có
thể có khả năng hứng chịu thảm họa này.
Vào năm 2013 vụ nổ mặt trời sẽ va chạm
với trái đất và rất khủng khiếp; nó sẽ hủy diệt toàn bộ các vệ tinh do
con người phóng lên vũ trụ và các con tàu thám hiểm không gian.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Anh vừa tuyên bố
sẽ sang gặp các chuyên gia NASA trong một cuộc hội thảo để bàn cách hạn
chế thấp nhất những sự phá hoại do vụ nổ mặt trời gây ra vào năm 2013.
PHẠM VIẾT ĐÀO.
MA ÁM VÌ MỞ LUÂN XA
Posted on 24.09.2010 by Thiên Việt
NHỮNG HIỆN TƯỢNG
BỊ MA ÁM
VÌ MỞ LUÂN XA 6 – 7
Tôi viết bài này với mục đích trình bày
một sự thật đau lòng đã và đang xảy đến cho gia đình tôi và mong bạn đọc
nếu có thể được thì phổ biến tin tức này cho người thân quen dùm để
tránh những đau thương tuơng tự có thể xảy đến cho người khác.
Tôi chỉ là một nguời băn khoăn với sự an
nguy của hai đứa em gái thân yêu trong gia đình hiện đang phải đối phó
với những kẻ thù ma mãnh, có hồn mà chẳng có thân xác, đang chiếm ngự
thân xác của 2 em. Tôi cũng rất quan tâm đến sự an nguy của những người
có thể là nạn nhân tương lai của việc học nhân điện khoa tự động mà đánh
liều viết bài này với tất cả tâm thành. Tôi cố gắng trình bày chuyện
đã xảy ra trong gia đình, hy vọng bạn đọc qua kinh nghiệm đau thuơng của
gia đình tôi mà không bước vào vết xe đổ này nữa. Những chuyện tôi viết
sau đây là chuyện thật sự xảy ra, không một lời thêm bớt, theo trí hiểu
biết hạn hẹp của tôi.
Vì học “Nhân điện”
Khoảng đầu tháng 4 năm 2007, qua lời giới
thiệu của một nguời cháu ruột, hai em gái của tôi (tạm gọi là em A và
em B) đã đến thọ giáo với thày Mai viết Nhự, ở Phường Tam Hòa, Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai. Thày
Nhự dạy học trò môn Nhân Điện Khoa Tự Động, thày không có tính tiền học
phí gì cả. Thày chỉ dạy học trò trong 6 ngày, chứ không như các môn
phái nhân điện khác thuờng phải mất nhiều thời gian hơn, có thể đến 6
tháng. Khi đến học, thày sẽ để tay lên đầu, lên trán để mở luân xa số 7
và số 6 bằng nhân điện của chính thày. Thày cũng mở những luân xa 5,4,
3, 2 và 1 bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống
lưng. (Quý vị có thể tìm hiêu thêm về những luân xa này qua quyển
Journey to the East của giáo sư Spalding,Bản dịch rất hay của Nguyên
Phong là Hành Trình Về Phuơng Đông, chapter 8 hay 9 nói về Cõi Giới Vô
Hình. Thày CE Hằng Truờng cũng có giảng về những luân xa này trong số
các băng giảng của Thày mà tôi không nhớ được tên).
Luân xa số 6 và số 7
là cửa ngõ để thể xác của con nguời có thể tiếp xúc được với thế giới
tâm linh và cõi giới vô hình mà mình không thấy đuợc. Theo tôi hiểu, đó
cũng là cánh cửa bảo vệ những người đang sống trong thế giới này khỏi
phải tiếp xúc với những hồn ma bóng quế của thế giới những nguời đã
chết.
Trong trường hợp em B của tôi, chỉ 5 phút
sau khi thày Nhự dùng nhân điện của thày để mở luân xa cho em, B rùng
mình một cái rồi 2 tay B tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển
của B, vái lạy tứ phương và B có thể quay nguời dẻo dai như nguời lên
đồng, múa lên những động tác mà B, môt người thường bị đau lưng kinh
niên, không bao giờ có thể làm đuợc. Bệnh đau lưng, mệt mỏi trong B do
đi làm vất vả lại thêm cuộc hành trình xuống nhà thày Nhự từ Saigon trên
cái xe không êm ái, trên đoạn đuờng kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên
biến sạch. Còn em A, thì sau 4 ngày tập luyện, sang đến ngày thứ 5 thì
em cũng thấy tự nhiên 2 tay em chắp lại, vái lạy tứ phương rồi đi vào
những điệu múa mà dù em đang tỉnh táo 100% vẫn không sao chủ động ngừng
lại được.
Cần nhắc lại là em A của tôi đã bị mổ gai
cột sống vài tháng trước và 2 tay đang bị hiện tượng như Carpel Tunnel
Syndrome và Tennis Elbow, không cử động được 2 bàn tay, 2 cổ tay, đau
nhức dần lan tới 2 vai, bác sĩ Tây Y đã đề nghị phải mổ cả 2 tay rồi.
Với nhân điện học được, cả 2 em gái tôi
tuy mới đầu cùng cảm thấy lạnh tóc gáy, sởn gai ốc vì việc vái lạy tự
động cùng các động tác siêu nhiên mà 2 em không làm chủ được – nhưng vẫn
đủ sáng suốt để tự quan sát những động tác quái lạ này, vẫn cảm thấy
rất hài lòng với những kết quả y học thần kỳ trên cơ thể của 2 em. Hai
em rất vui vẻ, sung sướng nghe lời thày Nhự dạy bảo là khi muốn chữa
bệnh cho mình hoặc nguời khác là chỉ cần kêu “6,7 hãy chữa bệnh này đi
!” là 6,7 (luân xa 6 và 7) sẽ làm đúng y như vậy. Em A còn hân hoan khoe
với tôi qua điện thoại là 6, 7 của em rất giỏi; có 1 hôm em sơ ý bị một
hộp thịt đã mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề. Em bèn kêu 6, 7
cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền; em kể cho tôi nghe rất hăng hái,
khuyên tôi nên về Việt Nam để đi học nhân điện ở thày Nhự để chữa bệnh
tiểu đuờng vốn đã làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.
Thú thật với các bạn, tôi nghe những
thông tin này mà chỉ cuời thầm là sao 2 em tôi, có ăn học tử tế, là
những nguời tốt nghiệp đại học hoặc tuơng đương, rất thành công trong
công ăn việc làm với chủ nhân là những công ty nuớc ngoài, lại có thể
nói những chuyện không tuởng như thế này. Nhưng tôi biết cả 2 em tôi là
những nguời rất thẳng thắn, không nói trăng nói cuội, không mê tín dị
đoan, do đó tôi không bài bác gì cả, chỉ im lặng lắng nghe, và nghĩ
thầm, “Muốn chữa bệnh hoạn thì phải thay đổi lối sống của mình, phải ăn
đồ ăn tốt, nhiều rau cỏ, bớt thịt đỏ, mỡ màng, tập thể dục đều đặn, đi
bác sĩ khám định kỳ chứ sao lại có cái vụ Nhân Điện Khoa Tự Động cứ như
chuyện Liêu Trai Chí Dị thế này !”
