11 Tháng 5 2008 - Cập nhật 19h25 GMT
Lê Quỳnh
BBC Việt ngữ
Lá thư mật Nixon và quan hệ Việt - Mỹ
Sau khi hai bên ký kết Hiệp định ngừng bắn ở Paris năm 1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã viết một lá thư mật gửi Thủ tướng
Bắc Việt Phạm Văn Đồng, hứa với Hà Nội 3.25 tỉ đôla viện trợ tái thiết sau khi chiến tranh kết thúc.
Lá thư này sau đó đã trở thành một trong các trở ngại chính, bên cạnh vấn đề người Mỹ mất tích, khi hai nước có một số động
thái tìm cách phục hồi quan hệ sau 1975.
Sự ra đời của lá thư
Tổng thống Johnson là người đầu tiên đề
cập khả năng viện trợ sau chiến tranh cho Việt Nam vào tháng Tư 1965,
nhưng Hà Nội
không trả lời. Năm 1969, trong một diễn văn tại Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc, Nixon cũng nhắc tới vấn đề này. Nhưng vấn đề
chỉ trở thành chính thức vào ngày ký Hiệp định Paris tháng
Giêng 1973, khi Lê Đức Thọ đòi có cam kết từ phía Mỹ.
Sau ba tiếng tranh cãi, Henry Kissinger đề nghị dùng viện trợ để đổi lấy giải trình của Hà Nội về tù binh Mỹ tại Lào. Kissinger
cũng đề xuất dùng cuộc họp sắp diễn ra tại Hà Nội trong tháng Hai để bàn về chi tiết cam kết.
Ngày 1 tháng Hai, Nixon viết lá thư gửi
cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Phía Việt Nam đã đòi là không dùng sự thông
qua của Quốc
hội làm điều kiện cho cam kết viện trợ. Mẹo của Kissinger là
không đưa chi tiết này vào phần chính lá thư, nhưng lại đặt nó
vào phần phụ lục, theo đó, cam kết “sẽ được thực hiện bởi
mỗi bên theo các điều khoản hiến pháp của mỗi nước.” Trong hồi ký
của mình, Kissinger kể lại: “Chúng tôi ‘thỏa hiệp’ bằng cách
nêu sự cần thiết có sự thông qua của Quốc hội ở một trang riêng,
được gửi đồng thời và có cùng sức nặng.”
Khi đến Hà Nội từ 10 đến 13 tháng Hai,
Kissinger đã trao cho Phạm Văn Đồng lá thư của Nixon. Mặc dù Kissinger
nhấn mạnh đến
yếu tố Quốc hội, nhưng như những sự kiện về sau cho thấy, Hà
Nội tin rằng Quốc hội chỉ là cái cớ để Mỹ từ chối chi tiền. Những
người Cộng sản, hoạt động trong một văn hóa chính trị khác,
không thể hiểu nổi làm sao Quốc hội Mỹ lại có thể từ chối cấp
vài tỉ đôla trong khi Washington dễ dàng đổ hàng trăm tỉ
đôla vào miền Nam Việt Nam trong thời chiến.
Nỗ lực ngoại giao thời hậu chiến
Tháng 12 năm 1975, lần đầu tiên từ khi
chiến tranh kết thúc, một phái đoàn dân biểu Mỹ đến Hà Nội, do Dân biểu
Gillespie “Sonny”
Montgomery dẫn đầu. Khi phía Mỹ đặt câu hỏi về sự tồn tại
của những cam kết viện trợ mật từ phía Mỹ, họ đã ngạc nhiên khi
Việt Nam tiết lộ lá thư của Nixon gửi Phạm Văn Đồng ngày
1-2-1973, chưa đầy hai tuần sau lễ ký Hiệp định Paris. Trong thư,
Nixon hứa sẽ có 4.75 tỉ đôla viện trợ tái thiết, gồm 3.25 tỉ
viện trợ kinh tế và 1.5 tỉ viện trợ thực phẩm và hàng hóa.
