Mở mắt chưa!?
Lê Thắng (Danlambao)
- Nói tới sự tàn bạo, tham lam, lưu manh, lừa đảo, lật lọng, tráo trở
của Tàu Cộng thì ta thấy ngay bản chất của CSVN, hay ngược lại, nhìn
những bản chất này của CSVN là chúng ta hình dung ra bản chất của Tàu
Cộng.
Chúng ta đang chứng kiến những tan hoang, đổ vỡ trên miền Bắc sau ngày
20/7/1954 và trên toàn nước sau ngày 30/4/1975 với tất cả sự tụt hậu về
mọi mặt từ đạo đức, kinh tế, y tế, giáo dục, xã hội, đến văn hóa … thì
chúng ta có thể tiên liệu được sự đổ vỡ toàn diện sau ngày mất nước thực
sự về tay Tàu Cộng.
Tàu Cộng đã làm gì đối với Quân Đội Nhân Dân Việt Nam từ trước đến nay?
Tàu Cộng không chỉ dạy cho CSVN bài học năm 1979 mà còn mở các cuộc tấn công khác vào miền Bắc VN từ năm 1984 đế 1989.
- Xóa sổ hơn 3700 bộ đội QĐND ở núi Lão Sơn (do tướng CSVN bán đứng).
- Giết 64 hải quân CSVN tại đảo Gạc Ma (Trường Sa) do lệnh không bắn trả.
- Hãm hiếp và giết chết nữ tù nhân CSVN một cách dã man.
Xin trích một phần bài viết của tác giả Huỳnh Tâm sau đây:
“Một số Hải Âu, và NF3.86 đồng chứng kiến bi kịch khiếp đảm, rùng rợn
cả người, cho đến mấy mươi năm sau hình ảnh thi thể của những nữ tù
binh Việt Nam vẫn còn ám ảnh tâm trí họ. Họ không thể nào quên:
‒ Ngày 4/12/1987, D514, thuộc F199, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ bệnh xá
Tập đoàn 25 Trung Quốc. Theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến trường. Di
chuyển toàn bộ thương binh Trung Quốc ra khỏi vùng nóng, còn thương binh
Việt Nam sẽ được di chuyển cuối cùng. Thực tế trong cuộc tháo chạy, họ
đối xử phân biệt thương binh, đưa đến tình trạng mất kiểm soát căn cứ.
Trong cơn binh biến hỗn tạp, binh lính D514 nổi cơn thèm khác dục tính,
thi nhau hãm hiếp nữ tù binh cho đến chết và sau đó thủ tiêu thi thể. Họ
đã chết trong đau đớn và tủi nhục mà không một ai biết đến, thương tổn
lớn cho nữ tù binh Việt Nam. Khủng khiếp hơn nữa, nữ tù binh Việt Nam đã
bị bọn giặc dã man Trung Quốc cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng và đôi bắp
đùi chân tay để ăn thịt.
Bi kịch dã man này đã diễn ra từ lúc Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến xâm
lấn Viết Nam vào ngày 17/2/1979 và kéo dài cho đến cho năm 1989. Không
biết đã có bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam rơi vào hoàn cảnh bị hãm hiếp
và mất tích. Điều này hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc đã bí mật ém
nhẹm, không hề một có tư liệu hay hồi ký nào xuất hiện ghi lại cuộc tàn
sát những nữ thương binh này tại biên giới Lão Sơn, Lào Cai, Việt Nam.
Người ta chỉ được biết qua truyền khẩu.
Những hình ảnh do chính quân đội Trung Quốc chụp lại cho thấy họ ung
dung hành động theo bản năng thú tính tàn ác. Hình ảnh những nữ tù binh
Việt Nam đã bị hãm hiếp tập thể cho đến kiệt sức, thân thể trần trụi,
cho thấy sự ô nhục thảm khốc, xúc phạm đến nhân phẩm của người nữ tù
binh Việt Nam. Những người lính Trung Quốc tàn nhẫn quá đáng, sau khi
thỏa mãn dục vọng, họ cắt luôn những bộ phận nhạy cảm nhất trên người
phụ nữ, khi chết thân thể nữ tù binh Việt Nam không còn nguyên vẹn. “
…
“Đi không được bao lâu lại thấy trước giao thông hào một thi thể trần
trụi, nằm dài trên mặt đất, không có một thứ gì trên người, xem ra
những thi thể vô danh tiếp tục xuất hiện.
Hải Âu DF-1, F67, tò mò, muốn biết vì sao có thi thể người phụ nữa ở
giữa núi rùng đang có chiến tranh, khi dỡ tấm nilon ra, thấy một phần
cây tròn đâm sâu vào trong cửa mình người phụ nữ, máu chảy ra nhiều đã
đông đặc tự bao giờ, mồm còn hả to, có lẽ van xin sự sống, hai cánh tay
sải rộng cho thấy đau đớn tận cùng vào lúc chết buông xuôi, xác đã lạnh,
với những vết bầm tím vắt ngang dọc cả thân người, nơi bắp đùi có vết
thương, những thanh nẹp băng bó vải thưa, gấp chữ V còn mới.” [1]
- Ép CSVN ký kết những hiệp ước bất bình đẳng do sự tham lam quyền hành của CSVN nên họ tự nguyện làm tay sai cho giặc.
Dưới đây là phần trích những đoạn lời giáo huấn của một nhân vật cao cấp Tàu Cộng trong cuốn băng ghi âm do Wikileaks tiết lộ:
“Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn lựa chọn nào khác, không
còn con đường nào khác hơn là trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.
Ði với Mỹ chăng? Thì các đồng chí chạy đi đâu? Trở về với tổ quốc thì
các đồng chí mới tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm
họa của bọn dòi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra
khỏi chỗ ngồi của mình. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, các đồng chí
không được ngồi ở bàn giấy trong công thự, mà phải đi lang thang ngoài
đường kiếm việc làm. Thật khủng khiếp. Vì thế, chúng ta phải chiến đấu
hết mình cho sự tồn tại của chúng ta, cho con cháu chúng ta, tương lai
của chúng ta, của con cháu chúng ta. Quyết không để lọt vào tay kẻ khác.
Lũ dân chủ dòi bọ ấy có cả ở Trung Quốc. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng
chúng tôi thẳng thắn trấn áp chúng thắng lợi. Nhưng ở Việt Nam tình
trạng có khác. Chúng hung hăng hơn, lì lợm hơn, là do các đồng chí thiếu
kiên quyết.
Nếu ở Trung Quốc có một Thiên An Môn, thì tại sao Việt Nam không có
một cái tương tự? Tôi xin bảo đảm với các đồng chí rằng, Trung quốc sẽ
tận tình chi viện cho các đồng chí, một khi có sự biến đe dọa quyền lợi
của đồng chí, để bảo vệ các đồng chí. Trung Quốc không thiếu xe tăng dĩ
chí trong vài Thiên An Môn.. Các đồng chí cứ hỏi Nông đồng chí (tức ông
Nông Ðức Mạnh) xem Hồ đồng chí (tức là Hồ Cẩm Ðào) đã hứa hẹn gì trong
cuộc gặp gỡ cấp cao vừa rồi. Nhưng đó là trong tình huống hiện nay.
Trong tương lai thì hai nước đã là một, thì sẽ không phải như vậy.
Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau
sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử,
Việt Nam từng là quận huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ
Trung Hoa. Trung Quốc và Việt Nam là một. Ðó là chân lý đời đời. Ðó
cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là ông Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ
gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: “Trung
Quốc, Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh.” Có nghĩa là hai
nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể. Nông đồng chí (tức là đồng
chí Nông Ðức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong
cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là
một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.”
…
“Tuy nhiên, tôi đặc biệt lưu ý các đồng chí là phải tiến hành kín
đáo, để mọi việc chuẩn bị diễn ra như bình thường, không nhận thấy được.
Trong khi chưa được hợp nhất, trung ương chính phủ, cũng như các tỉnh
chính phủ, tuyệt đối không lộ ý đồ. Thỉnh thoảng cũng phải cho phát ngôn
nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa
và Nam Sa. Và cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải
đảo với mọi sự cố xảy ra trên biển như vừa rồi. Cứ tiếp tục ám chỉ một
nước ngoài nào đó, hoặc một tàu lạ nào đó, không rõ quốc tịch là được.”
--
“Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương cho đến địa phương để
họ thấy rằng sau hợp nhất, mọi vị trí quyền lợi, bổng lộc của họ không
bị suy suyển. Các đơn vị hành chính sẽ được giữ nguyên trong một thời
gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc. Việc
này rất quan trọng.
Xin các đồng chí chớ coi thường. Lãnh đạo từ trung ương cho đến địa
phương có thông thì dân mới thông. Nhân dân đã được giáo dục chu đáo
trong nhiều năm, tinh thần tuyệt đối phục tùng lãnh đạo. Nhưng nếu họ
thấy cấp trên của họ giao động, tư tưởng bất thông thì chính họ cũng sẽ
giao động theo, trở thành mồi ngon cho những tư tưởng dân tộc chủ
nghĩa.” [2]
Với chừng ấy dữ kiện, chúng ta thấy rằng Tàu Cộng đã có âm mưu thôn tính
VN từ lâu, lính Trung Cộng thì tàn ác, trong khi đó, những nhà lãnh đạo
CSVN thì tham lam nhưng hèn nhát, nhu nhược nên cam tâm bán đứng quân
đội của mình, dân của mình và đất nước mình cho Tàu Cộng.
Cũng với chừng ấy dữ kiện, chúng ta thấy được tại sao những gì Nguyễn
Tấn Dũng nói và những gì Phùng Quang Thanh nói có mâu thuẫn với nhau và
tại sao Nguyễn Phú Trọng vẫn còn giữ im lặng. Và tại sao không một người
nào trong chính phủ và đảng lên tiếng cùng toàn dân về hiện tình đất
nước.
Chúng ta cũng hiểu tại sao không có một hành động cụ thể nào buộc Tàu
Cộng rút giàn khoan HD 981 mà chỉ đưa Cảnh sát biển ra làm trò hề. Theo
các quốc gia khác, quân đội bảo vệ dân làm ăn, chỉ có VN là xúi dân ra
làm ăn không có sự bảo vệ của chính quyền. Mấy năm nay, chính quyền vẫn
không có một phản đối thỏa đáng nào đối với việc các ngư dân VN bị Tàu
Cộng ức hiếp.
Chúng ta cũng hiểu tại sao một mặt Nguyễn Tấn Dũng tố cáo Tàu Cộng mà
một mặt khác gởi tin nhắn yêu cầu đừng biểu tình, một mặt cho công an
giả dạng xúi đốt các công ty ngoại quốc và một mặt đàn áp những người
biểu tình yêu nước. Ngay cả một nữ lưu tụ thiêu cho đại nghĩa cũng bị
nhà nước hết lời xuyên tạc.
Chúng ta cũng hiễu tại sao Nguyễn Tấn Dũng hứa bảo đảm an ninh cho các
công ty nước ngoài mà không bảo đảm an ninh cho ngư dân Việt Nam.
Tàu Cộng sẽ tấn công VN khi chính quyền CSVN lung lay. Tới khi ấy, QĐND
cũng sẽ được lệnh “không bắn trả” để làm bia cho lính Tàu Cộng. Nếu
quyết định không đánh trả, tại sao CSVN còn động viên lính _ để nướng
thêm thanh niên VN?
Chúng ta cũng hiểu thêm rằng: “Đứng dưới ngọn cờ vinh quang của đảng là đứng dưới ngưỡng cửa thần chết”.
Ai biết? Ai làm?
Bao nhiêu năm nay, từ những mật ước bất bình đẳng đến những tổn thất
sinh mạng của lính, của tù binh CSVN, của dân VN đã bị bưng bít. Ai
biết?
Ngày nay, nhờ hệ thống thông tin toàn cầu mà nhiều bí mật động trời đã
được tiết lộ. Nhưng, câu hỏi vẫn là: Ai biết? Một triệu, hai triệu người
truy cập được các diễn đàn, các blogger đều biết. Còn cả 80 triệu người
Việt khác có biết không? Thế thì làm sao cho họ biết sự thật. Những
người lính QĐND VN làm sao biết được sự thật? Làm sao họ hiểu được trước
khi mất nước thì họ bị bán đứng rồi. Làm sao người công an biết rằng
khi mất nước thì mất đảng và họ cũng bị biến mất luôn.
Ai sẽ làm việc này? Chắc chắn những người Việt không cam tâm làm “dân
Tàu Cộng” phải đứng lên, đi từ một ngọn lửa nhỏ để thành đám cháy lớn.
Làm sao làm được việc nhưng cũng tránh được tình trạng một Thiên An Môn
thứ hai. Phải vận dụng TRÍ để sáng tạo những phương cách tốt. Phải vận
dụng phương tiện thích hợp với điều kiện có được.
Tàu Cộng đang làm những gì mà CSVN đã làm khi cưỡng chiếm miền Nam nhưng tráo trở hơn, lật lọng hơn và lưu manh hơn.
Chuyện đặt giàn khoan của Tàu Cộng ở biển Đông cũng giống như chuyện
ngưng bắn da beo hay ngưng bắn tại chỗ trong Hiệp Định Paris 1973 để
rồi, sau khi các vở kịch hạ màn thì nhiều giàn khoan khác của Tàu Cộng
sẽ mọc đầy ở vùng biển Đông.
CSVN đang bị chiếu tướng? Chỉ có cách duy nhất là bỏ đi bàn cờ đang bí
để lịch sử đưa bàn cờ mới, xóa đi những thỏa hiệp bất bình đẳng, xóa đi
nỗi nhục này để cứu lấy nước nhà.
CSVN đang làm trò hề trên sân khấu chính trị? Hãy mở mắt và làm cho dân
Việt đồng loạt mở mắt để từ sự mở mắt đó mà tiến tới những hành động cụ
thể.