Bẵng đi đến khoảng cuối tháng 6, năm
2007, em trai tôi ở Saigon bỗng gởi E mail cho cả đại gia đình bên Mỹ
rằng em A và em B nay đã phát hiện ra rằng 6,7 của 2 em thực chất ra là 2
hồn ma vất vuởng vốn đã chết từ mấy chục năm nay, qua sự mở luân xa 6,7
của thày Nhự, mà xâm nhập thân thể của 2 em, và đang mở chiến dịch
chiếm hữu đầu óc rồi dần dần thân xác của 2 em. Em B hiện đang rất vất
vả đối phó với con ma trong B; còn con ma trong A thì êm ả hơn nhưng
dùng chiến dịch nói ngọt như mía lùi để chiếm hữu lòng tin của em A.
Đọc
thơ em trai mà tôi ngỡ như trong mơ. Ông xã và tôi lập tức xin nghỉ
phép ở sở, và mua vé về VN để xem tình hình thế nào. Trong lúc chờ đợi
visa và vé máy bay, tôi vào internet và đọc tất cả các tài liệu hoặc
nghe băng giảng của các thày Hằng Truờng về Thân Trung Hữu, thày Nhật Từ
về Quyết Nghi về Ngoại Cảm và Cõi Âm; Cận Tử Nghiệp của thày Tâm Thiện,
những bài nói chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sách Hành
Trình Về Phương Đông của Nguyên Phong dịch từ cuốn Journey To The East
như đã nói ở phần trên. Sau này, về tới Saigon tôi đọc thêm sách Hiệu
Ứng Sinh Học của Kỹ Sư Đỗ Thanh Hải (tôi xin lỗi không nhớ rõ tên lót
của Kỹ Sư Hải), sách “con Người Thoát Thai Từ Đâu của 1 nhà khoa học Nga
tôi không nhớ tên, vv… để tìm hiểu về thế giới của những nguời đã
khuất, và hồn ma bóng quế là gì. Theo những gì tôi góp nhặt được từ
những nguồn tài liệu vừa nêu, thì con người chúng ta đuợc cấu tạo bởi
phần xác (physical body – hay khung cộng huởng sinh học theo chữ dùng
của Kỹ Sư Hải) và phần hồn (mind – sóng sinh học theo Kỹ Sư Hải). Khi
chúng ta chết đi, thì chỉ có phần xác tan rã thôi, nhưng phần sóng sinh học vẫn còn hiện diện duới dạng các sóng năng lượng.
Với những nguời khi chết đi với tấm lòng
thanh thản, không có gì nuối tiếc lưu luyến với cõi trần vừa tạm sống,
các sóng sinh học của nguời mới chết sẽ dễ dàng siêu thoát để đi đầu
thai kiếp khác, hay lên cõi thiên Đàng, cõi Trời nào đó. Còn những nguời
chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, chết trong đau đớn hay lo sợ, trong
tiếc nuối về những công chuyện còn dở dang trên trần thế thì sóng sinh
học của họ sẽ không bay cao đuợc mà cứ là là trên mặt đất, thành những
hồn ma vất vuởng lang thang, thân xác đã mất mà lòng ham muốn, tham sân
si, ngã, mạn vẫn còn đó. Cho đến khi các sóng sinh học hay vong linh
này hiểu ra rằng mình đã chết và tất cả các mong muốn trần tục của mình
chỉ là không thì họ sẽ bay cao lên các tầng trên để trở lại đầu thai cho
kiếp mới. Thế nhưng cũng có những vong linh dù đã chết hàng trăm
năm hay vài chục thế kỷ vẫn không giác ngộ đuợc lý vô thường của cuộc
đời, lại muốn tìm đuờng tắt mà đi, bèn tìm cách nhập vào thân xác của
những người còn sống đã bị mở luân xa 6, 7 như 2 cô em của tôi, hoặc có
vong linh có sóng sinh học cộng huởng với sóng sinh học của nguời còn
sống thì sẽ nhập vào thân xác của những người này, và tìm cách chiếm hữu
trí não của nguời bị xâm nhập trước rồi từ đó sẽ sai khiến các hành
động của nguời này theo ý của vong linh.
Các vong linh này là ma ác, rất khó giác
ngộ và người bị xâm nhập sẽ rất vất vả để đánh đuổi quân xâm luợc này ra
khỏi cơ thể của họ. Các vong linh có tính khí hệt như tính khí của họ
lúc còn sống, dù đã chết cách đây bao nhiêu năm. Đa số các vong linh
thì hiền lành hơn, không hề có ý định xâm nhập cơ thể của bất kỳ ai.
Cũng có những vong linh, nếu có xâm nhập một cơ thể nguời sống nào, thì
cũng chỉ ở tạm trong 1 thời gian rất ngắn để nhờ nguời này giúp mình
hoàn thành tâm nguyện mà vong linh đã không hoàn thành đuợc khi còn sống
rồi vui vẻ ra đi khi tâm nguyện đã thành.
Khi tôi về Saigon, tôi quan sát cả 2 cô em và hiểu rõ ràng rằng mỗi em đã bị một hồn ma xâm nhập. Trong
môi truờng làm việc bên Mỹ của tôi, tôi cũng đã có dịp tiếp xúc với một
số bệnh nhân có bệnh tâm thần, do đó, đây là điều tôi để ý truớc khi
làm việc với 2 em của tôi để xem coi hai em có bị chứng Disassociative
Identity Disorder (formerly Multiple Personality Disorder) duờng như
dịch sang tiếng Việt là bệnh tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng hay sao
đó ? Một trong những criteria của bệnh này theo DSM-IV (Diagnostic and
Statistical Manual of Mental Disorders – Fourth Edition) là bệnh nhân
không nhớ được những gì mình đã làm khi nhân cách thứ hai chiếm hữu thần
trí và cơ thể họ.
Thí dụ chị Jane có 2 nhân cách trong
người chị Jane mà thường xuất hiện nhiều lần: một là chị Jane hiền lành,
nhút nhát, không thích đi shopping; và nhân cách thứ hai là anh John
thì rất ư là kiêu ngạo, thích sắm đồ thể thao. Khi John xuất hiện trong
thể xác của chị Jane, thì John đi Big 5 sắm nào là quần áo bơi, kiếng
lặn, ống lặn, vân .. vân .. Đến khi chị Jane trở lại làm chủ bản thân
của chị thì chị cứ ngẩn ngơ ra, không thể hiểu tại sao tự nhiên trong
nhà mình lại có mấy cái đồ mua từ Big 5 như vậy. Cá nhân chị Jane thuờng
xuyên bị những lúc quên đi, không nhớ nổi những chuyên mình đã làm khi
hành động với nhân cách thứ hai của mình (Inability to recall important
personal information that is too extensive to be explained by ordinary
forgetfulness) .
Truờng
hợp của hai em tôi thì khác hẳn, cả hai đều biết rất rõ mình là ai,
không hề bị lẫn lộn nhân cách ngay cả khi người âm trong 2 em nói chuyện
với hai em bằng tư tưởng. Xin nói rõ hơn là người âm
trong hai em tôi không hề lên tiếng nói được trong đầu (no voice), mà họ
chỉ gởi tư tuởng chạy trong đầu như kiểu E mail, tôi gọi là E thoughts (electrical thoughts)
cho hai em hiểu; con ma trong em B thì rất lắm mồm, nói huyên thuyên
suốt ngày toàn chuyện hắn ta và gia đình bị giết như thế nào ở Cambodia
trong thời kỳ Khmer Đỏ 1975, và cũng dùng những ngôn ngữ thô tục để sách
nhiễu tình dục em B.