Hoàn toàn bất ngờ, Montgomery, sau khi
quay về Mỹ, có cuộc điện đàm với Nixon ngày 2-2-1976. Sau đó ông báo cáo
là “chương
trình tái thiết, vốn đã được xem xét từ nhiều năm, phụ thuộc
vào phía Việt Nam tuân thủ Hiệp định Hòa bình Paris và vào sự
thông qua của quốc hội.” Vì lý do nào đó, chính phủ của Tổng
thống Ford không công bố nội dung lá thư cho quốc hội.
Một chuyến thăm Hà Nội của Thượng Nghị sĩ
George McGovern, nhằm đánh giá khả năng phục hồi quan hệ, diễn ra từ 15
đến 17 tháng
Giêng 1976. Phái đoàn Mỹ một lần nữa được cho biết về lá thư
của Nixon. Thủ tướng Đồng nhấn mạnh “khoản tiền cụ thể không
được nhắc trong Hiệp định Paris, nhưng đây là vấn đề danh
dự, trách nhiệm và lương tâm.”
Trong báo cáo gửi quốc hội sau khi trở về
từ Hà Nội, McGovern khuyến nghị dỡ bỏ cấm vận, cho Việt Nam vào Liên
Hiệp Quốc và
bình thường hóa quan hệ. Mặc dù McGovern không đòi làm rõ
câu hỏi về khoản tiền 4.75 tỉ đôla, nhưng ông nói “ban đầu chúng
ta nên thể hiện là chúng ta sẵn sàng gia nhập cùng các nước
ít nhất là bằng một chương trình viện trợ khiêm tốn.”
Tổng thống Ford vẫn không chịu công bố nội
dung lá thư của Nixon cho quốc hội. Ngày 17-4 năm 1976, báo Nhân Dân ở
Hà Nội đăng
trích đoạn lá thư Nixon trong một phần chiến dịch công kích
sự lạnh nhạt của chính quyền Ford. Có điều, truyền thông nước
ngoài khi ấy không tường thuật gì về chi tiết này, khiến nó
không có chút tiếng vang tại Washington. Tháng Bảy năm đó, trong
phiên điều trần trước Ủy ban Montgomery (tên tắt của Ủy ban
Quốc hội về người Mất tích ở Đông Nam Á), trợ lý ngoại trưởng
về Đông Á – Thái Bình Dương Philip Habib giải thích việc giữ
kín lá thư Nixon không phải là để nhánh hành pháp thọc gậy sau
lưng Quốc hội mà là điều cần thiết để đạt được nỗ lực hòa
bình tại Đông Dương. Sự giải thích này có vẻ làm hài lòng Ủy ban,
và phải gần một năm sau, lá thư Nixon mới trở thành tài liệu
lớn tác động tiêu cực đến quan hệ tương lai giữa hai nước.
Cuộc tranh cử tổng thống Mỹ cuối năm 1976
mang lại chiến thắng cho Jimmy Carter của đảng Dân chủ, trước Gerald
Ford. Trong
những tháng đầu sau khi nhậm chức tổng thống, Carter có vẻ
sẵn sàng làm hòa với Việt Nam. Tháng Ba năm 1977, một phái bộ Mỹ
sang Việt Nam, với trưởng đoàn là Leonard Woodcock, chủ tịch
nghiệp đoàn công nhân các hãng xe hơi.
Báo cáo của Woodcock sau khi về từ Hà Nội
tạo cho Tổng thống Carter cảm giác (sai lệch) rằng Hà Nội đã bỏ lập
trường xem viện
trợ kinh tế là điều kiện tiên quyết trước khi nối lại quan
hệ. Cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ được tổ chức tại Paris
trong hai ngày 3 và 4 tháng Năm 1977. Dẫn đầu phái đoàn Mỹ
là Richard Holbrooke, người bắt đầu sự nghiệp ngoại giao bằng bốn
năm ở Việt Nam (1962-66). Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại
giao Phan Hiền dẫn đầu.
Washington tỏ ra lạc quan về triển vọng
cuộc họp tại Paris. Bình luận về cuộc họp sắp diễn ra, Tổng thống
Carter, nói vào
tháng Tư, rằng ông sẽ “hăng hái” vận động cho Việt Nam gia
nhập Liên Hiệp Quốc và bình thường hóa quan hệ nếu Việt Nam “hành
động có thiện chí.”