Đừng coi thường sức mạnh của toàn dân. Lịch sử VN đã chứng minh. Lịch sử thế giới cũng đã chứng minh điều đó.
Lê Thắng
danlambaovn.blogspot.com
__________________________________
Chú thích:
[1] và [2]. Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam - Kỳ 7 của tác giả Huỳnh Tâm được đăng trên ethongluan
+++++++++++++++++++++
Hành vi man rợ của bộ đội Trung Cộng đối với các nữ tù binh cộng sản Việt Nam...
Hãy
chắc chắn là quý vị đủ sức chịu đựng để đọc bài viết này, vì những hình
ảnh tài liệu trong bài này vô cùng tàn khốc. Nhưng đây là dẫn chứng duy
nhất để tố cáo những hành vi man rợ của quân đội Trung Quốc đối với các
nữ tù binh Việt Nam trong cuộc chiến biên giới Việt Trung kéo dài từ
năm 1979 cho đến năm 1989. Đảng CSVN đã giấu nhẹm tất cả mọi tin tức
liên quan đến cuộc chiến này. Tác giả Huỳnh Tâm viết bài cho biết ông
viết thay cho những nén hương gởi đến vong hồn những nữ tù bình Việt Nam
đã hy sinh và chết một cách ô nhục cho Tổ Quốc Việt Nam mà không được
một ai ghi nhớ. Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có cảnh tượng thảm thương
như thế này.
=================================
“…Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979
và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Họ đang tìm cách xóa nhòa những
ký ức về những cuộc chiến này. Đảng CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên
hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc
Việt Nam…”
<IMG style="LINE-HEIGHT: 1.22em" border=0 hspace=5 vspace=5 align=middle>
Tội ác chiến tranh, lửa bốc khói ô nhục
Đêm 4/12/1987, pháo binh Việt Nam tăng cường lửa cối pháo trong vòng 43
phút, rót xuống đầu binh lính Trung Quốc. Toàn vùng biên giới Lão Sơn
tràn ngập một màu lửa đỏ cháy ngùn ngụt, khốc liệt. Cùng vào thời điểm
này, pháo binh Việt Nam bất ngờ đánh trúng vào kho đạn của núi 277,
thuộc Sư đoàn 199 Trung Quốc, kéo theo hàng loạt đạn pháo liên tục nổ ầm
ì, trên mức độ bình thường; đạn cày tung toé đất đá, bụi, khói lửa bay
mịt mù. Đứng giữa chiến trường ngơ ngác trước cảnh điêu tàn chưa bao giờ
thấy, binh lính Trung Quốc chui rúc xuống giao thông hào sâu trong lòng
đất, chỉ để lại trên mặt đất những tên lính thủ chiến. Bọn họ đã trở
thành một loài côn trùng lớn bé lúc nhúc đi tìm chỗ dung thân, nhưng tất
cả hầu như bị hủy diệt vì lửa đạn.
Đạn pháo rung chuyển mạnh, từng phút một, đã đánh thức cả vùng biên giới
núi Lão Sơn. Quân đội Trung Quốc từ lâu vẫn xay mê với chiến thuật biển
người. Lần này chiến binh Việt Nam dùng pháo binh mạnh, đàn áp chiến
lũy Trung Quốc và cho họ một bài học chiến sự. Quả nhiên những tên bành
trướng Trung Quốc đã tỉnh ngộ không còn xem thường hỏa lực tác chiến của
chiến binh Việt Nam.
Hiện thời Sư đoàn 199 và 67 vẫn ra sức cố thủ để còn đất dung thân, tất
yếu phải thay đổi chiến thuật, không tin tưởng nhiều vào mật danh do
những tình báo Hoa Nam cung cấp và những tên phản dân tộc Việt Nam đang
bị bộ máy chiến tranh Trung Quốc nghi ngờ. Có thể uy tín của họ đang
xuống thấp, bởi trận mưa cối pháo vừa rồi, do pháo binh Việt Nam tự
phát, cho nên tình báo Hoa Nam không có sự kiện để đưa vào kế hoạch
chiến trường Lão Sơn.
Cùng ngày, quân đội Việt Nam ngừng bắn pháo trước một giờ, tạo cơ hội
thuận lợi cho những đơn vị quân đội Trung Quốc di chuyển đến vị trí
phòng thủ mới, và bệnh xá Tập đoàn 25 đồng di chuyển thương binh đến vị
trí an toàn. Những quân đoàn Trung Quốc, hối hả tổ chức lại kế hoạch
phòng ngự, lệnh tiến hành cố thủ 45 đỉnh núi thuộc vùng núi Lão Sơn, bảo
đảm kiên cố chiến lược, mặt khác kết nối toàn vùng, bao vây quân địch
(Viêt Nam), cho đến chiến thắng cuối cùng.
Trong cảnh hỗn mang rối loạn hàng ngũ tại bệnh xá Tập đoàn 25, những thi
thể của những nữ tù binh Việt Nam bất ngờ bị phơi bày. Trên lý thuyết,
những nữ tù binh đến đây điều trị thương tích nhưng không may cho họ vào
thời điểm này, họ lâm vào cảnh ngộ vô cùng bi đát và thảm khốc. Nữ tù
binh Việt Nam không chết vì súng đạn, mà chết vì bị hãm hiếp. Những xác
chết này nằm lăn lóc, thân thể trần trụi, chết trong căm hờn tủi nhục,
đôi môi mím chặt đau đớn, phá tan tất cả thân xác của phụ nữ Việt Nam.
Không ai có thể ngờ ở chốn chiến trường lại có cảnh tượng thô bạo như
vậy, khó ai tin được người lính Trung Quốc dã man đến thế!
Sự thật trần trụi kinh hoàng
Một số Hải Âu, và NF3.86 đồng chứng kiến bi kịch khiếp đảm, rùng rợn cả
người, cho đến mấy mươi năm sau hình ảnh thi thể của những nữ tù binh
Việt Nam vẫn còn ám ảnh tâm trí họ. Họ không thể nào quên:
‒ Ngày 4/12/1987, D514, thuộc F199, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ bệnh xá
Tập đoàn 25 Trung Quốc. Theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến trường. Di
chuyển toàn bộ thương binh Trung Quốc ra khỏi vùng nóng, còn thương binh
Việt Nam sẽ được di chuyển cuối cùng. Thực tế trong cuộc tháo chạy, họ
đối xử phân biệt thương binh, đưa đến tình trạng mất kiểm soát căn cứ.
Trong cơn binh biến hỗn tạp, binh lính D514 nổi cơn thèm khác dục tính,
thi nhau hãm hiếp nữ tù binh cho đến chết và sau đó thủ tiêu thi thể. Họ
đã chết trong đau đớn và tủi nhục mà không một ai biết đến, thương tổn
lớn cho nữ tù binh Việt Nam. Khủng khiếp hơn nữa, nữ tù binh Việt Nam đã
bị bọn giặc dã man Trung Quốc cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạn và đôi bắp
đùi chân tay để ăn thịt.
<IMG style="LINE-HEIGHT: 1.22em" border=0 hspace=5 vspace=5 align=middle>
Bi kịch dã man này đã diễn ra từ lúc Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến xâm
lấn Viết Nam vào ngày 17/2/1979 và kéo dài cho đến cho năm 1989. Không
biết đã có bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam rơi vào hoàn cảnh bị hãm hiếp
và mất tích. Điều này hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc đã bí mật ém
nhẹm, không hề một có tư liệu hay hồi ký nào xuất hiện ghi lại cuộc tàn
sát những nữ thương binh này tại biên giới Lão Sơn, Lào Cai, Việt Nam.
Người ta chỉ được biết qua truyền khẩu.
Những hình ảnh do chính quân đội Trung Quốc chụp lại cho thấy họ ung
dung hành động theo bản năng thú tính tàn ác. Hình ảnh những nữ tù binh
Việt Nam đã bị hãm hiếp tập thể cho đến kiệt sức, thân thể trần trụi,
cho thấy sự ô nhục thảm khốc, xúc phạm đến nhân phẩm của người nữ tù
binh Việt Nam. Những người lính Trung Quốc tàn nhẫn quá đáng, sau khi
thỏa mãn dục vọng, họ cắt luôn những bộ phận nhạy cảm nhất trên người
phụ nữ, khi chết thân thể nữ tù binh Việt Nam không còn nguyên vẹn.
Không có nỗi nhục nào hơn nỗi nhục trên đất Việt quê hương của mình,
chính mình bị làm tù binh chiến tranh dưới tay quân đội Trung Quốc. Họ
xem nữ tù binh Việt Nam như một món vật mua vui sinh lý. Những ca hãm
hiếp, chôn vùi thi thể nữ tù binh không chỉ xảy ra một lần. Những cấp
chỉ huy Trung Quốc vờ không biết, và ém nhẹm nội vụ nữ tù binh Việt Nam
bị chôn vùi dưới lòng đất lạnh, mộ phần vĩnh viễn vô danh. Hãi hùng hơn
nữa, đảng CS Việt Nam không hề lên tiếng và bày tỏ tri ân và thương tiếc
người lính xấu số đã hy sinh mạng sống trên chiến trường! Quả thật vô
cùng bất hạnh khi con người sinh rồi mất tích không ai biết xác chôn nơi
nào để người thân cầu siêu.
Trên chiến trường, cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc đều có tù binh. Phía
Việt Nam luôn luôn ưu đãi các tù binh chiến tranh Trung Quốc. Trái lại
tù binh Việt Nam, nhất là nữ tù binh, đã bị Trung Quốc đối xử tàn nhẫn,
xem đây một thứ rác phế thải không tái chế. Trung Quốc chưa bao giờ tôn
trọng theo lời cam kết "không hành động tàn bạo hay gây sốc đối với tù
binh nữ giới". Những ai có đến hiện trường tìm hiểu và chứng thực quân
đội Trung Quốc vô nhân đạo, đối xử với nữ tù binh rất tàn ác. Cộng sản
Trung Quốc dàn cảnh chụp hình những nữ tu bình Việt Nam ở trong trại
giam được đối xử tử tế, nhưng người biết chuyện thấy rõ đây chỉ là trò
trình diễn nhân đạo có tính toán chính trị.
Trên hành trình di chuyển đến điểm núi 255, trong tôi có lắm suy nghĩ
cuồng kháng, muốn hét lên một tiếng thật lớn để phá tan những uất hận
cho những oan hồn của những nữ tù binh bị hãm hiếp đến chết. Tiếng kêu
uất nghẹn, không thành lời. Tôi vẫn chưa hình dung được một phóng sự nào
nói về nữ tù binh Việt Nam, mà tôi đã gặp trên đường đi. Hình ảnh những
tử thi của nữ tù binh vẫn còn dán cứng vào mắt, trong tim, càng suy
nghĩ nhiều càng rối rắm không đầu đuôi sự kiện, cứ thế theo bước chân
hối hả. Đi không được bao lâu lại thấy trước giao thông hào một thi thể
trần trụi, nằm dài trên mặt đất, không có một thứ gì trên người, xem ra
những thi thể vô danh tiếp tục xuất hiện.
<IMG style="LINE-HEIGHT: 1.22em" border=0 hspace=5 vspace=5 align=middle>
Hải Âu DF-1, F67, tò mò, muốn biết vì sao có thi thể người phụ nữa ở
giữa núi rùng đang có chiến tranh, khi dỡ tấm nilon ra, thấy một phần
cây tròn đâm sâu vào trong cửa mình người phụ nữ, máu chảy ra nhiều đã
đông đặc tự bao giờ, mồm còn hả to, có lẽ van xin sự sống, hai cánh tay
sải rộng cho thấy đau đớn tận cùng vào lúc chết buông xuôi, xác đã lạnh,
với những vết bầm tím vắt ngang dọc cả thân người, nơi bắp đùi có vết
thương, những thanh nẹp băng bó vải thưa, gấp chữ V còn mới.
Hải Âu DF-1, F67 khẳng định:
– Chính thi thể nữ tù binh Việt Nam đang điều trị tại bệnh xá của Tập đoàn 25.
Riêng tôi đoan quyết:
– Nữ tù binh này người Việt Nam, vì trên nét mặt rất Việt.
Tôi điềm tĩnh lại, muốn làm một cử chỉ nhỏ, rồi tự hỏi:
– Có nên thực hiện một việc nhẹ mà lại vô cùng nặng "tình lý" không, và cũng có nhẽ hổ thẹn với đời chăng?
Tôi lấy quyết định vì đồng tộc Việt, tự khom lưng xuống, đôi tay rút
thanh cây gỗ tròn từ trong cửa mình người phụ nữ, máu ứ động trong người
phun ra thành vòi đã ngã màu đỏ bầm. Mọi người trố mắt nhì nhau, ngạc
nhiên thấy thanh cây gỗ tròn, bán kính 0,5 mm, đầu hơi nhọn, dài 2 m,
đâm sâu vào người gần 4 mm, cả người tôi toát mồ hôi lạnh.
Nhân tiện có sẻng cá nhân, chung nhau đào huyệt, 15 phút sau hoàn tất,
bắt tay vào tẩm liệm, tiễn người nữ tù binh xấu số xuống lòng đất quê
hương. Trên phần mộ có cắm sâu cột gỗ 1,5 mét. [1]
Hải Âu DF-1, D350, cho biết:
– Trước đây vài giờ nhận được tin, bệnh xá Tập đoàn 25, chuyển thương
binh đến nơi an toàn, không ngờ lại có sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị
hãm hiếp đến thế này!
Tại sao Đảng CSVN lại che giấu những tội ác của Trung Cộng?
Tại mặt trận biên giới Tây Bắc Việt Nam từ 1979-1987, đảng CS Việt Nam
biết rõ những sự kiện này, nhưng đã im lặng, giấu nhẹm không hề công bố
về số phận của những nữ tù binh bị hãm hiếp, quằn quại trên chiến
trường, đối mặt với những tên lính vô cảm của Trung Quốc.