Em B rất cương quyết chống đối lại những
sách nhiễu này và cương quyết không tham dự vào bất cứ cuộc nói chuyện
nào của con ma trong em. Do đó hắn ta rất giận dữ và thường phản ứng lại
bằng cách gởi những luồng điện mạnh vào khoảng 1.5 volt để châm chích
vào những huyệt đạo trong người em B để tạo những cảm giác nhức nhối như
bị kiến cắn trong vòng 1/2 tới 1 giây (second) đồng hồ; sau đó hắn ta
cũng hết điện phải recharge lại khoảng vài giờ sau mới có thể tấn công
tiếp. Qua thông tin của hắn, em B kể lại cho tôi biết rằng con ma này bị
bè lũ PonPot bắn chết hoặc cắt cổ chết (hắn không nhớ rõ đuợc hắn chết
như thế nào, vì có lẽ quá kinh hoàng khi bị giết) năm 1975 khi mới 24
tuổi cùng với người vợ khi đó đang có thai 4 tháng. Trong 32 năm qua,
hắn đã nhập vào 7 người trong đó em B tôi là nạn nhân thứ 7.
Chúng tôi đã nhờ nhiều sư tăng, ni sư và
cả một cha bên Công giáo nói chuyện với hắn bằng bút đàm để khuyên nhủ
và hỏi xem chúng tôi có thể làm gì để giúp hắn siêu thoát. Thọat đầu hắn
còn đóng vai trò tử tế nào xin lễ cầu siêu ở chùa, rồi lễ rửa tội ở nhà
thờ. Chúng tôi đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu này cho hắn thì cuối
cùng hắn tuyên bố là hắn chỉ đòi hỏi thế để câu giờ mà thôi chứ hắn hoàn
toàn không có 1 ý định nào để xuất ra khỏi người em B cả. Hiện nay
chúng tôi đang nhờ chị K. theo Công giáo ở Houston Texas hàng đêm gọi
điện thọai trừ tà qua phone theo lời giới thiệu của 1 vị linh mục khả
kính chuyên lo việc trừ tà. Linh mục này tên là T. Cha T sống và làm
việc ở 1 nhà thờ VN, nhưng cha hiện đang công tác dài ngày bên Mỹ. Khi
chúng tôi liên lạc được với cha để nhờ giúp đỡ thì cha giới thiệu chị K.
sẽ giúp em B hàng đêm qua phone. Thực tình khi nghe cha T nói như thế,
tôi rất thất vọng và lẩm bẩm làm sao mà có thể trừ tà qua phone đuợc,
nghe cứ như chuyện hoang đuờng. Ấy thế mà lại là sự thực đấy các bạn ạ.
Chị K. đã giúp em B qua phone bằng cầu nguyện, đọc kinh Tân Uớc, xức
dầu thánh, uống nuớc thánh và con ma trong B ngày càng yếu dần đi đến độ
không thể gởi E thoughts cũng như năng luợng của hắn cũng như số lần
châm chích em B ngày càng giảm dần đi. Chị K. tin tuởng rằng em B sẽ
đánh bật kẻ xâm luợc ra khỏi cơ thể em trong 1 thời gian ngắn, hy vọng
thơi gian chữa trị không quá 20 ngày. Chị K. cũng cho tôi biết rằng thời
gian vừa qua, có một số nữ tu công giáo từ Mỹ về VN, cũng đến học nhân
điện với thày Nhự ở Biên Hòa. Khi về tới Mỹ, tất cả các nữ tu này đều có
hiện tượng ma nhập, từ chối vào giáo đường, la hét, ói mửa khi đọc kinh
hoặc lên cơn động kinh, múa may những động tác supernatural trong nhà
thờ.
Cha T, Chị K và một nguời nữa có khả năng
trừ tà đã và đang giúp số nữ tu này bình phục trở lại. Do đó chị K. có
rất nhiều kinh nghiệm đối phó với những hồn ma không hiểu vô tình hay
cố ý mà thày Nhự đã tạo cơ hội cho những hồn ma này nhập vào các nạn
nhân ngây thơ đến nộp mình cho quỷ mà lúc đầu các nạn nhân này tưởng
rằng chỉ đi học nhân điện để mong tự trị bịnh cho mình. Xin Chúa ban
phuớc lành cho những người như chị K. Chúng tôi rất cảm kích truớc sự
giúp đỡ nhiệt thành của chị K. và cha T.
Về phần em A thì chúng tôi có khó khăn
hơn nhiều so với em B. Lý do là con ma nhập vào em A tự xưng là 1 vong
nữ có tên rất đẹp, tôi không tiện nêu lên ở đây. Con ma này nói rằng cô
ta sinh năm 1901, là con một của 1 gia đình gốc Việt giàu có bên Cam
Bốt. Cô ta là nữ sinh truờng Marie Curie, nói tiếng Pháp rất giỏi. Thuở
sinh tiền, cô thuộc loại con gái nhà giàu hư hỏng, dùng tiền cha mẹ ăn
chơi nhảy đầm trác táng, cuối cùng chết vì bịnh hen suyễn (hay ho lao ?)
năm 1943 trong sự tiếc thương của cha mẹ cô. Cô ta nói chuyện hết sức
ngọt ngào, rất nịnh hót em A của tôi, nào là em A tử tế, tốt bụng, nào
là các con của em thông minh, học giỏi, ngoan ngoãn, lại hết sức chăm
sóc sức khoẻ cho em A mỗi khi trái nắng trở trời.
Khi tôi về Saigon, cô ta cũng dùng bút
đàm khen tôi nào là hay là tốt đủ kiểu. Cô ta ngọt ngào dến nỗi em rể
của tôi, chồng của A, cũng thấy rằng sự hiện diện của cô trong em A chỉ
là điều tốt cho gia đình vì sức khoẻ của A rõ ràng được cải thiện. Rất
khó cho tôi để thuyết phục em A là em đang bị con ma nữ này dùng chiến
thuật mật ngọt chết ruồi để dần dần chiếm trọn đầu óc A rồi 1 ngày nào
đó các con của A sẽ chỉ có cái xác là mẹ A mà hồn và hành động sẽ là của
con ma ấy. Mỗi lần nói chuyện này với em A là em lại nổi nóng lên cho
rằng em hoàn toàn làm chủ thân xác và ý tưởng của em, còn con ma thì
hiền lành giống như “1 bà tiên” vậy. Nhìn em và nghe em nói như thế,
tôi chỉ âm thầm khóc và lo sợ mà chả biết làm gì khi cả gia đình riêng
của em tôi không hề coi đó là chuyện quan trọng. Em A rất thương và lo
lắng cho em B trong việc đánh đuối kẻ xâm luợc trong B, nhưng chưa hề có
ý định nào để đánh đuổi cái vong nữ trong người của em A cả.
Phước
nhà còn dày cho nên vào khoảng đêm thứ 4 sau khi chị K. từ Texas bắt
đầu giúp em B đánh đuổi tà ma trong nguời em, chị K. than phiền vơi gia
đình tôi là tại sao qua phone, chị đã đánh con ma trong B tơi tả và nó
đang yếu đi rõ ràng thì tự nhiên lại có một sức mạnh ngoại nhập ở đâu
giúp con ma trong B mạnh trở lại. Chúng tôi bèn dùng phương pháp loại
suy xem những nguời nào hiện diện với em B khi em đang nhận điện thoại
từ chi K.