Trong ngày đầu cuộc họp tại Paris,
Holbrooke hồ hởi nói với Phan Hiền: “Ngài thứ trưởng, ta hãy bỏ qua
những vấn đề gây chia
rẽ. Ta hãy ra ngoài và cùng tuyên bố với báo giới là chúng
ta đã quyết định bình thường hóa quan hệ.” Nhưng ông Hiền từ chối,
khẳng định Mỹ trước hết phải cam kết giúp tái thiết Việt Nam
như nội dung lá thư của Nixon và hiệp định Paris. Như cựu Thứ
trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, có mặt trong cuộc họp với
tư cách vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, tiết lộ trong hồi ký, Bộ Chính trị
ở Hà Nội đã chỉ thị phải đòi giải quyết cả ba vấn đề: “ta và
Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập
quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA
và Mỹ viện trợ 3.2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước
đây.” Nhưng Holbrooke, trước đó đã nhận chỉ thị tìm kiếm sự
khôi phục ngoại giao vô điều kiện, bác bỏ yêu cầu của Việt Nam,
nói rằng cả Quốc hội và chính phủ Mỹ sẽ không đồng ý vấn đề
viện trợ.
Công bố lá thư
Hai bên đồng ý tạm hoãn cuộc họp để
Holbrooke quay về xin chỉ thị từ Washington. Nhưng khi phát biểu với báo
chí, Phan Hiền
lần đầu tiên khẳng định công khai là Hà Nội vẫn kiên quyết
đòi hỏi có viện trợ, ngược hẳn tuyên bố của Carter sau chuyến đi
của Woodcock rằng Hà Nội đã bỏ vấn đề này.
Tiết lộ của Phan Hiền đưa ra đúng lúc đang
có cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ về dự luật cấp 1.7 tỉ đôla cho viện
trợ hải ngoại.
Trong cuộc họp của Hạ viện ngày 4 tháng Năm, dân biểu Cộng
hòa John Ashbrook đòi có biện pháp cấm Bộ Ngoại giao có thêm nhượng
bộ với Việt Nam. Chỉ sau 10 phút tranh luận, Hạ viện Mỹ bỏ
phiếu cấm có bất kỳ viện trợ nào cho Việt Nam. Dự luật do Ashbrook
bảo trợ (HR 6689) cấm cả việc thương lượng về “bồi thường,
viện trợ hay mọi hình thức chi trả khác”.
Hai hôm sau, ngày 6 tháng Năm, báo Nhân Dân cho đăng trích đoạn thư của Nixon và lá thư trả lời của Phạm Văn Đồng. Cũng trong
số báo này là bài viết lên án rằng sự từ chối thực hiện lời hứa của Nixon đã “chà đạp” luật pháp quốc tế.
Lần này, việc Hà Nội công bố trích đoạn lá
thư gây ra sóng gió ở Đồi Capitol. Lester L. Wolff, tân chủ tịch Phân
ban Hạ viện
về châu Á – Thái Bình Dương, dọa đưa Nixon ra tòa nếu cựu
tổng thống không xuất trình lá thư. Nixon gửi cho Wolff một lá thư
đề ngày 14 tháng Năm, nhấn mạnh: “Không có bất kỳ cam kết
nào, dù là đạo đức hay pháp lý, để cung cấp bất kỳ viện trợ nào
cho chính phủ Hà Nội.”
Ngày 19 tháng Năm, trước sức ép của Wolff,
Bộ Ngoại giao Mỹ công bố toàn văn lá thư mật năm 1973 của Nixon. Đây
cũng là ngày
phát đi cuộc trò chuyện thứ ba trong loạt phỏng vấn truyền
hình giữa nhà báo David Frost và Richard Nixon. Cựu tổng thống
đã dùng cơ hội này để biện bạch ông đã cảnh báo Hà Nội vào
ngày 12 tháng Hai 1973 là việc cấp viện trợ kinh tế phụ thuộc vào
việc Bắc Việt nghiêm túc thực thi hiệp định hòa bình và vào
sự thông qua của Quốc hội Mỹ.