Ngoài ra, quân đội Trung Quốc đã từng vấy máu tanh, tấn công bệnh xá của
Việt Nam, cướp đi những nữ thương binh và cả nữ y tá, chỉ để làm một
việc bất nhân hãm hiếp, rồi sau đó thủ tiêu. Quân đội Trung Quốc không
thua gì thảo khấu, cực kỳ tàn nhẫn.
Chúng tôi tiếp tục lên đường, từ xa, ở phía trước lưng núi 221, đã có
tiếng cầu cứu quen thuộc "Cứu tôi, cứu tôi", bằng ngôn ngữ Việt, dù biết
kêu vô vọng bởi không còn ngôn ngữ nào khác, âm ngữ của mẹ Việt bao
dung, làm động cơ thôi thúc thành lời, đang vang động trời đất bao la.
Tiếng kêu vào không trung tuyệt vọng, hay tiếng kêu cứu trong hy vọng
mong manh.
Phát hiện trong tiếng "Cứu tôi, cứu tôi" có âm lượng thân thương, từ xa
đã rót vào tai, phản ứng tự nhiên tay làm hiệu nhờ những Hải Âu tiến đến
điểm có tiếng âm thanh người Việt Nam.
<IMG style="LINE-HEIGHT: 1.22em" border=0 hspace=5 vspace=5 align=middle>
Không sai người nữ chiến binh rơi vào tay lực lượng quỉ râu xanh Trung
Quốc, lúc chạm mặt, bọn chúng cả thảy nửa Tiểu đội lật bật mặc quần, và
chạy xuống núi, chỉ còn lại một tên Hán vẫn lõa lồ chưa kịp mặt quần,
đang gọi điện báo, riêng nữ tù binh Việt Nam thân thể xòa dài dưới đất,
thân lết bết khó nhọc, tay túm lấy chiếc váy để che hạ thể, do bệnh xá
cấp, ể oải ngồi dậy với tư thế sợ hãi.
Tôi hỏi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thân yêu:
– Em, thể nào, cho anh biết, vì cớ nào lại có mặt ở đây?
Trên khuôn mặt của cô ta, có cả hai nét mặt, vừa mừng, vừa sợ, cô nói:
– Em muốn biết quý anh là ai ?
– Em đừng sợ, ở đây không tiện tỏ hết lời. Em tự nhiên theo các anh thì may ra sống.
Tôi ra hiệu, nhờ Hải Âu trừng trị tên Hán, không ngờ Hải Âu rút súng ra chuẩn bị bắn, tôi ngăn cản lại kéo Hải Âu ra xa nói nhỏ:
– Anh phải lấy thẻ số quân, tên tuổi, đơn vị, rồi tặng cho y vài cú đạp
mạnh, sau đó cài một quả lựu đạn cho nổ máy điện đàm, tiếp theo bắng
dưới chân để y chạy thoát, cho y sống sau này sẽ làm nhân chứng tội ác
chiến tranh, những tên khả ố này phải treo tội ác lơ lửng trên đầu,
không thể tha thức để chúng nó ung dung sống trong trạng thái bình an
ngoài vòng pháp luật. Hải Âu có đồng ý phương thức giải quyết này không?
– Vâng, thưa anh, thượng sách, tôi thực hiện theo ý của anh.
Giải quyết nhanh tay, tên Hán chạy mất dạng, chúng tôi lên đường, nói:
– Mời cô em, cùng đi với chúng tôi.
– Thưa, em không thể đi được vì bên hông trái trúng thương nặng, và bị 6
thằng lính Trung Quốc hãm hiếp hơn 3 giờ liền, em không còn sức để đứng
lên, các anh cứ đi, em chết ở đây cũng toại nguyện lắm rồi, và tạc dạ
nhớ ơn của quý anh cứu sống, em xin cúi đầu bái tạ ân nhân cứu mạnh, đa
tạ quý anh.
Cô ấy vái lạy như tế sao, như người lên "đồng cô" tại Điện Hòn Chén, đối diện lăng Vua Minh Mang, Huế. Vội vã đỡ cô ấy, nói:
– Chúng tôi xin cô đừng xá nữa.
Cùng lúc tôi nhờ những Hải Âu thi nhau cõng cô ấy, với sức nặng 50 ký
ngoài, không là bao, tuy nhiên đi đường xa có vấn đề, trên đường đi nhân
tiện hỏi về thân thế và sự nghiệp của cô ấy:
– Em có thể cho biết quý danh để tiện mồm được không?
– Dạ, em tên Trần Thị M…..thuộc đơn vị E81, F365, QK2. Quân hàm Thiếu
úy, bị thương đêm 28/11/1987, sáng 29/11/1987, em bị lính Trung Quốc bắt
làm tù binh. Quê quán thị xã Lào Cai, địa chỉ số: 74, đường..........
Đã đi được 1 giờ đường, tôi nhờ Hải Âu DF-1, F138 tiếp sức cõng cô
M.....1 giờ nữa đến căn cứ 255 của Sư đoàn 138 thuộc Quân đoàn 46 Trung
Quốc. Thấy cô M.....ngủ say, vô tư trên lưng của Hải Âu, có dáng mệt
mỏi. Tôi đề nghị Hải Âu:
– Nhờ anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô này đến bệnh xá Quân đoàn 46 để điều trị, khai báo theo thủ tục tù binh, tùy anh ứng biến.
– Vâng, tôi hiểu phải làm thủ tục như thế nào rồi.
– Cũng nhờ anh thường xuyên đến bệnh xá thăm cô ấy, sau đó anh liên lạc
với bệnh xá hỏi họ sẽ đưa cô này đến trại tù binh nào, nhớ anh cho tôi
biết địa chỉ để đến thăm cô ấy nhé.
– Vâng, đúng thế phải làm thủ tục nhập trại tù binh, theo qui chế chiến tranh.
Cô M....vừa tĩnh dậy hỏi:
– Thưa, quý anh đã đến nơi chưa?
– Chỉ còn 5 phút nữa là chúng ta chia tay, anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô
đến bệnh xá Quân đoàn 46, còn chúng tôi tiếp tục hành trình, sau khi cô
ổn định thủ thục tù binh, tôi đến trại thăm cô và những anh em tù binh
đồng hương.
Đến đây chúng tôi và cô M..... tạm biệt đi hai hướng, cô M....hỏi:
– Thế thì anh tên gì để báo ân?
– Không tiện sẽ có ngày gặp lại, chào tạm biệt cô M.....
Trên đường đi tôi suy nghĩ nhiều về thân phận làm người phụ nữ Việt Nam
quá gian nan, phải tiếp nhận những ngỡ ngàn trong chiến tranh phức tạp.
Nhờ tiếp cận mới nhận diện bộ mặt thật của đảng CS Việt Nam và Trung
Quốc, nay đã hiện rõ về họ. Chính họ am tường những tội phạm chiến
tranh, biết những trường hợp hãm hiếp nữ tù binh, thế nhưng vẫn làm ngơ
không can thiệp, trái lại còn khuyết khích đối xử tồi bại hơn, xâm phạm
tiết hạnh của nữ tù binh, hai đảng CS không hề có cảm giác xấu hổ đối
với hai dân tộc, cho đến nay hồ sơ hãm hiếp tù binh vẫn bí mật khép kín.
Rõ ràng đảng CS Việt Nam đã đồng lõa trong nội vụ này, và không lên
tiếng phản kháng Trung Quốc về sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp.
Đảng CS Việt Nam đã để lộ "lề thói" chư hầu, coi như đã hết thuốc chữa
trị. Họ sống ung dung, vô trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Hy vọng
một ngày, sự kiện về nữ tù binh Việt Nam được bạch hoá, về mọi hành vi
dã man, kinh tởm sẽ có lúc hiển thị, thay lương tâm nhân loại, công bố
cáo bạch.
Người nữ tù binh Việt Nam còn phải chịu đựng quá nhiều nghịch cảnh bi
thương khác, như trường hợp nữ tù binh bị hãm hiếp mang thai, giam hãm
nơi bệnh xá bí mật, họ bị đem ra trừng phạt bằng phẫu thuật cắt bỏ tứ
chi, chôn sống và ức bách. Có những trường hợp bị tiêm thuốc tuyệt tiêu
khả năng sinh đẻ! Tại chiến trường Lão Sơn, CS Trung Quốc đã có sẵn kế
hoạch bẩn thỉu vừa hãm hiếp tập thể vừa trừng phạt. Có một số nữ tù binh
Việt Nam sống không bằng chết, đành quyên sinh để đổi lấy trinh tiết.
Cảnh tượng hãm hiếp không đơn lẻ nhưng được thi hành rộng rãi tại chiến
trường Lão Sơn. Trong cuộc chiến biên giới Việt –Trung, cả hai đảng đều
có cùng một mẫu số hèn hạ, tạo ra quá nhiều bạo lực, và phủ nhận hành vi
tội ác trước hai dân tộc Việt-Hán.
Vẫn chưa hết, nữ từ binh Việt Nam gặp phải trăm ngàn hung thủ gian ác
Hán bao quanh, chúng muốn sự thống khổ của người phụ nữ Việt Nam kéo dài
lê thê suốt cuộc đời bằng những sĩ nhục về tinh thần lẫn thể xác. CS
Trung Quốc không những làm ngơ mà lại khuyến khích cho phép binh sĩ chà
đạp thân thể của người phụ nữ Việt Nam. Họ Đặng là thủ phạm nhưng không
ai có thể quy trách nhiệm lên nhà tổ chức chiến tranh họ Đặng này. Đúng
là một bè lũ ký sinh hoại loạn. Họ dùng 107 nữ tù binh Việt Nam làm trò
giải trí vài lần hãm hiếp tập thể để phục vụ chiến trường.
<IMG style="BORDER-LEFT-WIDTH: 0px; BORDER-RIGHT-WIDTH: 0px;
BORDER-BOTTOM-WIDTH: 0px; LINE-HEIGHT: 1.22em; BORDER-TOP-WIDTH: 0px;
border-image: none" border=0 hspace=5 vspace=5 align=middle>
Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và
trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Đảng CS Việt Nam thành công tước
đoạt quốc gia Việt Nam. Việc nước đại sự biến thành của riêng họ không
một người dân nào được đụng vào! Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức
về những cuộc chiến này. CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một
tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam.
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 cho đến nay đã trải qua 34 năm, đảng CS Việt
Nam vẫn bí mật ém nhẹm không công bố thống kê, tổn thất chiến tranh,
tài sản nhân dân, tài sản quốc gia, biên giới lãnh thổ mất bao nhiêu cây
số, quân số tham chiến, tử vong, thương binh, tù binh nam nữ được trao
trả, mất tích, địch đối xử thế nào với tù binh Việt Nam. Sau cuộc chiến
đảng CS Việt Nam chưa hề có ưu đãi xứng đáng nào đối với thương binh,
gia đình tử sĩ, v.v...
Đảng CS Việt Nam có thể bóp méo suy nghĩ người dân Việt Nam được một
ngày, chứ không thể thay đối vĩnh viễn, bởi những hành động dối trá và
lừa bịp không thể tồn tại lâu dài. Nếu lịch sử là một chuỗi dài những
kịch bản trên sân khấu, đảng CS Việt Nam chỉ là một kịch bản tồi dở, màn
hạ xuống là hết. Nhân dân Việt Nam không phải là con rối để mọi khuynh
hướng chính trị đùa cợt.
Nước Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ ở một hằng số bất biến:
chống xâm lược phương Bắc. Dân tộc Việt Nam có phương thức dựng nước
bẳng "tình nghĩa đồng bào" sẽ đối phó quyết liệt như lịch sử dân tộc
Việt Nam đã từng bao lần thể hiện. Gần đây Trung Quốc đã xua quân mở
những cuộc chiến tranh cướp biên giới đất liền và biển đảo của Việt Nam
vào những năm 1956, 1972, 1974, 1979, 1984 và 1989, đó là chiến tranh bi
thảm đến từ phương Bắc, khơi lại lên vết thương lịch sử dân tộc Việt
Nam khó thể quên được.
Dân tộc Việt Nam không thể quên những lời truyền dạy năm 1978 của Đặng
Tiểu Bình: "Ta muốn chiến thắng Việt Nam hãy thực hiện giết sạch, đốt
sạch, hãm hiếp sạch. v.v..."
Lời tuyên bố phi nhân của họ Đặng, chống nhân loại, chỉ thị cho quân đội
Trung Quốc nổi sóng gió máu tanh, hằng ngàn người Việt vô tội, dân lành
bị hành hạ tại các tỉnh biên giới, như thị trấn Đồng Chúc, Hưng Đạo,
Thanh Thủy, Vị Xuyên.
Những tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh,
người chết trôi sông, thi thể mất đầu, và thê thảm hơn nữa thân thể phụ
nữ loã lồ, cây thọc vào cửa mình, trẻ em vô tội xác lìa hai nơi, chưa kể
về những cảnh chết của người du kích địa phương v.v…
Trung Quốc khuyến mại hận thù trên tầm quyết sách. Khi có điều kiện,
binh lính Hán triều không cần suy nghỉ, sẵn sàng vấy máu trên mười đầu
ngón tay. Tính khoan dung, hiền hòa nhường cho chỗ thú tính man rợ, tàn
ác. CS Trung Quốc chưa bao giờ biết tôn trọng nhân phẩm con người, chỉ
biết giết, giết và CS Việt Nam, đệ tử thân tín của đàn anh phương Bắc
cũng dùng quỉ-thuật giết người đôi khi còn tàn bạo hơn cả CS Trung Quốc.
Giết người cũng cần có đồng minh, cho nên CS Việt Nam và CS Trung Quốc
phải kết bè bọn, cao giọng tung hô phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai", và
tinh thần 4 tốt, "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác
tốt". Thực chất, Trung Quốc đã cài lưới điện vào hai cụm từ trên, đều
nằm trong chiến lược đô hộ Việt Nam lâu dài.