Chúng tôi phát hiện ra rằng, khi con ma
trong B kêu rên khóc lóc (tức là em B kêu khóc 1 chút xíu, rồi em B lại
trở lại là em B 100%), tức thì em A lại lo đấm bóp cho B 1 cách không
bình thường như kiểu ma nhập, tức là mặt A hơi dại đi, tay chân dẻo quẹo
xoa bóp cho B. Lúc đó tôi có bảo sao A lại làm vậy thì em trả lời là
6,7 của em ghét con ma trong B lắm và muốn xoa bóp giúp B đỡ mệt. Chúng
tôi có ngờ đâu là con ma nữ này đang truyền nhân điện giúp con ma trong B
hồi phục lại. Khi nghe chị K. than phiền, tôi bèn nói A không được phép
ở trong phòng B và đụng chạm vào nguời B nữa. Em A bực mình bèn hạch
hỏi con ma nữ trong em. Con ma này bèn viết 1 lá thư dài 2 trang giấy
xin lỗi cả gia đình tôi là quả thật nó có giúp đỡ con ma trong B vì thấy
con ma này bị chị K. đánh tả tơi, nó cầm lòng không đậu nên ra tay tiếp
thêm nội lực cho nó.
Con ma nữ xin lỗi cả nhà tôi, đặc biệt là
với tôi, vì nó nói tôi vẫn đối xử với nó lịch sự lắm, không ngờ nó lại
làm tôi thất vọng như vậy. Nó cũng hứa là sẽ xuất khỏi A nêu chúng tôi
đưa nó lên tịnh xá Linh Quang ở Quận 4 Saigon để nó xuất gia đầu Phật
vào thứ bảy July 28, 2007. Hai ngày sau đó. Em trai tôi cho biết là
truớc đó, con ma nữ này cũng đã hứa nhăng hứa cuội nhiều lần là đưa nó
lên chùa này chùa nọ để nó xuất ra mà lần nào cùng chỉ toàn dối trá,
nhưng vấn đề là em A của tôi vẫn 1 mực tin yêu và cho rằng con ma này có
tâm hồn nhân hậu, chỉ 1 phút yếu lòng mà giúp đỡ con ma trong B thôi.
Tôi bèn nhân cơ hội này bảo với em A rằng, thôi được rồi, tôi tin lời
hứa của con ma, tôi vẫn tiếp tục đối xử tử tế với nó, sẽ tha thứ lỗi lầm
của nó nếu như nó giữ đúng lời hứa là sẽ ra đi vào thứ bảy July 28.
Riêng bản thân tôi, tôi hứa sẽ trọn đời cầu nguyện cho linh hồn của cô
ta hàng đêm sau khi cô ta thực hiện lời hứa của cô. Nhưng nếu đến thứ
bảy đó, sau khi mình đã làm đủ theo yên cầu của cô ta mà cô ta cũng
không đi thì em A phải quyết tâm đánh đuổi con ma ra và cắt đứt mọi liên
lạc với nó. Em A bằng lòng như thế với tôi. Còn con ma cũng ra vẻ rất
nhiệt tình và rất cảm động truớc lời hứa này.
Hai ngày sau, tôi đưa em A lên chùa Linh
Quang. Chúng tôi đến từ lúc 10:30 sáng, dự lễ cầu an cho người sống tới
11 giờ, rồi ăn cơm chay tại chùa. Rất nhiều người ta đến chùa để đuợc
chữa bênh, có nguời thì bệnh vật lý như ung thư, nhức mỏi; có người bị
bệnh tâm thần nhưng cũng có rất nhiều người bị ma ám như em A (thái độ
của nguơi bị ma ám rất khác với nguời bệnh tâm thần, tôi cảm nhận đuợc
nhưng không diễn tả đuợc). Đến 12:30 trưa, người có bệnh đã xếp hàng
ngồi thành 2 hàng trong đại điện dài dằn dặc, dễ có đến hơn 150 nguời
chứ không ít. Tôi quỳ ngay sau lưng em A, đợi khoảng hơn nửa tiếng đồng
hồ thì tới phiên em A được vị sư già mặc áo tăng bào vàng hơi đỏ, vai áo
bên phải để trần (chắc là vị sư này thuộc phái Nam Tông), chữa bệnh.
Tôi quỳ ngay sau lưng em A, nghe loáng
thoáng em vắn tắt thưa với Thầy là có 1 vong nữ trong em, có nhờ em đưa
lên chùa này hôm nay vì vong nữ này muốn xuất khỏi nguời em hôm nay,
mong thầy giúp đỡ. Vị sư này bèn để 3 ngón tay lên đầu em, miệng lâm râm
niệm chú, rồi để 1 cái mõ nhỏ lên đầu em, gõ lóc cóc vài cái. Xong
Người quay sang bên cạnh, lấy 1 ly nuớc nhỏ do người đệ tử bên cạnh trao
cho, co mấy ngón tay lại trên miệng cốc, lẩm nhẩm chú niệm gì đó trong
miệng rồi đưa cốc nuớc cho em tôi uống.
Thế là xong, em tôi ra khỏi hàng đến quỳ
ngay truớc bàn thờ Phật Bà Quan Âm ngay cạnh đó. Tôi bèn nhảy ra khỏi
hàng, hỏi em A là chuyện gì xảy ra vậy, con ma đã xuất ra chưa ? Thốt
nhiên tôi thấy em tôi xoè bàn tay phải ra, giơ thẳng bàn tay ra trước
mặt rồi dùng hết sức lực đấm thình thịch vào ngực, đỉnh đầu và trán của
em liên tiếp mấy chục cái. Sức đấm mạnh đến nỗi nguời em tôi lảo đảo sau
từng cú đấm. Tôi kinh hoàng, hỏi em, “Em ơi, chuyện gì vây, sao em lại
tự đánh em như thế ?” Em trả lời tôi, “Bà ấy muốn ra, em đang làm thế
để giúp bà ấy ra.”
Tôi nhìn nét mặt của em tôi, tôi thật
tình không biết lúc đó em tôi là em tôi hay là con ma nữa. Tôi chỉ cảm
thấy toàn thân tôi đau đớn như đang bị đánh, những cú đánh của em tôi
mạnh mẽ vang lên trong tim trong óc tôi. Cả bao nhiêu nguời trong đại
điện, cả vị sư già ngồi cách em tôi chừng nửa thước, chả ai thèm để ý
đến em cả, duờng như những sự việc ma nhập, tự hành hạ thân xác như thế
đã diễn ra quá thường xuyên ở đây. Không biết làm gì, tôi nhảy trở vào
hàng người đang xếp hàng, bây giờ đã ngắn đi rất nhiều để hỏi vị sư già
trị bịnh đầu đuôi câu chuyện.
Chỉ khoảng 5 phút sau, đã đến phiên tôi,
tôi bèn quỳ chắp tay hỏi rằng, “Thưa Thầy, em gái của con vừa rồi có
thưa với thầy là cái vong nữ trong người nó có nói rằng nhờ đưa lên chùa
hôm nay để vong nữ này xuất ra; con em của con đã đuợc gặp thầy và đang
ngồi kia – tôi chỉ tay về phía em A; xin Thầy giảng cho con biết chuyện
gì đang xảy ra vậy ?” Vị thầy nhìn tôi cười, tôi không thể xác định đó
là nụ cười thuơng hại hay mai mỉa, bảo tôi rằng, “Cô không biết là người
ta đã nói là nói dối như ma à ?. Nguời ta đã nói dối với cô và đang
lừa dối em cô đó. Muốn chữa khỏi bệnh này, em cô phải đi chùa rất nhiều
lần, chứ 1 lần làm sao hết.” Nói xong, Thầy quay qua chữa bệnh cho
người kế tôi.