Hai ngày sau, Bộ Ngoại giao Việt Nam chính
thức công bố trọn vẹn nội dung thư của Nixon, cùng trả lời của Phạm Văn
Đồng. Trong
cái nhìn của Hà Nội, việc công bố toàn văn, cũng như những
lần hé lộ văn bản lá thư trước đó, là cách buộc Hoa Kỳ thực thi
trách nhiệm. Tuy nhiên, nó cũng chứng tỏ Hà Nội không hiểu
được những đổi thay trong dư luận cũng như chính trường Mỹ sau
1975. Trong những năm chiến tranh, Hà Nội có thể tận dụng
cảm tình của phong trào phản chiến quốc tế - trong khi giờ đây,
Việt Nam chỉ là một trong vô vàn các nước Thế giới thứ Ba có
tiếng nói yếu ớt. Trong những năm chiến tranh, Quốc hội Mỹ là
một định chế phóng khoáng đối lập với nhánh hành pháp bảo
thủ; nhưng sau cuộc chiến Việt Nam, cán cân giữa hai nhánh lập pháp
và hành pháp quay ngược hẳn. Cam kết của một tổng thống đã
mất hết uy tín lại càng bị xem như một sai lầm, một cam kết không
giá trị.
Ảnh hưởng của Brzezinski
Vòng hai hội đàm Mỹ - Việt diễn ra trong
hai ngày 2 và 3 tháng Sáu tại sứ quán Mỹ ở Paris. Không khí giờ đây hoàn
toàn đổi
khác: Việt Nam bị Mỹ nhìn với con mắt nghi kỵ. Sau vòng hai,
Phan Hiền bay về Hà Nội xin cấp trên mềm dẻo hơn, nhưng không
được chấp thuận.
Zbigniew Brzezinski, ngày càng gây ảnh hưởng lên Carter ở cương vị cố vấn an ninh quốc gia, lấy ưu tiên là việc làm thân với
Bắc Kinh, và xem Việt Nam là lá bài để khuấy động mâu thuẫn Trung – Xô.
Cùng lúc đó, căng thẳng biên giới với
Campuchia và sự bất mãn gia tăng của Hà Nội đối với Bắc Kinh đẩy Hà Nội
ngả về phía
Moscow. Trong tháng Năm và tháng Sáu 1977, Phạm Văn Đồng
thăm Liên Xô. Đàm phán thất bại với Mỹ và dấu hiệu làm thân giữa
Washington và Bắc Kinh, tiêu biểu là chuyến thăm của Ngoại
trưởng Vance đến Bắc Kinh trong tháng Tám, đưa Liên Xô trở thành
giải pháp để đối chọi với đe dọa từ Trung Quốc.
Dù bị quốc hội phê phán vì cuộc hội đàm
với Việt Nam ở Paris, Tổng thống Carter giữ lời hứa không ngăn chặn tấm
vé gia nhập
Liên Hiệp Quốc của Hà Nội vào tháng Chín năm 1977. Và chỉ
vài ngày sau khi vào LHQ, Việt Nam giao cho phía Mỹ 22 bộ hài cốt
quân nhân Mỹ. Tình hình vẫn nhùng nhằng giữa sự thù nghịch
và động thái ve vuốt.
Vòng ba hội đàm Mỹ - Việt tại Paris tháng
12-1977 cũng không khá hơn. Holbrooke đề xuất khả năng lập Phòng quyền
lợi tại thủ
đô hai nước. Điều này tương tự việc Trung Quốc đồng ý cho mở
Phòng quyền lợi của Mỹ tại Bắc Kinh năm 1973. Và vào tháng Sáu
1978, Cuba cũng đồng ý với ý tưởng này của Mỹ. Nhưng đoàn
Việt Nam bác bỏ, khẳng định Hà Nội “sẽ không bao giờ làm cái việc
mà Trung Quốc đã làm.”
Ở đây để lộ ra tâm trạng say men chiến
thắng của ban lãnh đạo Hà Nội thời hậu chiến. Đề nghị của Mỹ chứng tỏ
Washington đặt
Việt Nam cùng hàng ngũ với Cuba, tức những quốc gia vệ tinh
cộng sản khá quan trọng với Mỹ về chiến lược. Nhưng Việt Nam lại
so sánh mình với Trung Quốc, tin rằng cả hai cùng đáng kể
như nhau trong mắt người Mỹ.