Không, không hề có tình hữu nghị nào cả
Nhân dân Việt Nam không thể tiếp nhận người bạn xấu phương Bắc bằng ngôn
ngữ anh em, cần xét lại quan hệ với Trung Quốc, và đặt các vấn đề hậu
chiến tranh từ năm 1956 cho đến năm 1989, từ biên giới đất liền cho đến
biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Từ khi Trung Quốc phát động chiến tranh, ngày 17 tháng 2
năm 1979 đến năm 1989, binh sĩ Trung Quốc đã hãm hiếp không biết bao
nhiêu nữ tù binh Việt Nam, để lại những vết thương không tẩy xóa được
trong tâm não của nữ tù binh đáng thương. Họ mang trong lòng mặc cảm tủi
nhục và tuyệt vọng. Họ đã mất hết niềm tin vào tình người, cuộc đời trở
nên vô nghĩa, rơi vào tình cảnh trầm cảm khôn nguôi, thân tâm luôn cảm
thấy đau đớn. Họ không được bảo vệ theo đúng qui ước chiến tranh. Cả hai
đảng CS Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau thi thố xem ai tàn ác hơn ai
trong cuộc chiến này, xô đẩy toàn dân đến chỗ diệt vong về tinh thần và
vật chất. Họ đã vi phạm trắng trợn qui ước chiến tranh và đã xúc phạm
đến nhân phẩm của người thất trận, thay vì tạo ra tâm lý bình yên. Trung
Quốc đã vi phạm quy ước quốc tề về tù binh, gây tội ác chiến tranh,
nhân loại sẽ không tha thứ. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt, những kẻ
gây tội ác chiến tranh tại biên giới Việt Trung không thể thoát khỏi
phán quyết của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) về tội ác chống nhân loại.
(Dưỡng Sinh Thức Pháp)
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=35295
Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM HỢP PHÁP - DUY NHẤT
Vua Hùng ḍưng nước Văn Lang
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM
HỢP PHÁP - DUY NHẤT
(Nhiều SỰ
THẬT phải bạch hóa)
1. Năm 2879 TCN
(trước công
nguyên) Vua Hùng dựng Nước Văn Lang, truyền cho đến nay đã gần 5000
năm. Nhiều anh hùng dân tộc đã đứng lên đánh đuổi quân Tầu, dành
độc lập cho Dân Tộc, chứng tỏ
tinh thần anh dũng, bất khuất có truyền thống của Việt Nam.
2. Sau ngày 3/8/1949, lịch sử đối chiếu cận đại Pháp, Việt chứng minh
Hoàng Đế Bảo Đại là Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam sau khi Quốc Hội và Tổng Thống Pháp ký một văn kiện trao trả
nền Độc Lập, Thống Nhất và Toàn
Vẹn Lãnh Thổ cho CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM (CP/QGVN) do Hoàng Đế
Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Sự trao trả chủ quyền này mặc nhiên
được cộng đồng thế giới thừa nhận.
Việt Cộng bấy giờ chỉ là một bọn thổ phỉ ở biên giới Việt Trung, và là đội quân đánh thuê cho Trung Cộng.
3. Ngày 7/2/1950,
sau khi Hoa Kỳ công nhận CP/QGVN do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc
Trưởng, thì tiếp theo có 26 quốc gia khác công nhận CP/QGVN: Anh,
Pháp, Trung Hoa Quốc Gia, Ý, Hòa Lan, Bỉ, Úc, New Zealand,
Canada, Thái Lan, Malayia, Singapur, Philippines, Vatican, Miên, Lào,
Maroc,
Vương Quốc Arab, Tunisia. CP/QGVN đã là hội viên chính thức của
hầu hết các tổ chức quốc tế của LHQ như: UNESCO, FAO, UNICEF,
WHO, OLYMPIC...
6. Ngày 14/10/1952
CP/QGVN với cờ vàng ba sọc đỏ được mời đến tham dự Hội
Nghị “Workshop of Peace” do LHQ tổ chức tại Manhattan gồm có 57
quốc gia. Đó là Hội Nghị Kiến Tạo Hòa Bình, nói đúng hơn là
Hội Nghị “Ngăn Ngừa sự hiếu chiến của
CS”. Sau đó, có trên 60 quốc gia khác thừa nhận CP/QGVN. Trong
khi đó, bè lũ HCM với lá cờ máu, đang được Mao huấn luyện ở Vân Nam và Quảng Châu, như 1 loại giặc cỏ,
chỉ làm bình phong cho 12 sư đoàn Nam Chinh của Mao.
7. Ngày 01/11/1953
Phó TT Nixon
qua thăm VN, cam kết giúp QĐ/QGVN và quân Pháp chiến đấu chống
CS xâm lược, bảo vệ Đông Dương. TT Nixon còn đi thăm các đơn vị
hành quân biên giới phía bắc để hỗ
trợ tinh thần chiến đấu chống Bắc Phương xâm lược. Hoa Kỳ đã
biểu tỏ tình đồng minh với QĐ/QGVN ngay từ đầu thập kỷ những
năm 50.
8. Đầu năm 1954,
nhờ sự trợ giúp của Pháp và Hoa Kỳ, CP/QGVN và Quân
Đội QGVN đã thực sự kiểm soát toàn bộ đất nước. Tuy nhiên,
vì nước Pháp bị lọt vào tay của 3 đảng CS ở Pháp và tên CS
Mendes France trở thành Thủ Tướng nước Pháp. Mendes France (Pháp)
liền cấu kết với Molotov (Liên Sô) và Chu Ân Lai (Trung Cộng) cắt
một nửa Giang Sơn Việt Nam giao cho tên tay sai CS Hồ Chí Minh.
9- Ngày 20/7/1954,
Hoa Kỳ không thừa nhận sự chia cắt và CP/QGVN
đồng thời cũng hoàn toàn phản đối thủ đoạn phân đôi lãnh thổ Việt
Nam một cách cưỡng chế, phi pháp này. Nhân dân Việt Nam cũng không thể
để vài anh Cộng Sản Tây, Tầu Cộng và
tên điệp cộng Hồ Chí Minh tự ý chia cắt dân và đất nước của mình, nên
tìm chạy về phương Nam, phía Quốc Gia Tự Do hẹn ngày về khôi phục quê
hương mình.
15. Ngày 28/04/1975, Tổng Thống Trần Văn Hương bị thúc ép trao quyền lãnh đạo cho “Tổng Thống phi hiến pháp, không do dân bầu”
là Tướng Dương Văn Minh để thực hiện chủ trương “liên hiệp”. Kế hoạch đó bất thành,
DVM phải đầu hàng vô điều kiện hầu tiết kiệm xương máu dân, quân, cán, chính VNCH.
16. Ngày 30/04/1975,
bằng bạo lực Cộng Sản Quốc Tế, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam bị đem chôn
dưới sự điều khiển của Cộng Sản Nga Tàu, bè lũ tay sai CSVN lập
kế “linh miêu tráo chúa”, dùng tên điệp Cộng Hồ Chí Minh giả làm Nguyễn
Sinh Côn, tức Nguyễn Ái
Quốc cầm đầu đảng CSVN để thi hành âm mưu cưỡng chiếm toàn bộ lãnh
thổ VN.
17. Sau 30/4/75
Dân chúng chỉ tạm thoát được cảnh máu xương trong thời gian ngắn. Nhưng
sau khi CS chiếm được
Sài Gòn, đại đa số Quân-Cán-Chính VNCH rơi vào tình trạng bị trả thù
dần đến đời con cháu. Chỉ một số ít liều chết vượt biên, vượt biển,
thoát được ra hải ngoại, phải tạm
thời sống lưu vong nơi xứ người. Nhưng hẹn ngày trở về Phục Quốc. CSVN
cũng trà trộn theo làn sóng dân, quân, cán, chính VNCH đào thoát khắp
thế giới, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
ngăn cản VNCH thành lập Chính Phủ lưu vong.
18. Ngày 03/09/1990 Tên
Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư Đảng CSVN và Đỗ Mười,
Chủ tịch cái gọi là “Hội Đồng Bộ Trưởng CHXHCNVN” đại diện cho
phía “Việt Nam” và Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư đảng CS Trung Quốc và
Lý Bằng Thủ Tướng Chính phủ
đại diện cho phía Trung quốc ḥop trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành
đô. Đảng CSVN và nhà nước Việt nam xin Trung quốc giải
quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Việt Cộng tự nguyện
làm hết mình để vun đắp “tình hữu nghị lâu đời” vốn có giữa hai đảng và
nhân dân hai nước do Mao trạch Đông và Hồ Chí Minh dày công xây đắp
trong quá
khứ. Việt Cộng bảy tỏ sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh,
như Trung
quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung quốc
đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho Đảng CSVN trong thời hạn 30
năm (1990-2020) để giải quyết các
bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc
Trung Quốc”.
19. Ngày 21/10/1990,
CSVN đã thất bại, không ngăn cản được ý dân, không
phá nổi quyết tâm của đồng bào Việt Nam thành lập Chính Phủ Quốc Gia
Lưu Vong. Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ được dấy lên, phục vụ đồng bào
Việt Nam cùng với qúi vị trong ba
(3) thế hệ gồm:
- Lão Niên, là những bô lão trên 60 tuổi
- Trung Niên, là những vị trong hạng tuổi từ 40 cho đến 60 tuổi
- và Thanh Niên là những người từ 20 tuổi đến 40 tuổi
Ba
thế hệ này đã thành công trong quyết tâm thành lập một Chính Phủ Quốc
Gia Truyền Thống Việt Nam ngay tại Trung Tâm Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn
Cộng Sản, vùng Nam Cali, Tiểu Bang California với
danh xưng là CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI vàvị Thủ Tướng được đề cử để lãnh đạo Chính Phủ là cụ Nguyễn Trân. Từ đây, Chính Thể Việt Nam Cộng Hoà tuy đã
bị đem chôn năm 1975, nhưng chưa chết, và đã sống dậy.
20. Ngày 16/02/1991,
vì bạo bệnh, Thủ Tướng Nguyễn Trân xin từ nhiệm và ông
Đào Minh Quân, Chủ Tịch Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ, đang Xử Lý Văn
Phòng Thường Trực của CP/QGVNLT được tín nhiệm của những vị trong ba
(3) thế hệ Việt Nam để thay thế nhận trọng nhiệm Thủ Tướng. Đại
Lễ tuyên thệ của Thủ Tướng Đào Minh Quân được cử hành công khai trước
Quốc Dân, đồng bào lúc 12:00 giờ trưa ngày 16/02/1991 (nhằm ngày Mồng Hai Tết Tân
Mùi) tại số 12812 Brokhurst Street, thành phố Garden Grove, quận Cam (Orange).Thủ Tướng Đào Minh Quân lại tiếp nối tiền nhân Quốc Gia Việt Nam và duy trì được Hoàng Kỳ Chính Nghĩa
và Quốc Thể Quốc Gia Việt Nam cho đến hôm nay.
22. Tóm lại:
22.1
CP/QGVN do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng là kế thừa từ
vua Hùng, qua các triều đại chính tông: Đinh, Lê, Lý, Trần,
Nguyễn.
22.2 CP/VNCH do Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng Thống Trần Văn Hương lãnh đạo là kế thừa CP/QGVN.
22.3 CP/VNCH do Tướng Dương Văn Minh đứng đầu là chiêu bài “liên hiệp”, vi hiến, nên chỉ tồn tại trong vài ngày.
22.4 CSVN xin Trung Cộng cho hưỡng qui chế tự trị, không đại diện
cho nguyện vọng của toàn dân Việt Nam.
22.5 CP/QGVNLT
duy nhất đại diện cho Quốc Gia Việt Nam và NHỮNG NGƯỜI VIỆT ĐANG BỊ CỘNG SẢN CƯỚP NƯỚC được Chính Phủ Hoa Kỳ nhìn nhận hợp pháp
tại Hoa Kỳ và đã tồn tại gần suốt 20 năm qua. Chính
Phủ này hiện đang hoạt động và do Thủ Tướng Đào Minh Quân lãnh đạo, là
kế thừa CP/QGVN, một Chính Phủ Việt Nam Danh Chính Ngôn Thuận trước Quốc
Dân và Quốc Tế.
22.6 CP/VNTD
do ông “Nguyễn Hoàng Dân” trong bí mật và sau
đó chuyển qua ông Nguyễn Hữu Chánh, để thực hiện kế hoạch Dương Đông
Kích Tây, theo chiến dịch “Thả Lưới” của CP/QGVNLT, nay đã hoàn tất
nhiệm vụ và đã giải tán ngày
17/08/2008.
23. Những chi tiết đáng nhớ:
23.1 Ngày 14/06/1989 56
quốc gia họp tại Geneva để đưa ra kế hoạch hồi cư người tỵ nạn CS về cố hương.
23.2
Ngày 03/09/1990 Việt Cộng dâng đất nước Việt Nam cho Trung Cộng để xin hưỡng hưỡng qui chế tự trị.
23.3 Ngày 01/05/1990, bằng văn thư, Bộ Xã Hội, Chính Phủ Hoa Kỳ, Tiểu Bang California ký nhìn nhận Phong Trào Việt Nam
Tân Dân Chủ (PT/VNTDC) đã góp rất nhiều công sức trong việc tái nhập định cư đồng bào Việt Nam vào đời sống mới tại Hoa Kỳ.
23.4 Ngày 15/08/1990, sau khi biết các trại tỵ nạn CS tại Đông Nam Á hết ngân khoản, phải đóng cửa, PT/VNTDC cử ông Nguyễn Hữu Chánh
liên lạc với Chính Phủ Vanuatu để xin định cư đồng bào Việt Nam tại đảo quốc này.
23.5 Ngày 21/10/1990
Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ đứng ra triệu
tập Đại Hội Dân Chủ - Đoàn Kết để thỉnh thị ý kiến của quốc Dân, đồng
bào VN xin thành lập Chính Phủ Quốc Gia Lưu Vong để lo cho đồng bào và
đương đầu với CSVN. Đại Hội đã chuẩn nhận thành
lập Chính Phủ với danh xưng là “Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời”.