Tôi quay sang em tôi và hỏi, “Em có nghe
thầy nói chưa, mình lại bị lừa dối nữa đó”. Nhìn vẻ mặt đau đớn của em,
tôi không cầm đuợc nuớc mắt, tôi biết em tôi vừa cảm nhận đuợc sự thật
phũ phàng là “bà tiên” trong nó thực chất chỉ là một ma nữ thâm trầm,
nham hiểm, nói dối như cuội, và vừa rồi, con ma nữ đã lợi dụng lòng tin
của em tôi để đánh em tôi 1 trận nhừ tử bằng chính bàn tay của em. Cầm
tay tôi, em A bảo, “Chị đừng lo, em sẽ quyết đánh cho con ma nữ giảo
hoạt, dối trá ra khỏi nguời em. Em sẽ nhất quyết không cho nó nói chuyện
hay viết lách gì cho em nữa”. Nhìn vẻ mặt của em, tôi biết em đã cuơng
quyết lập chí dành lại độc lập cho thân xác mình.
Tôi
vừa đau đớn vừa mừng rỡ rằng ít nhất em tôi đã vượt qua được 1 giai
đoạn khó khăn trong cuộc chiến tranh với ma quỷ này là lập quyết tâm
đánh đuổi quân thù. Hiện nay em tôi hàng ngày lên chùa Linh Quang để
con ma có cơ hội nghe kinh kệ và nhờ thần lực, tín tâm của sư tăng trong
chùa và trong chính em để kêu gọi con ma xuất khỏi em tôi. Em A cũng
hứa rằng nếu sau 3 tuần đi chùa mà con ma vẫn không nhúc nhích di chuyển
gì cả thì em sẽ đổi qua biện pháp mạnh hơn để trục ma.
Tôi xin tóm lược những ý chính tôi muốn
nêu lên trong bài này mà trong lúc xúc động tôi đã không viết được rõ
ràng và mạch lạc như sau :
1. Xin hết sức cẩn thận
khi đi học nhân điện khoa tự đông ở những người thầy như thầy Mai Viết
Nhự. Tôi không đủ dữ kiện để kết luận là thày Nhự có liên quan trực tiếp
đến vấn đề tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của
Thày hay không; tôi chỉ biết là 2 cô em gái của tôi đều bị ma nhập ngay
trong lúc đang học nhân điện với thầy, sau khi thầy mở luân xa số 6 và 7
cho 2 em. Chị K. cũng cho tôi biết là 1 số nữ tu Công giáo cùng bị
hiện tuợng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về VN sau khi cũng học khóa
nhân điện với thầy Nhự. Sao lại có sự trùng lập đặc biệt như thế ?
2. Tôi sẽ không bao giờ để ai sờ lên đầu lên cổ của mình, ai biết được là họ có khả năng mở luân xa 6,7 hay không ?
3. Đến thời điểm mình
phải lìa cõi trần ra đi, xin hãy ra đi với lòng thanh thản, dù có còn
bổn phận trách nhiệm với nguời còn sống cũng hãy xin hiểu rằng phận sự
của mình đến thời điểm đó là hết, đừng nuối tiếc gì cả, để phần tâm linh
của mình có thể nhẹ nhàng siêu thoát, không trở thành vong linh vất
vưởng lang thang. Phần nguời sống, xin đừng khóc than níu kéo người đã
ra đi, xin hãy nói cho người hấp hối biết là họ đã làm xong nhiệm vụ của
họ trên trần thế, mình là người ở lại cũng sẽ OK, để nguời chết yên
tâm mà đi.
4. Xin hãy đối xử với
những người bị ma nhập tử tế, đừng xa lánh họ. Con ma chẳng có nhiều
quyền lực gì cả trừ trường hợp người bị ma nhập không hiểu được bản chất
của ma thì sẽ rất sợ hãi trước những lời hăm dọa của ma chẳng hạn như
“Tao sẽ giết mày nếu mày không nghe lời tao”. Những lời hăm dọa đó chỉ
là lời hăm dọa suông, con ma vốn chỉ là những sóng sinh học âm, sức lực chỉ bằng cục pin rechargeable 1.5 volt.
Con ma sẽ rất mạnh mẽ khi tâm hồn và thể xác của nguời bị nhập yếu
đuối, sợ hãi và không có được sự giúp đỡ thuơng yêu của gia đình và bạn
bè. Con ma sẽ dùng chiến thuật tâm lý, ngọt bùi cay đắng có cả để thoạt
đầu mua chuộc lòng tin của người bị nhập, để dần dần chiếm toàn bộ lý
trí của họ và tiến đến khống chế thể xác vì bản thân con ma chỉ là phần
tinh thần của người đã chết, nay mong muốn chiếm đoạt thân xác và tâm
trí của người còn sống để hành xử theo ý riêng của mình. Con ma cũng sẽ
nhăn răng, múa vuốt (qua cử chỉ của nguơi bị nhập) như kiểu trong phim
Exorcist nhưng cường độ yếu hơn nhiều chứ không như kỹ xảo Hollywood để
hăm dọa người chung quanh, làm cho họ cảm thấy sợ hãi mà xa lánh người
bị ma nhập. Những kỹ xảo này của con ma chỉ làm tôi bật cuời, thuơng
hại cho kẻ lực bất tòng tâm, và yêu thuơng em tôi hơn.
Nha Khanh (sưu tầm và chuyển)
Những vong linh tù cải tạo trại Ba Sao
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2016-04-07
2016-04-07
Ba Sao, nhà tù lớn ở Nam Hà, miền Bắc Việt Nam, nơi sau 30 tháng Tư 1975 nhiều sĩ quan và công chức miền Nam, mà chế độ mới gọi là tù cải tạo, đã qua đời trong những ngày tháng kham khổ nhọc nhằn nơi đây.
Một cựu tù chính trị Việt Nam hiện sống tại Pháp, đã nhắn với cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên:
Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở miền Bắc. Ngoài tấm bia ra còn có một am thờ những người tù này, được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé.
Chính lời nhắn tha thiết “đi tìm các anh ấy nhé” đã thôi thúc cô Phạm Thanh Nghiên lên đường, tìm kiếm, nhìn thấy rồi trở về với cảm xúc thể hiện qua bài Ba Sao Chi Mộ:
Thực ra thì tôi có thông tin này từ mùa hè năm ngoái khi tôi chưa hết án quản chế. Nhưng vì tôi cần tìm hiểu thêm và sau đó hết án tù nhà, đi lại dễ dàng hơn là tôi đi để tìm hiểu sự thực về thông tin mà người anh đồng tù đã cung cấp cho tôi.
Và thực ra bước đường tìm kiếm cũng không quá là vất vả, tôi cũng đi một vài ngày. Đến bây giờ phải cám ơn Chúa cám ơn Phật vì có lẽ tôi là người may mắn để mà tìm đến địa chỉ ngôi chùa không chính xác. Tôi phải xin lỗi là những thông tin cụ thể hơn thì tôi không thể chia sẻ được vì lý do tế nhị cũng như an toàn an ninh cho những người cung cấp tin cho tôi. Điều này tôi cũng đã viết trong phần một của bài Ba Sao Chi Mộ, ngay cả tên của các nhân vật họ cũng yêu cầu tôi phải thay đổi. Họ sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí.