Chuyến thăm Trung Quốc tháng Năm 1978 của
Brzezinski đánh dấu việc Mỹ chọn con đường bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc.
Nó cũng chứng tỏ cán cân quyền lực về đối ngoại đã chuyển từ
Bộ Ngoại giao sang Hội đồng An ninh Quốc gia – dẫn tới sự từ
chức của Ngoại trưởng Cyrus Vance tháng Tư năm 1980.
Brzezinski đặt xung đột Việt Nam – Campuchia trong xung đột lớn hơn giữa
Liên Xô và Trung Quốc. Vì thế, quanh câu hỏi làm thân với Hà
Nội, Brzezinski thừa nhận “tôi…liên tục nói với tổng thống là
một hành động như thế sẽ bị Trung Quốc diễn giải là động
thái ‘thân Xô, chống Trung.”
Quân cờ giữa Mỹ - Xô – Trung
Việt Nam đề nghị có thêm vòng đàm phán
khác trong tháng Tám 1978 tại Paris, nhưng giữa lúc đang căng thẳng giữa
Hà Nội và
Bắc Kinh, Mỹ từ chối đề nghị này và muốn có hình thức họp
kín đáo hơn. Đến tháng Chín 1978, các cuộc gặp bí mật giữa Mỹ và
Việt Nam diễn ra tại New York bên lề phiên họp của Liên Hiệp
Quốc.
Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch, lần này chính thức rút bỏ đòi hỏi Mỹ bồi thường –
viện trợ 3.25
tỷ đôla. Đoàn Việt Nam hy vọng có thể ký kết thỏa thuận
trong tuần đầu của tháng Mười khi Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh đang
ở New York.
Nhưng Holbrooke từ chối đưa ra ngày cụ
thể, nói rằng có thể sẽ họp thêm sau bầu cử quốc hội ngày 7-11. Nguyễn
Cơ Thạch ở lại
Mỹ cho đến ngày 20-10, nhưng cũng ra về mà không nhận được
tin từ phía Mỹ. Trần Quang Cơ, người tiếp tục ở lại New York, cho
biết vào ngày 30-11, Robert Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ,
trả lời ông: “Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan
hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề
Campuchia, Hiệp ước Việt-Xô và vấn đề người di tản Việt Nam.”
Mỹ và Trung Quốc chính thức phục hồi quan
hệ ngoại giao vào ngày đầu tiên của năm 1979. Ngày 7-1, quân đội Việt
Nam tiến vào
thủ đô Phnom Penh. Một tháng sau đó, nổ ra cuộc chiến biên
giới Việt – Trung. Cũng từ đây, khả năng bình thường hóa quan hệ
giữa Mỹ và Việt Nam phụ thuộc vào vấn đề Campuchia, một vấn
đề còn tồn đọng cho tới đầu thập niên 1990.
...................................................................................
Tài liệu tham khảo:
Zbigniew Brzezinski, Power and Principle: Memoirs of the National Security Advisor 1977-1981 (1983)
Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After the War (1988)
Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ (2003)
Henry Kissinger, Years of Upheaval (1982)
Nguồn :http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2008/05/printable/080511_nixon_secret_letter.shtml
===== =====
Đàm phán về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ thường xuyên lâm vào thế bế
tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường chiến tranh, người Mỹ mất
tích trong chiến tranh (MIA)… Năm 1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi
thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết “bồi thường” 3,25 tỷ USD cho
Việt Nam
Ông Lê Đức Thọ (trái) và ông Henry Kissinger tại Paris cuối tháng 1/1973. Ảnh: AP
Ông Phan Doãn Nam, thư ký của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thời
kỳ Việt Nam và Mỹ đang đàm phán Hiệp định Paris, kể lại những câu
chuyện liên quan quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, trong đó có
vấn đề bồi thường chiến tranh và MIA.