Biến cố lịch sử này đã được loan báo đến nhiều Quốc gia và truyền thông,
báo giới Việt Nam và Quốc
Tế.
23.6 Ngày 16/02/1991,
ông Đào Minh Quân, Chủ tịch Phong Trào Việt
Nam Tân Dân chủ, người đang xử lý Văn Phòng Thường Trực của CP/QGVNLT
chính thức tuyên thệ nhận trọng nhiệm Thủ Tướng Chính Phủ. Được tin
Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời được thành lập
dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Đào Minh Quân, người Việt trên khắp thế
giới rất phấn khởi và nô nức tham gia. Đặc biệt là những đồng bào đang
bị ngược đãi trong các trại tỵ nạn Cộng Sản vùng
Đông Nam Á, như Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân và Nam Dương,
kể cả những cán bộ Cộng Sản Ly Khai và người Thượng Du cũng mạnh mẽ
đứng lên ủng hộ CP/QGVNLT. Các Văn Phòng
Đại Biểu CP/QGVNLT đã được thành lập tại năm (5) quốc gia, nơi đang
dung chứa đông đảo tỵ nạn. Đồng bào và cán bộ Tân Dân Chủ đã nêu cao
ngọn cờ Vàng Chính Nghĩa Quốc Gia,
cùng dựa vào danh nghĩa CP/QGVNLT để anh dũng đấu tranh bảo vệ Công Lý,
Nhân Quyền và khát vọng muốn sống Hoà Bình, chống cưỡng bách hồi hương.
VNCH không những sống dậy mà còn
sống rất mạnh dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Đào Minh Quân.
23.7 Ngày 11/03/1991,
ông Nguyễn Hữu Chánh, người có công lớn mời được Thủ
Tướng Walter H. Lini và đoàn tùy tùng từ đảo quốc Vanuatu sang Hoa Kỳ
diện kiến Thủ Tướng Đào Minh Quân để ký kết thoả ước định cư năm mươi
ngàn (50,000) đồng bào Việt Nam tại Vanuatu.
23.8 Ngày 25/04/1991,
sau khi nhận được báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, dựa vào tài
liệu “Vietnam: The Road Ahead”, theo bản cung khai (Testimony) của ông
Richard H. Solomon, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách Á Châu Thái
Bình Dương Sự Vụ trước ông Chủ Tịch Ủy Ban Đông
Á-Thái Bình Dương và Thượng Nghị Sĩ Murkowshi, về chính sách Hoa kỳ, lộ trình bình thường hoá quan hệ với CSVN, viễn
ảnh kinh tế, vấn đề Cam Bốt, Nhân Quyền, POW/MIA, di
dân (Orderly Departure Program) và các trại tỵ nạn phải đóng cửa,
CP/QGVNLT phải một mặt tiến hành tìm một mảnh đất cho đồng bào định cư,
một mặt phải tìm cách giúp đỡ và bảo vệ dân
chúng hồi cư nên phải cố gắng thúc đẩy hiện thực chương trình CPA
(Comprehensive Plan of Action) do 56 quốc gia họp tại Geneva trong tháng
06/1989 để có ngân khoản yểm trợ người tỵ nạn hồi
hương.
Mặt khác, phải ráo riết vận động Hoa Kỳ và thế giới nhìn nhận sự hiện
hữu và tính chất hợp pháp của CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI thay
thế cho cái gọi là “CP Cộng Hòa
Chủ Nghĩa Việt Nam đã cam tâm làm tay sai lệ thuộc Trung Quốc.
23.9 Ngày 28/01/1994, cuộc
vận động của CP/QGVNLT thành công. Chính vị Tổng Thống do
dân bầu thứ 42 Hoa Kỳ, Bill Clinton, đã chính thức gửi công hàm đầu
tiên nhìn nhận Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CP/QGVNLT) và vai
trò của Thủ Tướng Đào Minh Quân.
Và sau đó, nhiều Công Hàm tiếp theo. Từ Ngoại Trưởng Collin Powell (nội
các của Tổng Thống thứ 43 của Hoa Kỳ, George W Bush) và những vị Dân Cử
trong Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ luôn quan hệ với vị Lãnh Đạo
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI là Thủ Tướng Đào Minh Quân với
Tước Hiệu ngoại giao tôn kính: “Honorable Prime Minister of the
Provisional National Government of Vietnam”. Những Công Hàm
quan hệ giữa hai (2) vị Nguyên Thủ và Chính Phủ Hoa Kỳ/Chính Phủ Quốc
Gia Việt Nam được ký và chính thức phổ biến kể từ ngày 28 tháng Giêng năm 1994. CSVN
đã run sợ
nên ráo riết đưa cộng nô vào chính trường Hoa Kỳ và tung tiền mua chuộc
truyền thông, báo giới, nhất là những chương trình phát thanh Việt Ngữ
với thủ đoạn dụ-dỗ-dọa-diệt,
bưng bít, ếm nhẹm tin tức hoạt động của CP/QGVNLT,
mong cản trở sự tham gia, ủng hộ của toàn dân khi Chính Phủ này chuẩn bị
ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc đòi lại CHỦ QUYỀN CỦA ĐẤT NƯỚC
ĐANG DO CSVN CƯỠNG CHIẾM phi pháp.
23.10 Ngày 21/07/1995, gần hai (2) năm sau, Hoa Kỳ thiết lập quan hệ nhân đạo với CSVN và
cái gọi là “Chính Phủ/CHXHCNVN”.
23.11 Ngày 30/06/2002,
Dolo
sợ cuống cuồng, CSVN còn mua chuộc một thành viên trong CP/QGVNLT để
thành lập 1 Chính Phủ thứ 2 với danh xưng là “CP/Việt Nam Tự Do” với bảy
(7) âm mưu sau đây:
- 1. Khua chuông trống rình rang, lập lờ đánh lận con đen khiến dân chúng ngộ nhận không biết đâu là Chính Phủ THẬT và đâu là Chính Phủ GIẢ.
- 2. Gây chia rẽ trong các thành phần chống Cộng tại hải ngoại.
- 3. Chuẩn bị chia phiếu nếu TỔNG TUYỂN CỬ đựơc tiếnhành.
- 4. Đưa gián điệp Cộng Sản trà trộn trong “CP/Việt Nam Tự Do” để theo dõi sinh hoạt cộng đồng và dụ dỗ những kẻ nhẹ dạ làm tay sai cho CSVN.
- 5. Tạo những phương thức làm ăn phi pháp để trói tay những người có nhiệt tình chống Cộng, nhưng thiếu kiên nhẫn.
- 6. Làm nản lòng những người có tâm huyết, sau khi tham gia CP/VNTD mới nhìn ra sự thật là có sự trà trộn, điều khiển, tiếp tay của CSVN và Trung Cộng trong tổ chức này.
- 7. Gài bẫy để triệt hạ những người có nhiệt huyết muốn trở về nước hoạt động chống Cộng.
Để phá tan âm mưu gián điệp của CSVN, với kế sách “dụng nhân như dụng nhân”,
CP/QGVNLT đã tương kế tựu kế
thi hành “tối mật phản gián”, dùng ông Nguyễn Hữu Chánh trong kế hoạch
Dương Đông Kích Tây, tập trung trên 6,000 người Việt lưu vong tỵ nạn
CS ngày 30/06/2002
tưng bừng thành lập một Chính Phủ giả tạo tại miền Nam California có tên là “CPVNTD” đưa ông Nguyễn Hữu Chánh thay thế Thủ Tướng ảo “bí mật” tên
là Nguyễn Hoàng Dân” theo chiến dịch Thả Lưới. Nay CP/VNTD (Việt Nam Tự Do) đã giải tán sau khi làm tròn nhiệm vụ, khiến hầu hết cộng nô, kể cả điệp viên Tầu
cộng bị dính lưới, lộ nguyên hình vào sổ đen CIA, FBI, và ban An Ninh Nội Chính của CPQGVNLT. Đây là công lớn thứ nhì của ông Nguyễn Hữu Chánh sau khi gia nhập Phong Trào
Tân Dân Chủ.
Sau
khi vụ án “LINH MIÊU TRÁO CHÚA” của tên
điệp Cộng Hồ Chí Minh là người Tầu giả làm người Việt Nam Nguyễn Sinh
Cung (Côn) bị chúng ta lật tẩy tại UNESCO (Cơ quan Văn Hóa Khoa Học Liên
Hiệp Quốc) ngày 19-05-1989, thì LHQ và các Đồng
Minh yêu Dân Chủ, tự do, nhân quyền, bình đẳng, thân thiện, đã ngầm
hỗ trợ cho CP/QGVNLT lấy lại chủ quyền và thu hồi toàn bộ
lãnh thổ, phất cao ngọn Cờ vàng chính
nghĩa, đưa Dân Tộc VN vào vị trí xứng đáng giữa cộng đồng nhân
loại, bằng cách đưa CSVN vào làm thành viên Liên Hiệp Quốc để
việc thay đổi quyền lực tại Việt
Nam sẽ sảy ra trong ôn hòa, hợp tình, hợp lý, không cần bạo
lực đổ máu.
Muốn
thoát vòng kìm tỏa của Trung Cộng, CSVN không còn con đường
nào khác để chọn lựa, ngoại trừ việc thay đổi quyền lực êm thắm
KHÔNG LÀM KHỔ DÂN với Chương Trình Thay Đổi Tài
Công cho Con Thuyền Quốc Gia Việt Nam do CPQGVNLT đã vạch ra. Bình minh đang ló dạng từ chân trời.
Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015
HÃY TỐNG CỔ TÊN ĐẠI SỨ MỸ CHỐI BỎ CỜ VÀNG TED OSIUS RA KHỎI CỘNG ĐỒNG TỴ NẠN VIỆT NAM
Người Lính Già Oregan: HÃY TỐNG CỔ TÊN ĐẠI SỨ MỸ CHỐI BỎ CỜ VÀNG TED OSIUS RA KHỎI CỘNG ĐỒNG TỴ NẠN VIỆT NAM
LGT: Chính
Khí Việt xin trân trọng giới thiệu bài viết dưới đây của một sĩ quan
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tinh thần Tổ Quốc –Danh Dự Trách
Nhiệm, đã hiên ngang và kiên cường khẳng định: Ted Osius, một trong hai
đại sứ Mỹ tại Việt Nam là “RẤT VÔ LỄ”. Viết lên điều này ông Người
Lính Già Orrgan đã cho chúng ta thấy niềm lạc quan và tin tưởng rằng,
không phải hầu hết những người tỵ nạn Việt Gian Cộng Sản đã bị mơ hồ
hoá, bị che tai bịt mắt bởi lũ truyền thông bất lương, lũ dư luận viên
Việt Gian Cộng Sản, cũng như lũ việt gian THỜ MỸ. Dưới bài viết của tác
giả Người Lính Già Oregan là một loạt gần 20 bài cùng một đề tài về Đại
Sứ Ted Osius, John Kerry, Trọng Không Lú Mỹ Du mà Chính Khí Viết đã
viết cách nay hơn tháng để độc giả có thể tham khảo thêm.
Trân Trọng
CKV
HÃY TỐNG CỔ TÊN ĐẠI SỨ MỸ CHỐI BỎ CỜ VÀNG TED OSIUS RA KHỎI CỘNG ĐỒNG TỴ NẠN VIỆT NAM
người lính già oregon
Đối
với quân dân Miền Nam, còn trong nước hoặc ở hải ngoại, có hai tên đại
sứ Mỹ tại Việt Nam rất vô lễ, hoặc cà chớn, nói theo ngôn từ bình dân,
mỗi tên một kiểu. Đó là: (1)
Cuối năm 1963, Henry Cabot Lodge, được ủy thác nhiệm vụ lật đổ Tổng
thống hợp pháp Ngô Đình Diệm, bởi cụ đã cực lực phản đối dự định của JFK
đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại VN. Qua những sách vở và tài
liệu, được giải mật, đầy dẫy trên Net, người ta thấy Lodge rất hống
hách, hành xử xấc xược như một tên thái thú Tàu ngày xưa, đã ra lệnh cho
bọn phản tướng khuyển mã Việt Nam, ngu si, tham tiền, sát hại cụ, dẫn
đến bao nhiêu xáo trộn về chính trị và quân sự và cuối cùng, cái chết
tức tưởi của VNCH tháng 4,19751. Và (2) bây giờ, 40 năm sau, Ted Osius, một nhà ngoại giao cắc ké2, trước khi được hai xếp lớn, tổ sư thân Cộng, Obozo3 và Kerry4,
cất nhắc, cho đi làm đại sứ tại Hà Nội, đã không muốn thấy lá Cờ Vàng
được treo trong một hội trường tại Little Sài Gòn của Cộng đồng Người
Việt Quốc Gia Tỵ Nạn California, trong tháng 7 vừa qua.
Không ai mà không biết, nhất là những quân dân Miền Nam
“thua cuộc”, phải lưu lạc trên khắp thê giới, rằng chơi với Mỹ là chấp
nhận nắm con dao đằng lưỡi. Và nói theo bà Ngô Đình Nhu, trong một cuộc
phỏng vấn với các nhà báo Mỹ, sau khi chồng và anh chồng bị sát hại,
tháng 11, 1963: “Khi bạn có Mỹ là đồng minh, bạn sẽ không cần có kẻ thù nữa"5
Nhất là trong giai đoạn hiện tại chính sách ngoại giao của Obozo và
Kerry, hơn bao giờ hết, được đặt trên căn bản lợi nhuận, gọi là “smart
power policy”, do một thiểu số tài phiệt giật dây. Có lợi là a-lê-hấp
bắt tay với bất cứ ai, kể cả với cựu thù6
hạ tiện, ngu dốt, dơ dáy như VC, mà không cần sự phê chuẩn của Quốc Hội
–bây giờ đang nằm trong tay Đảng Cộng Hòa gồm những thành viên nhát như
thỏ đế, chỉ lo thủ ghế, không dám lên tiếng hó hé về điều gì. Obozo,
một kẻ có bằng chứng thiên Cộng từ lúc còn là một tên community organizer
vô danh tiểu tốt ở Chicago, khi trở thành tổng thống chó ngáp phải ruồi
đã múa gậy vườn hoang: hòa giải với Cuba và Việt Cộng, vô điều kiện,
nghĩa là không cần đặt nặng vấn đề tôn trọng tự do, nhân quyền, không
như những tổng thống tiền nhiệm, nhượng bộ Putin, làm ngơ cho Bashar al.