Một điều nữa là ngay như giới tính của viên giám thị cũng như tên chùa và tấm bia thì tôi cũng nói một cách chung chung thôi. Ngay cả điều này cũng để cho thấy mức độ tế nhị, thậm chí là nghiêm trọng, mà một vài người đánh giá rằng đây là chuyện bí mật. Nhưng những thông tin mà tôi đưa ra trong bài Ba Sao Chi Mộ là có thật.
Và cũng thật khó để có thể diễn tả hết tâm trạng, cô Phạm Thanh Nghiên kể tiếp, khi được chỉ cho thấy một tấm bia khiêm nhường tại một góc khuất trong căn phòng linh của nhà chùa:
Họ sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí.Khi bước chân vào nhà linh tôi cũng không tránh được cái cảm giác hơi rờn rợn hơi sợ hãi một chút. Ban đầu thì rất khó tìm vì không có hình ảnh. Trong hình dung của tôi chắc tấm bia rất lớn, tôi cứ tìm kiếm tấm bia như trong trí tưởng tượng của mình thôi, nhưng khi vị sư tìm thấy và chỉ cho tôi, khi tôi ngước mắt lên nhìn thì lập tức hai hàng nước mắt của tôi ứa ra. Một tấm bia không có tên, chỉ có giòng chữ 626 người đã tử vong tại Ba Sao giai đoạn 1975-1988. Phải nói một cảm giác như mình vừa tìm thấy một điều gì rất là thiêng liêng. Như tôi nói trong bài viết, đó là những người tôi khẳng định tất cả đều là quân nhân cán chính từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa chứ không dính dáng gì đến những người cộng sản hay những người dân thường cả.
- Phạm Thanh Nghiên
Tôi cảm tưởng như có một mối giao cảm, một mối dây liên hệ nào đó mang tính tâm linh giữa tôi, một con nhóc sinh sau năm ’75, với những người đã bảo vệ một chế độ mình đã từng hiểu lầm rằng đó là một chế độ xấu xa, chế độ gọi là ngụy. Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn tả bằng lời cũng rất là khó.
Lòng tốt vẫn còn...
Bằng những ngón tay run rẩy lập cập vì xúc động, cô Phạm Thanh Nghiên đã chụp được hình ảnh tấm bia rồi cất giữ nó như một bảo vật. Với cô, chuyện càng khó tin hơn nữa khi biết một trùm cai tù, tức quản giáo hoặc giám thị trại giam Ba Sao, Nam Hà, đã dựng tấm bia và một am thờ những người của bên kia chiến tuyến.
Theo lời vị trụ trì thuật lại với cô Phạm Thanh Nghiên, cách đây vài năm có một Phật tử đưa một cựu giám thị trại tù Ba Sao đến chùa. Người giám thị này trao cho sư một danh sách gồm 626 người tù đã chết trong trại Ba Sao từ 1975 cho đến 1988, ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong chùa để 626 vong linh này được hương khói tử tế.
Đây không phải ngôi chùa đầu tiên mà họ đến gõ cửa xin đặt bia. Trước đó, các chùa trước đều tìm cách thoái thác vì sợ. Nỗi sợ của những người tu hành là nếu giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thì e chùa sẽ bị lắm phiền phức.
Được hỏi có cách nào liên lạc với người Phật tử và viên cựu giám thị trại giam Ba Sao, vị sư trả lời là rất khó vì sau khi làm xong tấm bia thì người quản giáo không bao giờ trở lại chùa, ngay cả người đưa viên giám thị đến cũng vắng bóng.
Về cái am thờ 626 người đã chết, vị sư cho cô Phạm Thanh Nghiên biết có nghe nói là nằm trong một khu đất thuộc trại giam Ba Sao nhưng chưa bao giờ đến thăm.
Chỉ người giám thị hoặc người Phật tử mới biết chỗ mà đưa tới, khẳng định của sư khiến cô Phạm Thanh Nghiên hiểu ra sự mịt mù của vấn đề. Cô vẫn gắng xin được xem qua danh sách 626 người tù đã chết nhưng sư nói rằng người trông coi sổ sách đi vắng nên hẹn cô hôm khác trở lại:
Lần khác tôi đến chùa thì sư đi vắng, tôi gọi điện thì thầy nhận ra giọng tôi ngay, thầy thông báo rằng rất tiếc vì chùa đã hóa đã đốt đi trong dịp rằm tháng Bảy lễ Vu Lan vì nghĩ rằng để cũng chẳng làm gì cả.
Vị sư báo tin xong thì vội vàng gác máy, để lại một Thanh Nghiên với cảm giác hụt hẫng cùng cực:
Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có phần trăm nào đó của sự hướng thiện trong con người của người cai tù này. Mặc dù cái xã hội cái ác được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy mầm.Tôi thấy mọi sự trước mắt mình như tối sầm lại bởi vì tôi đã rất là mong chờ đến ngày hẹn để đến lấy danh sách. Chưa bao giờ tôi có cảm giác thất vọng kinh khủng khi đã không hoàn thành cái mục tiêu, cái nhiệm vụ mà mình đặt ra cho chính mình. Đối với họ thì để chẳng làm gì cả nhưng đối với chúng ta thì nó là vô giá. Tôi tin chắc một điều nó sẽ là một bằng chứng lịch sử sau này về những đau thương mà người dân Việt Nam nói chung cũng như những cựu quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng bị bách hại. Nói thật là trong phút chốc đó tôi cảm thấy mọi sự trước mắt mình như sụp đổ.
- Phạm Thanh Nghiên
Khi tôi trấn tĩnh lại thì tôi không tin, tôi không tin rằng cái danh sách ấy đã bị đốt đi. Thời gian tới tôi sẽ vẫn cố gắng để có được cái danh sách đó trong khả năng có thể. Nếu như họ cứ khăng khăng thì tôi không làm cách nào được nhưng tôi vẫn cứ hy vọng.
Con số 626 tù cải tạo miền Nam chết vì bệnh tật, đau khổ và đói khát trong trại tập trung Ba Sao ở Nam Hà trên thực tế có thể cao hơn. Cựu quân nhân miền Nam Nguyễn Đạc Thành, năm 1979 từ trại 9 Yên Bái trên biên giới phía Bắc được chuyển xuống trại tù Nam Hà, gọi là Ba Sao:
Trại Ba Sao chia ra nhiều khu, khu A dành cho cấp tướng, cấp bộ trưởng hay tổng trưởng. Khu B dành cho sĩ quan cấp tá, khu C dành cho tù hình sự.
Trại Ba Sao gọi là khó khăn nhất, hắc ám nhất của công an. Nói tới Ba Sao là người miền Bắc đã rất là sợ. Con số 626 có thể còn hơn nữa chứ không ít hơn đâu bởi vì việc quản lý ăn uống rất khó khăn, không được nấu nướng hay là gì cả cho nên anh em kiệt sức rất nhiều, binh hoạn chết chóc đương nhiên xảy ra. Trại này rất lớn, còn có 3 cái nghĩa địa nữa và con số tù chết có lẽ là hơn số 626 đó rất nhiều.
Họ được chôn ở đâu?
Tuy nhiên, vẫn lời ông Nguyễn Đạc Thành, phần đông tù cải tạo không chết trong trại Nam Hà mà chết tại trại Mễ. Trại Mễ nằm trên một khu vực có tên là Cánh Đồng Mễ, chạy từ Nam Định ra Phủ Lý, nơi những tù bị bịnh từ Ba Sao được chuyển ra mà nếu chết thì được chôn tại đây.