Nhà máy thép không thành
“Quá khứ không dễ quên, nhất là khi bị in hằn bởi những vết sẹo do chiến
tranh để lại nhưng với tư duy luôn hướng về phía trước, Việt Nam và Hoa
Kỳ đã và đang nỗ lực rất nhiều để vượt lên trên quá khứ và định hình
quan hệ tương lai”.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Phạm Bình Minh
Ông Nam kể, năm 1973, phía Việt Nam muốn nhận tiền bồi thường chiến
tranh để xây dựng nhà máy thép 3 triệu tấn; phía Mỹ đồng ý thương lượng
về vấn đề này, nhưng không gọi là bồi thường chiến tranh, mà là khoản
đóng góp vào quá trình tái thiết Việt Nam. Phía Việt Nam lúc đầu đưa ra
con số 5 tỷ USD, sau thương lượng thì rút xuống 3,25 tỷ USD. Tháng
2/1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng
với nội dung Mỹ sẽ trả khoản tiền 3,25 tỷ USD.
Ông Nam nói rằng, lúc đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam đang tập trung ký
cho xong Hiệp định Paris, nên không phân tích kỹ một câu gần cuối thư có
nội dung hai bên sẽ thực hiện thỏa thuận ghi trong thư đúng theo hiến
pháp của mỗi nước. Theo ông Nam, chính câu này trở thành cớ để Mỹ sau đó
không thực hiện cam kết trả 3,25 tỷ USD; vấn đề bồi thường nếu đưa ra
Quốc hội Mỹ chắc chắn không được thông qua vì Quốc hội Mỹ hồi đó chống
đối Việt Nam. Báo chí Mỹ về sau đưa tin, tác giả của câu đó chính là ông
Henry Kissinger (cố vấn của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau trở thành
Ngoại trưởng), ông Nam nói.
Ông Phan Doãn Nam (từng là Thư ký/Trợ lý
của Thứ trưởng/Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch) trả lời phỏng vấn
báo Tiền Phong. Ảnh: Trúc Quỳnh
Trước đó, đoàn đại diện của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) vẫn tư
vấn cho Việt Nam cách chia nhỏ nhà máy thép công suất lớn thành nhiều
nhà máy công suất nhỏ để tránh bị Quốc hội Mỹ gạt bỏ nếu cho rằng Việt
Nam sản xuất nhiều thép để tiếp tục chiến tranh. Đoàn của USAID còn đưa
ra yêu cầu tiền bồi thường phải được dùng để mua hàng của Mỹ và vận
chuyển bằng tàu Mỹ, chứ không được trả bằng tiền mặt. Sau mấy tháng làm
việc và tư vấn cho Việt Nam, đoàn này về nước và không hồi âm gì, ông
Nam kể.
Ông Nam nói rằng, sau đó, Việt Nam mới nhận ra Mỹ chỉ muốn thăm dò xem
nước ta có thực sự muốn xây dựng lại đất nước hay tiếp tục chiến tranh.
Nhân có dòng chữ cuối thư mà phía Mỹ không đề cập chuyện viện trợ 3,25
tỷ USD nữa. Năm 1975, Mỹ cho rằng Việt Nam không thi hành Hiệp định
Paris nên cũng không thực hiện cam kết của họ, trong đó có khoản bồi
thường chiến tranh, ông Nam nói. Những cuộc đàm phán sau đó về bình
thường hóa quan hệ Việt-Mỹ bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi
thường chiến tranh, MIA… Thời gian đó, Mỹ luôn cho rằng, Việt Nam giữ
lại hài cốt lính Mỹ và giấu tù binh Mỹ. Từ năm 1977 đến 1978, Việt Nam
có ba cuộc thương lượng với Mỹ về bình thường hóa quan hệ, nhưng đều bế
tắc vì hai vấn đề này, ông Nam kể. Sau đó, các cuộc đàm phán còn bị ảnh
hưởng khi Trung Quốc chủ động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Mỹ,
ông nói. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter hồi đó không chống Việt Nam, nhưng
cho rằng thời cơ đến thì bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trước,
sau đó với Việt Nam.