Assad của Syria giết hại dân bằng vũ khí hóa học, thỏa hiệp với Iran,
đi đêm với thủ lãnh Palestine, nguyên là tên khủng bố, gây hấn với thủ
tướng Do Thái Netanyahu, đồng minh lâu ngày của Mỹ, đánh cầm chừng bọn
cuồng tín ISIS… và biết đâu nay mai ôm hôn thắm thiết tên Cộng sản độc
tài Kim Jong Un (tục danh Kim Ủn Ỉn) của Bắc Hàn, mà không biết rằng
mình đã trở thành thằng hề quốc tế, làm trò cười cho các nước (cf video
về Annual Carnival Parade in Germany, 7/28/2015, trong đó người ta thấy có những chiếc xe treo nhiều hình hí họa, lố bịch châm chọc Obozo một cách thô bạo).
Đành
rằng vậy. Nhưng tiện nhân chưa thấy ai, kể cả Cabot Lodge, xử sự một
cách xấc xược, khốn nạn, đối với lá Cờ Vàng thiêng liêng của chúng ta
cho bằng tên đại sứ Mỹ Ted Osius trong cuộc gặp gỡ giữa hắn và Cộng đồng
Người Việt Hải Ngoại California trung tuần tháng 7, 2015. Nếu lột bỏ
chức tước đi thì cá nhân Ted Osius không phải là mục tiêu xứng đáng, và
tiện nhân cũng không hưỡn, để mà quan tâm tới. Đằng này, trong tư cách
đại sứ Mỹ, hắn dám động đến lá Cờ Vàng thân yêu thi buộc lòng tiện nhân
phải tarzan-nổi-giận, muốn lấy chổi chà tống cổ hắn về Hà Nội, y như
những bà nhà quê ngày xưa đã làm với một tên khách mất dạy.
Mợ Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn
Thú thực, qua những email, bài viết và video
được bạn bè ưu ái gửi đến, tiện nhân thấy bối rối trước một số chi tiết
không rõ ràng, có khi làm lẫn lộn (confusing), trừ một điều chắc chắn:
Ted Osius đã xuất hiện tại hai nơi, Nam và Bắc Cali, và tại hai nơi, người ta không hề thấy một lá cờ VNCH, ngay cả bên ngoài hội trường.
Bắc Cali có thành phố San José, thành trì chống Cộng, vào ngày 14/7,
còn Nam Cali, tại Little Saigon, thủ đô của Người Tỵ Nạn, ngày 12/7 (cf
trên Google). Đọc lại các bài viết, xem lại các video,
tiện nhân biết rằng Ted Osius được Thượng nghị sĩ Tiểu bang Janet
Nguyễn (một người khi mới nhậm chức đã tỏ vẻ o bế đồng hương, tôn trọng
lá Cờ Vàng) mời đến tham dự một buổi họp báo với Osius do mợ tổ chức.
Hội trường hôm ấy đầy nghẹt đồng hương, trong đó có “nhà báo” kiêm chủ
tiệm cơm chay Lý Kiến Trúc –thường về VN và được VC xoa đầu khen “làm
tốt” và tháng 4, 2014 được cho tháp tùng phái đoàn tên thứ trưởng Ngoại
giao, Nguyễn Thanh Sơn, đặc trách Nghị quyết 36, ra thăm đảo Hoàng Sa,
rồi trở lại Mỹ viết bài tâng bốc VC. Có cả Điếu Cày nữa, mà tiện nhân sẽ
trở lại sau.
Theo video,
trong buổi họp báo, khi có người thắc mắc tại sao không thấy lá Cờ Vàng
nào, thì Ted Osius trả lời, bằng tiếng Anh, như sau: “[…] Tuy
nhiên tôi đang làm một công việc mà có thể tạo ra được sự khác biệt
thực sự. Và nếu tôi chụp hình với lá cờ đó, tôi sẽ bị mất việc và tôi
không thể làm việc cho quý vị. Đơn giản vậy thôi. Tôi muốn có thể tiếp
tục làm việc để cải thiện mọi quan hệ với Việt Nam”7
Không có cờ Vàng, và nghe Osius trả lời như rứa, cả hội trường (mà trong bài tường thuật đăng trên Net8, Osius ước lượng đông trên 300 người đến nghe hắn “lên lớp”, tuyên truyền cho chính sách bang giao, hòa giải, và trong số đó tiện nhân nghĩ phải có ít nhất một nửa là đồng hương quyết tâm chống Cộng, bảo vệ Cờ Vàng và chính nghĩa quốc gia) mà không nghe nói có lấy một người can đảm đứng lên, bỏ phòng họp, ra về. Khiến tiện nhân quá đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: hay là dây thần kinh bất mãn, nếu không muốn nói xấu hổ, trong họ đã bị tê liệt? Nếu thật vậy, tiện nhân lo sợ, với cái đà “vô cảm”, lơ là, thiếu cảnh giác này thì một ngày nào đó Cờ Máu của VC sẽ tràn ngập trên Bolsa, như mới đây, ngày 19/7, trên đường phố Vancouver, thuộc xứ Canada của ông Thượng Ngô Thanh Hải (tác giả dự luật S-219), trong Lễ Hội Văn Hóa Các Sắc Tộc (Fusion Festival)9,
Lát nữa đây, tiện nhân sẽ bình luận câu nói của Osius. Bây giờ xin kể tiếp về Mợ Thượng Janet.
Trong
khi Osius nói thì mợ cười toe toét, tự sướng, mắt nhắm tít, hoặc liếc
ngang liếc dọc, ra chiều “nhất trí” với “anh Ted” lắm. Sau đó, mợ lên
bục phát biểu, nửa tiếng Anh nửa tiếng Việt, đều ba rọi như nhau, rằng
thì là ông đại sứ nói đúng, ta phải tuân giữ lệnh cấm treo Cờ Vàng của
Bộ Ngoại Giao. Mợ được phụ họa y chang bởi thằng Lỏi Láu Cá Bảo Nguyễn,
đương kim thị trưởng Garden Grove.
Thái độ và lời phát biểu của Mợ Thượng và Thằng Lỏi Láu Cá làm tiện
nhân ngao ngán, buồn nôn, tự hỏi: chúng nó đắc cử vào chức vụ hiện tại
là nhờ ai? Nhờ đồng hương tỵ nạn, chứ còn ai trồng khoai đất này, vô lẽ
nhờ Mỹ Đen, Mỹ Trắng, Mỹ Nâu, hay Mễ Lậu (dù là lậu, cũng có thể đi bầu,
vì Obozo và TCPVHK cấm các tiểu bang tra hỏi bằng chứng quốc tịch của
cử tri)? Nay, rõ ràng, hai đứa trở mặt, một cách trắng trợn, bằng cách
vỗ tay hùa theo tên Đại sứ Mỹ mất dạy, bắt dẹp cờ Vàng. Để rồi xem kỳ
bầu cử sau, Ted Osius, hay Obozo, hay Kerry có giúp gì cho chúng nó được
tái đắc cử hay không.
Chưa hết, Mợ Thượng còn mở cuộc tiếp tân tại nhà riêng khoản đãi “anh Ted”. Tại tư gia của mợ mà cũng không dám treo lá Cờ Vàng nào. Sợ gì mà sợ dữ vậy, hả mợ? Ngoài một vài người Mỹ, khách VN trong buổi tiếp tân có Điếu Cày, một tù nhân rất controversial (tạm hiểu: một đề tài tranh cãi ) “bị trục xuất” qua Mỹ, đã từ chối cầm Cờ Vàng được một fan trao tặng tại phi trường Los Angeles, tự nhận là một blogger
tranh đấu cho tự do báo chí, mà chưa hề viết nổi một bài chống bạo
quyền ra hồn, mà tự nhận không biết sự thật về chiến tranh VN, về Hồ Chí
Minh, vì bị chế độ bưng bít, tuyên truyền một chiều, nên không trả lời
câu hỏi về điều này của những tham dự viên10v.v…
Hai
ngày sau Little Saigon, 14/7, Ted Osius lên San José, tiếp tục họp với
một số người Việt Nam thuộc thành phần khác, đặc biệt –mà tiện nhân gọi
không sợ sai là Việt Gian.
Đám lâu la Việt Gian theo đóm ăn tàn tại San José:
Theo video và
bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên (Genève) do thân hữu chuyển tiếp
qua email, tiện nhân thấy bọn lâu la này gồm những bộ mặt mo, cũ mèm,
mà đồng hương đã chán ngấy, nhưng cũng phải (khổ sở) kể ra. Đó là (1)
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, cựu chủ tịch BPSOS, đang phụ trách giúp đỡ
đám du sinh CÔCC (Con Ông Cháu Cha) VC từ VN sang, một anh chuyên nghề
sống nhờ “phân” Liên bang, (2)
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, mà theo công luận người Việt hải ngoại là một cựu
“tù cha”, một “đối lập viên” có giấy phép của VC (tức là cuội) (3) Hoàng Tứ Duy và (4) Huỳnh Trang, thuộc Việt Tân, (5) Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, (6) Bác sĩ Nguyễn Thế Bình, và (7) “một thanh niên trẻ tên Đức, thuộc đảng Dân Chủ tại Boston”11.
Bọn
“cố vấn” cóc nhái này được NSC (National Security Council), tức Hội
đồng An ninh Quốc gia, chứ không phải Bộ Ngoại Giao, mời đến để tham
khảo ý kiến (ô hô!), với Ted Osius, như là đại diện cho Cộng đồng Người
Việt tại Mỹ (chu choa!), trong phòng họp của hội đồng thành phố San
José. Chúng mừng lắm. Chụp hình chung và mặt đứa nào cũng tươi rói, hí
hửng.
Không có mộtđại diện chính thức nào của Cộng đồng Việt Nam và nhân sĩ chống Cộng nào của San José
hay các thành phố, tiểu bang khác được mời tham dự. Người ta hiểu Obozo
rất né những vị này, thế thôi. Ngược lại, trong phòng họp chỉ có những
gã activists tự phong thuộcloại hàng giả, hàng dởm, hàng dở, hàng nhái, hàng độc (hại) made in Hà Nội,
những con cừu ngây ngô, những tên chính trị gia chập chờn, tài hèn đức
mỏng mà tham vọng ngút trời, những tiến sĩ, bác sĩ này nọ… Toàn một lũ
trí thức ruồi bu, hoang tưởng, mà “giá trị không bằng một cục phân” của
Mao Trạch Đông (cục phân đối với Cộng sản còn có thể dùng để bón ruộng),
vô nghề ngỗng, và rảnh quá, bèn đi làm chính trị nhi nhô mà không biết
mình là những con khỉ làm trò trong gánh sơn đông mãi võ bán thuốc hòa
giải của VC và Mỹ. Chưa kể những tên gốc cán bộ, cán binh VC chánh hiệu
con nai, chống đối bạo quyền có môn bài, được VC xuất khẩu sang Mỹ, như
Cù Huy Hà Vũ hoặc Điếu Cày, mà sự hiện diện vô tình, hay hữu ýlàm lũng
đoạn, gây phân hóa Cộng đồng Tỵ nạn, đúng theo bài bản của Nghị quyết
36, và làm gạch nối giữa Mỹ và VC trong chủ trương xóa bỏ hận thù.
Tại
San José, một sự kiện xảy ra: một phụ nữ đeo trên cổ một dây quàng
bằng vải thêu hình lá Cờ Vàng gắn với lá cờ Mỹ. Khi vào phòng họp, bà bị
tên nhân viên lếu láo của nghị viên thành phố Ash Kalra (gốc Ấn Độ,
cách đây 4 năm, đã bị cảnh sát bắt về tội say rượu lái xe) chận lại, bắt
tháo ra, nếu không sẽ bị cấm cửa. Bởi vậy mới có chuyện.
Thái độ phi ngoại giao của tên ngoại giao Ted Osius:
Đối
với quân dân Miền Nam tỵ nạn VC, lưu lạc khắp nơi trên thế giới, hay
còn đang sống tủi hờn, vất vưởng tại quê nhà (như các thương phế binh bị
bạo quyền trù dập), lá Cờ Vàng vẫn luôn luôn là linh hồn của dân tộc
VN, là biểu tượng của Tự Do được bảo vệ, qua nhiều thế hệ, bằng xương
máu của biết bao chiến sĩ, anh hùng VNCH, trong cuộc chiến đấu gian khổ
với quân thù Cộng sản côn đồ xâm lăng từ phương Bắc, đã hy sinh nằm
xuống cho tổ quốc được vươn lên, trường tồn. Trong lòng những người Việt
Nam quốc gia chân chính, lá Cờ Vàng, vượt trên ý niệm biểu tượng, dấu
tích, còn là huyết mạch, là lẽ sống, là hồn thiêng sông núi, là quê
hương Việt Nam, là chính nghĩa quốc gia sáng ngời, là căn cước tỵ nạn.