Năm 2007, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, ông Nguyễn Đạc Thành sáng lập VAF Sáng Hội Việt Mỹ, vận động chính giới Hoa Kỳ cũng như giới chức Việt Nam để xin về bốc mộ đồng đội chết trong những trại tập trung như Làng Đá, Ba Sao và những nơi khác.
Tôi đã đến Cánh Đồng Mễ và đã thấy cảnh hoang tàn ở đó rồi. Người ta cắt một phần của cánh đồng nghĩa địa này bán cho một công ty hóa chất.
Năm 2009, con của ông trung tá Cao Kim Chẩn chết tại Nam Hà, em Cao Kim Minh, đã ra ngoài Nam Hà để bốc mộ cha. Số mộ của ba em là 49, em gởi cho tôi cái danh sách 126 tù cải tạo tại Cánh Đồng Mễ này. Sau đó tôi lập tức ra Nam Hà, đi tìm cái nghĩa địa trên Cánh Đồng Mễ này.
Song song đó thì tôi được quen biết với con của đại tá cảnh sát Tôn Thất Dẫn. Chị Trinh con của đại tá Dẫn đã đi ra ngoài trại Nam Hà để xin bốc mộ cha, trại đã chỉ ra cái nghĩa địa ở Cán Đồng Mễ.
Cô ấy ra ngoài nghĩa địa thì mới thấy chính quyền địa phương đã cắt một phần nghĩa địa để bán cho công ty hóa chất. Tại đây cô hỏi thì ban giám đốc công ty hóa chất cho biết họ đã bốc tất cả những ngôi mộ trong phần đất của họ, mỗi một hài cốt bỏ vào trong một cái hũ sành.
Cần biết vì có cả mộ thường dân trong nghĩa địa của Cánh Đồng Mễ nên những cái tiểu sành đựng hài cốt tù cải tạo được đánh dấu riêng và được chôn trong một ngôi mộ chung.
Từ Sài Gòn, chia sẻ với Thanh Trúc về việc liên quan, con gái cố đại tá cảnh sát Tôn Thất Dẫn cho biết trong hai mươi mấy cái tiểu sành chị tìm thấy trên Cánh Đồng Mễ và đưa qua xét nghiệm thì 14 cái được xác nhận là hài cốt tù cải tạo, trong đó một cái là hài cốt thân phụ của chị.
Chị Trinh đã xin phép đưa tất cả 14 hũ hài cốt này về Nam, an vị trong một nhà thờ ở Sài Gòn.
Đó là những chi tiết về quân dân cán chính miền Nam đã nằm xuống tại trại tù Ba Sao ở miền Bắc sau năm 1975. Không ai rõ con số 126 người xấu số ở Ba Sao mà VAF Sáng Hội Việt Mỹ thu thập được có nằm trong danh sách 626 người tù tử vong Ba sao mà cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên mong muốn tìm ra hay không.
Tại sao một giám thị Ba Sao lại tìm đến một ngôi chùa để lập bia thờ 626 vong hồn tù cải tạo chết trong trại, cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên nói rằng điểm duy nhất cô có thể lý giải là:
Không có lý do gì để người giám thị làm như vậy cả, chưa kể tính chất nhạy cảm và nguy hiểm nữa. Lý giải bằng tâm linh thì tôi cho rằng có thể có một biến cố nào khiến vị cai tù này làm được cái việc như thế. Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có phần trăm nào đó của sự hướng thiện trong con người của người cai tù này. Mặc dù cái xã hội cái ác được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy mầm.
Trả lời câu hỏi tương tự, cựu tù chính trị Nguyễn Đạc Thành, giám đốc VAF Sáng Hội Việt Mỹ, từng về Việt Nam bốc mộ và cải táng hơn 500 bộ hài cốt tù cải tạo miền Nam từ Nam ra Bắc, nêu thí dụ hiếm hoi về một cán bộ mà ông dấu tên, một người có lòng mà ông và bạn đồng tù không thể quên khi còn ở trại 9 Yên Bái:
Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn tả bằng lời cũng rất là khó.Trong thời gian ở tù thì rất nhiều quản giáo và nhiều vệ binh rất tàn ác nhưng cũng có một vài vị có lương tâm. Tôi nói thí dụ một cán bộ ở trại 9 đã khóc khi thấy chúng tôi bị giam cầm một cách khắc nghiệt như thế này. Ông đã lén cho chúng tôi đào trộm sắn để ăn để có thể hồi sức lại.
- Phạm Thanh Nghiên
Cái thứ hai nữa là khi mà ông chuyển chúng tôi về trại giam Nam Hà thì ông quay mặt vào tường ông khóc. Tôi nói cái này chắc chắn anh em trong trại 9 không ai phản đối hết, ông đã thương và che chở chúng tôi, chúng tôi đã phục hồi lại được ở trại 9 để về Nam Hà ở tù tiếp.
Theo tôi nghĩ người quản giáo đó đã làm một việc rất nguy hiểm, nếu bị phát giác họ sẽ bị mất việc. Đó là tình cảm của riêng họ đối với anh em tù cải tạo mà thôi, tôi nghĩ là có chứ không phải không có.
Đích xác bao nhiêu người tù cải tạo miền Nam đã bỏ mạng trong trại Ba Sao ở Nam Hà nói riêng là bài toán chưa có đáp số. Chỉ biết thầm lặng cảm ơn những tấm lòng nhân ái từ người quản giáo nào đó ở Ba Sao, của vị sư thầy nào đó ở một ngôi chùa nhỏ ngoài Bắc mà có ngày cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên sẽ đưa quí vị cũng như Thanh Trúc đến như đã hứa.
Xin hãy cùng Thanh Trúc cầu xin mọi điều bình an đến cho những người có trái tim nhân hậu.
Thế Giới Tâm Linh Huyền Bí
HT. Giác Hạnh nói gì về Phan Thị Bích Hằng và Cõi Âm - rất nên nghe 2018 | Thuyết Giảng Phật Pháp
https://youtu.be/naUh1djzprI
Lạnh gáy nghe HT.Thích Giác Hạnh kể về SỰ GIỐNG & KHÁC NHAU GIỮA NGƯỜI CHẾT VÀ NGƯỜI NẰM CHIÊM BAO
https://youtu.be/kiDKsmHBmdE
https://youtu.be/kKKHeJtQJ2U?list=PLwbUbNMfKxrCA9phK5MsJGHxWAjlJxSaH
Không tin cũng phải tin “THẾ GIỚI BÊN KIA” - PHAN THỊ BÍCH HẰNG
https://youtu.be/g3K6lm1HkJk
Nhập hồn chiến sỹ sau 49 năm tìm mộ làm dậy sóng xã hội
https://youtu.be/Sr2zC_woVrw
Bức thư rơi lệ của người lính biết trước cái chết!