Về vấn đề MIA, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề tìm kiếm, trao trả
nhiều hài cốt cho Mỹ. Phía Việt Nam phải trải qua nhiều khó khăn, vất
vả, thậm chí thương vong trong quá trình đi tìm hài cốt lính Mỹ. Ông Nam
kể rằng, một người bạn ông làm việc ở Bộ Ngoại giao đã tử nạn khi có
mặt trên chiếc máy bay bị nổ trên đường đi tìm hài cốt Mỹ. Năm 1989, vợ
chồng Tổng thống Mỹ Bill Clinton sang Việt Nam được mời ra tận thực địa
để chứng kiến việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ khó khăn như thế nào. Ông
Nam kể, phía ta nói với phía Mỹ rằng, Việt Nam còn có hàng trăm nghìn,
thậm chí hàng triệu chiến sĩ hy sinh trong chiến tranh chưa nhận dạng
được, chưa biết mồ mả ở đâu; phía Mỹ dần dần hiểu ra rằng Việt Nam cũng
đau lắm. Đến năm 1989, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, xóa bỏ trở
ngại cuối cùng trong tiến trình đàm phán. Đại sứ Mỹ lúc đó tuyên bố sẵn
sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Henry Kissinger: Chúng tôi kính phục các ông
Ông Nam nói rằng, trong quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ, thái
độ của phía Việt Nam rất nghiêm túc, biết “đánh đúng chỗ họ cần”, và
được phía Mỹ đánh giá cao. Là người tham gia quá trình đàm phán Hiệp
định Paris, ông Nam kể lại câu chuyện sau 5 năm đàm phán ở Paris, buổi
cuối cùng vào tháng 1/1973, đoàn Việt Nam mời cơm thân mật đoàn Mỹ. Ông
Lê Đức Thọ trong bữa đó đã hỏi ông Henry Kissinger nghĩ sao về đoàn Việt
Nam. “Không phải là người thân Việt Nam, nhưng Kissinger đã nói rằng,
chuyện các ông chiến đấu oanh liệt là không ai chối cãi. Nhưng nếu các
ông chỉ gan dạ, anh dũng thì chúng tôi cũng dễ đối phó. Nhưng đằng này
các ông còn rất khôn ngoan, mưu lược, nên 5 năm nay chúng tôi phải đấu
với các ông không phải dễ. Chúng tôi rất kính phục các ông”, ông Nam kể.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Mỹ vẫn không đồng ý Việt Nam vào Liên Hợp
Quốc, nhưng Tổng thống Nixon nói rằng, Mỹ sẽ không bao giờ xem Việt Nam
là kẻ thù, và trong thời gian chưa bình thường hóa quan hệ, sẽ không
công nhận bất kỳ chính phủ lưu vong nào chống lại chính phủ Việt Nam,
ông Nam cho biết.
Ông Nam cho rằng, Việt Nam và Mỹ từng có không ít cơ hội để có thể
“chơi” với nhau từ rất sớm. Ông kể, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert
McNamara đã tổ chức năm cuộc hội thảo tại Việt Nam và một hội thảo ở Ý
để tìm ra trong quan hệ Việt - Mỹ có cơ hội nào bị bỏ lỡ. Sau khi Việt
Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman. Chiến tranh
Lạnh khi đó chưa đến, và Tổng thống Truman vẫn nói ủng hộ quyền tự quyết
của các dân tộc. Bác Hồ tin tưởng như vậy nên mới gửi thư cho Tổng
thống Truman, nhưng ông này không trả lời, ông Nam kể. Bản thân ông
McNamara ít nhất 7 lần đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán, nhưng cũng bị bỏ
qua…
Quan hệ Việt - Mỹ đang phát triển thuận lợi
Trong bức thư gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu rõ mục tiêu của Việt Nam là “độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn
diện với Hoa Kỳ”. Người cũng khẳng định Việt Nam “sẽ làm hết sức mình để
làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế
giới”. Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh, đòi hỏi hai nước không
được phép bỏ lỡ những cơ hội lịch sử như những giai đoạn trước, Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh nhận định. Chặng đường 20
năm qua, nhất là từ khi hai nước xác lập quan hệ Đối tác toàn diện
tháng 7/2013, đã chỉ ra rằng, hòa bình và thịnh vượng ở Đông Nam Á nói
riêng và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung có nhiều điều kiện
được duy trì hơn khi quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển thuận lợi;
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phù hợp
với lợi ích chung của tất cả các nước trong khu vực, Phó Thủ tướng khẳng
định.
Trúc Quỳnh - Tiền Phong
Nguồn :http://newsvietkieu.blogspot.com/2015/07/tai-sao-my-khong-boi-thuong-chien-tranh.html