Mất nó, người Việt Nam tại Mỹ, hay trên thế giới, dù sống hợp pháp, cũng
chỉ là loại di dân vô tổ quốc, tha phương cầu thực, đâu khác chi những
Mễ Lậu, Tàu Lậu, Phi Châu Lậu. Lá Cờ Vàng, vì thế, đã được công nhận bởi
rất nhiều tiểu bang, thành phố Mỹ có đông người Việt Quốc Gia chống
Cộng. Cho nên, dù qua bao nhiêu tang thương, vật đổi sao dời đã xảy ra
cho đất nước, vẫn phất phới bay, rực rỡ, ngạo nghễ trong tim đồng hương
tỵ nạn và con cháu luôn khát khao lý tưởng tự do, dân chủ, hòa bình.
Ted Osius, Janet Nguyễn, Bảo Nguyễn, và lũ Việt Gian “cố vấn” xuất hiện tại San José
ngày 14/7 phải biết điều đó. Obozo, Kerry, và đám dân biểu, thượng nghị
sĩ trong Quốc Hội, và những tên nhà báo Cấp tiến, phản chiến, thiên
Cộng kinh niên, bất trị –bây giờ chủ trương hòa giải vô điều kiện với
VC– phải biết điều đó. Những kẻ này phải biết thêm rằng khinh chê, vứt
bỏ lá Cờ Vàng, dưới bất cứ hình thức nào, với bất cứ lý do nào, bởi bất cứ ai,
kể cả Obozo, Biden, Clinton, hay Kerry, là cố tình khiêu khích, chọc
giận Cộng đồng Người Việt Quốc Gia, nếu không muốn nói gây chiến với họ.
Dù chính sách thay đổi. Dù gió đã đổi chiều. Dù bạn và thù được Mỹ coi
như xêm xêm, trong nồi cám heo “vĩ đại”. Dù gì, cũng mặc kệ.
Thực
ra, tiện nhân chưa bao giờ đọc được, hay nghe được, lệnh cấm treo cờ
Vàng từ Obozo hay Kerry, và Osius trong câu trả lời cũng không nói đó là
lệnh cấm của ai. Chỉ có Mợ Thượng và Thằng Lỏi Láu Cá, bảo hoàng hơn
vua, hoặc mưu toan trở cờ, nâng bi Mỹ, vì quyền lợi, hay vì quá ngu đần,
bịa ra, để hù dọa những đồng hương yếu bóng vía. Ở xứ Mỹ tự do này,
chính phủ nào có quyền cấm Người Việt Tỵ Nạn treo tại Cộng đồng của họ,
hay cầm trên tay, lá Cờ Vàng –lá
cờ mà nếu không còn đưọc pháp luật Mỹ và Quốc tế xem là biểu tượng của
quốc gia VNCH đã mất, thì ít ra, trong lòng mỗi người Việt chân chính,
cũng là dấu tích của một lý tưởng cao đẹp, của một cuộc chiến đấu hào
hùng, và một tấm lòng thủy chung vô bờ đối với đất nước những ngày xưa
cũ? Cộng đồng Việt Nam tại Mỹ và trên thế giới, tuy nhỏ, nhưng là một
thực thể, hay thực tế, rất quan trọng về nhiều mặt, mà không một chính
quyền sở tại nào được phép coi thường.
Nghĩa
là việc tên Đại sứ Osius đã không muốn đứng dưới, hay chụp hình với, lá
Cờ Vàng, là do quyết định cá nhân của hắn, vì sợ VC, vì nịnh VC, vì
muốn lấy điểm với VC (nghe nói, tại San José, hắn gắn trên túi áo, hình
Cờ Máu gắn với cờ Mỹ, nhân kỷ niệm 20 năm ngày Mỹ lập bang giao với VC).
Giống y chang ả Tim, nguời Thụy Sĩ, tay sai VC, mấy năm trước đây, từ
VN qua Mỹ năn nỉ xin tiền người Quốc gia để đem về cho VC, mà lại ngu,
từ chối đứng dưới lá Cờ Vàng trên sân khấu, chưa nói là bỏ ra ngoài lúc
chào cờ, bị đồng bào chửi như tát nước, khiến ả tởn tới già không dám
bén mảng đến Mỹ nữa. Như chính Osius tuyên bố, một cách phi ngoại giao,
hắn sợ mất cái job
đại sứ béo bở tại Hà Nội, lần đầu mới vớ được, trên dưới chưa đầy một
năm, mà hắn quá mê, vì đã tự trao nhiệm vụ:củng cố bang giao giữa Mỹ và
VC, và khuyến dụ thanh niên VN cổ võ phong trào gay và lesbian
và hôn nhân đồng tính –là điều tương đối dễ dàng trong một Việt Nam
Cộng Sản mà đạo lý quá suy đồi hiện nay, so với các nước Á Châu khác2.
Osius quên rằng VC là một lũ lưu manh, tráo trở, lừa bịp, xài luật rừng
(xem gương của những thằng, những con Việt Kiều bị VC lừa đem tiền về
nước làm ăn, rồi sau một thời gian, mất của, bị tù, phải ôm đầu máu, mếu
máo chạy ra lại hải ngoại. Hay vụ viên phó lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn, còn
nhớ tên là Merchant (?), năm nào bị công an chận đánh công khai, tả tơi,
trước ống kính quay phim, không cho đến thăm cha Nguyễn Văn Lý). Osius
cũng quên rằng, chức đại sứ là một hình thức thưởng công, đền ơn cho phe
đảng của (những) tổng thống Mỹ, chứ chẳng phải nhờ tài giỏi, công lao
cá nhân, hoặc bất khả thay thế. Liệu sau 2016, với tổng thống mới, Osius
có còn tại chức để phục vụ cho bạo quyền VC nữa thôi?
Hỏi tức là trả lời. Cái dại của Osius là đã quá tự tin, quá tự mãn, quá narcissist
(tự tôn?) để trở thành một thứ người mất dạy, cà chớn, vô giáo dục:
được mời đến nhà người ta mà bắt gia chủ giấu hình ảnh tổ tiên đi, là
một thứ văn hóa nào vậy? Đến với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn
Chống Cộng mà đòi dẹp bỏ lá Cờ Vàng thân yêu của họ thì còn có cái ngu
nào hơn cái ngu này?
Bị chửi là phải lắm rồi. Chưa bị chổi chà đét vào đít là còn may đấy, hiểu không, Ted?
CHÚ THÍCH
1)Theo
tài liệu giải mật (cf Google, hay Yahoo) chính Lodge đã cho phép bọn
phản tướng giết cụ Diệm mà không thông báo trước cho JFK. NLGO tôi còn
nhớ ybị dân Miền Nam lúc bấy giờ khinh ghét đến độ đã lấy tên y, “ca-bốt-lốt” (theo tiếng Pháp capote anglaise), hay “ông đại sứ”, đặt cho bao cao su ngừa thai (condom).
2)Trên tờ Washington Blade,
số cuối năm 2014, sau ngày được Thượng Viện Mỹ phê chuẩn cho làm đại sứ
tại VN, tháng 10, 2014, Ted Osius mừng húm, tuyên bố: “Giấc mơ đã thành
hiện thực. Tôi cảm thấy như đã chuẩn bị cái job này trong 25 năm.” Tức là từ 1990, trước cả khi Clinton
quyết định bang giao với VC (1995). Năm 1997, hắn đã làm việc tại VN,
như là một nhân viên xoàng tại tòa đại sứ Mỹ. Sau đó, Osius đút ống đu
đủ bơm xếp trực tiếp, tức đương kim bộ trưởng Ngoại giao Kerry: “Ông yêu
Việt Nam. Ông thực sự quan tâm đến Việt Nam. Ông muốn tôi vào đó” (He loves Vietnam […] He really cares about Vietnam and he wanted me in). Trong buổi thảo luận tạiThượng
Viện, Osius tuyên bố với Ủy ban Ngoại giao TV rằng bây giờ đã đến lúc
“Mỹ cần duyệt xét bãi bỏ lệnh hạn chế buôn bán vũ khí cho VN -đang mua
hầu hết vũ khí từ Nga […]” Osius nói công việc chính của hắn, trong chức
vụ đại sứ, là sẽ hoàn thành hiệp ước giữa hai quốc gia được Obama và
Trương Tấn Sang ký kết năm 2012, gồm một số lãnh vực cộng tác, kể cả an
ninh chính trị và phát triển kinh tế. Y nói, “Công việc, như tôi quan
niệm, là lắp thịt vào những khúc xương của thỏa ước ấy” (My job as I see
it is to put the flesh on the bones of that agreement). Ngoài ra, như
một đại sứ công khai gay thứ 7 của Mỹ, hắn cũng muốn quần chúng VN công nhận quyền của LGBT (người đồng tính) tại đó. Y nói: “Tôi muốn được [NLGO: lịch sử]
nhớ như là một người thực sự đã gắn sâu mối quan hệ; thực sự đã làm
những việc lớn lao cho quan hệ giữa hai quốc gia Mỹ và Việt Nam; đã thực sự là một người hữu hiệu; đã kính trọng VN, kính trọng dân Việt Nam; nói tiếng của họ; biết rành Việt Nam và là gay
[…] . Như thế mới là điều tôi muốn được nhớ tới” ( I would like to be
remembered as someone who really deepened the relationship; really did
great things for U.S.-Vietnam relations; was really, really effective;
respected Vietnam; respected its people; speaks its language; knows the
country well and who happens to be gay, he told the Blade. That’s how I
would like to be (remembered). Sau cùng, Osius tháp tùng Nguyễn Phú Trọng trong chuyến Mỹ du vừa qua, với tư cách thông dịch viên.
3)Cũng
như việc Obozo là một tín đồ Hồi giáo (Muslim), lý lịch và lập trường
chống tư bản của y có tài liệu hẳn hoi, kể cả trong sách hồi ký của y,
không phải chuyện bịa đặt hay vu khống, mặc dù đã nhiều lần y công khai
chối không phải là Muslim hay thiên Cộng: a- Cha y là một người Cộng sản, mẹ là một cảm tình viên (sympathizer) CS; b- Thời trẻ, y được bảo trợ (mentored) bởi tay Cộng sản Frank Marshall Davis; làm bạn với những đồng môn và giáo sư Marxist
trong trường Occidental College; tham dự những buổi hội thảo của những
Học giả có khuynh hướng Xã hội (Socialist Scholars Conferences) tại New
York; được huấn luyện về phương pháp tổ chức cộng đồng
(community-organizing methods) của Saul Alinsky, một bạn đồng hành CS;
nối dây liên hệ cá nhân và chính trị mật thiết với tổ chức cộng đồng
thiên tả ACORN, và với những tay tổ marxist nổi tiếng (đồng thời là cựu
khủng bố quốc nội) Bill Ayers và Bernardine Dohrn; được chỉ định làm
việc tại một văn phòng chính trị đầu tiên bởi Alice Palmer, một nhân vật
thân Liên Xô tại Illinois; thập niên 1990s, là thành viên của New
Party, một liên đảng chính trị xã hội; quan hệ gần gũi với Midwest
Academy, một cơ sở huấn luyện cấp tiến mà tác giả Stanley Kurtz đã mô tả
như một “tổ chưc xã hội bí mật” (crypto-socialist organization). c-
Obozo đã trong vòng 20 năm đến dự lễ tại nhà thờ của Mục sư Jeremiah
Wright, người giảng về lý thuyết Marxist và thần học khai phóng
(liberation theology, khai thác người nghèo). d- Là tổng thống, Obozo bổ nhiệm Carol Browner, một cựu “ủy viên” (commissioner) của Quốc tế Xã hội làm “thủ lãnh
môi trường” (environment czar); sử dụng giám đốc Liên Lạc của Tòa Bạch
Ốc, Anita Dunn, để trích dẫn lời của Mao Trạch Đông mà y thị xem như một
trong “những triết gia chính trị yêu thích nhất” (favorite political
philosophers); bổ nhiệm làm “lãnh tụ khoa học” (science czar), John
Holdren, người xem chủ nghĩa tư bản là một hệ thống tự bản chất có tính
cách hủy hoại môi trường; bổ nhiệm Van Jones, một cựu Cộng sản Cách mạng lâu năm làm “green jobs czar” (thủ lãnh tìm những job xanh, tức bảo vệ môi trường); e- Obozo cổ động mạnh mẽ cho việc tái phân phối tài sản đồng đều trong nước Mỹ và trên toàn thế giới…
4)Trong quyển Unfit for Command,
của John O’Neill, Regnery Publishing, INC, xuất bản, năm 2004, chương 7
có tựa đề "Meeting with the enemy" (Gặp gỡ kẻ thù, tr. 123-137), và
chương 9, "Kerry’s Communist Honors" (Vinh dự Cộng sản dành cho Kerry,
tr. 167-174), nói về những hoạt động thân VC của John Kerry, đương kim
bộ trưởng Ngoại giao của Obozo. Quả vậy, tên phản chiến kiêm phản bội
Kerry đã góp phần không nhỏ trong việc làm quân Mỹ bại trận kéo theo sự
sụp đổ của Miền Nam chúng
ta, và đã được Cộng sản thưởng công xứng đáng. Như sau: Sau bốn tháng
phục vụ ở Việt Nam, Kerry trở về Mỹ, nhờ những chiến thương và huy
chương mà nhóm "Swiftees" cho là "lèo" (“fraudulent”, tr. 71), và trở
thành phát ngôn nhân của nhóm "Vietnam Veterans Against the War" (Cựu
quân nhân Mỹ ở Việt Nam chống chiến tranh), ra Quốc hội tố cáo "tội ác"
của lính Mỹ, và của chính y, tại Việt Nam. Vấn đề chính yếu ở đây, đối
với O’Neill, là những lời lẽ mà Kerry đã sử dụng năm 1971 giống hệt như
những luận điệu của Việt Cộng được tình báo KGB Liên Xô dạy cho. a- Theo Ion Mihai Pacepa, sĩ quan KGB cao cấp đào thoát sang Tây phương,
KGB đã bỏ hàng triệu Mỹ kim để xuyên tạc sự hiện diện của Hoa Kỳ tại
Việt Nam và tạo ra "những lời tố cáo hằn học mà Kerry đã lặp lại gần như