Bức thư rơi lệ của người lính biết trước cái chết! Đây là câu chuyện kể về bức thư của một người lính tham gia cuộc chiến tranh tại chiến trường khốc liệt nhất là Quảng trị những năm 1972. Người lính đã viết lá thư gửi về cho gia đình và người vợ mới cưới của mình 3 tháng trước ngày anh chết và chỉ rõ tường tận vị trí và ngày tháng anh ngã xuống. Đó là một điều kỳ lạ như một phép mầu. Đọc online là kênh audio chuyên về các bài báo nổi bật, tin tức nóng, tin tức trong ngày, tin hot, tin tức cập nhật 24|24, các câu chuyện thú vị và các mẹo hay trong cuộc sống mà bạn có thể quan tâm và áp dụng. Đặc biệt đây là kênh audio sách nói, với nhiều thể loại và nội dung như Truyện trinh thám, truyện cười, truyện ngắn , với giọng đọc trầm ấm và truyền cảm thích hợp với những bạn thích nghe ĐỌC TRUYỆN ĐÊM KHUYA!
https://youtu.be/cEFu1emDzuk
End Tết Ta Nguyễn phú Trọng ra đi vĩnh viễn...
https://youtu.be/OnAnsAmSbMk
Thiền Sư: CHÚC TRUNG: Vua Việt xuất hiện
https://youtu.be/Yz_X9KP3czc
Sau khi hỏa thiêu xong dầu mỡ từ x.á.c người quá cố mang đi đâu? Câu trả lời khiến tỉ người khiếp sợ
https://youtu.be/gKD5tD3ao_Y
Đất của người chết trở thành nhà của người sống
Nghĩa trang Bình Hưng Hoà với gần 75,000 ngôi mộ đang được giải toả để có được 45 mẫu tây xây dựng khu đô thị.
https://youtu.be/wr8HeZYZwFE
Chùa Tam Chúc Ba Sao - Ngôi chùa lớn nhất Việt Nam
https://youtu.be/ukG7sGjLkaM
Chùa Tam Chúc uy nghiêm nơi cảnh tiên ‘Vịnh Hạ Long trên cạn‘ ở Hà Nam
Khu du lịch Tam Chúc (Ba Sao -
Hà Nam) được mệnh danh là 'Vịnh Hạ Long trên cạn', nơi khoác trên mình
vẻ ngút ngàn và đẹp như cõi mộng, nơi mà du khách đến sẽ cảm nhận được
sự thuần khiết, thanh bình và yên ả đến lạ thường.
- Về Hà Nam tham quan “Hạ Long trên cạn“ đẹp ngỡ ngàng sắp mở cửa đón khách
- Theo chân ca sĩ Quang Vinh khám phá vẻ đẹp của Ninh Bình
Quần
thể khu du lịch Tam Chúc tọa lạc trên mảnh đất Ba Sao, Kim Bảng, Hà
Nam. Nơi đây được Thủ tướng công nhận là Khu du lịch quốc gia theo Quyết
định số 201/QĐ-TTG ngày 22/01/2013.
Đặc biệt, Chùa Tam Chúc sẽ là nơi đăng cai
Đại lễ Veskas năm 2019 (Đại hội Phật giáo thế giới) tổ chức vào tháng
5/2019 và cũng là thời điểm Chùa được khánh thành giai đoạn I.
Chùa Tam Chúc với cảnh quan hùng vĩ
Phối cảnh khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao được mệnh danh là cõi phật, cõi tiên - là Vịnh Hạ Long trên cạn . Ảnh Ngọc Xen
Chùa
Tam Chúc có tổng diện tích gần 5.000 ha, bao gồm hồ nước: 1.000 ha, núi
đá rừng tự nhiên: 3.000 ha, các thung lũng: 1.000 ha. Đây là ngôi chùa
vô cùng đặc biệt với cảnh quan hùng vĩ: Tiền lục nhạn, hậu thất tinh
(tiền lục nhạn nghĩa là mặt trước chùa có 6 quả núi giữa lòng hồ, tương
truyền rằng đây là 6 quả chuông của nhà trời đưa xuống; hậu thất tinh là
đằng sau có 7 ngọn núi có thể phát sáng khi có ánh sáng vào ban đêm).
Ngôi chùa được thi công bởi rất nhiều
những người thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo
và Thiên Chúa giáo. Năm 2000, khi khảo sát làm thủy lợi lòng hồ Tam
Chúc, công nhân xây dựng đã phát hiện ra rất nhiều dấu tích các hiện vật
liên quan đến chùa Tam Chúc xưa. Từ các hiện vật khảo cổ, bước đầu có
thể kết luận rằng chùa Tam Chúc đã có niên đại trên 1000 năm.
Trải qua rất nhiều năm tháng, giờ chỉ còn
lại những di tích cột gỗ, cột đá, xà đá còn vùi lấp ở nền móng cũ, trong
đó có những cột gỗ có đường kính trên 1m, những xà đá, cột đá rất lớn
mà chúng ta chưa thể hiểu được ông cha ta trước kia dựng chùa bằng cách
nào với kích thước lớn như vậy.
12.000 bức tranh đá, 1.000 cột kinh đá
Ngôi chùa Tam Chúc được xây dựng lại có
tới 12.000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật, được những
người Hồi giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa ở Indonesia sau đó đưa sang
Việt Nam.
Chùa Tam Chúc được xây dựng với hàng nghìn bức tranh bằng đá được ghép tỉ mỉ, cẩn thận bởi đôi bàn tay tài hoa của những người thợ. Ảnh Ngọc Xen
Chùa Tam Chúc đang thiết lập một
vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn.
Hiện tại đang dựng được khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân lành nghề
Việt Nam tạc và dựng. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn
thành.
Trên trục thần đạo Chùa Tam Chúc gồm: Chùa
Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan Âm, Cổng Tam Quan, Phòng
họp Quốc tế. Những ngôi điện, các pho tượng Phật tại chùa Tam Chúc có
diện tích, kích thước rất lớn.
Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh đang được thi công bởi những nghệ nhân Ấn Độ giáo và sẽ sớm hoàn thành trong năm 2018.
Điện Tam Thế có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², giúp cho 5.000 Phật tử có thể hành lễ cùng một lúc:
Điện Tam Thế ở chùa Tam Chúc với ba pho tượng Phật đẹp tráng lệ: Ảnh Ngọc Xen
Bên dưới Điện Tam Thế là Điện Pháp chủ với pho tượng bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn:Tiếp theo là Điện Quan Âm với pho tượng đồng nguyên khối nặng 100 tấn:
Điện Pháp Chủ ở chùa Tam Trúc với pho tượng Pháp Chủ bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn: Ảnh Ngọc Xen
Phòng họp Quốc tế nổi trên mặt hồ, có diện tích sàn 10.000m², có sức chứa 3.500 chỗ ngồi và Cổng Tam Quan đang trong quá trình thi công. Dự tính, thời gian hoàn thành quần thể chùa vào năm 2048. Từ khi khởi công đến khi hoàn thành là 50 năm.
Điện Quan Âm với pho tượng Quan Âm bên trong bằng đồng nguyên khối nặng 100 tấn: Ảnh Ngọc Xen
Quần
thể khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao thực sự là một điểm đến tâm linh hấp
dẫn, bởi nơi đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của ngôi
chùa nghìn năm tuổi với vẻ hùng vĩ của non nước bao la.
Đặc biệt, không khí trong lành và tiếng
chim hót líu lo giữa núi rừng rộng lớn là điều mà bất kì du khách nào
cũng sẽ không thể nào quên khi đặt chân đến mảnh đất này.
Hiện nay, hệ thống giao thông kết nối Hà
Nội và Hà Nam vô cùng thuận lợi. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính 30km
và cách chùa Hương 4,5km tạo thành một quần thể ”Tam giác vàng” du lịch
tâm linh, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của khách du lịch
trong và ngoài nước.
Với mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả
các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn giữ gìn cảnh quan môi
trường sinh thái bền vững, trong thời gian không xa, khu du lịch Tam
Chúc sẽ là điểm nhấn và được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Hà Nam.