từng chữ tại Quốc hội Mỹ và gieo trồng vào các phong trào thiên tả cùng
khắp Âu Châu."(123-124). Trong quyển The Many Faces of John Kerry,
WND Books, Tennessee, 2003, tác giả David N. Bossie, chủ tịch Hội bảo
thủ “Citizens United ở Washington DC”, viết rằng phi công John McCain,
khi còn trong nhà giam Hỏa Lò, đã nghe những lời tố cáo này của Kerry và
đã bị bọn Việt Cộng "quay tơi bời" (bombarding), cùng với những tù nhân
khác, bởi những câu hỏi về “tội ác chiến tranh” mà Kerry đã dựng đứng
lên và gán cho họ (61). b-
Tháng 6, 1971, Lê Ðức Thọ đến Paris dự hòa đàm trong phái đoàn Cộng sản
Bắc Việt và gặp Nguyễn Thị Bình của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà ai
cũng biết là tay sai của Hà Nội. Vài ngày sau khi gặp Thọ, Thị Bình đã
tung ra đề nghị bảy điểm để chấm dứt chiến tranh, dựa trên ý kiến của
thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, trong đó có điều khoản bắt buộc Mỹ, nếu
muốn lấy tù binh về, phải ấn định thời gian "rút toàn bộ, đơn phương,
quân đội ra khỏi Việt Nam." (O’Neill, 126). Nhưng trước đó khoảng một năm, Kerry đã đến Paris, với tư cách cá nhân, để "nói chuyện riêng với đại diện cao cấp của phái đoàn Cộng sản",theo lời ủy ban tranh cử (tổng thống) của Kerry thú nhận (O’Neill, 127). Lúc đó (năm 1970), sự việc này còn là tin đồn, nhưng vào ngày 22/4/1971, được công khai xác nhận bởi chính Kerry trong buổi điều trần trước ủy ban Fulbright. Y nói: "Tôi đã đến Paris. Tôi đã nói chuyện với cả hai phái đoàn trong hòa đàm, có nghĩa là Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời [ghi chú của NLGO: tức Mặt trận giải phóng miền Nam]"
(O’Neill, 137). Người đại diện cao cấp được nhắc đến đó là Nguyễn Thị
Bình, và trong buổi nói chuyện có cả hai phe Cộng sản Bắc Việt và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ngày 22/7/1971, Kerry tổ chức họp báo ở Washington DC, và đại diện cho
tổ chức "Cựu Quân Nhân Mỹ ở Việt Nam chống chiến tranh" y công khai yêu
cầu Tổng thống Nixon chấp nhận kế hoạch bảy điểm của Thị Bình, vì theo
y, Cộng sản Việt Nam đã hứa thả tù binh rồi, thì Nixon không nại cớ gì
để không định ngày rút quân (O’Neill, 127). c- Theo hồ sơ FBI theo dõi nhóm "Cựu quân nhân chống chiến tranh", mục tiêu quan trọng của nhóm này, vào năm 1971, là gửi đại diện sang Paris
hoặc Hà Nội để gặp gỡ kẻ thù. Ngoài Kerry, còn có "đồng chí" Al
Hubbard, thủ lãnh của nhóm –một anh trung sĩ Không quân da đen, nhưng
mạo danh là Ðại úy phi công ở Việt Nam bị thương khi thi hành công tác
(O’Neill, 125). Hubbard đã đến Paris để gặp Xuân Thủy, trưởng đoàn Cộng
sản Bắc Việt, và người của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và đạt thỏa
thuận là Cộng sản sẽ "thả một số tù binh Mỹ cho nhóm ‘Cựu quân nhân
chống chiến tranh’, với điều kiện là nhóm này gửi một phái đoàn đến Hà
Nội vào khoảng lễ Giáng sinh." (O’Neill, 131). Ngoài ra, cũng theo lời Hubbard, hai bên hứa cộng tác đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Mỹ. d- Kerry lại sang Paris
lần thứ hai mùa hè 1971 để gặp đại diện Cộng sản bàn về việc thả tù
binh và củng cố lực lượng cho nhóm chống chiến tranh của mình và phong
trào phản chiến. Gerald Nicosia, một sử gia ủng hộ nhóm “Cựu quân nhân chống chiến tranh" và rất thân Kerry, đã xác nhận điều này trên báo Los Angeles Times ngày 24/5/2004, qua những tài liệu ông có được từ FBI (O’Neill, 135). e- Theo FBI, ngày 14/6/1971, Kerry, trong bài diễn văn đọc tại cơ quan YMCA, Philadelphia, đã không tiếc lời ca tụng Hồ Chí Minhvà gọi tên tội đồ này là George Washington của Việt Nam, đồng thời lên án gắt gao Hoa Kỳ về những hoạt động tại Việt Nam (O’Neill, 137). f- Qua sự điều tra chính xác và mới nhất, tác giả của Unfit for Command cả quyết rằng hiện
nay trong Bảo Tàng Viện Di Tích Chiến Tranh (War Remnants Museum) ở
Thành phố Hồ Chí Minh –trước kia mang tên Bảo Tàng Viện Tội Ác Chiến
Tranh– có treo một bức ảnh của John Kerry trong một phòng với tiêu đề
"Thế giới ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến" (The World Supports Vietnam in its Resistance, O’Neill, 167), kế bên hình của các lãnh tụ Trung Cộng, các nhóm khủng bố như Fatah (thuộc Mặt trận giải phóng Palestine), và đặc biệt ảnh của David Miller, một tên phản chiến Mỹ khác, đang đốt thẻ quân dịch vào năm 1965,
v.v... Hình chụp năm 1993 lúc Kerry bắt tay “đồng chí” Ðỗ Mười, Tổng bí
thư Ðảng Cộng sản Việt Nam, được Jeffrey M. Epstein trong nhóm "Vietnam
Vets for the Truth" (Cựu quân nhân chiến tranh Việt Nam cho Sự Thật. Ghi chú của NLGO:
nhóm này không phải nhóm hải quân "Swiftees" của O’Neill) cho là một
bằng chứng rằng Cộng sản "rõ ràng ghi nhận công lao của John Kerry đóng
góp cho sự chiến thắng của họ." (O’Neill, 168). Phòng triển lãm tràn
ngập những biểu ngữ, hình ảnh chống chiến tranh từ các phong trào phản
chiến khắp thế giới đã ủng hộ Cộng sản trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Kerry chối rằng y chụp hình với Ðỗ Mười khi tháp tùng phái đoàn Mỹ đến Việt Nam
tìm các quân nhân mất tích. Cũng OK đi! Nhưng, theo O’Neill, bức hình
được treo trong Bảo tàng viện như một hình thức tri ân của Cộng sản đối
với Kerry lại là một chuyện khác (172). g-Trong sách The Many Faces of John Kerry (tạm dịch: John Kerry, người muôn mặt) của
David Bossie, cựu Trung tá Oliver North –có hai chiến thương bội tinh
tại Việt Nam, hiện là phóng viên của đài Fox News– nói rằng trong hồi
ký của tướng Cộng sản Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 1985, tên của Kerry
được nhắc đến như một người đã góp công lớn cho Cộng sản, vì nếu không
có những người phản chiến như Kerry, Giáp viết, thì Cộng sản khó mà
chiến thắng. h- Cuối cùng, O’Neill nhắc đến việc Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện Kerry
ngăn không cho Thượng viện Mỹ thảo luận Dự luật Nhân Quyền (H.R. 2833)
bất lợi cho Việt Nam, mặc dù dự luật đã được Hạ viện chấp thuận năm 2001
với số phiếu 410-1. Vì vụ này, Kerry đã bị đồng bào phe ta ở Massachusetts kéo tới văn phòng của y để phản đối.k- Tin
mới nhất từ Net: Kerry hiện đang ở Hà Nội để mừng lễ kỷ niệm 20 năm
ngày thành lập bang giao giữa Mỹ và VC. Nhân dịp này, Kerry tuyên bố:
“Các tiến bộ về nhân quyền và thượng tôn luật pháp sẽ tạo những cơ sở
phát triển quan hệ đối tác chiến lược (giữa hai nước) sâu rộng hơn và
bền vững hơn”. Mặc nhiên ca ngợi VC có tiên bộ về nhân quyền.
5)Bà
Ngô Đình Nhu, tại Beverly Hill, CA, cùng với con gái Lệ Thủy: “Whoever
has the Americans as allies does not need enemies.” cf Howard Jones, Death of a Generation, 2003, New York City, OxfordU. Press, p. 407.
6)Tríchthư của Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái, Philadelphia: “Clinton đến
Bush rồi đến Obama đối ngoại đều theo một chính sách chung được lèo
lái đàng sau bởi nhóm tài phiệt. Từ hard power foreign policy (dùng sức
mạnh vũ khí và quân đội: tốn kém quá nhiều mà không đạt kết quả) đến
soft power ("dụ khị và tiền", nhưng tiền là chính và thua Tàu về chính
sách này để Tàu chiếm gần hết Phi châu vì TC bỏ tiền ra mà không có
điều kiện gây bất ổn cho địa vị của những tên độc tài), và nay là "smart power"
có nghĩa là sức mạnh quân sự chỉ để "hù", kinh tế như cấm vận là biện
pháp trừng phạt dự trù, và điểm chính là nhập cuộc (engagement): sẵn
sàng đối thoại với bất kỳ quốc gia nào bất kể khác biệt về chính kiến, ý
thức hệ, và hệ thống chính trị và chính quyền; chỗ nào đồng thuận thì
hợp tác, chỗ nào bất đồng ý kiến thì "hạ hồi phân giải". Chính sách "hạ
hồi phân giải" này đã đẩy 90% dân số VN vào thân phận nô lệ, bị trấn lột
và đàn áp dã man, một tình trạng mà chính quyền Mỹ biện minh là vấn đề
nội bộ và chủ quyền của VN. Kết quả của chính sách này có lợi cho tài
phiệt Mỹ: (1) không phải thí mạng lính, ít tốn kém, (2) không mất nhân tâm, (3)
cơ hội đầu tư kinh tế có lợi cho tài phiệt Mỹ và tư bản đỏ VN (lợi tức
cho VN có được phân phối cho dân VN hay không là vấn đề chủ quyền của
VN, Mỹ không can dự, và (4)
về lâu về dài có thể kéo VN về phía Mỹ (theo tính toán của Mỹ qua các
surveys thì đa số dân VN muốn theo Mỹ và ghét Tàu nên Mỹ cho là "thiên
thời" rất tốt và đó là lý do Ted Osius đi "du thuyết" cộng đồng người
Việt hải ngoại. Dĩ nhiên là những người còn thương đất nước Việt Nam và
nhân dân Việt Nam thấy rõ là chính sách ngoại giao hiện tại của Mỹ chỉ
có lợi cho Mỹ (tài phiệt), nhưng không màng đến thân phận đoạ đày của
90% nhân dân Việt Nam đang bị trấn lột và đàn áp khắc nghiệt. Người Việt
tại Mỹ chỉ là một thiểu số rất nhỏ (tất cà người Á đông chỉ chiếm
khoảng 3% dân số toàn quốc) nên chưa đủ sức mạnh để thay đổi chính sách
của chính quyền Mỹ. Cho nên bài toán cho những nhà hoạt động cho tự do
và dân chủ cho VN là làm thế nào lật đổ được chế độ CSVN mà không có sự
chống đối hay cấm cản của chính quyền Mỹ, trái lại rất có thể có được sự
hỗ trợ của chính quyền Mỹ và của thế giới tự do. Vấn đề là hiểu Mỹ
và đưa ra chiến lược và chiến thuật thích hợp.”
8)cf Google, Ted Osius, “Notes”.
9) Xin mở link: http://news.zing.vn/Co-do-sao-vang-tung-bay-trong-le-hoi-tren-dat-Canada-https://ci3.
10)cf video
buổi “hội luận” giữa Điếu Cày và Ban Biên Tập Bản Tin Hoa Thịnh Đốn,
được diễn ra ngày 23/11/14 tại Annandale, VA, và mới đây, 19/7, trong
buổi gặp gỡ với những cựu tù nhân chính trị, Khu Hội Bắc Cali, tại San
José.
11)Do một ông bạn, Hải Quân Đại úy, chuyển từ Đức quốc:
cf
bài: “ĐÁM ĐÓN GIÓ TRỞ CỜ NHẨY BÀN ĐỘC: BƯNG BÔ CSVN, NÂNG BI MỸ, PHẢN
BỘI DÂN TỘC” bởi Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế, Geneva, 20.07.2015
Web : http://VietTUDAN.net. (Trích một đoạn ngắn): “Đám
người này đã từng âm mưu xóa NGÀY QUỐC HẬN 30/4 và NGÀY QUÂN LỰC VNCH
19/6 nhằm nịnh bợ CSVN chờ ngày nhẩy bàn độc đứng chung với CSVN chia
nhau những mẩu bánh rơi rụng. Trong khi CSVN đang đi đến chỗ tan rã,
thì Hoa kỳ và cũng cái đám người nịnh bợ CSVN này, lại nâng bi Mỹ tìm
cách cứu vớt Cơ chế CSVN dưới Giải pháp Hòa Giải Hòa Hợp trá hình nhằm
kéo dài thêm cái đảng cướp CSVN trên đầu Dân Tộc […]”
Xin mở:
Tiện nhân tin chắc rằng tất cả quý vị đều đã nhận, đọc bài, xem video về những vụ xảy ra trên.
Portland, 7 August 2015
Người Lính Già Oregon,
cựu sĩ quan VNCH, cựu tù nhân cải tạo, cựu tù nhân vượt biên,
đương kiêm tỵ nạn VC tại Mỹ,
quyết bảo vệ Cờ Vàng, chống VC cho tới sau hơi thở cuối cùng
Nguồn:http://www.chinhkhiviet.net/2015/08/nguoi-linh-gia-oregan-hay-tong-co-ten.html